nqt
   
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

Tạp Ghi 
 




Thù Ngụy Một,
Thù Đệ Tứ, Mười

Ý tưởng viết "To the Finland Station", ("Tới Ga Phần Lan", một cuốn sách về chủ nghĩa CS), đến với Edmund Wilson, khi ông đang trên đường xuống phố, vào đúng lúc Cơn Suy Thoái lớn về kinh tế đang ở đỉnh cao. Ông khi đó đang ở cuối tuổi "tam thập nhi lập", đã có được tí tên tuổi, như phê bình gia và phóng viên nhà báo, đã cho ra lò hai tác phẩm, một, về mấy ông nhà văn hiện đại (Axel’s Castle, 1931), và một, những chuyến đi thực tế vùng xưởng, mỏ (The American Jitters, 1932). Tham vọng của ông lớn hơn nhiều: phải cho ra lò một cuốn tiểu thuyết!

Trước đó, vào năm 1929, ông đã thử tay nghề, với cuốn "Tôi nghĩ về Daisy", nhưng chẳng ma nào thèm đọc (not a success). Thành thử, ông ngạc nhiên với chính mình, cớ sao lại tham vọng cùng mình, dám đụng tới - những nhân vật lịch sử như là... Quang Trung, Nguyễn Huệ - ấy chết xin lỗi - vị cha già của chủ nghĩa CS, Lê nin, và xuyên xuốt cuộc đời cha già, là cả một thời kỳ lịch sử nóng bỏng của tư tưởng CS, từ Cách Mạng Pháp tới Cách Mạng Nga. Nhưng ông thấy mờ mờ hiện ra, sau bức màn hoành tráng của lịch sử đó, là hình ảnh của... một cuốn tiểu thuyết! "Tôi quýnh lên, vì cuộc thách đố" (I found myself excited by the challenge), ông cho biết sau đó. Chút men say – của cuộc thánh đố – như sôi lên cùng câu văn bỗng hiện ra ở trong đầu Wilson, "I go to encounter for the millionth time the reality of experience and to forge in the smithy of my soul the uncreated conscience of my race." (Câu nói của Dedalus, ở cuối cuốn Chân Dung, của Joyce, tạm dịch: Tôi tới chỗ hẹn lần thứ một triệu, với thực tại kinh nghiệm, và trong cái lò cừ là linh hồn tôi, rèn đúc ý thức nòi giống của mình, vốn chưa từng được tạo ra). Còn cái tựa đề (như một ẩn dụ nói lên Ngày Mai Ca Hát?), mượn đỡ tên một tác phẩm của người đẹp thành London, Virginia Woolf, "To the Lighthouse" (Tới Ngọn Hải Đăng).

Đã từng có kinh nghiệm từ những chuyến đi thăm công nhân mỏ tại vùng Appalachia và Detroit, (Do an ủi, và tiếp tế lương thực cho những người thợ đình công tại Pineville, Kentucky, ông đã bị nhà cầm quyền địa phương cầm lá chuối lót tay, đá đít, cấm cửa), Cơn Suy Thoái làm ông mừng (Cho chết mẹ mày, hỡi con quái vật nhà máy tư bản chủ nghĩa!). Mặc dù hoài nghi Đảng CS, ông hân hoan hồ hởi ôm lấy Chủ nghĩa Mác. Ông bỏ phiếu cho ứng cử viên CS, William Z. Foster, trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932, và cùng năm, ký tên vào bản tuyên ngôn kêu gọi "một chính sách độc tài tạm thời có tính giai đoạn của những công nhân có ý thức giai cấp" ("a temporary dictatorship of the class-conscious workers.")

Tuy chẳng bao giờ thò bút ký đơn xin gia nhập Đảng, nghĩa là chẳng bao giờ là một tay CS, nhưng ông tin tưởng, chỉ những người CS mới thực tình giúp đỡ giai cấp công nhân. Vào năm 1935, khi bắt đầu lao vào việc viết "To the Finland Station", ông còn cố dụ khị ông bạn của mình là nhà văn Dos Passos, rằng Stalin đúng là một tay CS thứ thiệt, "làm việc cho chủ nghĩa xã hội tại Nga Xô" (a true Marxist, "working for socialism in Russia.").

