Cội
Rễ Nhà Trời. Oulipo. Hội Họa Dở và Hội Họa Bẩn.
Những
Trái Đắng Của Quá Khứ. Nhân Danh Tất cả Mọi Người. Đi.
Cội
rễ nhà trời
"Đây
là một con người mà trong nỗi cô đơn của mình, đã
đi xa hơn những kẻ khác".
Romain
Gary
Cuốn
"Cửu Long cạn dòng biển Đông dậy sóng", của
Ngô Thế Vinh, được một số nhà điểm sách coi là một báo động sinh thái
cho một
vùng đất. "Cội rễ nhà trời" (Les Racines du ciel), của nhà văn Pháp
Romain Gary, có lẽ là cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói tới hiểm họa này.
Người
viết xin chuyển ngữ bài viết của chính tác giả, nhân lần tái bản năm
1980 cuốn
sách của ông: cuộc hành trình vô vọng của một con người giữa rừng rậm
Phi châu,
chiến đấu nhằm bảo vệ loài voi thoát họa diệt chủng.
"Từ
khi xuất hiện cuốn sách này cách đây 20 năm, người
ta rất muốn viết về nó, như là cuốn tiểu thuyết ‘sinh thái’ đầu tiên
(le
premier roman ‘écologique’), lần đầu tiên đưa ra lời cầu cứu, rằng trái
đất
sinh học của chúng ta đang bị đe dọa. Bản thân tôi, thật ra, vào lúc
đó, cũng
không thể ngờ được, sự tình lại đến nỗi quá bi đát như là bây giờ, và
sự hủy
diệt cứ thế tăng lên mãi.
Vào
năm 1956, tôi ngồi cùng bàn với một ký giả nổi tiếng, Pierre
Lazareff. Một người nào đó thốt lên từ ‘sinh thái’. Trong số trên hai
chục
người hiện diện, chỉ có bốn người hiểu ý nghĩa của nó…
Vào
năm 1980, người ta cân nhắc con đường vạch ra. Trên khắp
mặt đất, những cơ quan, hội đoàn, những lực lượng được thành lập, và
đứng đầu
là giới trẻ đầy quyết tâm chiến đấu. Rõ ràng là họ không biết đến cái
tên
Morel, kẻ tiên phong trong cuộc chiến đấu và là nhân vật chính trong
cuốn tiểu
thuyết của tôi. Chuyện đó đâu có gì là quan trọng. Trái tim đâu cần đến
một tên
khác, để gọi. Và nhân loại đã đề nghị những con người tuyệt hảo nhất
của nó,
nhằm bảo vệ một cái đẹp nào đó của cuộc đời. Một cái đẹp nào đó của
thiên
nhiên…
Tôi
chọn lựa cho cuốn tiểu thuyết của tôi một nơi chốn mà
vào năm 1956 người ta vẫn còn gọi là "Phi châu nhiệt đới của Pháp",
bởi vì tôi đã sống ở đó, và có lẽ bởi vì tôi không thể quên, đây là xứ
sở đầu
tiên trước đây đã đáp ứng lời kêu gọi nổi tiếng: hãy chống lại sự buông
xuôi bỏ
mặc, và niềm thất vọng chán chường. Và sự từ chối của nhân vật của tôi,
từ chối
làm một con người bất lực, chịu thua luật đời sừng sỏ, chính sự từ chối
này đã
ở với tôi trong những giờ phút lạ thường khác nữa…
Thời
gian chẳng thay đổi nhiều, kể từ khi cuốn sách này được
xuất bản: người ta vẫn tiếp tục sử dụng một cách thật là dễ dàng thoải
mái,
những dân tộc, nhân danh quyền con người, quyền dân tộc, xúi họ sử dụng
chính
họ. Ýù thức về ‘sinh thái’ (la prise conscience ‘écologique’), chính
nó, đã
đụng phải cái mà tôi gọi là sự phi nhân của nhân loại (l’inhumanité de
l’humain). Vào lúc tôi đang viết những dòng này, 1200 con voi đã bị tàn
sát ở
Zimbabwe… Đúng là một nghịch lý cơ bản [sự phi nhân của nhân loại] mà
không một
tư tưởng, tông giáo nào có thể giải đáp được.
Nếu
nói về sắc thái tổng quát, phổ cập, của công cuộc bảo vệ
thiên nhiên, lẽ dĩ nhiên nó không mang tính đặc biệt, như chỉ xẩy ra ở
Phi Châu
không thôi: đã từ lâu con người rú lên như bị lột da. Như thể, quyền
con người,
chính chúng, cũng trở nên những sống sót làm bực mình, gây khó chịu,
của một
thời đại sinh thái nào đó, đã qua rồi: thời được gọi là nhân bản. Những
con voi
ở trong tiểu thuyết của tôi tuyệt nhiên không phải là những ẩn dụ:
chúng có
thật, bằng xương bằng thịt, y hệt như quyền con người…
Một
lần nữa, tôi xin được cám ơn những con người mà tình bạn
của họ đã giúp đỡ tôi rất nhiều, khi viết cuốn tiểu thuyết này, trong
những
điều kiện khó khăn: Claude Hettier de Boislambert, giáo sư J. E. de
Hoorn, René
Agid, và Jean de Lipkowski, Leigh Goodman, Roger Saint-Aubyn và Henri
Hoppenot,
là những người mà cuốn sách này được đề tặng."
Romain
Gary
***
Tôi
quen Ngô Thế Vinh rất sớm, từ cái thuở anh còn là sinh
viên ở cư xá Minh Mạng, Sài Gòn. Anh học y, nhằm chữa bịnh cho từng con
người.
Anh làm báo Tình Thương, toan tính chữa bịnh cho một thời đại. Anh viết
văn, mơ
tưởng chữa bịnh cho một dân tộc. Nhân làm báo Tình Thương, với tư cách
phóng
viên, anh khám phá ra một cuộc chiến trong một cuộc chiến: cuộc chiến
của những
đồng bào Việt ở vùng thượng du. Cuộc chiến đấu dành đất đai, dành quyền
làm
người Việt nam ở miền thượng du, hiện nay, ở trong nước, như xác nhận
nỗi đau
của nhà văn người Pháp, Romain Gary và Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn "Vòng
Đai Xanh", cũng có thể lập lại lời nói của Romain Gary: Bản thân tôi,
vào
lúc đó, cũng không thể tưởng tượng được, sự tình lại bi đát đến như
vậy… Và
những con voi giả tưởng của Romain Gary trong "Cội rễ nhà trời", đã
biến thành hiện thực bằng xương bằng thịt, như thể "Cội rễ nhà trời"
biến thành "Cội rễ nhà Việt".
Theo
dòng liên tưởng, chúng ta hãy thử tưởng tượng, sự tình
sẽ bi đát tới mức nào, khi đọc "Cửu Long dậy sóng…", vào khoảng…
mười, hay hai mươi năm sau?
