Cái âm điệu tủi thân, bi đát
Nguyễn Hữu Liêm
Peu de gens devineront combien il a
fallu être triste pour
ressusciter Carthage
Flaubert. Walter Benjamin trích dẫn, trong Theses on the
Philosophy of History
Bản dịch tiếng Anh, trong Illuminations, W. Benjamin, nhà xb
Schocken Books, NY
Few will be able to guess how sad one had to be in order to
resuscitate Carthage
[Ít người có thể đoán, phải tủi thân bi đát tới cỡ nào, mới
làm sống lại được Sài Gòn]
NQT trích dẫn cho bài viết của NHL
Nếu có một sắc điệu văn hóa nào rất
đặc thù cho người Việt
hải ngoại, đặc biệt nhất là ở Mỹ, thì đó là cái bản chất âm nhạc. Cái
thứ tân
nhạc được đem theo từ miền Nam
trước 1975 qua đây và vẫn cứ tiếp tục là một dòng âm nhạc bi đát, yếu
đuối,
trống rỗng và băng hoại.
Cứ nghe thử các giọng ca hàng đầu hiện
nay của phái nữ:
Khánh Hà, Khánh Ly, Ý Lan. Ðây là những giọng ca được ăn khách nhất
hiện nay ở
Mỹ. Nhất là ở vùng bắc California, hình như là tuần nào cũng có đại
nhạc hội,
nhạc thính phòng. Mà "đi vô, đi ra cũng thằng cha khi nãy" - cũng
chừng đó ca sĩ, chừng đó emcees, chừng đó bản nhạc, và nhất là vẫn
chừng đó cái
âm điệu ai oán, bi đát rẻ tiền của các cô cậu ca nhạc sĩ Việt Nam
hải ngoại.
Cũng một bài ca đó, mà khi Khánh Hà
hát lên thì mức độ não
nùng bi đát tăng lên gấp bội. Có những đoạn không đáng gì bi thảm,
nhưng Khánh
Hà cứ nức nở hóa một cách quá trớn, thành ra như tiếng khóc, trộn lẫn
với một
chất điệu yếu đuối, não nề. Cái nồng độ nức nở này như là một thứ
trade-mark,
một gia vị đặc thù, một thứ nước dừa ngọt ngầy ngậy mà bất cứ món ăn
nào cô ca
sĩ sưng môi này cũng cứ quậy lên không cần phân biệt.
Cũng một bản nhạc đó, mà khi Ý Lan hát
lên thì thành ra tức
tưởi, bi ai - và đặc biệt là tính đĩ. Hễ đến đoạn nào thay đổi âm khúc
thì Ý
Lan lắc lư cái đầu, nức nở hóa tiếng ngâm, khàn vô cổ họng cái tiếng lớ
để gia
tăng cái bi kịch của tính lẳng lơ nhưng đầy tang thương của tiếng hát.
Không
như tiếng hát của Thái Thanh, mẹ của Ý Lan, vốn trong sắc và mạnh,
tiếng hát
của Ý Lan là của văn hóa Bolsa, đầy nhộn nhịp của bầy kiến nhiều thương
tích,
nhưng hoàn toàn trống rỗng và vô vị.
Cũng một bài hát đó, của Trịnh Công
Sơn chẳng hạn, nhưng khi
Khánh Ly hát lên thì nó trở thành mê muội, lạc lõng. Cái giọng lè nhè
của Khánh
Ly không được cân bằng với một âm sức cao và mạnh để cứu lấy âm điệu
cho toàn
thể âm cảnh đã làm cho bản nhạc trở nên một sự đày đọa cho người nghe.
Không ai
phá nát nhạc Trịnh Công Sơn và làm mất âm hưởng của chúng hơn là Khánh
Ly.
Nhưng bách tính thiên hạ của người
Việt ở Mỹ rất được thoả
mãn với các giọng ca này. Vì sao? Vì tâm chất họ được thể hiện qua các
giọng ca
đó. Quần chúng nào thì âm nhạc đó; tâm thức nào thì ca sĩ đó. Khánh Hà,
Ý Lan
và Khánh Ly là những biểu tuợng âm thanh của một tập thể dân chúng muốn
được ru
mình bằng cái não nề, lẳng lơ, yếu đuối. Ðây là những bài văn tế cho
những tâm
hồn mất quê hương và mất nước.
Từ khi nhà Nguyễn thẩm nhập cái âm
nhạc mất nước của dân tộc
Chàm bằng những lời ca Huế thì triều đại này chỉ còn đi xuống dốc. Nghe
nhạc
Huế thì chỉ còn có muốn nhảy xuống sông Hương mà tự vận - cứ nghe thử
nhạc của
Dương Thiệu Tước thì biết. Một triều đại quyền lực, một trung tâm chính
trị
quốc gia lẫy lừng khi thống nhất đất nước mà từ khi bị nhiễm lấy cái vi
khuẫn
của loại nhạc "mất hồn" của dân Chàm thì chỉ cần một thời gian ngắn
là cả hệ thống chính trị Việt Nam bị suy đồi từ tri thức cho đến ý chí,
từ tình
cảm cho đến nghệ thuật. Chuyện mất nước là kết quả đương nhiên.
