It was the seagull that
taught the song to swim
It was the song that found the first wind's source
We shared shards of
happiness
Entering the home from different directions
It was father who
recognized darkness
It was darkness that led us to sudden lightning
The weeping door slammed
shut
And echo pursued its cries
It was the pen that
bloomed in despair
It was the flower that refused the necessary journey
It was rays of love that
awoke
Lighting the landscape above zero
Bei
Dao
Phong cảnh ở bên trên con số không
Đó là hải âu dậy bài ca bơi
Đó là bài ca tìm thấy nguồn gió
Chúng ta chia nhau những
mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ nhiều hướng khác nhau
Đó là người cha nhận ra
bóng tối
Đó là bóng tối dẫn chúng ta tới ánh sáng bất thần
Cánh cửa nức nở đóng sầm
lại
Và tiếng vang đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây viết nở hoa
trong chán chường
Đó là bông hoa từ chối một chuyến đi cần thiết
Đó là những tia tình yêu
thức giấc
Soi sáng phong cảnh ở trên con số không
Note: Bài
thơ này, có tới hai bản tiếng Mít, một của GCC, khi đọc Bei Dao trên tờ
Điểm
Văn Á, Asia Literary Review, mê quá [tại sao mê thì đừng bắt GCC phải
tự thú!]
Sau, gặp tập thơ của ông, bèn chơi liền, và được bạn Dã Viên dịch thẳng
từ tiếng
Tầu. Vị độc giả này, dân Huế, rất mê thơ. Rất giỏi tiếng Tầu. Trang TV
như vậy
là có thêm 1 vị hộ pháp!
The best use of culture is to talk nonsense with distinction
Somerset Maugham
Cách sử dụng bảnh nhất văn hóa, là để coi chuyện cà chớn, với 1 sự chi ly, phân biệt, của 1 bậc thầy.
[Mới chôm, áp dụng vô đây, thật là tuyệt cú mèo!]
Cái
bài viết về Kim Trọng, qua đấng Bắc Kít DBA, Gấu viết bằng cái giọng có tí
xấc láo, ấy là vì tuy không biết gì về đấng này, nhưng nghĩ, cũng giống những
đấng khác, nghĩa là đọc, nhưng đếch thèm trả lời, ngu gì mà viết giọng đàng
hoàng, như bao lần đã từng đàng hoàng.
Và quả đúng như thế. Rắc rối 1 tí, là thay vì trả lời, thì anh này để cho 1 tên đi 1 cái còm, rất ư là mất dậy.
Nhưng thôi, bỏ. Khen đấng DBA đàng hoàng, thì cũng như khen đám làm bồi Hồng Mao, đàng hoàng!
GCC, vào những ngày đầu, đã từng viết cho những diễn đàn Bắc Kít lạ hoắc,
tuy không được mời, như Cánh Én, Gió Đông, talawas… Đã từng về trong nước,
thằng đầu tiên, bắt tay VC, đâu có phải không biết cách hành xử?
V/v Kim Trọng. Không phải là Gấu chưa từng đọc những bài viết về Kim Trọng,
trong những sách vở của Miền Nam, như được NL liệt kê. Chúng có trong chương
trình học trung học. Nhưng, Kiều, như Gấu nhìn, qua những bài viết đã trình
ra, liên quan tới hình ảnh người mẹ trong cơn binh lửa, hoạn nạn, đọa đầy…
[“cái gì gì”, huyền thoại mẹ như TCS đã từng ca ngợi!], tới cái gọi là viết,
cái gọi là đọc, tới… Kafka, qua câu phán ghê gớm của ông, nhà văn là 1 thứ
dê tế thần....
Hai bài viết hoàn toàn khác nhau, làm sao mà tranh luận?
[Milena letters to Max Brod]
[Bạn có thể tưởng tượng, đây là thư của "đảo xa", gửi cho MT, viết về TTT!]
Dear Herr Doktor:
[begìning of August 1920]
... Obviously, we are all capable of living, because at one time or another
we have all taken refuge in a lie, in blindness, enthusiasm, optimism, a
conviction, pessimism, or something else. But he has never fled to any refuge,
not one. He [Kafka] is absolutely incapable of lying, just as he is incapable
of getting drunk. He lacks even the smallest refuge; he has no shelter. That
is why he is exposed to everything we are protected from. He is like a naked
man among the dressed ... Everything he is, says, and lives cannot even be
called truth; actually, it is predetermined being, being in and of itself,
being with nothing added that might allow him to distort his picture of the
world- whether into beauty or distress. And his asceticism is completely
unheroic-hence all the greater and loftier. All "heroism" is lying and cowardice.
This is not someone who chooses asceticism as a means to an end; here is
a man who is forced to be ascetic because of his terrible clairvoyance, his
purity and inability to compromise.
There are very intelligent people who also refuse to make compromises.
But they don magic glasses and see everything in a different light. That's
why they don't need any compromises. That's why they are able to type quickly
and have their women. He stands beside them and gazes at them in wonder,
at everything, even this typewriter and these women. He will never understand.
His books are amazing. He himself is far more amazing. Many thanks for
everything. I wish you all the best. I'm allowed to visit you when I come
to Prague, am I not? I send you my most heartfelt greetings.