Trong
trả lời phỏng vấn của báo Bách Khoa (thời gian trước
1975 tại Sài Gòn), nay được dùng làm tựa cho tác phẩm "Mặt trận ở Sài
Gòn", Ngô Thế Vinh cho biết, ông có ý định viết một cuốn sưu khảo về
cao
nguyên thay vì cuốn tiểu thuyết "Vòng Đai Xanh". Lý do là để tránh
kiểm duyệt. Nhưng sau đó, báo Tình Thương bị bắt buộc phải đóng cửa.
Ông đã có
thì giờ để "tưởng tượng hoá" tư liệu, cho chúng chết đi, để rồi sống
lại, ở trong cuốn tiểu thuyết. Nhưng thật kỳ cục, khi đọc nó, tôi có
cảm tưởng,
đây là một cuốn sách thuộc loại khảo cổ học. Ở đây, là mô khảo cổ học
về nguồn
gốc một cuộc chiến (trong một cuộc chiến). Hoặc có thể coi đây như là
chương mở
đầu một cuốn trường thiên tiểu thuyết về cuộc chiến Việt Nam.
Hãy
cùng nhau đồng ý, ở điểm này: không hề có
"một" cuộc chiến Việt Nam. Đây là một cuộc chiến trong một cuộc
chiến: cuộc chiến Nam Bắc bao trùm lên cuộc chiến của những đồng bào
Thượng.
Cuộc chiến sinh thái bao trùm lên cuộc chiến nhằm bảo vệ cội rễ nhà
Việt….
[Từ
khảo cổ học ở trên được sử dụng theo nghĩa của triết gia
người Pháp, Michel Foucault, không dính dáng gì tới các môn địa chất
học
(geology), hoặc phả hệ học (genealogy), và chỉ là nghiên cứu một thư
khố (it’s
the analysis of discourse in its modality of archive). Michel Foucault
cho biết
ông luôn bị ám ảnh bởi một cơn ác mộng từ hồi còn nhỏ: dưới mắt ông là
một bản
cổ văn mà ông không làm sao đọc được, hoặc chỉ một phần rất nhỏ của bản
văn
được "giải mã". Tôi (M. Foucault) làm bộ như đang đọc nó, nhưng tôi
biết rất rõ, là tôi đang bịa đặt.… rồi bản văn bỗng mờ hẳn đi. Tôi
không đọc
được gì nữa. Ngay cả bịa đặt cũng không… cổ họng tôi thắt nghẹn, và tôi
tỉnh
dậy…". Chúng ta, những độc giả của Ngô Thế Vinh, cứ giả dụ rằng, ông
cũng
bị ám ảnh bởi một bản cổ văn (về một cuộc chiến trong một cuộc chiến),
và chỉ
một phần rất nhỏ của nó được giải mã (Vòng Đai Xanh, Mặt trận ở Sài
Gòn… và mới
đây, Cửu Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng…), và ông (và chúng ta) cũng
đang
làm bộ đọc nó, mà sự thực là đang bịa đặt…]
Thế
rồi bản cổ văn bỗng nhiên mờ hẳn đi…
Oulipo, cái quỉ gì
vậy?
Độc
giả VHNT hiện đang làm quen (và có thể đang… nhức đầu)
với những thử nghiệm văn chương của một số tác giả như Nguyễn Đức
Thuần, Ian
Bui… Liệu có thể coi đây chỉ là một trò chơi của trí tuệ?
Hai
nhà văn người Pháp là Raymond Queneau và Francois Le
Lionnais chắc cũng đã từng gặp một câu hỏi như vậy, khi toan tính khai
phá
những tiềm năng của văn chương và rộng hơn, của ngôn ngữ. Họ tập hợp
những nhà
văn, toán học gia, thi sĩ, lý luận gia (logiciens), và cùng nhau nhào
nặn (sắp
xếp và tái sắp xếp: assembler et réassembler) những mẫu tự và những từ,
theo
những hình ảnh trong kính vạn hoa, tùy theo những cấu trúc, hình dạng,
khổ,
luật mới, làm sao tạo nên những tác phẩm mang tính uyên nguyên. Thế là
Perec
viết một cuốn tiểu thuyết không sử dụng tới nguyên âm "e", Calvino
xây dựng lớp lang một cuốn sách theo những hình vuông Greimas….
Oulipo:
Ouvroir de Littérature Potentielle (tạm dịch: Xưởng
văn chương tiềm năng) – không phải là một trường phái văn chương, mà là
một xã
hội bí mật sẵn sàng theo đuổi cuộc truy tìm theo kiểu Borges, qua bao
thế kỷ,
xứ sở, văn hóa… Khởi đầu coi như có ba thành viên (Queneau, Perec,
Calvino),
bốn mươi năm sau, Oulipo phát triển lên mãi, mở ra những xưởng văn
(ateliers
d’écriture), và chia sẻ trò chơi với biết bao con người, hạnh phúc vì
muốn là
những người khai phá, mở đường.
Tạp
chí Văn học Pháp, Magazine Littéraire, số tháng Năm 2001
đặc biệt dành cho Oulipo: văn chương như một trò chơi, với những thành
viên nổi
cộm của nhóm như là: Queneau, Le Lionnais, Roussel, Roublaud, Perec,
Calvino…
Sau
đây là nhận định của Marcel Néabou, bốn mươi năm sau khi
Oulipo ra đời.
"Những
con chuột đào một mê cung mà chúng nghĩ rằng sẽ
thoát ra được", những thành viên của nhóm Oulipo thuờng nói như vậy. Lẽ
dĩ
nhiên, có một chút đỏng đảnh ở trong đó. Một thành viên nói rõ hơn:
"Oulipo có nghĩa là chống lại chuyện ngẫu nhiên." Không phải tự nhiên
mà trong nhóm có những nhà toán học. Trí tuệ, trí tưởng tượng, và
phương pháp làm
việc, lòng ham muốn mở ra những chân trời mới… đó là những đức tính của
nhà
khoa học, khác con người bảo thủ, không chỉ có ở trong giới viết lách.
Oulipo
do đó, có một cái gì tương tự với Bourbaki, một nhóm người muốn đem đến
cho
toán học một "nền tảng vững chãi", và từ đó, đẻ ra môn tân toán, vào
thập niên 1930.
Người
ta thường chê thơ Đường luật quá gò bó, nhưng gò bó
chính là một trong những đòi hỏi của nhóm Oulipo, theo như định nghĩa
của họ:
"Chúng tôi gọi văn chương tiềm năng, sự tìm kiếm những hình thức, những
cấu trúc mới lạ, có thể được những nhà văn sử dụng theo kiểu họ thích."
