|
Tản Mạn về
Phim và Những Ngày Ở Sài Gòn
Tưởng
Niệm Mai Thảo
SDH
"Tôi
đã lầm mọi chuyện về Việt Nam... Tôi nghĩ
người ở đó cay nghiệt, hóa ra dịu dàng; khó chịu, hoá ra chịu khó, chịu
chơi..."
Michael Caine.
"Ngài"
(Sir) Michael Caine lơ đãng đứng xếp hàng,
chờ tới lượt mình, trong một tiệm ăn sáng đông khách tại Austin, Tex,
cho tới
khi một nữ tiếp viên nhà hàng nhận ra Ngài, vội vàng chạy tới, xếp cho
Ngài một
chiếc bàn rộng rãi nơi góc phòng, có mặt trời, và Ngài nghiêng mình qua
người
bạn ngồi cùng, thì thầm: "Đâu có ai thích thú, chuyện xếp hàng chờ tới
lượt mình?"
Michael
Caine đóng phim từ 1956, thuở Tom Hanks và Mel Gibson
vừa mới ra đời, nhờ đóng phim mà được phong tặng tước vị "Ngài",
nhưng chẳng "care" cái chuyện đứng xếp hàng. Và chẳng
"care", cái chuyện phim của mình đóng bị thiên hạ ngâm tôm, không
muốn đưa ra rạp chiếu.
Cuối
năm vừa qua, Miramax Films đã quyết định hoãn trình
làng Người Mỹ Trầm Lặng, phỏng theo tiểu thuyết của nhà văn Anh, Graham
Greene,
và rồi sau đó, quyết định "lén" đưa ra vào tháng Giêng 2003, tức là
quá muộn để tranh giải Oscar, theo Michael Caine, đó là cách mà họ đối
xử với
những đứa con xấu (bad movies), ra đời không đúng lúc, hoặc không được
lòng
giới phê bình. "Tôi có ý nghĩ là Harvey Weinstein (đồng giám đốc hãng
phim
trên) có vài người bạn, và là những nhà phê bình phim, họ coi, và không
ưa, và
ông ta lạnh cẳng." Thế là tôi gọi điện thoại cho ông ta. "Này, bồ
tèo, tớ cũng như là người trong nhà, hãy cố cho tớ một dịp may đi."
Câu
chuyện của Greene, là về một anh chàng phóng viên
"trung niên" người Anh bị một anh chàng thiện nguyện viên người Mẽo,
(xưa gọi là cố vấn Huê Kỳ), "trẻ", có một bộ mã rất ư là ngây thơ, ẵm
mất cô bồ người Việt, tại Sài Gòn, vào thời kỳ mà người Pháp sắp sửa
cuốn gói
chạy làng, và người Mỹ sẽ thay thế họ, trong một cuộc chiến mà sau này
họ ưa
gọi là cuộc chiến bẩn thỉu, và ông Kỳ mới đây cũng bắt chước họ gọi,
cuộc chiến
bẩn thỉu. Một cuốn phim dựa theo một cốt chuyện như thế làm sao có thể
trình
làng vào dịp 911, khi mà cả thế giới đành lòng đứng dưới lá cờ sao sọc,
để
chống lại "Trục Ma Quỉ"?
Nhưng
sau đó, cuốn phim vẫn bị ngâm tôm cả một năm trời, và
đó là điều làm Ngài Michael Caine không hiểu nổi.
"Tôi
nói với Harvey, có chuyện gì cứ nói mẹ nó
ra." Ngài Michael Caine cho biết. "Nếu cuốn phim đáng vứt vào thùng
rác, tôi sẽ gặp bạn vào tháng Giêng này, để làm lễ mai táng nó. Ông ta
nói, để
ông ta suy nghĩ một tị, và sau đó, trả lời, OK, tụi mình có thể đem nó
tới dự
Hội Phim Toronto. Và chuyện là như vậy đấy.
Câu
chuyện xẩy ra tiếp theo, là, sau khi được trình làng lần
đầu tiên tại thành phố Toronto, Canada, vào tháng Chín, thiên hạ xúm
nhau khen
nức khen nở và tài tử chính của phim, chỉ trong vòng một đêm, trở thành
một
trong những tài tử được đưa ra đề nghị (nomination) ẵm giải Academy
Award.
Phượng,
tên một nhân vật trong phim gián điệp "Người Mỹ
trầm lặng", bị một số báo chí Việt ngữ viết sai là Phương, trong khi
chính
tác giả đã giải thích ở trong truyện, đây là tên một loài chim quí,
phượng
hoàng.
"Phuong,"
I said – which means Phoenix, but
nothing nowadays is fabulous and nothing rises from its ashes.
"Phượng", tôi nói, "Phượng có nghĩa là Phượng hoàng, nhưng những
ngày này chẳng có chi là huyền hoặc, và chẳng có gì tái sinh từ mớ tro
than của
loài chim đó": Câu văn như một "lời nguyền" cho một cuộc chiến
sắp sửa tái diễn?
Nhưng
nói cho cùng, chẳng có chi là huyền hoặc, về chuyện
người Mỹ sẽ hất cẳng người Pháp, và cuộc chiến sẽ biến tất cả thành tro
than,
và chẳng có gì mọc lên từ đó.
Lời
đề tặng ở trang đầu, là dành cho một nhân vật Phượng
"có thể" có thật ở ngoài đời:
"René
và Phượng thân mến, Tôi xin phép được tặng cuốn
sách này cho các bạn, không chỉ để tưởng nhớ những buổi chiều hạnh phúc
mà
chúng ta đã cùng trải qua tại Sài Gòn, trong hơn năm năm qua, nhưng còn
bởi vì
tôi cảm thật hổ thẹn đã mượn căn hộ của các bạn, làm chỗ trú ngụ cho
một nhân
vật của tôi, và tên của bạn, Phượng, để độc giả dễ dàng theo dõi, bởi
vì đây là
một cái tên giản dị, đẹp, và dễ phát âm, so với những tên đàn bà khác,
của đồng
bào bạn. Cả hai bạn sẽ nhận ra một điều, tôi còn vay mượn thêm chút
đỉnh, nhưng
chắc chắn không phải từ phía Việt Nam. Pyle, Granger, Fowler, Vigot,
Joe –
những người này chẳng có chút dây mơ rễ má với cuộc đời của Sài Gòn hay
Hà Nội,
và Tướng Thế thì đã chết: bị bắn từ phía sau lưng, như người ta nói.