Chẳng bao lâu liền sau đó, ông "bèn" đi Nga. Và sau đó, viết về những chuyến đi thăm Quê Người, xen lẫn những chuyến đi thăm Quê Mình (Mỹ), nhan đề đầy ấn tượng, "Những chuyến đi giữa Hai Nền Dân Chủ" "Travels in Two Democracies." Tuy nhiên, ông đã tự kiểm duyệt, bỏ những chi tiết ghi trong nhật ký về nỗi sợ và sự áp bức, kìm kẹp mà ông chứng kiến tại Liên Bang Xô Viết. Và đến năm 1938, ông đành không cho phép mình giả đò nữa, và cho lật tẩy con bài xã hội chủ nghĩa: Họ chẳng những chưa bắt đầu xây dựng những định chế dân chủ. Chưa kịp bắt đầu thì đã trật đường rầy rồi", ông thú nhận với một người bạn. "Họ có sự thống trị mang tính toàn trị, bởi một bộ máy chính trị" ("They have totalitarian domination by a political machine."). Ông hiểu rõ, cuốn sách của mình sẽ rất "đoạn trường". Vào tháng Mười 1939 ông buồn bã báo cho Louise Bogan, "Liên Xô đang tính nuốt Phần Lan, còn tôi đang cố tới đó, (cố kết thúc cuốn sách).

To the Finland Station được nhà Harcourt Brace xuất bản tháng Chín, 1940. Không đúng thời điểm tốt đẹp cho một cuốn sách với nhân vật chính của nó là Vladimir Lenin. Một tháng trước đó, tại Mexico, ông trùm của Đệ Tứ Quốc Tế, Leon Trotsty bị chẻ đôi cái đầu bằng một cái dìu chặt đá lạnh (ice axe). Một năm trước đó, Liên Bang Xô Viết đã ký với Đức Nazi bản hiệp ước bất tương xâm, mặc nhiên cho phép Hitler xâm lăng Ba Lan. Năm năm trước đó, Stalin đã đi một đường quét dọn sạch sẽ đối lập chính trị bên trong Liên Bang Xô Viết. Cuộc dọn sạch cỏ "dại" này, là tiếp nối của chương trình tập thể hóa mà hậu quả của nó là cái chết của trên năm triệu người. Vào năm 1940, trí thức Tây Phương kể như vỡ mộng chủ nghĩa CS. Andre Gide, George Orwell, và Dos Passos đã viết những bản kết toán mới tinh (firsthand accounts) về sự tàn bạo và đạo đức giả của chủ nghĩa CS đương thời – Gide và Dos Passos, sau khi đi Nga về, Orwell, sau khi chiến đấu cùng với những phần tử Loyalists tại Tây ban Nha. Tạp chí Partisan Review (Mỹ), trở thành "tiền đồn" chống Cộng.

Vào tháng Giêng, 1947, "Tới Ga Phần Lan" chỉ bán được 4,527 bản. Nhà xb Doubleday mua lại bản quyền, và tái xuất bản cùng năm, nhưng sách bán ra chỉ lèo tèo. Số mệnh chỉ mỉm cười với nó, với ấn bản bìa mỏng, và cũng là cuốn đầu tiên của nhà sách Anchors, vào năm 1953. Mãi lực khá hẳn ra, vào thập niên 1960, vào năm 1972, tức là năm Wilson từ giã cõi đời, nhà sách Farrar, Straus & Giroux cho ra lò một ấn bản mới, với lời tựa của chính tác giả, "Nhìn Lại Những Trang Viết Cũ", đúng ra là nhìn lại Chủ Nghĩa Cộng Sản Xô Viết. "Cuốn sách của tôi," ông giải thích, "cho thấy, qua nó, là một bước tiến bộ quan trọng đã được thực hiện, một ‘đột phá’ đã xẩy ra, và lịch sử nhân loại chẳng còn như trước nữa. Có điều, tôi không ngửi ra được, mùi của thảm họa, rằng Liên bang Xô Viết sẽ trở nên một trong những chế độ bạo tàn ghê tởm nhất của nhân loại, và Stalin, một trong những hoàng đế độc ác nhất, và không hề có mảy may tính người, của nước Nga. Cuốn sách của tôi do đó, có thể đọc, như là một bản kết toán khả dĩ tin cậy được, nếu nói về cơ bản, về điều, mà những nhà cách mạng nghĩ rằng, họ đang làm, là vì những quyền lợi cho một thế giới ‘tốt đẹp hơn’."

[Với cuộc chiến Iraq hiện đang nóng bỏng, khét lẹt, liệu, những "nhìn lui" của Wilson, là những "nhìn tới", của chúng ta?].