(Nous appelons littérature potentielle la recherche de formes, de
structures
nouvelles et qui pourront être utilisées par les écrivains de la facon
qui leur
plaira). Thách đố của nhóm: Cưỡng ép hệ thống - ở đây là ngôn ngữ - ra
khỏi
"chuyện thường ngày ở huyện", lề thói quen thuộc của nó. Hãy thử áp
dụng "qui luật" này vào một hệ thống khác, một ý thức hệ khác, chẳng
hạn…
Hãy
nghe Queneau, sáng lập viên của nhóm, nói về "hứng
khởi" (inspiration): "Phải xác định một điều, rằng thi sĩ chẳng bao
giờ ‘được’ gợi hứng… Anh ta chẳng bao giờ được gợi hứng, bởi vì anh ta
không
ngừng là chính nó: hứng khởi; bởi vì những quyền năng của thi ca luôn
luôn sẵn
sàng để anh ta sai khiến, sử dụng".
Không
phải những thành viên đều nhất trí về những "chân
lý" của nhóm. Phản ứng trước những "qui luật khắt khe", Georges
Perec lại chiều theo một cung cách thực hành thong dong, theo kiểu
đường ta, ta
cứ đi. Sự thực, đây là một toan tính mang tính hệ thống của ông, nhằm
khuynh
loát (motiver) những trói buộc của qui luật.
Từ
Oulipo ra Oupeinpo, hội họa tiềm năng, (peinture
potentielle). Sinh nhật lần thứ 20 của nhóm là vào năm nay (thành lập
ngày 12
tháng Chạp năm 1980). Ngày 14 tháng Sáu 1985: Ra mắt những tác phẩm đầu
tiên
của nhóm tại xưởng họa của Carelman, một thành viên. Tháng Tư 1991:
Tuyển tập
của nhóm, dưới nhan đề: "Hãy coi chừng hội họa tiềm năng!"… Trong bài
viết "Hai mươi năm hội họa tiềm năng" trên cùng số báo trên, Thieri
Foule vẽ lại con đường đã trải qua của nó, trường phái néo-minimalisme
thay thế
minimalisme, néo-kitsch tiếp nối kitsch, trans-avant-garde thay thế
avant-garde, figuration libre thay thế cho figuration narrative (cho
phép
Jennifer tôi được để nguyên những thuật ngữ trên, vì chưa kiếm ra những
từ
tương đương trong tiếng Việt), rồi hội họa dở (bad painting) thay hội
họa xấu
(mauvais peinture): có thể coi những chủ nghĩa trên đây, như là những
"bạo
chúa" đang rong ruổi sợi xiềng buộc những bức tranh: những bức tranh
của tự
do, và của thực tại.
Oupeinpo
không phải là một chuyển động nghệ thuật (mouvement
artistique). Đây là một "xưởng" (ouvroir), nơi con người
"ouvre" (từ động từ "ouvrer": làm việc, tạo tác phẩm…). Sự
thực, những tác phẩm mà những thành viên đang "làm việc" ở đó, chỉ là
"những viển vông", hay dùng một từ đã một thời vang bóng, những viễn
mơ: những thiết bị, cấu trúc, phương pháp, những bộ máy lý thuyết,
những thủ
tục, nguyên tắc, những thao tác theo nghĩa toán học, chiến lược, hoặc
theo
nghĩa giải phẫu…
Liệu
chúng ta có thể nhìn và đọc những thử nghiệm văn học
của những thành viên nhóm "VHNT" theo nghĩa trên?
Hội
họa dở và hội họa bẩn
Trên
tờ Người Nữu Ước, số đề ngày 9 tháng Bẩy 2001, có bài
viết của Peter Schjeldalhl, về cuộc triển lãm tranh của Picasso, tại
Viện Bảo
tàng Nghệ thuật ở Montreal, Canada. "Picasso huê tình" mở ra ở Jeu de
Paume, Paris, mùa đông năm ngoái. Chặng cuối là Museu Picasso,
Barcelona. Không
ghé Mỹ.
Peter
Schjeldahl viết, "cuộc trình diễn (a show)
‘Picasso huê tình’ (Picasso Érotique) sẽ đem đến cho bạn những ý nghĩ
tươi mát
về bậc thầy hội họa của thế kỷ 20. Và đây là một trong những ý nghĩ của
tôi:
tất cả những bức họa của Picasso đều dơ dáy (dirty). Chúng cắm rễ vào
tính dâm
(lust), và được nuôi dưỡng (cultivated) bằng niềm hân hoan thích thú.
Chẳng mắc
mớ gì đến tình yêu, may ra, có tí ti. Hãy quên điều gọi là "cuộc tình
thơ
mộng"! [Làm sao có chuyện "Làm sao tôi qua khỏi con trăng này?",
How can I survive this romance?].
Picasso
tuyên bố, với ông, dục tính và nghệ thuật là một.
Câu nói của ông làm cho chúng ta tin rằng, ông ta làm tình như làm nghệ
thuật.
Nghĩa là, cùng với sự táo bạo hống hách, và lòng kiêu hãnh hả hê, như
nhau!
["Em đã biết tay anh chưa? (chửi tục)", như một nhân vật của Thanh
Tâm Tuyền khoái chí la lên!]. Tác giả bài viết tưởng tượng, mỗi cái hôn
của bậc
thầy đều được ký tên Picasso. Rằng Picasso đang làm chuyện đó (sáng
tạo) đấy!
Theo
tác giả bài viết, thật lầm lẫn khi chúng ta cho rằng
thiên tài phải rắc rối (that genius must be complicated). Ngược lại.
Thường
nhân chúng ta dùng cả sinh lực vào chuyện sắp xếp những cái tôi tản mạn
(fragmented selves) cho nó gọn gàng ngăn nắp, cho dễ làm ăn! Nhà bác
học Albert
Einstein cho biết, những lý thuyết của ông sinh ra từ những chuyện
phóng đãng,
của những hoạt động về "nhìn" và "cọ quậy" (fantasies of
‘visual’ and ‘muscular’ activities). Câu nói của ông làm Jennifer nhớ
lại bài
học tâm lý khi còn học trung học: Khoái lạc tăng cường cử động!
Nhưng
nhà bác học thêm vô: chỉ khi nào những phóng đãng nhìn
và cọ quậy được thoả mãn và có thể được tái tạo (could be reproduced)
theo như
ước muốn, khi đó ông mới bắt đầu thực hiện bài toán [chứng minh những
lý
thuyết]. Hãy so sánh câu nói của Einstein với câu nói đao to búa lớn
của
Picasso: Tôi không tìm, chỉ kiếm thấy (that he – Picasso – never sought
but
only found).
Và
tác giả bài viết kết luận: Chúng ta không cần sống với
Picasso, cám ơn Trời, nhưng chỉ có giải phẫu não mới có thể làm cho bậc
thầy
ngưng sống ở trong chúng ta. (We needn’t live with Picasso, thank
goodness, but
only brain surgery could stop him living in us).
Mùa
Ổi, Những Trái đắng Quá Khứ;
Những
Trái đắng Quá khứ; đó là nhận định của Margot
Cohen/HANOI, trên tờ Viễn Đông Kinh Tế số đề ngày 12 tháng Bẩy 2001, về
cuốn
phim mới nhất của nhà đạo diễn người Việt, khi ông động tới những vết
thương
của giới trí thức dưới chế độ Cộng Sản.