Tôi về Việt Nam và có dịp nghe các ca
sĩ trong nước sau 1975
hát - như Mỹ Linh, Trần Thu Hà, như Hồng Ngọc, như Thu Phương. Cái khác
hẳn là
tính mạnh và sắc sảo của thế hệ âm nhạc mới này. Và vắng bóng hoàn toàn
cái bi
đát, não nùng. Có phải chăng các ca sĩ này biểu lộ được tâm thức và ý
chí của
những kẻ chiến thắng - từ vô thức tập thể? Dĩ nhiên, đây không phải là
một
chính sách văn hóa của chính quyền. Cái mạnh và tự tin của các lời ca
mới đại
diện cho cái collective unconsciousness của phe thắng cuộc. Hãy lắng
nghe Hồng
Ngọc hát nhạc Trịnh Công Sơn! Cũng một bài, có câu, "Ngựa hồng đã mỏi
vó,
chết trên đồi quê hương..." mà khi Khánh Ly hát thì người nghe chỉ thấy
muốn ngồi xuống sàn nhà và bưng hai lỗ tai. Nhưng khi Hồng Ngọc cất lên
những
lời ca đó, nhạc họ Trịnh trở thành cơn giông cuồng nộ để làm cho người
nghe
muốn đứng dậy để làm cách mạng.
Cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm,
hai nhà hiền triết
Ðông Tây, Khổng Tử và Socrates, đã đồng lúc khuyến cáo đến cái tầm quan
trọng
của âm nhạc. Âm nhạc là sinh khí của tinh thần. Hễ nhạc xuống là nước
nhà
xuống; hễ nhạc uỷ mị là con người tha hóa. Cái thối nát của con người
khởi đi
từ sự thối nát của âm nhạc. Âm thanh là logos của tâm thức. Chính vũ
trụ này
chẳng qua là một trường âm thanh của tạo hóa mà thôi. Mỗi cung điệu đại
diện
cho một cõi hiện hữu. Âm nhạc chính là nấc thang của tâm hồn.
Nietzsche trong cuốn The Will to Power
có nói tới cái tâm
thức amor fati - cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của
mình. Cái
bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ Truyện Kiều và kéo dài cho đến
ngày nay.
Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã
làm cho
miến Nam
ngồi
xuống vỉa hè, che mặt và lau nuớc mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này
bị lưu
đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc.
Cho đến lúc cái hệ luỵ bi đát này được
vươn thoát, khối
người Việt hải ngoại vẫn sẽ còn là một khối dân tộc không có quyền lực
- và sẽ
không làm nên lịch sử.
California
7/2003
Lời bàn:
Liệu vẫn câu chuyện xưa như trái đất,
về những nàng thương
nữ bất tri vong quốc hận (1), và những bài hát Hậu Đình Hoa, bất cứ một
độc giả
nào, khi đọc bài viết của NHL đều có ý nghĩ như vậy, theo tôi.
Nhưng suy đi nghĩ lại, vấn đề không
đơn giản.
Đã lâu lắm, khi Gấu tôi còn ở trong
nước, vào cái “thời cực
thịnh” của chiến thắng miền nam, trên tờ Quân Đội Nhân Dân hay tờ Nhân
Dân
[không Quân Đội], một độc giả, một cư dân của Thăng Long Thành đã “la
làng”, về
một cảnh tượng mà ông ta đích mắt trông thấy: đến nhà một người quen,
ông bắt
gặp cả một đám đoàn viên thành đoàn say sưa đờ đẫn nghe thứ nhạc mà NHL
gọi là
nhạc mất nước, [chữ của ông: nhạc tủi thân, bi đát],còn ông ta gọi là
nhạc
vàng.
Như vậy cả kẻ thắng lẫn người bại đều
mê nó. Khổ đau sung
sướng đều ở lòng này mà ra: Đâu có khác chi số phận của một nhạc sĩ và
nhạc của
ông ta: Thứ âm nhạc đáng phỉ nhổ, ca sĩ này hát thì thành cách mạng, ca
sĩ kia
hát thì thành mất nước. Những kẻ thắng cần nó để đỡ cảm thấy tủi nhục
vì đã
chiến thắng, những kẻ thua, sau khi gửi cả tỉ tiền mỗi năm về cho thân
nhân họ
hàng, biết chắc chắn một điều, tiền này phải qua tay Đảng rửa sạch đi
thì mới
được đem ra tiêu xài, vì là tiền Mỹ Nguỵ, họ cần thứ nhạc khốn kiếp đó,
để an ủi,
dẫu sao chỉ có thứ âm nhạc này là làm cho mình đỡ buồn, đỡ cảm thấy
nhục vì ăn
nhờ ở đậu nơi xứ người.
Như thế, theo tôi, nhạc vàng nhạc sến
nhạc lưu vong nhạc bất
hạnh… sẽ còn sống mãi, với dân tộc bất hạnh là chúng ta. Có nó, còn đỡ
khổ.
Không có nó, còn khổ nữa!
Bởi vì cứ giả sử cái hệ lụy bi đát
được vuơn lên, hay được
vượt thoát, thì cái giấc mộng làm nên lịch sử kia, quả là đáng sợ thiệt!
Và cái quyền lực, ý chí hùng bá đó, ở
đâu, hay lại cũng lấy
ra từ... Nietzsche?
NQT
Chú thích:
(1): Bạc Tần Hoài
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần-Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa
Đỗ Mục (803-852)
Thuyền đậu sông Tần-Hoài
Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát
Thuyền đậu Tần-Hoài cạnh tửu gia.
Ca nữ không hay buồn mất nước,
Cách sông còn hát Hậu Đình Hoa
Trần Trọng San dịch
Chú thích: Bài viết của NHL được đăng
trên báo Văn, Cali,
số tháng Tám 2003. Phần lời bàn của NQT, Văn số tháng Chín & Mười.