Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
TẠP GHI 2
|
Cái
mới là cái hiểu, cái hiểu như là cái dịch (translation). Dịch theo
nghĩa xê dịch, theo nghĩa thiên di, và từ đó toát ra hiện tượng bi thảm
và thơ mộng cuối-thế kỷ của chúng ta: hiện tượng văn chương di dân.
Dịch
theo nghĩa: đọc một bản văn tiếng Việt, thí dụ vậy, bởi một người Việt,
nhưng ở một miền đất "khác"với tác giả bài viết, cũng người Việt. J.
Brosdky, khi được hỏi, ông viết văn làm thơ bằng cả tiếng Nga, tiếng
Anh, vậy khi ngủ nằm mơ, ông mơ bằng ngôn ngữ gì; nhà thơ trả lời, đại
khái: Không có ngôn ngữ trong những giấc mơ. Dịch thuật, là mơ tưởng
một cõi không có ngôn ngữ, một loại kinh vô tự, một thời đại tiền-Babel.
Lời
nói không mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau, ở đây, là
lời khuyên của Heidegger: ... "it is good that one should still be
careful in one's speech. Người viết muốn diễn thêm: nên cẩn trọng khi
đọc một bản
văn tiếng Việt, cái mới nằm ngay trong cái cũ, một khi cái cũ được cẩn
trọng,
nâng niu. Một khi cái cũ đã được xê dịch, khỏi nơi chốn và thời gian
của
nó.
Thí dụ: dòng văn chương hải ngoại, nhiều người vẫn coi là dòng văn
chương Miền Nam kéo dài. Ngay một tác giả như Lê Minh Hà vốn sống ở
Miền
Bắc, nghĩa là không sống ở một Miền Nam trước 1975, mà còn lầm lẫn khi
đọc nó, lần đầu, vẫn không tin là cái mới. Trong bài trả lời phỏng vấn,
đăng trên Văn Học (Cali) tháng Bẩy, 1998, bà viết:... Ai đó đã nói
văn
học hải ngoại là văn học Miền Nam nối dài cũng có cái lý của họ vì khi
đọc,
tôi thấy diện mạo văn học hải ngoại rất gần với văn học miền Nam trước
75.
Rất gần, nhưng không thể là một được. Vẫn những đề tài muôn thuở (của
một Miền Nam?) "ít mang tính công dân", nhiều tính xã hội, nhiều tính
cá nhân, riêng tư, vẫn những khóc lóc hờn giận, vẫn những cuộc tình
trắc trở... nhưng ở trong những tác giả như Hoàng Nga, thí dụ vậy, có
một điều vô cùng khác biệt với những nhà văn nữ Miền Nam trước 1975:
cuộc tình của những nhân vật trong truyện Hoàng Nga giữa một nam, một
nữ là đồng đẳng, trước cuộc đời và trước cái chết. Trong khi đó, những
cảnh đời, những cuộc tình, ở trong Thụy Vũ chẳng hạn, không đồng đẳng:
người nam hơn người nữ ở cái chết
đang chờ đợi ngay sau cuộc tình, người nữ thất vọng thì đã sẵn những
snack
bars, cứ "tự nhiên" biến thành mèo đêm, cứ tự nhiên lao vào
lửa...; gần như không có một chọn lựa nào khác cho họ cả.
Riêng về mặt sex, cũng vậy, rất đồng đẳng, và thoát ra ngoài "truyền
thống": ở
những tác giả nữ trước 1975, sex là một thách đố (và từ đó một khí giới
khi
viết), trước đạo đức, dư luận, (hãy nhớ lại những nhận xét thô bỉ đối
với Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng: người ta muốn đồng
nhất tác giả với nhân vật trong truyện. Ở đây, lại thấy Derrida, khi
ông
khẳng định, chẳng có chi ngoài văn bản, và sự cần thiết, của một cái
chết,
của tác giả. Chỉ có cái chết của tác giả mới giải phóng bản văn ra khỏi
mọi
sợ hãi!) Bây giờ, ở hải ngoại, nhà văn nữ hết còn trông cậy vào sex, để
nói
lên ý hướng nổi loạn của họ. Nói như vậy không có nghĩa là văn học hải
ngoại
mất chất "muôn đời" của một người nữ Việt Nam, nhưng để nhìn ra một sự
thực:
đã có một ý hướng đạo đức mới, trong cách nhìn chính thân thể mình, của
Giới Tính Thứ Nhì: họ hoàn toàn tự do, khi sử dụng bất cứ ngôn ngữ nào,
kể cả
ngôn ngữ thân xác. Ý thức chính trị của một Hoàng Nga, vẫn thí dụ vậy,
rất
cao, bà biết bà muốn gì, khi viết, khi sống, khi để cho những nhân vật
của
bà sống, hoặc chết. Ở đây, tôi muốn nhắc lại một ý niệm toán học, vốn
đã
được Michel Foucault sử dụng khi liên hệ những cơn điên và những bài
thơ,
của cùng một Holderlin: chúng là những isomorphism. Là một, nhưng không
phải
là một. Văn chương hải ngoại rất gần với văn chương Miền Nam trước 75,
nhưng không thể nhập (nhằng) lên nhau được.