"Một
người đàn ông nhón chân, cố nhìn qua bức tường toà
nhà ngày xưa anh ta đã từng sống. Anh đưa mắt về phía cây ổi cha anh đã
trồng ở
trong vườn. Bây giờ, nó ở ngoài tầm tay của anh."
Với
xen mở ra cuốn phim, House of Guavas (Mùa Ổi), Đặng Nhật
Minh, nhà đạo diễn 63 tuổi của Việt Nam mời khán thính giả nhập vào một
giai
đoạn lịch sử cho đến nay vẫn còn là một đề tài "tế nhị, nói về mặt
chính
trị". Khó mà có thể đồng tình, lại càng khó nói thẳng, đó là "thủ
pháp" của nhà đạo diễn, khi dựng lại câu chuyện một gia đình thuộc
thành
phần trí thức, hấp thụ văn hóa Pháp, đã mất căn nhà của họ ở Hà Nội,
khi xẩy ra
vụ cải cách đất đai thuộc vùng đô thị, cao điểm của nó là vào khoảng từ
1959
tới 1960, tại miền bắc Việt Nam. Nhằm mục đích xóa đi sự phân biệt giai
cấp
trong xã hội, chiến dịch kể trên đã để lại cả một di sản, là những cuộc
sống
tan nát, và cùng với nó, vấn đề tư hữu, cho tới tận bây giờ. Đề tài của
cuốn
phim cho thấy đã có một sự chuyển hướng, thoát ra khỏi một cái di sản
khác nữa,
là phim hùng ca, thời đại của những người lính can trường và những dân
làng hy
sinh hết mình cho chiến tranh, và chiến thắng.
Nhà
cầm quyền đã để ra hai năm, chỉ để nghiên cứu và chấp
nnhận kịch bản. Bây giờ, có vẻ như Mùa Ổi đang trên đường chinh phục cả
thế
giới. Trước mắt là Đại hội điện ảnh Cannes, chung quanh nó, là những
quốc gia
Âu Châu như Pháp, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, và cả Bắc Mỹ như Canada. Viễn ảnh
một thị
trường Mỹ cho cuốn phim đang được mở ra. Cách sử dụng hồi ức, và từ đó
cho thấy
sức chịu đựng của con người, của Đặng Nhật Minh, rất thấm thía, song
song với
một viễn ảnh thành công về thương mại của cuốn phim.
Tuy
nhiên, cho tới nay, chỉ một số ít người được coi cuốn
phim, vì chưa được cho chiếu, ngay tại quê hương của nó. Nguyen Nhung
Quynh,
một nữ tài tử nổi tiếng ở Hà Nội nói: "Tôi chia sẻ hồi ức đó, và rất
xúc
động khi coi phim." Như những người khác, bà tin rằng, đã có sự dễ dãi
(tolerance), từ phía nhà cầm quyền, khi cho phép dựng phim này. Theo
bà,
"Cuốn phim cho thấy, những nhà lãnh đạo ở Việt Nam muốn nói sự thực về
những lỗi lầm mà họ đã phạm phải đối với giới trí thức." "Nếu kịch
bản đưa ra cách đây năm hoặc mười năm, khó mà được chấp thuận".
Theo
tác giả bài viết trên tờ Viễn Đông Kinh Tế, ngay cả bây
giờ, không phải bất cứ ai cũng được "cái may" như Đặng Nhật Minh, với
cuốn phim mới nhất của ông. Tuy không bị coi là cái loa tuyên truyền
cho nhà
nước, nhà đạo diễn họ Đặng rất tin tưởng vào cái thế giới làm phim do
nhà nước
kiểm tra (enjoys solid-respect in Vietnams state-controlled film
world). Với
một nghề nghiệp trải dài trên ba thập niên, và với 9 cuốn phim, ông đã
từng
được tin cậy để dựng phim thuộc loại hùng ca về cuộc đời vị chủ tịch
thứ nhất
Hồ Chí Minh. Là con một vị y sĩ hấp thụ văn hóa Pháp ở Huế, vốn hoạt
động trong
lực lượng kháng chiến Cộng Sản, Minh được cho đi học tiếng Nga tại
Moscow vào
năm 1955. Khi trở về Hà Nội, ông làm công tác dịch những phụ đề tiếng
Nga của
lố phim nhập cảng từ Xô Viết. Tuy vào nghề một cách kỳ cục như thế, ông
đã tiến
tới vai trò đạo diễn, lúc đầu còn phải trung thành với những kịch bản
của nhà
nước, dần dần, ông đã có riêng cho mình một số đề tài. Với Mùa Ổi, là
kinh
nghiệm gia đình bên vợ, một trong số những gia đình đã gánh chịu mất
mát đau
khổ như trên.
"Một
xã hội văn minh là một xã hội biết kính trọng cõi
riêng của từng con người, vì đây là một tài sản tinh thần chỉ thuộc về
con
người đó." (A civilized society is a society that respects private
spiritual
property", ngồi tại một cái bàn trong phòng bếp, ở Hà Nội, ông nói
chuyện
với tác giả bài viết. Qua đó, là niềm tin của ông, rằng hồi ức tập thể
được nhà
nước thừa nhận, không thể nhận chìm hồi ức cá thể. Tuy vậy, ông thừa
nhận, chưa
dám bạo tay khi dựng phim, "Tôi như đi trên dây", ông nói. Một số
người cũng đã phê bình Mùa Ổi là quá dịu dàng, tình cảm, trước nỗi đau
của
những người được coi là tinh hoa của giới trí thức, trong những ngày
đầu của
chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng có những người khác nói, "Ông ta muốn phản
ảnh
thảm kịch của thế hệ ông ta, nhưng cuốn phim chỉ nửa vời", như tuyên bố
của Dương Trung Quốc, tổng thư ký Hội Những Nhà Sử Học Việt Nam. Thí
dụ, cuốn
phim chỉ lờ mờ cho thấy, sự uất ức của rất nhiều cư dân Hà Nội đang cố
đòi cho
được những căn nhà ngày xưa của họ.
Trở
về Hà Nội, sau một chuyến "đi thực tế" tại
Sydney, như là một thành viên trong đoàn quay phim Người Mỹ Trầm Lặng,
một tác
phẩm dựa theo cuốn tiểu thuyết gián điệp của nhà văn Anh Graham Green,
khi được
hỏi về những cuốn phim dư dả vốn liếng như vậy, cùng kinh nghiệm chuyến
đi, ông
trầm ngâm, "Tôi không thể học được gì, từ đó. Tôi chỉ mơ mộng." (I
cannot learn anything from this. I can only dream". Nên nhớ, Mùa Ổi
được
hoàn thành, với lưng vốn 750 triệu đồng (52 ngàn đô la), cộng thêm
chừng 116
ngàn, từ nguồn tài trợ của Pháp, và Thụy sĩ, để thực hiện những công
việc
hậu-sản xuất [thí dụ lồng tiếng nước ngoài, những sảo thuật điện ảnh
khác
nữa…].
