Tôi có cảm giác Nguyễn Huy Thiệp đã đứng lại
rồi...
Nguyên Ngọc
TCS: The Romantic Son[g]
Trên báo Văn số mới nhất [Tháng Sáu &
Bẩy] (1) mục Sổ
Tay, Nguyễn Xuân Hoàng viết về những ngày đầu nơm nớp làm quen văn học
giải
phóng và văn học miền bắc:
“Chúng tôi đọc trong nỗi lo sợ, thơ Tố Hữu,
truyện Anh
Đức, Nguyễn Quang Sáng....”
“Chúng tôi đọc trong nỗi lo sợ...”, “Chúng
tôi” đã
quá, “lo sợ”, lại càng quá!
Bởi vì ít ra là cá nhân tôi, thành thực mà
nói, tò mò
đọc thì đúng hơn, chứ không sợ.
(1) Quên không ghi năm. NQT
Không phải là
tôi “can đảm” hơn ông bạn của tôi, mà vì, tôi hiểu rõ, cùng với chiến
thắng của
những người CS, là một sự thực rõ như ban ngày, là: “Chúng tôi” sẽ
chẳng bao
giờ có cơ hội cầm cây viết trở lại nữa. Có, nỗi lo sợ, trước nhà nước
mới,
nhưng không có nỗi lo sợ, trước những ông nhà văn của họ.
Đâu có phải đợi
đến lúc những người miền bắc vào tới tận cửa ngõ Sài Gòn, một số người
viết
miền nam mới nhận ra một trong những vũ khí quan trọng làm nên chiến
thắng miền
nam là văn chương và đội ngũ những người: vừa cầm súng vừa cầm viết là
tốt
nhất, nếu cầm viết không thôi, thì phải coi đó là cây súng.
Không dễ gì mà
làm một người CS, và càng không dễ, làm một nhà văn CS.
Thanh Tâm
Tuyền, trong khi nhìn những đoàn quân chính quy miền bắc tiến vào Sài
Gòn, đã
“vui mừng” thốt lên, “Thế là mình khỏi viết văn rồi”! Khi ông nói câu
đó, có
thằng em, là tôi, đứng kế bên!
Khi nói câu đó, có thể ông đã quá chán văn
chương,
nhưng ông biết chắc chắn một điều, chán hay không chán, ông cũng chẳng
còn cơ
hội cầm cây viết trở lại.
Thực sự không
phải ông nói câu đó ngay những ngày đầu, mà vài ngày sau đó. Nhưng tôi
tin rằng,
ông chỉ diễn lại cái cảm tưởng những ngày vừa mới đổi đời...
Để tôi kể một
vài thí dụ, để minh chứng câu viết ở trên:
Không dễ gì, làm một tay Cộng Sản.
Và lại càng không dễ, làm một nhà văn Cộng
Sản.
Lần trở lại Hà
Nội, tôi gặp lại một ông cậu. Chi tiết về cuộc gặp gỡ, tôi đã kể sơ sơ,
trong
bài viết “Trở lại nơi một thời vang bóng”. Ngoài ông ra, tôi còn ba ông
cậu
cùng tuổi, con của bà ngoại, thường gọi là bà Ba, vì ông ngoại tôi có
tới ba
bà. Không phải cùng một lúc, nhưng số ông “sát thê”, mất bà trước, ông
mới kiếm
bà sau.
Ông cậu Toàn là con bà Hai. Bà cụ tôi, con bà
Cả. Khi
tôi còn nhỏ, ông thương tôi lắm, và tôi cứ nghĩ ông với mẹ tôi là chị
em ruột.
Ba ông em của ông, cùng lớp tuổi với tôi, thành thử cả bốn cùng học một
lớp.
Cùng đi thi tiểu học một năm, thằng cháu đậu, ba ông cậu trượt vỏ chuối
cả ba.
Tôi còn nhớ, bà Ba, khi xem bảng xong, mắng mấy ông con, “Nó ăn mắm ăn
muối, ăn
rau ăn cỏ, mà thi đỗ, còn ba đứa mày ăn cá ăn thịt, vậy mà trượt cả
ba.” Mắng
xong, bà còn thưởng cho thằng cháu một cốc nước giải khát! Không hiểu
làm sao,
tôi nhớ tới tận bây giờ. Có lẽ vì bà chưa bao giờ khen tôi, mà lần đó
lại khen,
trước mặt bao nhiêu người xa lạ!