Ngay cả
những biến động thực sự xẩy ra, cũng đã được dàn dựng lại, ít ra là
trong một
trường hợp. Thí dụ như vụ nổ lớn gần khách sạn Continental, đã xẩy ra
trước
những vụ nổ do bom cài trên những chiếc xe đạp. Tôi chẳng cần phải đắn
đo, về
những thay đổi nho nhỏ như vậy. Đây là một câu chuyện tiểu thuyết, chứ
không
phải là một mẩu lịch sử, và tôi hy vọng câu chuyện về vài nhân vật giả
tưởng sẽ
mua vui cho đôi bạn được một vài trống canh, trong một đêm nóng nực của
Sài
Gòn."
Và
đây là nhận xét của Fowler về đàn bà
"Annamite", ngay ở đoạn mở đầu, khi anh ta đang chờ Pyle tại căn
phòng của mình ở đường Catinat, rồi Phượng tới: "Ngủ với một người đàn
bà
Annamite là như ngủ với một con chim: họ líu lo và hát bên gối bạn."
(To
take an Annamite to bed with you is like taking a bird: they twitter
and sing
on your pillow).
Như
lời giới thiệu ở trang bìa (nhà xuất bản Penguin):
"Người Mỹ trầm lặng" là một bức chân dung đáng sợ về một sự ngây thơ
trọn vẹn. Trong lúc Quân đội Pháp tại bán đảo Đông Dương vật lộn với
Việt Minh,
ở hậu phương Sài Gòn, một người Mỹ trẻ, cao cả (high-minded) lo chuyện
viện trợ
kinh tế cho "Lực lượng thứ ba".
Cao
cả, có thể như vậy chăng, khi người Mỹ thay chân người
Pháp ở Việt Nam? Như nhân vật Fowler, người Anh, tức Ngài Michael Caine
ở ngoài
đời, nhận xét: "Tôi chưa từng gặp một người nào có những động cơ tốt
đẹp
hơn, [nếu nói] về những rối loạn mà anh ta đã gây ra." Và khi rối loạn
tiếp theo rối loạn, máu đòi máu, tay ký giả già thấy thật khó mà đứng
bên lề, như
một quan sát viên. Nhưng những động cơ của Fowler thật đáng nghi, đối
với cảnh
sát, với chính anh ta, và với độc giả: bởi vì Pyle, "người Mỹ trầm
lặng", đã "chôm" mất người tình của ký giả già.
"Ngay
từ thời thơ ấu, tôi đã không hề tin vào một cái
gì trường cửu, tuy nhiên tôi lại ước vọng nó. Luôn luôn, tôi sợ mất
hạnh phúc.
Tháng này, năm sau, Phượng sẽ rời bỏ tôi…
-Tha
lỗi cho tôi, vì đã đoạt cô Phượng của anh, giọng Pyle
nói.
-Ô,
tôi không biết nhẩy, nhưng thích ngắm nàng nhẩy.
Người
ta luôn luôn nói về nàng, bằng ngôi thứ ba, như thể
nàng không hề có ở đó. Đôi khi nàng có vẻ vô hình, như thanh bình."
Anh
ký giả già nhận xét Pyle, người Mỹ trầm lặng, bằng những
từ: "Tôi ngạc nhiên không biết hai người nói chuyện gì với nhau. Pyle
thì
rất hăm hở, và tôi đã đau khổ vì những bài thuyết trình của anh ta về
Viễn
Đông, mà vốn liếng của anh ta chỉ có chừng vài tháng, trong khi của
tôi, hàng
năm. Dân chủ lại là một đề tài hăm hở khác của anh – anh ta có những
quan điểm
thật quá khích về những gì Hoa Kỳ đang làm cho thế giới. Ngược lại,
tuyệt vời
thay, Phượng nàng chẳng biết gì hết: nếu Hitler được nhắc tới trong lúc
trò
chuyện, nàng sẽ ngắt lời, để hỏi, ông là ai ("Người Mỹ trầm lặng",
trang 12, ấn bản Penguin)….
"Nếu
Hitler được nhắc tới...", liệu câu này, giống
như một thai đố, bao trùm lên cuộc chiến "bẩn thỉu"?
Nhà
thờ Phát Diệm. Kênh Phát Diệm, đầy xác người, The canal
of Phát Diệm, full of bodies.
Nổ và chết tại Catinat, 1952, và nguyên mẫu
Phượng [ngồi tít bên phải] ở ngoài đời.
"Thai đố", là được "gợi hứng" từ
câu trả
lời phỏng vấn của nhà đạo diễn điện ảnh Oliver Stone, tác giả một số
phim nổi
tiếng về Việt Nam, và cũng từng tham gia cuộc chiến tại đây, trên tờ
Time số
May 7, 2001: "Chuyện những người dân lành miền nam ở làng Thanh Phong
bị
giết hại, liên quan tới Thượng Nghị Sĩ Kerry, làm tôi nhớ rất nhiều tới
những
khó khăn của cuộc chiến, những hàm hồ của nó. Tôi đã ở trong những làng
nơi
người dân quê bị giết và bị lạm dụng. Giận dữ, sợ hãi, từ đó mà ra. Có
những vụ
hãm hiếp, đánh đập, và sát nhân. Tôi nghe được những câu chuyện [như
vậy] từ
những người thân cận với tôi. Bạn ở trong một vùng lửa đạn nóng bỏng.
Một người
dân làng tiến tới từ phía sau bạn, thí dụ như từ một đụn cát. Người đó
đầu
hàng, nhưng đôi khi, một kẻ nào đó nổ súng, và làm toi một mạng người.
Chuyện xẩy ra
với Thượng Nghị Sĩ Kerry, đó là: liệu có tiếng
súng bắn về hướng họ hay là không. Đây là câu chuyện (giống như trong
phim) Địa
Ngục Môn….". Đây là phim nổi tiếng của Nhật, câu chuyện về một cái chết
của người chồng là một kiếm sĩ, qua lời kể của từng nhân vật liên quan.
Mỗi
người nói một cách, và cuối cùng chẳng biết đâu là sự thực.
