nqt
   
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

Tạp Ghi 
 




Chủ Nghĩa Cộng Sản: Một trăm triệu người chết?

Đó là con số của tờ báo Lịch Sử (Histoire, Pháp), số đặc biệt tháng Mười 2000, nhân dịp phát hành Cuốn Sách Đen về Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Sau đây là tóm tắt một số dữ kiện mà tờ báo đưa ra.

-CNCS: một lý thuyết, một tổ chức quốc tế và một chiến lược toàn cầu.

-Những tội ác của CNCS không phải là những tội ác chiến tranh, cũng không phải diệt chủng, chúng thuộc loại "tội ác tập thể" (crimes en masse).

-Một thảm họa thực sự về kinh tế, văn hóa và nhất là, về con người.

-Một trong những thảm họa gây con số người chết hàng triệu người: Tạo ra những trận đói lớn. Trận đói 1921-1922: 5 triệu người chết. Trận đói 1932 – 1933: 6 triệu. Trận đói 1946 – 1947: 500 ngàn. Những trận đói năm 1932 và 1946: hoàn toàn được bưng bít.

-Đạo đức cách mạng của người Cộng Sản: Gây thảm họa thì dể, nhận lỗi lầm vô phương (Déclencher des tragédies plutôt que connaitre ses erreurs).

-Sự khác biệt giữa tội ác Nazi và Cộng Sản: Cả hai đều tàn nhẫn sát nhân như nhau. Không thể lấy lý do khởi đầu (thí dụ vì một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân loại), để biện minh cho tội ác.

Sự thực, mỗi bên có một phong cách (style) khác nhau. Mỗi chế độ là một cách chọn lựa con mồi theo một huyền thoại riêng của nó. Với Nazi, là một huyền thoại về sự thanh tẩy dòng giống, sắc tộc, được điều hành bời những nhà bác học biến thành những tay phù thủy, những tên tra tấn người. Một bên là chọn lựa sàng lọc mang tính chính trị, nhờ một hệ thống đảng đoàn biến thành khùng điên do quá khích.

Một chủ nghĩa tàn bạo như thế, cớ sao lại lôi cuốn hơn một nửa nhân loại?

Dưới đây là lời thú nhận của một đảng viên Cộng Sản Pháp, Dominique Desanti: Tại sao tôi trở thành một xì-ta-lin-nít?

Với tôi, chủ nghĩa Cộng Sản là một câu chuyện tình. Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, là thời gian chiến tranh và Đức chiếm đóng Pháp. Cùng với chồng tôi, Jean-Toussaint Desanti, chúng tôi gia nhập Mặt Trận Quốc Gia, và Kháng Chiến Cộng Sản. Vài tháng sau, tôi gia nhập Đảng CS Pháp. Tôi có nghe, có biết về Đại Khủng Bố, của Stalin. Nhưng lúc đó là năm 1943, thời gian xẩy ra trận đánh Leningrad: tất cả hy vọng của chúng tôi đặt để vào đó, vào Liên Bang Xô Viết.

Năm 1946, David Rousset đưa ra những tài liệu đầu tiên về trại tập trung cải tạo của Stalin. Chúng tôi suy nghĩ, như là Sartre, ba cái lẻ tẻ, chẳng đụng tới chân lông thế giá cách mạng của Liên Bang Xô Viết, một trò dàn dựng: chiến tranh lạnh bắt đầu.

Về phần Krachenvo [người viết cuốn Tôi Chọn Tự Do], tôi có đọc cuốn sách, bản tiếng Anh, ngay khi xuất hiện. Với tôi, ông ta là một kẻ phản bội. Nhưng ngược lại, khi vụ án đưa ra tòa, một nhân chứng trong vụ án đã làm tôi chết sững: tôi tin bà ta, Magarete Buber-Neumann. Với tôi, một trường hợp cá nhân, riêng lẻ, không thể đưa làm bằng chứng, để kết án cả một chế độ, cả một hệ thống. Nhưng tôi không còn tin rằng, đó, Liên Bang Xô Viết, là một xứ sở thần tiên, tuyệt vời nữa.

Lòng nghi ngờ của tôi vào CNCS bắt đầu, là vào năm 1949, khi tôi - lúc đó là ký giả của báo Dân Chủ Mới, của Jacques Duclos - tham dự vụ án Kostov, bí thư đảng CS Bulgarie. Thời gian này, đang xẩy ra những vụ án tương tự tại những xứ sở theo chế độ dân chủ nhân dân. Cho tới lúc d0ó, tôi chưa hề tỏ ra nghi ngờ, về sự phạm tội của những bị cáo. Tôi còn cho in một cuốn sách nhỏ, gồm những lời tự thú của họ. Nhưng trong khi tham dự vụ án trên, người chủ chốt tuyên bố: "Tôi vô tội. Những lời tố cáo chỉ là ngụy tạo". Giọng nói của người đó làm tôi chấn động, và tôi tin. Và từ đó, tôi lần ra những vụ án tương tự.

