Chân Dung Nga
Trong
một kỳ Tin Văn, Jennifer có nhắc tới bức hình nhà văn Nga Nabokov khi
còn là một cậu con nít nhà giầu, ngồi vắt vẻo trên ghế cao, chân
mang vớ dài, tay mở bộ sưu tập bướm. Hai
nỗi
đam mê lớn của ông đã có ở trong bức hình: mê bướm, và mê làm…
phù thuỷ, cầm cây “viết thần”, ra lệnh :
hãy
nói đi, hồi ức (speak, memory).
Bức hình nói trên, là ở
trong tạp chí Điểm Sách Paris (The Paris Review), số Mùa Đông, 1995. Còn hình
một vài nhà văn Nga khác. Đây là những hình
thật đặc biệt; có những bức lấy ra từ hồ sơ “mật”, hoặc “nghe đồn”,
được giấu ở đáy một ống thông hơi thang máy. Đặc biệt hơn
nữa, mỗi bức kèm theo một bài viết, do
những
tác giả đã từng có một mối thân quen đặc biệt với người trong hình,
hoặc do chính người phát giác ra bức hình (như hình Andreyev, Babel, và Kharms).
Jennifer xin cống hiến bạn đọc bài viết của
Ian Frazier (nhà văn Mỹ, thường viết văn “u mặc”, humor, và
“không-giả tưởng”, non-fiction, hiện sống ở Missoula, Montana), về bức
hình nhà văn Daniil Kharms. Tiếc rằng ở đây không
có
điều kiện để in lại bức hình thật “tức cười” của ông.
Trong số hàng triệu con
người bị Stalin sát
hại, có một nhà văn tức cười nhất, uyên nguyên nhất, của thế kỷ:
Daniil Kharms. Sau khi ông chết ở trong tù, vào năm 1942, khi 37 tuổi,
tên và tác phẩm của ông hầu như biến mất, và chỉ còn sống dưới
dạng chép tay, lưu truyền giữa những nhóm nhỏ, ở một nơi có tên là
Liên Bang Xô Viết.
Thực tình là, không có
một độc giả Anh ngữ nào biết về ông. Tôi (Ian
Frazier) cũng vậy, cho tới khi đi Nga, trở về, đọc những cuốn sách về
nó, và cố gắng học tiếng Nga. Cô giáo của tôi, một người
đàn bà trẻ chỉ ở Mỹ được vài tháng, đã ra bài làm ở nhà cho tôi
như sau: hãy dịch một đoản văn của Daniil Kharms ra tiếng Anh. Đoản văn “Những mẩu chuyện từ Cuộc Đời Puskhin”,
(Anecdotes
from the Life of Puskhin) là ở trong CTAPYXA (Bà Già), một tuyển tập
nhỏ tác phẩm của Kharms, đã được xuất bản ở Moscow vào năm
1991. Tiếng
Nga, hai cuốn từ điển, và một cuốn sách văn phạm,
tất cả đều quá mới, lần đọc Kharms đầu tiên của tôi thật là chậm
như sên. Cùng với sự mầy mò từng từ, từng
câu, niềm hân hoan của tôi gia tăng, khi ý nghĩa của chúng lộ dần
ra. Mỗi câu là một tức cười, hơn cả dự đoán
của tôi về nó. Một đoạn văn bắt đầu như thế này: “Puskhin mê
ném đá”. Những mở đầu như vậy làm cho tôi nghẹt thở: làm sao đoán
ra nổi cái gì sẽ tới liền sau đó.
Giữ được chất tiếu lâm,
khi chuyển dịch ngôn ngữ, là một điều khó khăn vô cùng, ai nấy đều
biết.
Nhưng có một hệ quả, ít được biết: đôi khi, trong tiến trình dịch
thuật, câu chuyện có vẻ tếu hơn là lúc thoạt đầu chúng ta nghĩ về
nó. Trong khi dịch, tôi nghĩ Kharms là một nhà văn
tức
cười nhất mà tôi đã từng đọc.
Ian Frazier, qua cuốn Văn
Chương Phi Lý Đã Mất của Nga (Russia’s Lost
Literature of the Absurd), được biết, Kharms ra đời với tên Daniil
Ivanovich Yuvachev, tại Petersburg vào năm
1905. Cha
ông, một nhà trí thức cách mạng bị cầm tù và đầy đi Siberia. Ông
thừa hưởng từ người cha, đam mê chuyện kỳ quái. Ông đau khổ vì “buồn” (that he suffered from melancholy).