Người viết làm
quen với Greene những ngày học trung học, qua
tác phẩm "Người thứ ba", câu chuyện về một người đàn ông truy tìm thủ
phạm đã sát hại bạn thân của mình, rút cục khám phá ra, chính cái tay
bạn thân
của mình, đã dùng kế kim thuyền thoát xác, tức là giết địch thủ, rồi để
lại
giấy tờ của mình cho cái xác chết, và tiếp tục giết hàng triệu triệu
trẻ em
trên thế giới, qua trò sản xuất, và tung ra khắp thế giới, loại thuốc
trụ sinh
dởm…
Qua
tin báo
chí, viên tướng tình báo cộng sản, Phạm Xuân Ẩn,
trước nằm vùng tại miền nam, có gặp gỡ phái đoàn quay phim, khi đang
được quay
tại Sài Gòn và cho biết, ông có chứng kiến vụ nổ bom trên, và cho biết
thêm,
ông biết nhà văn Graham Greene là gián điệp Anh. Điều này thế giới đều
biết, vì
Greene cũng chẳng giấu. Nhưng chi tiết trên chứng tỏ, Ẩn đã hoạt động
gián điệp
từ lâu. Và cái việc, vào giờ chót, ông ta đưa Trần Kim Tuyến, trùm mật
vụ thời
ông Diệm, lên máy bay ra nước ngoài, chứng tỏ một điều: hai người có
thể đã
hiểu rõ nhau từ khuya!
Gần mực thì
đen, như người Việt nói. Theo nghĩa đó, đa số
những ông ký giả, nhà văn thường có một "nghề tay trái": làm gián
điệp. Phạm Xuân Ẩn, tướng cộng sản nằm vùng tại miền nam qua vai trò ký
giả tờ
Time, lại không được như Greene: ông không biết viết văn! Ông đành nhờ
một
"văn hữu", là Nguyễn Khải, viết giùm. Và Phạm Xuân Ẩn ở ngoài đời
biến thành nhân vật Quân, ở trong Thời Gian Của Người. Nguyễn Khải,
theo như
người viết được biết, cũng là một chức sắc trong ngành công an. Ông đã
từng
viết về đạo Cao Đài, trong cuốn "Tường trình về một cái chết" (?),
theo kiểu điều tra của "cớm" ("cop")! Phạm vi bài viết
không cho phép phê bình tài viết văn của ông, nhưng rõ ràng kém so với
Greene.
Simon Leys, tác giả cuốn Protée et Autres Essais, được giải
thưởng Goncourt về tiểu luận của Tây (2001), cho rằng Greene thật tuyệt
vời,
khi mở ra, và đóng lại, một cuốn tiểu thuyết. Ai đã từng thử qua cái
thú viết
lách, chắc đều nhận ra, câu mở đầu thật quan trọng, và khó khăn vô
cùng. Bạn cứ
mở ra được, là viết được... một cuốn tiểu thuyết, hay nói một cách
khiêm tốn,
một cái truyện ngắn.
"Những người khác có thể làm thành một cuốn sách",
Leys trích dẫn Gide, trong "Khung Của Hẹp", theo ý, bạn chỉ cần vớ
được một câu thôi, ở trong một cuốn mà bạn đang cầm trên tay, là có thể
mở ra
một cuốn của riêng bạn. (Borges còn hào phóng hơn, khi cho rằng, chỉ
cần đọc
một câu của Shakespeare thôi, là bạn trở thành Shakespeare).
Leys kể, một lần lục lọi một tiệm sách, ông vớ được một cuốn
của Chesterton mà ông chưa từng được hân hạnh rờ tay vô. Chỉ nội câu mở
đầu, là
ông vội vàng chạy tới quầy trả tiền, và sau đó, chạy vội ra khỏi cửa
tiệm, rinh
ngay cái kho tàng, là cuốn sách, về nhà. Câu đầu như thế này: "Cái
giống
người, mà hằng hà sa số họ, là độc giả của tôi"!
Đúng là một câu văn hiển hách, nhất là đối với những nhà văn
mà độc giả chưa đếm hết mấy đầu ngón tay, dù đã kể cả bà xã và những
đứa con
thân thương của mình! Nhưng Leys tự hỏi, liệu có cuốn sách nào xứng
đáng với
một câu mở đầu như vậy, (nguyên văn: Liệu hai trăm trang của một cuốn
tiểu
thuyết vẫn còn run lên bần bật sau một cú đánh sấm sét như thế?)
Trở lại với Greene, không phải chỉ câu mở mà câu cuối, cũng
tuyệt vời. Leys thí dụ cuốn Brighton Rock. Rose, nhân vật chính, là một
cô gái
ngây thơ (naive) và dịu dàng, mê thảm mê thương một tay găng tơ trẻ,
nhận được
món quà đầu tiên trong đời, từ người tình độc ác đó: một dĩa nhạc ba xu
(loại
dĩa nhựa ngày xưa), mà cô nghĩ, trong đó ghi lại những lời tỏ tình đắm
đuối mà
anh chàng dành cho cô, nhưng độc giả, chính anh ta (chính chúng ta), đã
được
tác giả bật mí, chỉ là những câu nói tục tĩu, dơ bẩn, nhắm vào cô gái
đáng
thương. Tay găng tơ bị giết. Rose,
quá tuyệt
vọng, trở về căn phòng của mình, với niềm an ủi, ít ra mình cũng còn
giữ được
tí kỷ niệm, là tiếng nói của chàng. Cuốn sách kết thúc bằng câu văn như
vầy:
"Nàng bước vội trong ánh mặt trời nhạt nhoà của một ngày tháng sáu, về
với
điều còn ghê tởm hơn cả sự ghê tởm."
Cách kết thúc truyện của Greene, như trong Brighton Rock,
theo Leys, là để cho độc giả thở phào, không phải một, mà tới hai lần.
Ông dùng
thuật ngữ "fins à double détente", (tạm dịch: kết cục theo kiểu thư
giãn kép), theo đó, kết thúc thực sự không nằm ở câu chót của cuốn
sách, mà là
ở đâu đó, vài giây sau, ở trong sự tưởng tượng của người đọc. Kỹ thuật
này dành
cho những cuốn tiểu thuyết - giống như một trái bom cực kỳ độc địa, một
khi đã
nổ ra, hậu quả thật là khủng khiếp nhưng không tức thời, mà là sau đó.
Một thứ
bom nổ chậm. Áp dụng "kỹ thuật" này vào thời điểm 1975, có thể nói
hậu quả tức thời là miền nam, hậu quả tiếp theo, là cả nước đều khốn
khổ khốn
nạn vì nó.