Nhân
danh tất cả mọi người
Nhà
văn một thời lẫy lừng, vì sự phổ cập, vì tính bình dân;
một khuôn mặt không dễ dàng có được, nhưng cũng thật quá thân quen;
được ngợi
ca thái quá, bởi những người "không chuyên" (wrong people). Và được
khoan nhượng thái quá.
Tính
đặc thù, ở Gorky, là tuyệt đối. Nó đem đến cho ông,
tiếng tăm, trước hết ở Nga, rồi ở cả thế giới; ông gìn giữ được nó,
xuyên suốt
thời gian đọa đầy kéo qua bốn thập kỷ hung bạo, tới cái chết của ông,
vào năm
1936. Bốn thập kỷ, cùng với nó, là mớ gia sản thật đồ sộ, chính trị,
văn hoá,
văn học. Cho đến nay, chúng ta chẳng có gì, nếu nói về một nghiên cứu
đầy đủ,
nghiêm trọng, bằng tiếng Anh hay tiếng Nga, tác phẩm nghệ thuật của
ông. Có
những bài phê bình, những nghiên cứu tuyệt hảo, nhưng manh mún, ngắn
gọn. Chân
dung con sư tử của văn chương hiện thực, vẫn chưa hiện ra với tất cả
những nét
hào hùng, bi đát của nó: ngay cả cái chết của ông, như người ta được
biết, là
do lệnh của Staline.
Lý
do một phần, nằm ngay trong từ Gorky, có nghĩa là chua
chát (bitter). Nó chỉ ra một tư nhân (private man), kẻ đã chọn cho mình
một bút
hiệu như thế; một tác giả, chỉ được tìm biết trong những gì được ông
viết ra,
và một truyền thuyết nối kết cả hai.
Tên
khai sinh của ông là Aleksei Maksimovich Peshkov, sinh
năm 1868. Tác phẩm của ông xuất hiện vào những năm giữa thập kỷ 1890,
tượng
trưng cho một tầng lớp xã hội mới, cùng với nó là những thái độ, cách
nhìn mới,
về văn học. Đây là một con người thực sự vươn lên, từ đám đông, viết về
họ, cho
họ; khác hẳn những người khác đã từng viết: không có sự đứng trên nhìn
xuống
cảnh bùn lầy nước đọng, không có nỗi đau thương giùm, vốn là nỗi đau
truyền
thống của đám trí thức, khi viết về dân quê; kẻ thù ghét người dân quê,
được
miêu tả và thần thánh hóa bởi những tác giả, từ Turgenev, Tolstoy, tới
Dostoevsky; một người tự học mang chất Nietzsche, đầy nghị lực, luôn
nổi loạn,
thật khó mà xếp loại.
Như
trên đã viết, truyền thuyết về ông, là nơi gặp gỡ, giữa
con người - một cá nhân riêng tư - và một tác giả. Cả hai bổ sung, làm
mạnh cho
nhau. Điều quan trọng, theo Boris Eikhenbaum, một nhà nghiên cứu về
ông: Gorky
đã nhìn, hiểu, và làm được, cái điều trước đó, không một nhà văn Nga
nào, đã
nhìn thấy, đã hiểu, và có thể làm được. "Đằng sau những câu chuyện,
ngay
từ khởi thuỷ, đã có sẵn một truyền thuyết về đời ông." (Behind the
stories, from the very beginning, lay the legend of his life).
Để
trở thành một nhà văn, ông "chính uỷ từ đám đông vô
danh" còn làm được một điều gì, hơn cả một nhà văn - không phải nhà
hiền
giả, hay một nhà tiên tri, theo cách hiểu của những đàn anh nổi tiếng
của ông,
nhưng mà là một hiện tượng chưa từng thấy tại Nga, trước đó: một tiếng
tăm,
theo đúng nghĩa hiện đại của chúng ta. Đằng sau nó, là cả một đoàn
phóng viên,
ký giả. Đầu đường, góc phố, đâu đâu cũng thấy Gorky, ông còn có trên
những
chiếc hộp quẹt, những bao thuốc lá... Một Peshkov khiêm tốn đến trở
thành nhút
nhát, ngay cả điều này cũng nhập vào huyền thoại. Cộng thêm vào đó, một
con
người lao động cật lực, đọc cật lực, đọc đủ thứ, quan tâm đến tất cả
mọi người.
Một giai thoại: ông có thể viết 10,000 bức chân dung, của những con
người khác
nhau mà số phận run rủi cho ông được gặp.
Đấy
là tư nhân Peshkov; ngoài ra còn Gorky, người công nhân
thất nghìệp lang thang suốt nước Nga, ký sự viên của đám đông nửa-thành
thị;
Gorky, bạn của Lênin; người quyên tiền cho Bolsheviks; Gorky đối thủ
của chế độ
Lênin non trẻ, thời kỳ 1917-18; Gorky, cứu tinh của những nhà văn, học
giả Nga
trong nội chiến; Gorky, kẻ bị khu trục, tống xuất, nhà văn với những
câu chuyện
xám xịt của những năm 1920; Gorky, người cha sáng lập văn chương
Xô-viết, người
phát minh dòng văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa. Gorky, người
thống hối,
kẻ nói lời cầu xin tha thứ, cho Gulag, cho thù hận giai cấp. Và sau
cùng Gorky,
tù nhân của Stalin, người có thể đã ra lệnh giết ông.
Điều
chúng ta còn thiếu ở đây, để vượt lên tất cả những mâu
thuẫn, là một Gorky thực, the real Gorky. Có thể chúng ta sẽ thiếu mãi,
điều
đó. Một tiểu sử nghiêm trọng, cũng như một cuốn tiểu thuyết nghiêm
trọng, phải
là một câu chuyện đẩy tới hoài vọng, ước ao. Nó đòi hỏi, ở nơi nhân
vật, sức
căng thẳng, sự xung đột, bật ra từ hiện hữu tư nhân, song song với con
người xã
hội. Ở Gorky, chúng ta thiếu phần trên: Ông tìm đủ mọi cách để hạn chế
những
người viết về ông: họ chỉ có thể biết tính tình, cách cư xử của ông,
nhưng
không chứng tỏ được, do đâu mà có, và hậu quả của nó. Có thể mượn lời
của
Mandelstam, để giải thích: thời kỳ sau chiến tranh và cách mạng, những
người Âu
châu nói chung, và người Nga nói riêng, tiểu sử của họ bị khu trục,
tống xuất,
giống như những hòn bi lấy từ trong túi ra. Thay vì tiểu sử, chỉ có thể
còn ký
sự, hay truyền thuyết - những chuyện kể về một số phận - đây là cách
thức độc
nhất để hiểu cuộc đời khác thường, và nghiệp văn của Gorky.