Ông cậu tôi nhớ
lại những ngày tháng đấu tố. Ông đi theo kháng chiến từ những ngày đầu,
và sau
này, khi về Hà Nội, là đệ tử của Nguyễn Khắc Viện, trông coi tờ Le
Courrier du
Vietnam.
Ông nói: Cậu biết trước là ông ngoại mày sắp
bị bắt,
mà không làm sao báo tin về nhà được. May là bà Ba đem được tụi thằng
Cầu thằng
Tiệp về Hà Nội. Vì là thủ đô, nhà nước cũng như địa phương không dám
làm dữ,
thành thử thoát.
Trong ba ông
cậu cùng học, ông thứ nhất, ông Cầu thương tôi lắm, không thua gì Cậu
Toàn, tức
ông anh cùng bố khác mẹ. Ông thứ hai, ông Tiệp, học không thua tôi mấy,
nhưng
không hiểu sao, vẫn trượt kỳ thi tiểu học vừa kể. Có lẽ vì ông... thông
minh
quá!
Ấy là tôi nói đùa. Nhưng sự thực, ông Tiệp
rất thông
minh, theo cái kiểu giỏi xoay sở. Cậu Toàn tôi kể, “Nó không nói với
cậu, bởi
vì nói, cậu đã cản. Lần đó, nó làm đơn xin vào Đảng, khai là con bần cố
nông,
giấu biệt chuyện ông bố bị bắt vì là địa chủ. Tụi nó truy ra, trước mắt
đuổi ra
khỏi cơ quan. Lúc đó, nó mới chạy tới cậu.Tới gặp tay thủ trưởng, hóa
ra cùng
đơn vị ngày trước. Ông ta bảo, nếu cậu nói trước, thì còn gỡ được. Bây
giờ chỉ
còn có mỗi một cách: Đưa ông em ra “tuyến đầu” một thời gian là ba năm,
nếu còn
sống, thì cho về lại cơ quan!
Bây giờ xin kể chuyện, không dễ gì làm một
nhà văn CS.
Thí dụ, trường hợp Nguyễn Khải.
Nguyễn Khải, trong một loạt bài viết có tính
tự thuật,
đã kể lại cái thuở mới viết của ông. Ngay cả khi về già nhìn lại, ông
vẫn không
thể tưởng tượng ra được, một con người như ông lại trở thành một nhà
văn, mà
lại nhà văn xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều bài viết, phỏng vấn, ông cũng
nói
thẳng ra lòng biết ơn của ông, với Đảng. Qua hồi ký cho biết, ông vốn
là con
một ông quan, nhưng không được bố nhìn nhận, vì không thuộc dòng chính.
Ông bố
vào nam năm 1954. Tới 1975, ông gặp lại bố và gia đình bà vợ lớn của bố
tại Sài
Gòn. Chi tiết về cuộc gặp gỡ đã được tiểu thuyết hóa thành Gặp Gỡ Cuối
Năm.
Trong hồi ký Thượng Đế Thì Cười, ông kể thêm một số chi tiết cho thấy,
việc hai
bố con gặp lại, là do ông bố thấy ông con bây giờ có danh tiếng, có
chức tước,
nên mới tìm gặp. Có một chi tiết rất lạ, rất thú vị, là ông bố nói với
ông con,
ông vẫn còn giữ bằng khoán căn nhà ở Hà Nội....
[Tôi không hiểu Nguyễn Khải có tính sử dụng
chi tiết
trên, để đưa vào giả tưởng, như phim Mùa Ổi của Đặng Nhật Minh chẳng
hạn, hay
đưa vào... đời thực, nghĩa là sử dụng bằng khoán, và gốc con quan, để
đòi lại
căn nhà cho gia đình của ông...]
Những nhà văn
thuộc diện ba đời bần cố nông, trở thành nhà văn, biết ơn thì cũng biết
ơn,
nhưng không thể so với Nguyễn Khải được,
như trên cho thấy.