Leys cho rằng, những nhà văn cưu mang trong lòng một viễn
ảnh nội tâm, là những nhà văn số một. "Với họ, viết luôn luôn là một
hoạt
động khắc khoải, ám ảnh, và họ thực hiện nó, trong tình trạng giống như
mù lòa,
tuân theo sự dẫn dắt của vô thức. Viết là một tình trạng mở nồi hơi, xả
xú báp,
mở toang an toàn, nhờ vậy mà họ giữ được lẽ phải, lý trí. Và nếu họ
không viết,
thì họ nghẹt thở, và chết. Trường hợp của Greene, và của những nhà văn
như
Georges Simenon, Julien Greene – nhân cách của họ đều rất đỗi khác biệt
– cho
thấy rõ điều trên."
Tiểu thuyết của họ liên tục ám ảnh trí nhớ của chúng ta.
Nhưng những gì chúng ta nhớ về chúng, không phải là những từ, những
chữ, những
câu văn kêu như chuông, mà là một hình ảnh hiện lên bức màn là trí
tưởng tượng
của chúng ta. Một giai thoại về ông cho thấy rõ điều này: Khi còn là
một ký giả
(một nhà điểm phim) tối tăm, chưa được người đời chiếu cố tới, trong
lần đầu
gặp nhà đạo diễn Alexander Korda, ông này hỏi Greene có cái gì (une
idée) làm
thành một chuyện phim (scénario), ông bèn đưa ra đoạn mở như sau: "Đó
là
một buổi sáng sớm, trên sân ga xe lửa Paddington số 1. Sân ga trống
trơn, ngoại
trừ một người đàn ông đứng đợi chuyến tầu chót từ xứ Galles tới. Những
giọt máu
từ phía trên, từ phía bên trong chiếc áo khoác của ông ta nhỏ xuống
thành một
vũng." "Vậy hả, rồi sao?" Rõ ràng là trí tưởng tượng, tính tò mò
của tay sản xuất bị "cắn" trúng! "Thì còn nữa chứ", ông trả
lời, nhưng chính ông cũng chưa biết, nó sẽ ra làm sao... "Câu chuyện
cần
phải gia giảm thêm, và làm cho nó thành hình...". Cuộc gặp gỡ đó đã tạo
nên tình bạn giữa hai người, đưa đến việc thực hiện cuốn phim "Người
Thứ
Ba" phỏng theo tiểu thuyết của Greene.
Chúng ta chẳng hề biết, tiếp theo cái đoạn mở trên, về câu
chuyện một kẻ lạ, đứng chờ chuyến tầu chót từ Galles, trên sân ga cô
liêu, vào
một buổi sáng, sớm ơi là sớm, nhưng cái hình ảnh đó, và những giọt máu
thánh
thót rơi xuống, và vũng máu đọng trên sân ga, cứ ám ảnh chúng ta hoài.
Độc giả
của Thanh Tâm Tuyền, thí dụ vậy, nếu đã từng đọc truyện ngắn Dọc Đường
của ông,
chắc chắn giữ mãi ở trong trí tưởng tượng của mình, hình ảnh một người
đàn ông
ôm bọc quần áo, lỡ độ đường, không nhà nào dám chứa, mà mỗi lần hỏa
châu rọi sáng,
in lên nền trời.
Nói đến viễn ảnh, là nói tới thời gian. Một thời gian chưa
có, nhưng sẽ có. Đối lại với Giấc Đại Mộng của Marx, về một con người
hoàn toàn
trong một thế giới không còn giai cấp, chúng ta có "Viễn ảnh Nội
Tâm", hay "Cơn Ác Mộng Riêng Tư" của Kafka. (G. Steiner tự hỏi:
Tại sao một cơn ác mộng riêng tư của một cá nhân lại biến thành sự thực
khủng
khiếp cho cả một thế kỷ: thế kỷ 20, thế kỷ Lò Thiêu, thế kỷ Gulag?]
Nhưng thôi, hãy trở về với đàn cừu, hãy "khoanh
vùng" vào một cõi văn chương, như Sartre đã làm, khi bàn về cuốn "Âm
Thanh và Cuồng Nộ", và vấn đề Thời Tính trong tiểu thuyết của Faulkner:
"Đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ, người ta đụng ngay phải
những cái kỳ cục của kỹ thuật. Tại sao ông đập nát thời gian trong câu
chuyện,
và làm rối tung lên, những mẩu đoạn? Tại sao cái cửa sổ đầu tiên mở ra
thế giới
tiểu thuyết của ông, [Tại sao cái cửa sổ mở sang khu vườn Thúy], lại là
ý thức
của một tên khùng? [lại bị đóng chặt lại mãi mãi, chỉ vì một tên xưng
xuất, là
thằng bán tơ?]. Và ông trả lời: một kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui về
một siêu
hình học của tiểu thuyết gia... và thật rõ như ban ngày, siêu hình học
của
Faulkner là một siêu hình học về thời gian. (Une technique romanesque
renvoie
toujours à là métaphysique du romancier... or il saute aux yeux que la
métaphysique du Faulkner est la métaphysique du temps.).
Theo người viết, không chỉ với Faulkner không thôi, mà với
đa số nhà văn, chỉ là một siêu hình học về thời gian. Nói một cách
khác, viễn
ảnh của nhà văn mới là quan trọng (hơn là kỹ thuật), và chính nó quyết
định sự
sống còn của tác phẩm. Trường hợp của Greene, hay của Orwell, chuyện họ
làm
gián điệp nằm trong viễn ảnh mà họ (cảm) thấy, về một thế giới không
còn chủ
nghĩa cộng sản. Viễn ảnh, hay tầm nhìn của những nhà văn như Tô Hoài,
Nguyễn
Khải... chẳng hạn, đều bị chặn đứng bởi một "tương lai gần", là chiến
thắng miền nam.
Nói như vậy, có thể có người hỏi ngược lại, rằng người viết
đã lấy hậu quả để chứng minh cho một vấn đề chỉ mới còn ở trong lý
thuyết, theo
kiểu châm ngôn của các cụ ngày xưa: gà gáy ban đêm là có cháy nhà,
trong khi sự
thực, do nhà cháy, gà tưởng trời sáng, nên mới gáy. Tuy nhiên, ở đây,
người
viết chỉ muốn "khoanh vùng" vào cái viễn ảnh nội tâm của một nhà văn.
Leys cho rằng, có những nhà văn tìm thấy tia sáng sáng tạo khởi đầu ở
trong
những con chữ. Có những người khác, trong một hình ảnh, mà ông gọi là
viễn ảnh
nội tâm. Lấy trường hợp Dương Thu Hương chẳng hạn, ngay ngày đầu giải
phóng
miền nam, trong khi cả thế giới "hồ hởi" với những người cộng sản
miền bắc, thì bà thốt lên: hỏng rồi! Một cách nào đó, bà đã nhìn ra
tương lai
của cả một đất nước, từ một viễn ảnh nội tâm.