Tuyển
tập những bức thư chọn lọc của Gorky, do Andrew
Barratt và Barry P. Scherr dịch từ tiếng Nga (391 trang, nhà xb Oxford:
Clarendon Press), trong có một lá thư gửi cho Tolstoy, tháng Tư 1889:
Lev
Nikolaevich! Tôi có gọi tới nhà ông, ở Iasnaia Poliana, và ở Moscow,
nhưng được
trả lời là ông bịnh và không tiếp khách. Tôi quyết định viết thư cho
ông. Vấn
đề là một số công nhân hỏa xa, trong có người viết thư này, muốn chọn
nông
nghiệp, và sống ở đồng quê. Nhưng lương chỉ chừng 30 rouble một tháng,
cho nên
số tiền dành dụm thật là nhỏ nhoi, không biết đến chừng nào mới có đủ
số tiền
cần thiết, cho một căn nhà nhỏ. Do đó, chúng tôi trông mong ở sự giúp
đỡ của
ông. Chúng tôi nghe nói ông có đất chưa được canh tác. Chúng tôi yêu
cầu ông
cho chúng tôi mẩu đất đó. Ngoài giúp đỡ về vật chất, còn về tinh thần,
chỉ dẫn,
để cho chúng tôi đạt được nguyện vọng. Chúng tôi cũng tin tưởng, ông sẽ
không
từ chối cho chúng tôi những ấn bản của Confessions, My Faith... những
cuốn sách
bị cấm bầy bán.
Bức
thư đầu tiên này, viết khi 21 tuổi, công nhân hỏa xa, ký
tên Aleksei Peshkov, tận cùng bằng những từ: "nhân danh tất cả mọi
người".
Đi
"Du
lịch không còn là một trò xa xỉ, và chưa chắc, là
một cuộc du hí. Rất nhiều chuyến đi cần được thực hiện – để về nhà hoặc
để bỏ
chạy một kẻ thù, để làm việc, hoặc để tìm một nơi chốn nghỉ ngơi sau
cùng, hay
là bởi vì có một người nào đó bảo bạn đi. Số Xuân Granta này [Spring
2001], là
về những chuyến đi như vậy. Bạn có thể gọi, những bài viết, về chuyện
cần
đi."
Xin
bạn đọc theo dõi chuyến đi của Yangdol, một cô gái nhỏ
người Tây Tạng.
***
Vào
ngày 19 tháng Chạp, 1996, Deyang, một cô gái mười ba
tuổi người Tây Tạng (tên cô có nghĩa là "Hạnh phúc êm đềm"), đã chết
vì cháy nắng, khi vượt dẫy Hy Mã Lạp Sơn tới Nepal. Đó là lần vượt biên
thứ ba
của cô. Lần đầu, cô đã tới được biên giới Nepal. Một tuần lễ sau, một
bé trai
mười ba tuổi người Tây Tạng, đã chết tại bệnh viện Kathmandu, vì tay
chân tê
cóng, sau khi thực hiện cùng một chuyến đi như vậy. Vào tháng Một
(November)
1998, công an biên phòng Trung Quốc đã bắn một bé trai mười lăm tuổi
người Tây
Tạng, khi cậu vượt biên giới, và sau đó chết vì những vết thương tại
bệnh viện.
Mỗi
năm có chừng hơn 2.000 người Tây Tạng tới Nepal và Ấn độ
xin tị nạn. Hầu như một nửa là trẻ em. Đa số đều một mình thực hiện
chuyến đi,
không có bố mẹ đi cùng. Các em chỉ trông cậy vào người dẫn đường, hoặc
những
người lớn cùng đi.
Hàng
ngàn trẻ em đã rời bỏ Tây Tạng theo con đường này, kể
từ khi Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng vào thập niên 1950. Một khi tới
Ấn Độ,
các em được học trong những ngôi trường của người Tây Tạng, theo học
vấn truyền
thống, vốn đã được thay thế bằng "giáo dục yêu nước" ở quê nhà. (Ở
Trung Quốc cũng áp dụng nền giáo dục yêu nước này, cho tới hết trung
học).
Xứ
Tây Tạng tự do ở hải ngoại đặt thủ đô tại Dharamsala; văn
phòng trung ương của Dalai Lama thứ mười bốn cũng đặt tại đây. Ngài đã
từng
thực hiện một chuyến đi như trên vào năm 1959. Chị/em của Ngài hiện lo
điều
hành một số trường học dành cho trẻ em Tây Tạng.
Vào
năm 1995, nhiếp ảnh viên người Thụy Sĩ, Manuel Mauer, đã
bắt liên lạc với một người Tây Tạng toan tính đi bộ, vượt Hy Mã Lạp
Sơn, cùng
với cô con gái sáu tuổi. Ông đã đồng ý cho Bauer (một người chuyên leo
núi)
cùng đi.
Dưới
đây là những trích đoạn, từ nhật ký của Bauer.
Ngày
một: Tôi đang ngồi trong căn phòng một khách sạn ở
Lhasa, vừa trở về đây từ một căn cứ quân sự Bayi của quân đội Trung
Quốc tại
vùng trung tâm Tây Tạng. Bayi có nghĩa là 1 tháng Tám, ngày quân đội
giải phóng
nhân dân Trung Quốc được thành lập, vào năm 1927. Cứ nhìn cái vẻ bề
thế, dũng
mãnh của căn cứ trên, là nhìn ra nỗi tuyệt vọng của người dân Tây Tạng,
trong
việc cố gắng giữ gìn căn cước quốc gia, ngay ở bên trong xứ sở của họ.
Ngày
ba: Tôi bắt liên lạc được với một người Tây Tạng, đang
dự tính đưa bé gái sáu tuổi qua Ấn Độ sống lưu vong. Mong ước ôm ấp
trong năm
năm trời của tôi như vậy là có cơ hội thực hiện.
Ngày
bốn: Gặp gỡ lần đầu giữa tôi và Kelsang đã diễn ra tại
một khu thương xá của người Trung Quốc tại Lhasa. Ông tính mua một đôi
giầy cho
chuyến đi. Đôi giầy là rất quan trọng, nếu không muốn bị tê cóng, có
thể dẫn
tới chuyện phải cưa chân khi tới bến an toàn.
Ngày
bẩy: Kelsang dẫn tôi tới gặp gia đình ông tại khu phố
cổ của thành phố. Phố xá vắng hoe. Đồng hồ Lhasa vặn theo đồng hồ Trung
Quốc,
và người Trung Quốc có thói quen đi ngủ sớm. Vợ và bà má của ông đón
tiếp tôi
với chút nghi ngờ; một bé gái bưng khay trà mời khách. Đó là Yangdol.
Những cử
chỉ điệu bộ của cha mẹ cô, là để diễn tả, họ đặt mọi niềm tin cũng như
hy vọng
vào cô bé: như là người tiếp tục truyền thống gia đình và Tây Tạng, ở
bên ngoài
đất nước.
Ngày
chín: Tôi đóng vai một người chuyên môn bán đồ cổ.