Những nhìn lại của Wilson thực ra cũng chưa "tới đâu vào đâu" cả, với chỉ một độc giả "thường thường bậc trung", là chúng ta bi giờ. Nói rõ hơn, Wilson biết, chuyện gì xẩy ra tại Liên Bang Xô Viết vào thập niên 1930, như những trang của ông về Stalin ở trong "To the Finland Station" cho thấy. Nhưng vấn đề, không với Stalin, mà là với Lênin: típ người lý tưởng dâng hết đời mình cho nghĩa cả, người của hành động, đúng như định nghĩa của Marx, đừng giải thích, hãy thay đổi thế giới. Khi vẽ chân dung Lênin, Wilson thừa nhận ông dựa vào tài liệu của Đảng và Nhà Nước, (vào thời kỳ này, đã có những tài liệu "ngoài luồng", thí dụ như cuốn "Lenin" của Mark Landau-Aldanov, một di dân, do Dutton xuất bản, 1922). Lênin có thể gây ấn tượng, như là một người dâng hết đời mình cho nghĩa cả, (cho lòng nhân từ quên cả thân mình), nhưng ông còn là một chính trị gia thủ đoạn tàn nhẫn, hay dùng từ của nhà văn Nga, Vladimir Nabokov, vào năm 1940, trong một lá thư gửi cho Wilson, ngay sau khi đọc xong cuốn sách của bạn mình, "To the Finland Station": a "pail of milk of human kindness with a dead rat at the bottom" (một xô sữa, tức cái chất người ‘người ơi là người’, với một con chuột chết ở dưới đáy".

Trong lời tựa, cho ấn bản 1972, tác giả Wilson cũng đưa ra một cái nhìn về con chuột chết đó. Nhưng ông vờ đi, một thực tại hiển nhiên, rằng, hầu hết những nét nổi cộm nhất của chế độ Stalin – sử dụng khủng bố, trình diễn những tòa án nhân dân, và những trại tập trung cải tạo - đều do Lênin đầu têu, và khánh thành. "To the Finland Station" bắt đầu với sự phản bội những nguyên lý, những lý tưởng Cách Mạng Pháp, của Napoleon, nó phải "nên" chấm dứt với sự phản bội của Lênin, với Chủ Nghĩa Xã Hội của Âu Châu. Wilson tin rằng, ông đang viết về sự thành công của những tư tưởng trong hành động ["tri" biến thành "hành", ideas in action], về sự chuyển dịch cái tưởng (tượng) thành cái thực. Dựa vào câu nói của Vico, như là điểm mở ra tác phẩm của ông, "thế giới xã hội là tác phẩm của con người" ("the social world is the work of man"), thì, câu chuyện ông chọn lựa, là một câu chuyện về sự thất bại.

Sự thực, theo như người viết hiểu, Wilson không phải là đảng viên CS, nhưng ông rất mê CS Đệ Tứ, của Trotsky, chứ không phải Đệ Tam. Bà vợ của ông, Mary McCarthy, theo Đệ Tứ. Và tờ Partian Review có khuynh hướng Đệ Tứ, chứ không phải tiền đồn chống Cộng. Trotsky thường vẫn cho rằng, mình trung thành với chủ nghĩa CS, của Lênin. Thành thử Wilson không thể nào nói ngược về Lênin được. Thất bại của cuốn sách còn là ở chỗ đó.

Về câu nói của Nabokov, và hình ảnh, "xô sữa với một con chuột chết ở dưới đáy". Theo như người viết được nghe kể lại, Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, thuộc nhóm Hàn Thuyên, [với những thành viên như Trương Tửu, Đặng Thai Mai], theo Đệ Tứ, khi chạy trốn Đệ Tam (bỏ đất bắc vào nam, từ trước 1954), cũng đã từng so sánh Quốc Gia và Cộng Sản, bằng một hình ảnh khá tương tự, [tôi tin rằng ông chưa hề đọc câu của Nabokov]: Cộng Sản giống như một bát cơm gạo tám thơm, nhưng trộn thuốc độc, còn Quốc Gia, một bát cơm gạo hẩm, mốc, mà còn có vị thum thủm, vì trộn phẩn ở trỏng! Sở dĩ miền nam có được sự cởi mở, so với miền bắc, ngay cả ở những người theo CS, là do ảnh hưởng Đệ Tứ, với hai lãnh tụ nổi cộm là Hồ Hữu Tường và Nguyễn Đức Quỳnh (những người đã mất không nói tới, thí dụ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm. Nguyễn An Ninh không theo nhưng có cảm tình với Đệ Tứ). Ngoài ra còn những người nổi tiếng khác, như Trần Văn Ân, Tam Ích chẳng hạn. Nên nhớ, cái chất văn nghệ tự do của miền nam, không phải đợi tới Ngô Đình Diệm hoặc chính thể Cộng Hòa, mới có, mà là có công lao của những người Cộng Sản Đệ Tứ. Chúng ta hiểu tại sao người Cộng Sản ở trong nước thù ngụy thì một, mà thù Đệ Tứ, thì mười, là vậy.