Michael Caine, tuy đã ba lần được đề nghị giải Academy
Award, như là diễn viên chính trong Alfire (1966), Sleuth (1972) và
Educating
Rita (1983), nhưng chưa từng được trao giải. Và ông cũng chẳng màng,
như Rick
Lyman, [tác giả bài viết trên tờ Nữu Ước Thời Báo, mà một số dữ kiện
người viết
bài này sử dụng] cho biết.
Tuy nhiên, ông nói với ông bạn Harvey,
giám đốc hãng phim. "Hãy cho tớ
một dịp may đi. Cậu biết đấy, năm nay tớ 69, già quá rồi, đâu còn nhiều
dịp, và
còn sức, để mà múa may nữa."
Khán giả ghiền xi nê tại miền nam trước 1975, nhất là lớp
người như tôi, làm sao không biết tới Ngài Michael Caine cho được cơ
chứ! Không
chỉ vì ông đóng phim "hay", mà còn vì đề tài những phim ông đóng.
Người viết còn nhớ, đã từng trải qua gần một buổi sáng, bên ly cà phê
nguội
ngắt vì mải nói chuyện, với một "ông bạn", cũng dân ghiền xi nê, và
cũng ghiền những phim trinh thám, và cũng mê cách đóng trò điệp viên lù
khù của
Michael Caine. Ông bạn nhà văn đàn anh... Mai Thảo!
Vào thập niên 1950, Michael Caine đã là một diễn viên điện
ảnh, nhưng phải đợi tới phim "Hồ Sơ Ipcress", xuất hiện năm 1956, ông
mới trở thành một diễn viên hàng đầu của Anh, một vị trí mà ông giữ mãi
tới hai
chục năm, với những phim nổi tiếng chẳng kém, như Đám Tang Của Tôi Tại
Berlin...
rồi sau đó, ông lu mờ dần, nhưng với khán giả miền nam, ông luôn luôn,
và chỉ
là tay điệp viên lù khù của Hồ Sơ Ipcress, và Đám Tang Của Tôi Tại
Berlin.
Mai Thảo, tôi, và những khán giả ghiền xi nê tại sài Gòn
những năm "đó đó", chúng tôi chỉ biết Hồ Sơ Ipcress qua cái tên tiếng
Tây, là "Nguy Hiểm Tức Thời" (Danger Immédiat). Như tất cả những phim
Mỹ, chúng tới miền nam Việt nam qua ngã Paris,
nghĩa là đều nói tiếng Tây, đều có một cái tên Tây. Thí dụ những phim
cao bồi
mà khó ai có thể quên nổi như Shane, biến thành Người của những thung
lũng mất
tích, L’homme des vallées perdues, với anh chàng bồi lùn tịt Alan Ladd
(?),
High Noon: Còi xe lửa thét ba lần, với Gary Cooper – một trong những
nhân vật
người hùng đại diện cho nam tính của người Mẽo, còn có John Wayne,
Humphrey
Bogart... - và cô đào Grace Kelly, sau thành bà hoàng Monaco, và lẽ dĩ
nhiên,
làm sao quên nổi, bản nhạc "Do not forsake me, oh my darling" (lời
Pháp, Et toi aussi, tu m’abandonnes: Cả em nữa, cũng bỏ anh sao?), với
tiếng hát
đầy chất người hùng chăn bò (cowboy), của Frankie Laine.
Nguy Hiểm Tức Thời, Đám Tang Của Tôi, hai phim nổi tiếng do
Michael đóng, đều dựa trên tác phẩm của Len Deighton, một nhà văn
chuyên viết
truyện điệp viên người Anh, và đề tài của ông, là về cuộc chiến tranh
lạnh. Ông
nổi tiếng chẳng kém gì một nhà văn Ăng Lê cũng chuyên viết truyện điệp
viên là
John Le Carré và đó cũng là lý do tại sao Mai Thảo và tôi cùng mê.
Chúng tôi hay ngồi uống cà phê tại quán Cái Chùa ở đường Tự
Do, Sài Gòn. Sở làm của tôi gần đấy. Mỗi buổi sáng, tôi phải ghé sở
thật sớm,
coi có việc gì dành riêng cho tôi, mà thường là không (bởi vì "ca
chính" là vào buổi trưa), bởi vậy, liền sau đó, thay vì về nhà, tôi ghé
quán Cái Chùa. Còn Mai Thảo, ghé gặp tôi, là để lấy bài cho tờ Vấn Đề,
hoặc để
kiếm một chỗ ngồi, viết vội cho xong mấy trang fơi ơ tông, cho một nhật
báo,
hoặc để chờ những ông bạn khác, của cả hai, sẽ lục tục tới sau đó.
Trong nhóm Sáng Tạo, Mai Thảo là người đi ra nước ngoài sớm
nhất, tuy cũng trải qua hình như là ba niên, sống "chui", trong khi
chờ "dịp may". Những người kia còn ở tù, hoặc ở trong trại cải tạo.
Chi tiết về những ngày sống chui, đã nhiều người kể rồi, và dù không có
người
kể ra, những độc giả của ông cũng đoán ra được, từ cuộc sống chui của
họ. Khi
người viết ra được ngoài này, ông còn sống, nhưng không có dịp gặp lại.
Những
ngày trước 1975, tuy thường gặp, nhưng thật khó mà là bạn thân, một
phần ông đã
có địa vị trong giới viết văn, một phần do "ngần ngại", ở cả hai
phía.
Có thể vì các bạn ông đều ở tù, rồi cả nước ở tù, cho nên
những ngày đầu, ông "chống cộng thẳng thừng", nghe nói còn tuyên bố,
không thèm đọc những gì từ phía những nhà văn cộng sản. Thái độ đó có
thể còn
là do hình ảnh vẫn còn đọng lại mãi trong ông, khi giã từ Hà Nội:
"Phượng
nhìn xuống Hà Nội, vực thẳm ở dưới đó." (Đêm Giã Từ Hà Nội).
Nhưng trong thâm tâm, ông không thể nào quên thành phố đó,
tôi tin như vậy.
Tôi nhớ một lần, ngồi ở quán Cái Chùa, nhân nói chuyện di cư
(nghĩa là tại sao rời bỏ Hà Nội), ông cho biết, "Thì mình tính, chỉ sau
hai
năm là tổng tuyển cử, là thống nhất, thế là đi, biết chắc một điều, lời
được
hai năm."