Tôi có đọc được ở đâu đó, một câu chuyện ngụ
ngôn, về
một cái trứng chim, rớt khỏi tổ, và được một giống gà, hay vịt gì đó,
ấp, rồi
nuôi. Con chim, lẽ tất nhiên, rất biết ơn con vật mà nó đinh ninh là bố
mẹ ruột
đó. Nhìn thấy những con chim bay trên trời, nó cứ nghĩ là cái thân phận
“bay”
kia không thuộc về mình! Bố mẹ nuôi, vì không biết bay, nên không làm
sao biết
cái cử chỉ dạy con cái bay của loài chim, khi thấy đủ lông đủ cánh, là
a lê
hấp, đạp cho nó một cái, văng ra khỏi tổ, và thế là nó biết bay!
Tôi nghĩ, chủ nghĩa CS đối với người dân miền
bắc, nó
cũng y hệt như bố mẹ nuôi của con chim khốn nạn kia. Con chim khốn nạn
chỉ một
lòng một dạ biết ơn Đảng [do giải phóng miền bắc khỏi đế quốc Phong
Kiến, đế
quốc thực dân Pháp và sau đó, Mỹ?], còn Đảng, do ngu dốt, hoặc do di
căn của
tinh thần... gia trưởng, nên không chịu đạp cho nó một cái, cho nó bật
ra khỏi
cái ổ, là Đảng Cộng Sản hay là cái nước Việt Nam, tức Cái Tổ Quốc Chẳng
Bao Giờ
Biết... Ăn Năn, để mà bay...
Bạn có thể cho rằng tôi quá... đểu, nhưng nói
về cái
lòng biết ơn của những đảng viên CS, đối với Đảng của họ, thì có những
chuyện
còn cười ra nước mắt được. Vào những năm đầu của thời kỳ cởi trói, đã
có những
nhân vật trong những cuốn tiểu thuyết, thí dụ như của Hoàng Lại Giang,
bị mấy
đồng chí thủ trưởng vu cho đủ thứ tội, chỉ dám than khóc Oan Quá Đảng
Ơi, chứ
không dám thoi cho mấy tay thủ trưởng vài cái....
[Đề tài phác thảo: Không phải tự nhiên, khi
vừa mới
giải phóng Trần Bạch Đằng đã lên lớp cái thái độ an phận thủ thường,
chỉ muốn
làm một anh phó thường dân của nhà văn miền nam. Là một nhà văn CS, ông
hiểu
rấr rõ, mấy thằng nhà văn miền nam khác hẳn ông, về bản chất: Không làm
sao
nhét, cái gọi là ý thức giai cấp, nhất là thứ ý thức giai cấp vô sản,
vào đầu
một nhà văn ngụy.
Mô phỏng câu: Không dễ làm một người CS, càng
không dễ
làm nhà văn CS:
Không dễ, cái việc cải tạo một tên ngụy, lại
càng
không dễ cái việc cải tạo [đúng ra là tẩy não] một nhà văn ngụy. Đó
cũng là lý
do Thanh Tâm Tuyền "mừng rỡ" không còn "được" viết văn nữa.
Và giải thích lý do, án học tập cải tạo là
không có
thời hạn, là mút mùa lệ thủy....]
Thành thử cái gọi là cơ sở văn hóa mà Nguyên
Ngọc nói
tới đó, cần phải bàn rộng thêm ra].
[Đề tài phác thảo: Tôi nghĩ, cái mà miền bắc
thiếu
nhất, chính là cái mà họ tưởng rằng chủ nghĩa CS sẽ đem lại cho họ,
trong khi
chính cái đó, ở trong họ, nhưng họ lại không thấy.
Đây là điều mà Marx chỉ trích tôn giáo [thuốc
phiện
của quần chúng], và cũng là điều Dos chỉ trích con người: không phải
mày phải
vươn cao bằng Thượng Đế nhưng phải kéo thằng chả xuống cho bằng mày!]
NHT khựng lại, vì cái gọi là ý thức tự vấn
của ông bị
khựng lại. NN coi đây là do thiếu cơ sở
văn hóa, nhưng theo tôi, đây là hiện tượng không sao hòa giải được
với... Thiên
Tài Của Nơi Chốn, hay Thần Đất: Nói rõ hơn: ông không hòa giải được với
miền
nam, hoặc miền nam khác hẳn ông. Trước 1975 đã khác, sau 1975 lại càng
khác.