Kelsang là một người thợ mộc, và như thế chuyện tới lui nhà ông không
gây nghi
ngờ. Trung Quốc không muốn có một thái độ báo chí tiêu cực, về sự có
mặt của họ
tại Tây Tạng, thành thử mọi tiếp xúc với ký giả nước ngoài đều bị hạn
chế tối
đa. Mãi khuya, Kelsang gõ cửa phòng tôi. Ông có vẻ ngà ngà, và cho biết
đã
"dụ" được một viên chức cao cấp cấp cho ông và con gái một giấy di
chuyển, cho phép đi hành hương ở Hồ Manasarovar. Tốn khá nhiều rượu, và
tiền
bạc, nhưng được việc. Riêng tôi cũng xoay được một giấy phép tới
Kathmandu,
đoạn đầu cuộc hàønh trình.
Ngày
mười: Chúng tôi rời Lhasa, ở thùng sau một chiếc xe
tải. Tới đêm, tại trạm ngưng đầu tiên, chúng tôi được cho biết, nên chờ
vài
ngày hãy tiếp tục, vì thời tiết xấu. Yangdol và ông bố sử dụng mấy ngày
rảnh
rỗi bất ngờ vào việc cầu nguyện cho chuyến đi bình an, tại một tu viện
gần đó.
Còn tôi, lo tập dượt leo núi, bằng những ngọn đồi kế bên, và ngắm đàn
kên kên
vần vũ tại khu đất dành cho những người đã chết. Người Tây Tạng thường
cắt
những xác chết ra thành từng mảnh, để lộ thiên ngoài trời, để cho cái
xác kia
tự hoàn thành một kiếp người của nó, theo đúng luật lệ của thiên nhiên.
Ngày
mười lăm: Liên lạc độc nhất giữa tôi và Kelsang, là qua
những dấu hiệu, trên lớp bụi khách sạn, cho biết ngày nào có thể tiếp
tục cuộc
hành trình. Mấy người ở trong khách sạn đã có vẻ nghi ngờ tôi.
Ngày
mười bẩy: Chuyến đi tiếp tục, bằng xe tải, tới chân núi
Hy Mã Lạp Sơn. Chúng tôi có thể nhìn thấy đỉnh Everest, và Cho Oyu, cao
tám
ngàn mét, từ phía xa.
Ngày
mười tám: Buổi sáng, chúng tôi đi nhờ xe tới một vùng
cao nguyên rộng lớn. Khi đi qua một trại binh, chúng tôi quyết định đi
bộ tiếp.
Bộ dạng chúng tôi thật đáng nghi ngờ, và bất cứ một chiếc xe nhà dép
nhà binh
nào cũng có thể chặn bắt chúng tôi. Cứ mỗi lần nghe tiếng động, hoặc
một vật di
chuyển, là chúng tôi tìm kiếm chỗ ẩn núp. May mắn thay, thường là bò
hoặc cừu.
Chúng tôi lội qua những con sông đóng băng, lớp băng tan lách cách dưới
chân.
Tới chiều, chúng tôi ngừng tại một làng nhỏ. Ông trưởng làng tỏ ra rất
bực bội,
vì sự hiện diện của tôi, và ông giữ tất cả giấy phép di chuyển qua đêm,
để kiểm
tra. Chúng tôi trọ tại một nhà trong làng. Yangdol tìm cách đánh bạn
với chú
mèo.
Ngày
mười chín: Chúng tôi mướn một chiếc xe ngựa và người
đánh xe, cho đoạn đèo đầu tiên. Tới một khúc, cầu gẫy, chúng tôi đành
bỏ xe đi
bộ vượt qua một khu vực sa mạc đá tảng. Chỉ cần bước hụt một bước, là
đủ trẹo
chân, chấm dứt cuộc hành trình. Phải vượt qua thật mau, bởi vì đây là
khu lính
biên phòng tuần tiễu nghiêm ngặt. Gió mạnh làm chúng tôi phải bò, nếu
không
muốn bị thổi bay đi. Tới chiều, tới một khu đất được bao bọc bởi những
tảng đá
lớn, như những bức tường chắn gió. Chúng tôi quyết định trải qua đêm
tại đây,
và tất cả chui vào trong chiếc lều một người dùng của tôi.
Ngày
hai mươi: Bữa nay thời tiết tốt, nhưng gió vẫn mạnh.
Yangdol khá thiểu não so với ba ngày trước đó. Ở độ cao này, mỗi người
phải
uống ít nhất ba lít nước mỗi ngày, để tránh bị khô nước trong cơ thể.
Nước trở
thành vấn đề nghiêm trọng, cái lò nấu nước của tôi không hoạt động, do
thiếu
oxy, và những bị plastic đựng nước uống bị đông cứng. Tôi đã kỳ vọng
vào một
chuyến đi khá đông người, và được tổ chức chu đáo, nhưng bây giờ, chỉ
có ba
người, và chúng tôi phải nương tựa vào nhau, nêu muốn sống sót.
Ngày
hai mươi mốt: Sáng nay, Kelsang phải cõng Yangdol. Cô
bé bị tê cóng. Gió cộng thêm tuyết làm hạn chế tầm nhìn, và như vậy có
nghĩa
chúng tôi phải di chuyển chậm chạp. Tới trưa, chúng tôi gặp con sông
đóng băng
đầu tiên, và mặt trời cũng vừa ló dạng. Yangdol đi bên cạnh ông bố. Ông
đã thoa
mỡ bò lên mặt cô bé, để tránh bị ánh nắng mặt trời làm cháy da. Không
khí loãng
thêm, và chúng tôi cứ phải ngưng lại để thở. Nhưng ít ra, gió cũng
không đủ
mạnh để thổi những cục tuyết vào trong mũi chúng tôi, gây nghẹt thở, và
một số
người tị nạn đã chết vì tình trạng này.
Bất
thình lình, chúng tôi nhìn thấy ba đốm đen từ trên đèo
chuyển động dần xuống. Hoá ra là một nhóm buôn lậu, trên đường trở về
từ Nepal.
Kelsang hỏi họ về thời tiết phía trước. Họ nói, đừng lo, chúng tôi sẽ
không gặp
phải tình trạng thời tiết xấu.
Sau
cùng, khát nước, đói, chân tê cóng, chúng tôi tới được
đỉnh khu đèo, và là khu vực biên giới với Nepal. Kelsang la lớn, "Lha
Gyallo!", vào đợt gió lạnh băng. "Lha Gyallo"có nghĩa là
"Vinh quang cho những vị thần". Ông trải một tấm khăn trắng lên trên
những tảng đá được xếp thành một bàn thờ. Trước mặt chúng tôi là một sa
mạc
tuyết và băng. Trên đường xuống đèo, Yangdol trượt chân té lăn xuống,
may mắn
sao, thân thể cô được một miếng đất cao chặn lại. Chân cô hình như hơi
bị trẹo,
nhưng không chịu để cho bố cõng. Trời đổ tuyết vào lúc hoàng hôn. Sau
cùng nhờ
ngọn đèn pin, chúng tôi tới được một khu chuồng nuôi gia súc. Cơ thể
cạn nước,
mệt nhoài, và gần như mê sảng, chúng tôi cứ thế thiếp đi.