Ngẫm nghĩ một
hồi, ông gật gù, "Vậy mà lời hơn
nhiều".
Tuy nói "lời", nhưng nghe thật bùi ngùi.
Lần trở lại Hà Nội, tôi được một nữ thi sĩ kể cho nghe, về
lần gặp Mai Thảo, nhân chuyến ghé thăm Tiểu Sài Gòn.
"Vừa nghe tiếng nói thốt lên, ông đang thiu thiu, ngồi
nhỏm dậy, hỏi:
-"Ai đó?... Lâu lắm mới được nghe giọng Hà Nội".
Tờ The Guardian, trên lưới, số đề ngày 23 tháng 11, 2002,
giới thiệu bài viết của Salman Rushdie, "Những Mảnh Tôi" (Divided
Selves: Những Cái Tôi Bị Chia Cắt), bằng những dòng: một nước Ấn bị
chia sẻ đã
cắt gia đình của Salman Rushdie ra làm hai, và ông làm cho nó hết còn
chia sẻ,
bằng tác phẩm của cả cuộc đời của mình.
Qua trích đoạn bài viết trên Guardian, "cuốn sách quí
giá nhất" mà ông có được, là tấm giấy thông hành. Nhưng vẫn theo ông,
tấm
giấy thông hành là "cái chó gì", nói cho cùng. Chỉ là một món đồ
thông thường, tiện dụng.
Mai Thảo rời dất nước theo kiểu chui, nghĩa là chẳng có giấy
thông hành. Cái tấm giấy thông hành đầu tiên của ông, chắc là để đi
thăm bạn.
Hình như ông có ghé Hồng Kông thăm trại tị nạn thì phải, vì có một bài
viết của
ông nhan đề "Hồng Kông ở dưới chân." Tôi chưa được đọc, nhưng cái tít
làm tôi nhớ đến bài viết đầu tay – Đêm Giã Từ Hà Nội – và câu văn khởi
nghiệp
văn của ông – "Phượng nhìn xuống Hà Nội: vực thẳm ở dưới đó." Và tôi
thử lập lại câu văn của ông:
"Phượng nhìn xuống Hồng Kông, những đứa con của Hà Nội
bỏ chạy Hà Nội ở dưới đó."
Đột nhiên, tôi nhớ đến Phượng. Của Greene:
"Phượng có nghĩa là Phượng Hoàng, nhưng những ngày này
chẳng có chi là huyền hoặc, và chẳng có gì tái sinh từ mớ tro than của
loài
chim đó."
***
-Ipcress, cái gì vậy cà? Nhân vật thần thoại Hy Lạp hả? Xếp
hỏi tôi.
-Thưa đó là một cái tên viết tắt. Nôm na, nó có nghĩa là Tẩy
Não.
Nhà phê bình văn học người Pháp, Marthe Robert cho rằng, có
hai cách "làm thịt" người. Một cách, cứ tạm gọi bằng cái tên, làm
thịt người theo kiểu Cam Bốt, giống như người ta thường nói, làm món
vịt quay
theo kiểu Bắc Kinh, thí dụ vậy – và một, theo kiểu... Việt Nam.
Kiểu thứ
nhất, theo bà, là kiểu của những tên đồ tể "hăm hở", kiểu thứ nhì,
của những tay "nhẩn nha". Sau cùng, kiểu nhẩn nha thắng, nó làm thịt
luôn cả những tên đồ tể "hăm hở".
[Nguyên văn: Nhận xét của tôi về tính "hăm hở" của
những người Cam Bốt, và tính "nhẩn nha" của Việt Nam, đã được nghiệm
chứng một cách thật là kinh khiếp. Chỉ là vấn đề thời gian: những kẻ
"hăm
hở" làm thịt thế giới của họ ngay lập tức, liền tù tì, trong khi những
kẻ
"nhẩn nha", nhẫn nại hơn, kiên trì hơn: từng tí, từng tí, họ làm thịt
thế giới của họ, trong khi đợi làm sạch luôn cả những tên đồ tể "hăm
hở"]
(1)
Phải nhẩn nha lắm, mới có thể nhốt "thế giới của
họ" hàng chục năm trời, trong những trại cải tạo, mà mục đích của nó,
là
tẩy não, phục hồi nhân phẩm cho những con người "không phải là con
người": những tên ngụy.
Theo nhà văn người Anh chuyên viết chuyện điệp viên, Len
Deighton, Tẩy Não, tên tiếng Anh của nó, và cũng là tên một cuốn tiểu
thuyết
điệp viên của ông, là : Ipcress.
Cho phép người viết giới thiệu sơ, về ông.
Sinh ngày 18 tháng Hai, 1929, tại London, Anh Quốc. Nhà văn, ký giả,
nhà làm
phim, và là người viết tiểu thuyết điệp viên hàng đầu. Cuốn tiểu thuyết
đầu
tiên đưa ông lên đài danh vọng, là Hồ Sơ Ipcress (1962), thuật câu
chuyện phản
bội, thanh toán lẫn nhau, tại một cơ quan tình báo. Cuốn thứ nhì Đám
Tang tại
Bá Linh (1964) cũng nổi tiếng chẳng kém cuốn đầu. Hầu hết những tác
phẩm của
ông đều được quay thành phim. Ngoài ra, ông còn viết một số sách sử
học, và
sách dậy nấu ăn.
Ipcress mở ra bằng những câu thơ, lấy từ kịch Henry IV, của
Shakespeare:
Tôi sẽ mở ra một cuốn sách bí mật
Và trong khi cái đầu của bạn như muốn nổ bung ra, vì giận
dữ,
Tôi sẽ nói cho bạn biết nội dung sâu xa, và nguy hiểm của
nó.
Hai đứa, Mai Thảo và tôi, đã coi phim, trước khi coi truyện.
Và chẳng hề biết đến cái tên Ipcress, ngoại trừ cái tên Nguy Hiểm Tức
Thời.
Thật khó mà hiểu được con đường đi, từ Ipcress tới Nguy Hiểm Tức Thời.