Tôi đã viết điều này trong bài "Mỗi tường hợp mỗi khác", nhưng chưa
rõ, cần phải viết rộng ra. Gide đã từng chê trong tác phẩm của Malraux
không có
con nít, không có tiếng cười, toàn là người hùng. Tác phẩm của NHT,
ngược hẳn
với tất cả những người cùng thời của ông, không có người hùng. Đúng ra
là ông
phải nhận ra cái yếu tố tuyệt vời đó, để mà nhập vào một miền đất từ
khi khởi
thủy của nó, đã không đề cao người hùng ý thức hệ, mà chỉ có những anh
chị dám
chết cho một nghĩa khí, cho một tình bạn. Đây là yếu tố giải thích tại
sao
truyện Tầu rất hợp với miền nam. Ở một nhà văn bình dân của miền đất
này, Hồ
Biểu Chánh, truyện của ông đầy nhân nghĩa, chứ không đầy ý thức hệ.
Đây cũng là điều mà Đặng Tiến nhìn ra, ở
Trịnh Công
Sơn, khi ông cho rằng họ Trịnh là sản phẩm của miền nam. Miền Nam chứ
không
phải Việt Nam Cộng Hòa, như Đặng Tiến viết. Muốn chứng minh, cứ tưởng
tượng
Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ miền bắc, là thấy ngay cái sự bất khả của
nó! Võ
Phiến, bằng trực giác của một nhà văn, có thể đã nhìn ra điều này, khi
ông
tưởng tượng cái 'hoạt cảnh' "cười bò ra được, cười hô hố..." về những
nhà văn miền nam được thả ra miền bắc như những 'biệt kích văn hoá',
tương tự
như những nhà văn miền bắc, thoắt ở trong nam làm nhà văn giải phóng,
với một
bút hiệu mới toanh, thoắt lại trở lại miền bắc với tên thật hoặc bút
hiệu đã
từng được biết tới.... [Xin xem Văn Học Tổng Quan của tác giả]. [1]
[Liệu có thể giải thích hiện tượng NHT bằng
những nhận
định của Walter Benjamin, trong Những Luận Đề:
Bằng một biện chứng tinh tế về ký ức và về
điều đã
nhìn thấy [le "déjà vu"], Benjamin tìm thấy trong đứa trẻ, là mình
ngày nào, không phải một quá khứ xong xuôi, một thời đã mất (un "temps
perdu"), nhưng mà là một hứa hẹn mà cuộc đời không giữ được, một tương
lai
chưa được thực hiện. Đứa trẻ nghĩ rằng,
nó thoáng nhìn thấy những sự vật mà nó
nhặt nhạnh, ở trong những từ mà nó đã làm biến dạng, trong những hành
động mà
nó khám phá ra, là một thai đố, một bí ẩn mà người lớn đã bỏ đó vì
không tìm ra
lời giải, một hy vọng về hạnh phúc mà người lớn hài lòng bằng cách quên
đi. Quá
khứ với Benjamin là tương lai yểu tử. Và trong Những Luận Đề về triết
học của
lịch sử, Benjamin đã đưa ra một công thức có thể coi như là nhiệm vụ
của cái mà
ông gọi là "duy vật lịch sử": Nó [duy vật lịch sử] phải tìm thấy cái
quá khứ chẳng hề hết thống khổ, những ước vọng đã bị quên di, những hy
vọng về
hạnh phúc bị thất vọng của những kẻ thua thiệt, bị đánh bại, của lịch
sử..."].
[Cái mà NHT diễn tả, chính là cái tương
lai_yểu tử của
một miền đất, mà để cho nó sống lại được, nó phải tìm lại được, cứ gọi
đại bằng
cái tên, "duy vật lịch sử",
của những người CS Đệ Tứ của một miền nam, thí dụ như của những Hồ Hữu
Tường,
hoặc cái đau khổ nhục nhã của một miền đất bị thất trận....]
[Par une
dialectique subtile de la mémoire et du « déjà-vu » Benjamin retrouve
dans I
'enfant qu' il a été, non pas un passé révolu qui serait un « temps
perdu »,
mais une promesse que la vie n 'a pas tenue, un avenir qui n 'a pas été
réalisé. L' enfant croyait entrevoir dans les choses qu'il
collectionnait, dans
les mots qu'il déformait, dans les activités qu'il découvrait, une
énigme que
I'adulte a laissée sans solution, un espoir de bonheur que l'adulte
s'est
contente d'oublier. Le passé pour Benjamin est un avenir mort_né. Or,
dans les
Thèses sur la philosophie de l'histoire, Benjamin formule dans des
termes
semblables la tache de ce qu'il appelle le "matérialisme historique » :
celui-ci doit retrouver le passé qui reste en souffrance, les
aspirations
oubliées, les espoirs de bonheur décus
des vaincus de I'histoire. L'histoire, pour
Benjamin, est une seule et
unique catastrophe qui ne cesse d'amonceler des ruines : ces ruines, ce
sont
les éternels vaincus, les humiliés et les offenses de la faim et de la
misère,
les espérances brisées, les promesses oubliées...].