Trotsky bị điệp viên của Stalin làm thịt ngày 20 tháng 8 năm 1940. Trong một bài viết tuyệt vời về ông, "Trotsky và cơn tưởng bi thương" (Trotsky and the tragic imagination, in trong Lời và Câm, Language and Silence), George Steiner mô tả cảnh tượng hùm thiêng khi đã sa cơ vẫn... bảnh như thường:

"Sọ vỡ, mặt bạnh, hùm nhẩy lên, ném bất cứ thứ gì vớ được vào tên giết người, sách, lọ mực, luôn máy ghi âm, và sau cùng ném luôn thân hình hùm vào hắn. Chỉ chừng ba hoặc bốn phút... Cuộc chiến đấu cuối cùng của Trotsky. Ông chiến đấu như một con hùm. Ông vật lộn với tên sát nhân, cắn tay hắn, cố giật lấy hung khí, là cái rìu phá băng."

"Sách, lọ mực, cái máy ghi âm trở thành kho vũ khí của nhà văn"...

Đọc tới đây, tôi chợt nhớ đến cái chết của Tam Ích, một "Trốt-kít": ông dùng kho vũ khí của chính mình, là những cuốn sách, làm bậc thang, trèo lên tới cái thòng lọng, và sau khi thò đầu vào trong, ông đạp đổ đống sách....

Jennifer Tran

Tài liệu tham khảo:

-THE HISTORICAL ROMANCE by LOUIS MENAND

Edmund Wilson’s adventure with Communism.

Issue of 2003-03-24
Posted 2003-03-17

(Tạp chí Người Nữu Ước, trên lưới)

-To the Finland Station, Một Nghiên Cứu về Viết và Hành Lịch sử (A Study in the Writing and Acting of History). Nhà xb Anchors.

Edmund Wilson sinh ngày 8 tháng Năm, 1895, tại Red Bank, New Jersey. Học Princeton. Tác giả những cuốn: I Thought of Daisy (1929), tập truyện ngắn, Memoirs of Hecate County (1946), một tập thơ, Poets, Farwell (1929), và một số kịch phẩm. Ông nổi tiếng như là nhà phê bình, với những tác phẩm như Axel’s Castle (1931), The Triple Thinkers (1938), The Wound and the Bow (1941)...

***

Mới đây thôi, người viết thấy trên lưới toàn cầu, bài điếu văn, Magazine’ Farewell, của Cynthia Ozick, nữ văn sĩ Huê Kỳ, dành cho tờ Partisan Review. Bà nhắc tới Edmund Wilson, rằng báo chí thì cũng chẳng thể nào tránh nổi những "hoàn cảnh giới hạn" – chữ của trào lưu hiện sinh - nôm na là "sinh bệnh lão tử", như bất cứ một sinh vật nào trên thế gian này, tuy nhiên cái chết của tờ Partian Review,không phải là một cái chết tự nhiên, mà là bị "bức tử" bởi sở hữu chủ, là John Silber, Chancellor of Boston University. Và bà tự hỏi, liệu ‘vắng em thì chợ vẫn đông" và "văn hóa Mẽo vẫn OK như thường" chăng?

Dưới đây là nguyên văn.

Magazine's Farewell

To the Editor,

Edmund Wison contended in 1935 that magazines "pass through regular life cycles . . .; they have a youth, a maturity, and an old age." And then comes death.

This is pretty much the way the closing of Partisan Review has been represented (Arts pages, April 17 and 19): as the natural decline of a periodical whose disappearance is deemed inevitable. Yet this time the diagnosis may have been falsified — a kind of doctors' plot touted as unanimous opinion. Partisan didn't expire of itself; it was executed, by fiat, by John Silber, the chancellor of Boston University, which now owns the journal.

It has been noted that Partisan's variegated intellectual themes have been taken over by other, later-born, periodicals, and Partisan is accorded high praise for these influences even as it is dismissed as irrelevant in itself. But those whose seemingly celebratory elegies blinker the distinction between normal mortality and applied asphyxiation might well ask themselves whether American culture is better served by having one less magazine dedicated to the cultivation of intelligent discourse.

CYNTHIA OZICK
New Rochelle, N.Y., April 21, 2003