Liệu
lời mà nói (mà hiểu), khi đọcnhau. Trong bài viết trong mục
Trao Đổi, Văn Học Việt Nam: một bi kịch văn hóa của Trùng
Dương, nhân đọc một số bài trong Việt số hai, đăng trên Văn (Cali), số
tháng
Chín 1998, bà đã thắc mắc (nhận định đó đã đeo đuổi tôi trên đường
về,
và tiếp tục theo tôi nhiều ngày sau đó), về một nhận định của Phạm
Thị
Hoài, nhân một cuộc thảo luận với một nhà văn lớn tuổi "đã từng nằm gai
nếm mật nhiều năm trong nhà tù Cộng Sản": "Theo anh, ngày nào văn
học
Việt Nam hải ngoại không còn phản ảnh tâm sự Việt Nam, những mẩu chuyện
miệt
vườn mà chỉ thấy toàn chuyện thế giới như lời Phạm Thị Hoài (Văn học
Việt
ở hải ngoại không thiếu Việt Nam, mà chỉ thiếu thế giới)..., thì ngày
ấy
không còn văn học Việt Nam hải ngoại nữa."
Ở đây, tôi chỉ xin đưa ra những nhận xét cá nhân, về nhận định của
Phạm Thị Hoài (theo tôi, vẫn có gì tương tự như nhận định của Lê Minh
Hà,
khi bà cho rằng văn chương hải ngoại "thừa" Việt Nam, "thìếu" thế
giới),
và những nhận xét cá nhân của tôi rất cần được "xê dịch", theo nghĩa
của
Steiner, về dịch thuật.
Sinh năm 1929 tại Paris, bố mẹ người
Vienne, gốc Do-thái, ông thoát Lò
Thiêu, nhờ may mắn có người bố nhìn xa trông rộng, nhưng đề tài này
luôn ám ảnh mọi trang viết của ông. Tới Hoa-kỳ năm 1940 (hình như cùng
thời gian với Nguyễn Đình Hoà?), học và lấy bằng B.A tại Đại-học
Chicago, M.A. tại Harvard, và D. Phil tại Oxford, nơi mà ấn bản đầu
tiên bài nghị luận của ông bị gạt bỏ, bởi vì nó quá gần với một trường
(field) mà Oxford đã không giảng dậy những ngày đó: văn chương so
sánh. Từ Mùa Thu 1994, ông là giáo sư đầu tiên về môn học này tại
Oxford, và đây cũng là lần thứ nhất có một môn học như thế tại đại học
trên, hay tại Cambridge. Sở học đa dạng, môn dậy, cộng thêm thế giá
"phức tạp", việc chỉ định ông đã gây s ôi nổi tại Anh, và người ta coi,
đây là
sự trở về của đứa con hoang đàng.
Bảng
danh sách những tác phẩm của ông thật dài, bao gồm đủ các môn, các
ngành, trong số đó có phê bình văn học, triết học, và văn hóa: Tolstoy
hay là Dostoevsky (1959), Cái Chết Của Bi Kịch (1961), Ngôn
Ngữ Và Im Lặng (1967) Extraterritorial (1971)... Ngoài ra
còn những tác phẩm giả tưởng (truyện ngắn, tiểu thuyết). Tác phẩm gần
đây của ông gồm có: No Passion Spent (essays, 1996), Errata
(1997, 1st ed.). Vì đa dạng như vậy, nên thật khó mà sắp xếp
ông vào một phạm trù nào. Nhưng dịch thuật đã chiếm giữ gần hết thời
giờ nghề nghiệp của ông; chính nó đã đem đến, một ẩn dụ đẹp nhất, về
việc làm của ông: dịch thuật theo nghĩa vượt bờ ngăn, biên cương,
vượt từ trường này qua trường khác.
Hiểu
theo tinh thần trên, người viết thực sự nghĩ rằng: cái dịch là cái mới,
cái đọc giữa những người Việt, về những gì đã được viết bởi người Việt,
bằng chữ Việt, là một hình thức văn chương so sánh, tìm ra những cái
rất gần nhưng không thể là một... Và theo tôi, đây cũng là mong ước của
Hoàng Ngọc Tuấn, khi viết: Người ra đi có nhiều điều kiện hơn để tiếp
cận những cái mới lạ của bốn biển, và do đó có thể có nhiều hy vọng
hơn, trong việc làm mới ngôn ngữ văn chương. (Việt, số 2).
Thiếu thế giới, là thiếu so sánh Việt Nam với thế giới, thừa Việt Nam,
vì "không dám" vượt bờ ngăn, biên cương, không dám chọc thật sâu vào
những vết thương, nhờ vậy, biết đâu chúng sẽ lành, sẽ thành những vết
sẹo, đáng yêu, thay vì cứ tiếp tục lở lói...
NQT
|