Nghe nói ở trong nước mới dựng phim Mê Thảo – Thời Vang
Bóng, phỏng theo truyện Chùa Đàn của Nguyễn Tuân. Và đang có dư luận,
khen cũng
dữ mà chê cũng chẳng kém, về cuốn phim này. Trong một kỳ tới, người
viết sẽ tản
mạn về vấn đề chuyển thể, từ truyện qua phim, và ngược lại. Ở đây, chỉ
xin lạm
bàn về "cái đuôi" "Thời Vang Bóng" của phim. Chữ này cũng
của Nguyễn Tuân, nhưng không phải nói về Mê Thảo, về Chùa Đàn, về Thị
Trấn Ngày
Mai, về Ngày Mai Ca Hát... mà về một cõi đã trở thành dĩ vãng, với
những thú ăn
chơi như Thả Thơ, Đánh Chữ, Uống Trà Tầu... Tôi không hiểu, đạo diễn
Việt Linh
của phim Mê Thảo, khi cho thêm cái đuôi, Thời Vang Bóng, vào trong tên
phim,
liệu bà muốn sử dụng "ẩn dụ", theo nghĩa, cái thế giới Cách Mạng, mà
anh chàng Lãnh Út, chủ dất Mê Thảo, đã lao vào, rút cục cũng chỉ là
"Thời
Vang Bóng"?
"Tẩy Não"cũng nói về ngày mai ca hát, của những
điệp viên, của "đạo quân thứ năm". Nên nhớ, Lãnh Út có thành tích
là... một tên khủng bố, như trong Chùa Đàn cho thấy: "Tôi ngờ Lịnh có
dính
vào chuyện [chiếc tầu] Georges Philippar phát hoả, làm chết một nhà báo
tâm
huyết Albert Londres và suýt chết luôn một ông quan xứ ta đi đón một
ông vua Bảo
Đại về nước nhận ngôi. Tôi nhớ rằng nhiều lần Lịnh đã giảng kỹ cho tôi
về các
công tác phá hoại". Còn một chi tiết "rất ư là hiện tại" về
Lịnh, nếu chúng ta để ý đến vai trò của tiền bạc trong mọi âm mưu khủng
bố:
"Lịnh có rất nhiều măng-đa." (Chùa Đàn, Nguyễn Tuân, Tuyển Tập I,
trang 359, nhà xb Văn Học Hà Nội, ấn bản 2001).
Đạo diễn Việt Linh, như người viết được biết, là người miền
nam, và đây là tác phẩm đắc ý, bà để ra rất nhiều năm tháng làm phim
này. Một
người miền nam mà nhất định làm một phim về Nguyễn Tuân, và về một xứ
Mê Thảo,
ở mãi tít miền bắc, cái đó cũng lạ.
Tại sao Mê Thảo?
Qua bài viết của Phạm Xuân Nguyên trên diễn đàn Talawas
(talawas.org), khi phim được chiếu tại Tokyo (không biết trong nước đã
được coi
chưa), một khán giả Nhật đã hỏi Mê Thảo nghĩa là gì. Đây quả là một câu
hỏi hắc
búa theo tôi. Chúng ta tự hỏi, Việt Linh đã bỏ bao năm tháng vào cuốn
phim, bà
phải mê Chùa Đàn, và nói rộng ra, mê Nguyễn Tuân, "ông thầy phù thủy
của
chữ nghĩa", như vậy, khi đặt tên phim là Mê Thảo-Thời Vang Bóng, nó
phải
có một "ý nghĩa gì đó" chứ? Những cái tên là rất quan trọng. Đâu phải
tự nhiên mà con bọ của Kafka tên là Samsa? Kẻ Xa Lạ (Camus), Meursault,
Bếp Lửa
(Thanh Tâm Tuyền), Tâm....
Vậy, Mê Thảo nghĩa là gì?
Theo tôi, Nguyễn Tuân phải là người đã từng đọc Marx, qua
nhân vật Lịnh cho thấy ("Lịnh đang nghiền ngẫm bộ Kinh Dịch và đang
xoay
nó vào Biện Chứng Pháp Duy Vật". Chùa Đàn), như vậy, ông phải biết đến
câu
nói nổi danh của Marx: tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng. Thuốc
phiện còn
có tên là Mê Thảo, Mê Dược. Liệu đây là "message" của phim: Cách mạng
là thuốc phiện của.... Lịnh, và những người như ông (những công dân,
những
"sĩ phu", của một miền đất đã một thời vang bóng)?
Nhân tiện đây, cũng xin nói thêm, Nguyễn Tuân là người đầu
tiên đưa ra danh từ "cờ máu", như trong đoạn trích dẫn sau đây, từ
truyện ngắn Lột Xác - qua ghi chú của nhà xuất bản, được viết năm 1945,
và có
tên là Vô Đề, sau đổi lại, (ai đổi lại?) - được in lại trong Tuyển Tập
Nguyễn
Tuân (nhà xb Văn Học, Hà Nội, ấn bản năm 2000):
"Ngoài đường, cuộc Cách Mệnh đang bước dài trên khắp
ngả phố. Trên các cửa sổ mở, gió đời lùa cờ máu bay theo một chiều....
Cái
luồng gió ban nãy thổi cờ máu, thổi mãi vào thịt non Nguyễn đang se dần
lại...".
Sẵn trớn tại sao Mê Thảo: Tại sao Mưỡu Cuối?
Chùa Đàn của Nguyễn Tuân gồm ba phần: Dựng, Tâm Sự Của Nước
Độc, và Mưỡu Cuối. Dựng là một thứ "intro", "ouverture",
giới thiệu nhân vật, và mở ra cuộc gặp gỡ định mệnh, giữa "chữ" –
giữa ông nhà văn, người kể chuyện, nhân vật xưng tôi: "Bị phát vãng lên
đường ngược, ở một tỉnh phía tây Bắc Bộ vào những năm khủng bố thời
Pháp thuộc
ấy, tôi đã chú ý đến một người tù" – và "vật" – "vật"
ở đây có thể hiểu như là danh từ tắt, để chỉ chủ nghĩa duy vật lịch sử
qua nhân
vật "đại diện" của nó: Lịnh, anh chàng trí thức tiểu tư sản,
"ngộ" sau cái chết của một cái chết – cái chết của người vợ cưng, và
cái chết của một người đầy tớ, và cũng là một tri kỷ muộn: chỉ sau khi
Bá Nhỡ
chết vì tiếng đàn, Lịnh mới đốt Mê Thảo, tửu phần, và đi theo Cách Mạng.
Cảm tình tri ngộ, Cô Tơ, sau khi Bá Nhỡ chết, đã xin lập am
để thờ, và qui y Cửa Phật.