Mê Gogol, Knut Hamsun và Bach. Một bạn đồng học nói về ông: “Kharms
là nghệ thuật” (Kharms is art). Cùng với sự lên ngôi của “nhà vô
sản”, và sự vào tù của “nhà quí tộc”, Kharms cảm thấy thích thú
trong bộ dạng một nhà quí phái, cộng thêm hàng ria mép giả thỉnh thoảng
lại nhinh nhích, hinh hỉnh, cộng thêm chiếc cặp da kè kè bên mình,
trong là những… chiếc ly uống rượu bằng bạc! Để lôi kéo khán thính
giả cho một buổi trình diễn kịch của nhóm OBERIU, ông di dạo ở chót
vót phía bên trên thành phố Saint Petersburg, miệng ngậm ống vố, và
la lớn, thông báo cho những bộ hành qua lại phía bên dưới, về “biến
cố quan trọng” kể trên!
Nói tóm lại, một gã vui
nhộn, quá vui nhộn
đối với chủ nghĩa Cộng Sản.
Đối với bất cứ một ấn bản
nào của Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản. Sau thành công của vở
kịch “Elizabeth Bam”, một hài kịch về một người đàn bà chờ… “được bắt và được giết”, báo chí nhà nước kết án
nhóm kịch của ông là… “trò múa may phản
động,
thơ ca vô nghĩa… chống lại nền chuyên chính vô sản”. Ông
bị bắt ở ngay trên đường phố, vào năm 1941. Khi
vợ ông đi thăm nuôi, vào năm 1942, bà được thông báo, ông chết hai
ngày trước đó. Mười bốn năm sau khi mất,
tên
tuổi của ông được phục hồi. Những nhà chuyên viết tiểu sử
xếp ông vào danh sách: viết chuyện cho nhi
đồng.
“Tôi
không phải là con gái của ông ta!”
“Trước
Bộ kiểm tra Trung ương Đảng
Những
năm trong sáng tương lai
Vượt
qua lũ nhà thơ bạc lận cờ gian
Tôi
sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng
Là toàn
tập thơ bônsêvích tôi làm”.
(Thơ
Mayakovski, Trần Dần dịch, Bùi Ngọc Tấn trích dẫn, trong Chuyện Kể Năm
2000, nhà xb Thời Mới, Canada).
Nhà thơ Maia là một trong
những tiên phong cổ
võ cho chế độ mới tại Nga xô. Và cũng là một trong
những
người đầu tiên thất vọng vì nó, và cuối cùng tự sát bằng súng,
vào năm 1930. Bài viết về bức hình của ông
trong Điểm Sách Paris, số đã dẫn, là của Francine du Plessix Gray.
Sau đây là một vài trích đoạn.
“Tôi
không phải là con gái của ông ta”. Tôi hét vào mặt
ba ông nhà văn nhà nước, thuộc Hội Nhà Văn Xô Viết, ngồi đối diện
với tôi. Lúc đó là 2 giờ sáng vào một đêm
tháng Sáu năm 1979. Chúng tôi đang ở trên xe
lửa nhắm hướng Tbilisi, Georgia. Tôi là một trong những
thành viên của phái đoàn những nhà văn Mỹ tham dự “ba cái trò lăng
nhăng hội thảo văn học” của Hội Nhà Văn Xô Viết, và mấy “đồng
nghiệp” người Nga chẳng ngại đêm hôm khuya khoắt, đã xông vào tận
toa của tôi, để mà tra vấn về chuyện, có phải ngày xửa ngày xưa,
ông nhà thơ lớn của cách mạng Nga đã ngủ với mẹ tôi, và tôi là
“thành quả”. Đúng ra là họ cố làm cho tôi tin tưởng như vậy, và đây
là một vinh dự của cách mạng!