Giải pháp dành cho tôi thật rõ ràng: Tôi đã có nghi ngờ, như vậy là tôi phải bị khai trừ khỏi Đảng, ngay lập tức. Như vậy, tôi trở thành một kẻ phản bội bào chữa cho những kẻ phản bội.

Hoặc là tôi lặng thinh.

Tôi chọn giải pháp thứ nhì.

Bạn nên nhớ, những người CS, tại Pháp, đại diện cho một [lực lượng] chống xã hội thực sự (un véritable contre-société), với đại học, một hệ thống khung đảng đoàn với những lễ hội của họ, và nhất là một tính liên đới đoàn kết trách nhiệm khủng khiếp. Một khi chọn giải pháp thứ nhất, tôi sẽ phải cắt đứt sự liên đới đoàn kết với những cuộc đình công, xuống đường, tranh đấu cho những người công nhân, những người thợ mỏ: họ là những người anh hùng đối với tôi. Sẽ mất hết bè bạn, bởi vì một khi bị khai trừ, kẻ đó sẽ không còn hiện hữu, trước những bè bạn của mình, đến nỗi, nếu lỡ gặp nhau trên hè đường, họ cũng chẳng thèm chào hỏi. Như vậy, là sẽ phải trở về, như con chó "trở lại với cái đống nôn mửa của nó trước đó", đúng như một hình ảnh của những người CS dành cho những kẻ phản Đảng.

Cần phải nói thêm, một khi là ký giả, một trí thức, tôi còn là tiếng nói (porte-voix) của Đảng, và qua đó, là tiếng nói của tập thể, là ý nghĩa của lịch sử: Chúng tôi, những người Cộng Sản luôn luôn có lý, và không thể nào lầm lẫn. Với chúng tôi, là Cộng Sản nghĩa là tranh đấu cho sự bình đẳng của những người lao động. Đây là điều khác biệt cơ bản giữa Cộng Sản và Phát xít, cái sau vốn dựa trên sự bất bình đẳng.

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy kéo dài hết thời kỳ Giải Phóng ở Pháp, tức cuối năm 1949. Sau đó, tất cả những gì mà tôi biết, về mặt tiêu cực của Liên Bang Xô Viết, tôi coi là một vấn đề riêng lẻ (isolé). Chúng tôi biết, là những xứ sở ở phương Đông, đều có vấn đề kìm kẹp, áp bức, nhưng chúng tôi đều thống nhất với nhau, rằng, bắt buộc phải như vậy thôi, thời kỳ quá độ, thời kỳ phải áp dụng sự "chuyên chế của giai cấp vô sản". Chỉ một thời gian thôi. Những cuộc đình công lớn, tại Pháp và Ý, và cuộc chiến Việt Nam và sau đó, Algérie, càng làm cho tôi thêm tin tưởng, chỉ một thời gian thôi.

Tôi tin tưởng tuyệt đối một điều, là, Staline là một con người rất người (très humain). Nhưng, ngoài một số giai thoại, tôi chẳng có một chứng cớ nào để khẳng định. Tuy nhiên, tôi đã viết một bài báo, "Staline, người người nhất" (Staline, le plus humain des hommes). Khi ông ta chết, tôi tự an ủi, rằng, một cá nhân không làm nên lịch sử.

Quan trọng là, chủ yếu là: bất thình lình, mọi người đều cùng nói! Trong một cuộc viếng thăm Ba Lan, những bạn bè ở đây cho tôi biết, họ đã trải qua nhiều năm trong trại tù và trại cải tạo. Tôi nói, tại sao các bạn không nói lên, trước đây? Hỏi thì hỏi, nhưng tôi thừa biết câu trả lời: chính mình cũng chẳng bao giờ dám cất tiếng nói, chẳng dám đặt ra những câu hỏi.

Cùng với "báo cáo mật" mà Khrouchtchev cho công bố vào năm 1956, tôi hiểu ra, tất cả những gì mà chúng tôi tin là những lầm lẫn của hệ thống pháp lý, những thanh toán, những thảm họa.... chính chúng tạo nên hệ thống, chế độ mà chúng ta gọi Cộng Sản. Tôi biết, đã tới lúc giã từ. Nhưng cuộc chia tay, cắt đứt đó thật là cay đắng, thật là khó khăn. Đam mê chính trị, nó giống như đam mê tình ái. Người ta cứ cho rằng, mình không biết, không ngờ, thay vì phải thú nhận: vỡ mộng. Nhưng cũng phải đợi đến khi Liên Xô xâm lăng Hungarie, tôi mới bai bai Đảng.

Và tôi đã phải để 12 năm, để viết "Những người Xì Ta Lin Nít" (Les Staliniens, nhà xb Fayard, 1975). Tôi không muốn người ta nói rằng, tôi phản bội.

Jennifer Tran giới thiệu.