Jean LACOSTE,
[Dịch và giới thiệu Đường Một Chiều, tác phẩm
Walter
Benjamin, qua tiếng Pháp, nhà xb Les Lettres Nouvelles / Maurice
Nadeau, tủ
sách 10/18]
*
[1] Nhân chuyện
"cười bò, cười hô hố...", và chuyện quá khứ, tuổi trẻ, như tương lai
chết yểu, xin kể thêm một "bi thoại": trường hợp nhà văn người Pháp
Robert Brasillach, và cuốn [Thời] Tiền Chiến của chúng ta [Notre Avant
-
Guerre], mới được dịch sang tiếng Anh (nhà xb Lampeter: Edwin Mellen,
429
trang, giá 79.95 Anh Kim. Theo bài viết trên TLS số đề ngày 4 tháng
Bẩy, 2003.
Vào ngày 12 tháng Chạp 1941, nhà văn Pháp
Robert
Brasillach viết vào trong nhật ký, rằng với ông, [Thánh] Joan of Arc
tượng
trưng cho "Tuổi Trẻ Hoài Hoài". Bốn năm sau đó, ông bị xử tử vì tội
phản quốc và hợp tác với kẻ địch. Cuốn sách kể trên của ông, đã từng
được xb
thời kỳ nước Pháp vừa bị chiếm đóng bởi Nazi, nay được chuyển qua một
bản tiếng
Anh tuyệt vời, do dịch giả Peter Tame, và đây đúng là một bản bi ca,
một khúc
kinh cầu cho cả hai: một sự ngây thơ vô tội đã mất, và một ngợi ca tuổi
trẻ
vĩnh hằng, và cái mùi vị, uống "môi
em ngọt nơi con đường Duy Tân khung trời Đại học"...
[nguyên văn:... a celebration of
eternal youth, redolent of 'the honeyed
taste of the lime-trees wafting across Paris"]...
Giống nnhư một nhà thơ Lãng Mạn, ông sinh ra là để chết trẻ, tuy nhiên,
không
phải bịnh lao đã giết ông, mà là một viên đạn.
TCS: Theo tôi
nhạc TCS có tới hai “đỉnh cao” của nó; đỉnh cao thứ nhất, nó tiên đoán
cái
không khi Mậu Thân, khi bắt đầu bằng những câu hát cho thấy sự bình an
của hang
ổ Mỹ Ngụy chỉ là giả tạo: Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.
Đỉnh cao
thứ hai của nó: Người chết hai lần Một
lần cho cuộc chiến, một lần cho biển cả.
It sings
simply, terribly, at the limits of the possible.
Roland Barthes: The Romantic Son[g].
Here we must
recall that the classification of human voices... is never innocent.
Roland Barthes The Romantic Son[g].
Hãy thử tưởng
tượng tiếng nhạc TCS cất lên ỡ miền bắc? Cái Ác Sẽ Dịu Đi? Cuộc chiến
sẽ thay
đổi, phần nào?
Cái Ác Sẽ Dịu
Đi?: Đây chỉ là một câu hỏi gọi ý của người viết, sau khi đọc vài viết
của
Nguyễn Văn Thọ, một bộ đội, tình cờ nghe nhạc TCS trên đài phát thanh
ngụy Sài
Gòn, và bài TCS, tại sao của Lê Mình Hà.
Liệu có thể
giải thích vụ cải tạo mút mùa, là do tâm lý Cá Mè Một Lứa đưa tới sự
ghen tức:
Tại sao chúng mày [miền nam] dám... "sung sướng" hơn... chúng ông?
[còn tiếp]
NQT
[Bài viết The
Romantic Song, Music's Body, trong The
Responsibility of Forms, dịch từ L'obvie et l'obtus, Roland Barthes,
nhà xb
Hill and Wang NY].