Mưỡu Cuối, kể cuộc gặp gỡ giữa nhân vật xưng tôi, và sư Tuệ
Không, pháp danh của Cô Tơ, và khẳng định về một Ngày Mai Ca Hát không
thể
thiếu tiếng hát của một Cô Tơ: "Không Cô Tơ ấy phải sống – nghĩa là sư
thầy cũng phải tái sinh ngay lại vào cuộc đời thực tại này. Không cần
phải đợi
cho tóc mọc lại, vì cần kíp lắm rồi.... Hãy vứt lại cái mõ, cầm ngay
lấy đoạn
trúc xưa mà hát lên một bài cho xứ sở rung thêm lên nữa với công cuộc
đang sinh
thành. Cô há chẳng thấy cuộc đời đang tưng bừng đi tới...".
Theo tôi, có ba cách đọc Chùa Đàn, với "chỉ một"
độc giả của nó. Nói một cách khác, cấu trúc Chùa Đàn chính là câu thai
đố mà
con nhân sư đặt ra cho Oedipe, và vì giải được, Oedipe đã phải chịu lời
nguyền
của nó: giết cha, lấy mẹ, tự chọc mù mắt mình, đi lang thang trong sa
mạc...
Con vật nào buổi sáng đi bốn chân, là độc giả của Chùa Đàn
khi còn trẻ tuổi, hăm hở với giấc mơ làm lại lịch sử, thay đổi cuộc
đời. Với
một độc giả như vậy, đoạn cuối, là đoạn hay nhất, tuyệt nhất. Một Tâm
Sự Của
Nước Độc, một nhân vật thần thoại như thế, Lãnh Út, làm sao có thể kết
thúc,
bằng những tiếng gõ mõ tẻ nhạt của một sư thầy Tuệ Không?
Con vật nào buổi chiều đi ba chân: Một độc giả già, sẽ bỏ
luôn cả phần đầu, và phần cuối, và chỉ giữ lại, phần giữa: Tâm Sự Của
Nước Độc.
Như các bạn đã biết, con vật mà con nhân sư nói tới đó, là
con người, khi còn nhỏ, bò, khi lớn, đi bằng hai chân, và về già, chống
gậy.
Và cách đọc thứ ba, của Chùa Đàn là dành cho những độc giả,
ở một nơi chốn không thể có tiếng hát, hoặc có tiếng hát, nhưng là thứ
âm nhạc
của những kẻ trầm luân, hát ở đáy địa ngục, nói theo Kafka.
Nguyễn Tuân là một người sành "mê thảo", ở ngoài
đời. Một cách nào đó, những tác phẩm "ruột" của ông, đều được viết
dưới ánh sáng của một ngọn đèn: Tàn Đèn Dầu Lạc, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua.
Nhân vật Fowler cũng là một tay sành điệu trong nghề.
Greene cũng đã từng bị FBI theo dõi, vì hay vui chơi nơi bàn
đèn, xóm điếm....
Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, một cách nào đó, là đệ tử của
Nguyễn Tuân, và cũng không phải là không biết tới thú đi mây về gió.
Xuyên suốt những tản mạn trên đây, là sợi khói thuốc, nối
kết tất cả....
Trong quá khứ một đời người, đã từng đam mê mớ chữ, và đã
từng đọc đi đọc lại Chùa Đàn, Gấu cứ tiếc hùi hụi, giá mà đừng có Mưỡu
Cuối. Cứ
kể như là Trời Đất từ nay xa cách mãi, Cô Tơ chỉ còn một việc cầu kinh
giải oan,
cho chỉ một tri âm tri kỷ là Bá Nhỡ; Lãnh Út đi làm cách mạng, làm tên
khủng
bố, và cứ thế biệt tích giang hồ, chẳng ai thèm nhớ tới nữa; còn cái
anh chàng
kể chuyện, nhân vật xưng tôi, cứ lo việc kể chuyện, và độc giả của anh
cứ tiếp
tục đọc, hoặc tiếp tục bắt chước anh ta, và viết, và - "Những người
khác
có thể làm thành một cuốn sách" (Gide), chỉ cần một câu văn là mở ra cả
một cuốn tiểu thuyết - "bạn đọc thân mến của tôi ơi", bạn có thể trở
thành một trong những độc giả-tác giả, bởi vì câu văn mở đầu Chùa Đàn
quả là
một câu văn tiên tri, mở ra trước tiên là những trại tù ở miền bắc, và
sau đó,
nền văn học ở hải ngoại:
"Bị phát vãng lên đường ngược, ở một tỉnh phía tây Bắc
Bộ vào những năm khủng bố [cải tạo]..."
Chỉ tới mãi sau này,"cùng với cả nước", Gấu mới
hiểu được sự thừa thãi "có ích" của mưỡu cuối, của những "cần
kíp lắm rồi, hãy vứt ngay cái mõ, hãy không kịp để cho mớ tóc mọc
lại...".
Nhà thơ Auden đã có lần viết về chuyện thơ ca bị dùng làm
trò phù thuỷ, "mắc mớ gì tới thi sĩ, ông ta/bà ta làm sao ngăn cấm được
chuyện đó". Áp dụng nhận xét trên vào trường hợp Nguyễn Tuân, vào Mưỡu
Cuối mới thấy, lịch sử "cà chớn", "đểu giả" thật: bởi vì,
cứ giả sử như Cô Tơ phụ tình tri kỷ Bá Nhỡ, nhập thế trở lại, cầm lại
cây đàn
ma quái (chủ nghĩa Cộng Sản?), và, hát bài Nối Vòng Tay Lớn, rồi sau
đó, xuống
thuyền vượt biển, thì... tếu thật!
Còn nhớ, một lần, bên ly cà phê sữa, cái bánh croissant,
nhâm nhi một buổi sáng Sài Gòn tại Quán Chùa, nhân nói tới Nguyễn Tuân,
và
những tác giả như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo... ông anh nhà thơ gật gù cảm
khái,
tôi nhớ đại khái, như vầy: mấy ông ấy đã có thời may mắn "gặp" Nguyễn
Tuân.
Sơ Dạ Hương
Chú thích:
(1): Ma remarque sur la "véhémence" des
Cambodgiens et la "pondération" du Vietnam s’est trouvée entre-temps
monstrueusement confirmée. C’était somme toute une affaire de temps:
les
"véhéments" exterminaient leur monde sur-le-champs, tandis que les
"pondérés", plus patients, exterminaient le leur petit à petit, en
attendant d’anéantir également les "véhéments" exterminateurs.
Marthe Robert: La Vérité Littéraire
|