Sự
thực, một gán ghép như vậy không phải là hoàn toàn dựa trên những
ước đoán mơ hồ, theo kiểu: không có lửa sao có khói: Mẹ tôi, Tatiana
Iacovleva, đào thoát Liên Bang Xô Viết, qua Paris vào năm 1926, đã là
một trong hai mối tình lớn lao trong đời nhà thơ cách mạng Maia; ông
tự huỷ mình chỉ vài tháng sau khi mẹ tôi kết hôn với một ông Tây,
là cha tôi. Và một vài bài thơ tuyệt vời nhất của
ông, được đề tặng cho mẹ tôi. Còn nữa: vào đầu thập niên
1970, tờ báo nổi tiếng của Nga Ogonok, đã đăng bài, kèm theo một tấm hình cũ của tôi, khi mười bốn tuổi,
trong chiếc bikini, và tuyên bố: rằng con gái của Maia “vưỡn” còn
sống, và hiện đang sống ngon lành ở Mỹ.
Tôi
dí vào mặt họ tờ giấy thông hành với ngày sinh tháng đẻ của tôi:
-Đây
là những sự kiện sờ sờ.
-Một
người nào đó đã ‘ngụy tạo’!
-Ở
Mẽo không có chuyện ngụy tạo passeport, giấy khai sinh…
Cỡ chừng ba hoặc bốn giờ
sáng, mấy “văn hữu
Nga” của tôi mới chịu trở về toa của họ, thất vọng ra mặt.
Ở đây nói tiếng Nga
Nhân tin thời sự, một
người Việt Nam tị nạn, bà Nguyễn Thị
Hạnh, đã đốt cờ đỏ sao vàng tại toà đại sứ của nhà nước CS ở Luân Đôn,
Jennifer tôi bỗng nhớ đến truyện ngắn “Ở đây nói tiếng Nga” (nguyên
tác “Govoriat po-rousski”, viết năm 1923, bản dịch tiếng Pháp: Ici on
parle russe), của nhà văn Nga Nabokov. Thật hóm hỉnh, và cũng thật
“nhân bản”, ông kể về một vụ “đụng độ” giữa người dân Nga lưu vong
và nhà nước Liên Xô. Câu chuyện
xoanh quay một gia đình tị nạn, sinh
sống nhờ một cửa tiệm bán thuốc lá, tại một góc phố trong một tỉnh
nhỏ ở Pháp. Người
kể câu chuyện là bạn với cậu con trai,
từ khi còn đi học. Bữa đó, ông ghé thăm gia đình trước khi đi Paris, và thấy Pétia, cậu con
trai, từ ngoài phố chạy về, mặt mày đỏ gay. Hỏi ra
mới biết, anh phải tới toà đại sứ, vì cô cháu gái của mẹ anh cần
về thăm mẹ của cô ta ở Liên Xô. Trong lúc một nhân viên tòa
đại sứ đưa ra hết mẫu đơn này tới mẫu đơn khác, bắt phải kê khai
đầy đủ, một nhân viên đứng kế bên, chắc là công an
chìm, ghé tai anh ta nói nhỏ: “cái thằng ‘củ xê’ này là thằng nào?”
Anh con trai chỉ muốn thoi vào mặt tay công
an
chìm một cú, nhưng nghĩ lại, còn người thân ở Liên Xô, đành mang nỗi
tức giận về nhà. Nghe xong, bà mẹ mắng, “Mày không
nhớ tội cũ của mày hả”.Hóa ra là trước đó, ông con đã làm một cử
chỉ thật là “dại
dột”: nhân một lễ kỷ niệm lớn, anh ghé thăm một nhà sách của nhà
nước, và ngỏ ý mua một cái búa bầy trong tủ kiếng, tượng trưng cho
cờ búa liềm của giai cấp công nhân ta, được tranh hoàng thật “mát
con mắt”. Ông chủ tiệm hồ hởi hỏi khách, cần món gì thêm nữa cho
thêm phần long trọng, anh hất đầu về phía bức tượng ngài lãnh tụ,
đang đăm chiêu nhìn… núm ruột hàng vạn dậm. Trả tiền xong xuôi, anh
cầm cái búa phang thẳng cánh vào bức tượng! Nếu chỉ vậy thôi, thì cũng
“xoàng”, phải không các bạn, và
chẳng liên can gì tới cái tên truyện. Khi từ Paris trở về,
ghé thăm, ông ngạc nhiên thấy không khí có vẻ kỳ bí ở nơi gia chủ. Họ nói về Paris, về người Pháp, và bất
thình lình, ông chủ hỏi: “Này, anh bạn nhỏ, nhà tù nào lớn nhất ở Paris?”.