Ngày
hai mươi hai: Tôi thức giấc, thân thể tê cóng. Bên
ngoài, tuyết ngưng rơi. Chúng tôi đào lỗ, và sau cùng cũng có được
nước. Xế
trưa, chúng tôi gặp một người chăn cừu và đứa con trai của ông. Ông cho
biết,
có đội tuần tiễu, ở làng ngay phía trước. Chúng tôi lần theo bờ một con
sông,
trong bóng tối. Bất thình lình, một ngọn đèn pha chiếu về phiá chúng
tôi, cả
đám nép sau một bức tường thấp. Chúng tôi gặp may, lính tuần chưa đi
vào giờ
này. Chúng tôi vượt con sông, kiếm chỗ ẩn núp trong đêm.
Ngày
hai mươi bốn: Chúng tôi thức dậy, cùng với mặt trời và
đi qua một vùng rừng dầy đặc, nhắm một căn cứ du lịch dành cho những
người
thích lặn lội trong rừng. Chúng tôi ngưng tại một tu viện địa phương,
và một vị
nữ tu đã lo tắm rửa cho Yangdol, và coi cô bé có chấy rận không.
Ngày
hai mươi lăm: Khuỷu chân Yangdol bị đau, sưng phồng. Cô
bé không thể nào đi bộ tới Kathmandu, và Kelsang quyết định dùng trực
thăng.
Bởi vì những người tị nạn không được quyền mua vé, tôi mua luôn cả ba
tấm. Ngày
mốt mới khởi hành, như vậy là có một ngày nghỉ.
Ngày
hai mươi sáu: Trở lại khách sạn, Kelsang gọi một chai
uýt ky và mang lên phòng. Tôi tự hỏi, tại sao ông lại cần uống rượu đến
như
vậy. Tôi đi theo ông. Khi ông cởi giầy, mấy ngón chân của ông bị tê
cóng, trở
thành xám đen. Ông tính cưa, vì không thể nào chịu nổi cơn đau đớn kéo
dài, và
ngoài ra, chắc chắc sẽ bị nhiễm trùng. Tôi ôm ông trong tay, nước mắt
và mồ hôi
của ông dàn dụa trên mặt. Tôi khuyên ông hãy cố đợi tôi đi kiếm vài
viên thuốc
giảm đau. Dần dần ông dịu xuống, cố cưỡng lại ý nghĩ tự mình cưa những
ngón
chân.
Ngày
hai mươi bẩy: Phi cơ trực thăng sau cùng cũng tới, và
một giờ sau, chúng tôi đặt chân xuống Kathmandu. Người Tây Tạng lưu
vong đã
thành lập được hạ tầng cơ sở dành cho những người tị nạn tại Nepal và
Ấn Độ. Có
những trung tâm tiếp nhận ở cả hai xứ sở kể trên. Ở đó, họ được chích
ngừa, cấp
phát giấy tờ, và tiền bạc, đủ cho một chuyến đi tới Dharamsala. Cao Uỷ
Tị Nạn
hỗ trợ những trung tâm tiếp nhận, và cấp giấy nhập Ấn Độ. Nhưng vẫn có
rủi ro,
đó là bị những viên chức Nepal đẩy trở lại biên giới Trung Quốc.
Ngày
ba mươi: Chúng tôi tới Delhi bằng xe buýt, trên đường
tới Dharamsala. Xe chạt cứng thành thử trạm kiểm tra tại biên giới đã
không
kiểm tra giấy tờ từng người, kể cả tôi. Nhưng họ đánh thêm một thứ "lệ
phí
phụ trội", dành riêng cho những người nom có vẻ là dân Tây Tạng. Và
những
hành khách này không có cách nào hơn, là răm rắp đóng tiền. Có rất
nhiều trạm
kiểm tra như vậy, và trạm nào cũng đòi tiền lệ phí phụ trội. Cuối cùng
cũng tới
ngoại vi thành phố, nơi có trung tâm dành cho người tị nạn Tây Tạng. Cô
bé
Yangdol chưa quen với khí hậu đồng bằng sông Hằng, mặt mũi, da dẻ sưng
phồng do
độ ẩm, và những vết ruồi muỗi cắn.
Ngày
ba mươi mốt: Buổi sáng Kelsang và Yangdol được ghi danh
lần nữa và cấp pháp tiền bạc cho chuyến đi tới Dharamsala. Chúng tôi
tới đây,
vào lúc sáng sớm, trời mưa tầm tã, và tới ngay Viện Trình Diễn Nghệ
Thuật Tây
Tạng, để yết kiến Đức Dalai Lama. Chúng tôi đứng xếp hàng, trong những
bộ quần
áo ướt sũng nước, và sau cùng cô bé Yangdol cũng đã được nhìn thấy Đức
Phật
Sống, bằng xương bằng thịt, trước mặt cô.
Mấy
ngày sau. Yangdol được học trong một trong những ngôi
trường, do người chị/em của Đức Dalai Lama trông coi, nơi có chừng
2,500 trẻ em
Tây Tạng theo học. Ở đó, các em được học tiếng Tây Tạng, tiếng Anh,
tiếng
Hindu, và thổ ngữ. Ngay sau khi cô bé được ổn định, người cha từ giã
cô. Kể từ
đó, Yangdol chưa gặp lại người cha. Tuy nhiên, sau đó ít lâu, cô bé
khám phá ra
rằng, mình có một bà cô hiện đang sống tại Ấn Độ. Người cô đón cô bé về
nhà
chơi, trong những dịp nghỉ học, và cũng ghé trường thăm cô.
Kể
từ năm 1995, hàng năm, nhiếp ảnh viên Bauer lại có được
một dịp trở lại Dharamsala, thăm cô bé Yangdol. Ông biết những tiến bộ
trong
việc học, và đôi khi, chụp hình cô bé. Một khi học xong tại đây, như
những trẻ
em khác cùng học, cô sẽ có cơ hội được tiếp tục học, đặc biệt là tại Âu
Châu,
hoặc Hoa Kỳ. Sau đó nữa, sẽ có vài chọn lựa: hoặc làm việc ở hải ngoại,
hoặc
trở lại Ấn Độ, làm việc trong cơ cấu hành chánh thuộc quốc gia Tây Tạng
tự do
tại đây, và sau cùng là chọn lựa cam go nhất: trở lại Tây Tạng, làm
việc giữa
những đồng bào của mình.
Bạn
đọc có thể tìm hiểu thêm về Tây Tạng, qua địa chỉ: Mạng
Thông Tin Tây Tạng http://www.tibetinfo.net
Nguyễn
Tuấn Anh dịch bài viết của Manuel Bauer, trên tạp chí
Granta số Mùa Xuân 2001. Ông là nhiếp ảnh viên trước đây làm cho cơ
quan nhiếp
ảnh Thụy Sĩ. Từ đầu thập niên 1990, ông quan tâm tới xứ Tây Tạng, và
những
người dân sống lưu vong của đất nước này.
Jennifer Tran