Ông nói
không biết, và quay qua chuyện khác, nhưng dù bằng cách nào,
câu chuyện cũng lại trở về với… nhà tù!
Cuối
cùng, gia chủ đấm lên mặt bàn cái rầm: “Tôi hết chịu nổi rồi, phải
nói ra thôi!” Bà
vợ lẩm bẩm, “Người ham ăn ham nói
như ông, làm sao giữ nổi bí mật. Có nhớ chuyện
ông vua tai lừa không?”
Sau
khi đã bắt ông thề thốt đủ điều, gia chủ bật mí:
“Chuyện xẩy ra đâu một hai ngày sau khi anh
đi Paris. Một
người khách ghé tiệm. Anh ta không để ý tới
cái bảng đề ở bên ngoài, cho nên đã hỏi tôi bằng tiếng Đức. Nên nhớ là, nếu thằng chả để ý tới cái
bảng đề
bên ngoài, chắc chắn đã không bước vô tiệm của một người dân Nga
lưu vong. Tôi nhận ra ngay cái giọng Nga
của
thằng chả. Lẽ dĩ nhiên, tôi hỏi thằng chả bằng tiếng mẹ đẻ,
anh cần thuốc lá nhãn hiệu gì… Thằng chả ngạc
nhiên,
và chẳng có vẻ chi hài lòng vì gặp đồng hương nơi xứ người. Hắn ngó tôi, có vẻ kỳ cục, và hỏi bốp chát, “Tại sao
ông xác định tôi là người Nga?” Tôi trả lời
bằng một giọng hồ hởi, và sau đó, tôi bắt đầu lo lấy thuốc lá cho
anh ta. Đúng lúc đó, thằng con tôi trở về.
Nó nhìn thấy người khách, và nói với anh ta bằng một giọng dịu dàng
nhất trên đời: “Ngọn gió lành nào cho chúng ta gặp lại nhau”. Vừa nói, nó vừa tiến tới gần, và để một cú thật ngọt
vào sau ót thằng chả. Không phải một cú nốc ao, mà là một
cú “chìm”, nghĩa là thằng chả cứ thế ngủ lịm đi, trong thế đứng như
trời trồng, rồi từ từ ngả xuống phía sau.
Sau đó, cả hai cha con kéo thằng chả vô phòng
của Pétia, đứa con trai.
Cũng may, vừa xong, là có khách ghé tiệm.
Thằng
chả chính là viên công an chìm đã gọi Pétia
là
con củ xê. Lục xoát anh ta, thấy nào súng, nào huy
chương, nào thẻ KGB… đủ cả. Ông bố hỏi ông con: Mày tính sao
giờ? Quên bà cô của mày còn ở lại hả?
Giết
chết thì không dám, thả thằng chả hả, ôi chao, cứ nghe giọng hắn khi
thốt ra hai tiếng củ xê, và sau đó, khi đã tỉnh, gầm gừ: tụi mi sẽ
biết tay ông… là thấy không thể nào thả hổ
về rừng. Thằng Pétia sau cùng nghĩ ra giải pháp: Hãy trả cho Cesar
cái gì của Cesar!
Thế
là hai bố con loay hoay biến một căn phòng tắm bỏ không, đại bản
doanh của chuột, rán thành một xà lim. Thiết kế công trình bắt buộc
phải được thực hiện trong khẩn trương, và tuyệt đối yên lặng, vì còn
khách hàng ra vào suốt ngày, và lối xóm.
Kể từ ngày đó, ông chủ tiệm thuốc là còn
kiêm thêm vai chủ ngục.
Ngày tháng cứ thế qua đi. Người
kể chuyện lâu lâu có dịp ghé, cuộc đời cứ thế êm đềm trôi. Qua gia chủ, tù nhân không hề một lần nào than van về
chế
độ cấp dưỡng. Lúc đầu, anh ta rất giận dữ,
và
đã từng kiếm cách vượt ngục. Nhưng có vẻ
như
sau cùng, anh ta nhận thấy, đây mới đúng là… thiên đường. Công
việc khấm khá, xà lim ngày càng có thêm đồ dùng phụ trội, nào cái
TV, nào cái cassette…
Bà
vợ tự hỏi: không hiểu thằng chả ăn vạ tụi này tới ngày nào?….
Jennifer
Tran