Hiển nhiên tất cả chúng ta đều có thể sống,
bởi là vì lúc này lúc khác, chúng ta đều có thể kiếm ra nơi ẩn náu, trong
1 lời dối trá, trong sự mù lòa, hưng phấn, lạc quan, tin tưởng, biếm thế,
hay một điều gì khác. Nhưng anh ta [Kafka] không làm được như thế, anh ta
chẳng bao giờ chạy tới bất cứ 1 nơi ẩn náu, không một nơi ẩn náu. Anh ta
tuyệt đối không thể nói dối, như anh ta không thể say rượu. Anh ta không
có lấy 1 chốn ẩn náu cho dù nhỏ bé nhất. Anh ta không có 1 nơi trú ẩn. Chính
vì thế mà anh ta cứ thế phơi ra trước mọi thứ, mọi điều mà chúng ta được
che chở, từ chúng. Anh ta như thể 1 kẻ trần truồng, giữa đám người ăn vận
quần áo. Mọi thứ, mọi điều anh ta là, nói, và sống, không thể, ngay cả, được
gọi là sự thực; sau cùng, đây là một sinh vật được tiền định, tính toán từ
trước, một sinh vật ở trong nó, và của chính nó, có mà chẳng cần hư vô thêm
vào, cái hư vô có thể cho phép anh vặn vẹo hình ảnh của anh ta về thế giới
- trở thành cái đẹp, hay sự chán chường, kiệt quệ. Và chủ nghĩa khổ hạnh
của anh ta thì hoàn toàn không-anh hùng - từ đó, tất cả lớn lao, cao vời
vợi. Mọi “chủ nghĩa anh hùng” thì là dối trá, hèn nhát. Đây không phải là
1 kẻ chọn khổ hạnh, như là một phương tiện đưa tới cứu cánh; dây là 1 người
đàn ông bắt buộc khổ hạnh bởi là vì cái tiên tri khủng khiếp của anh ta,
sự trong trắng của anh ta, và cái không thể thoả hiệp của anh ta.
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
Lá thư tình nằm ở dưới cái sô pha
Viên thiếu tá công binh, trẻ, là người tìm thấy lá tình thư, khi anh ta xục
xạo cái villa mà mà đơn vị của anh ta thừa hưởng từ người Đức.
Đám lính sợ tụi Đức gài mìn, gài bẫy, một việc làm vô ích, theo tôi, bởi
là vì chúng tôi tới đảo, rất êm ru bà rù, chỉ để chứng kiến một đơn vị đồn
trú, tất cả đều đói lả, rất ư là mừng đón tiếp chúng tôi.
Đám limh tráng Đức đúng là đang chết vì đói, cứ mỗi ngày là có 200 người chết đói, lính tráng và thường dân.
Nơi chốn, tôi muốn nói, hòn đảo, trông giống như 1 cái xác đang lảo đảo,
kéo lê cái thân xác của nó, tới hố chết, thì cứ nói đại như thế.
Tôi vẫn còn giữ như in, trong đầu óc của mình, hình ảnh, những chiếc tiềm
thủy đĩnh, bò lên bãi, mở ra những thùng bánh bít qui, dưới ánh đèn pin,
rồi cứ thể thẩy vô những cánh rừng, là những cánh tay người đang vẫy vẫy.
Here
is Joseph de Maistre, jurist, philosopher, and grand reactionary, in
exile in St. Petersburg in the first part of the nineteenth century,
contemplating the figure of the Executioner.
nybooks.com
Auschwitz Tháng Tư 1942
Obs 20 & 26 Aout 2015
Tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ của Lò Thiêu Hãy nhớ rõ 1 điều, tiếng Đức không ngây thơ vô tội trước Lò Thiêu
G. Steiner: Phép Lạ Hổng
People
now only think about whether something is advantageous. They think as
if the future doesn’t exist, or as if there is no future other than an
immediate one....
nybooks.com
Borges on Borges
Jorge Luis Borges The Royal Society of Arts, London 5 Oct 1983
ON 'THE INTRUDER'
It was a brutal story, I'm sorry to say, but it was meant to be brutal. It
shows the contempt men have for women in my country and in South America
generally. It's a story about machismo, which I thoroughly dislike. It's
a very simple story, but I didn't know how to end it. I was dictating it
to my mother (I was already blind) and I came to the point where the elder
brother has to tell the younger that he has killed the girl. And then I said
to my mother, 'The fate of the story depends on the words he says. Try and
help me.' She was taking down the story, she didn't like it, and she said,
'Let me think.' And then she said in a quite different voice, 'I know what
he said.' It was as if he had actually said it, but of course it was merely
fiction. And then 1 said, 'Well, write it down.' And then she wrote down,
'A trabajar, hermano. Esta manana la mate. To work, brother, this morning
I killed her.' She found the right words, but she didn't like the story;
however, at that moment she believed in the story. And then she made me promise
never to write about people like that again; she found them utterly uninteresting
and repugnant. 'Don't keep on writing about knives and knife duels,' she
said; 'I'm sick and tired of it all.' She had found her way inside the story
and I hadn't really. She knew far better about the story than I did, since
she found the right words and the right intonation and the right cadence
to the words.
Note: Trong những truyện ngắn của Borges, câu chuyện “Kẻ Lén Lút Xâm Nhập”,
lạ nhất, có thể nói, và có lần, Gấu, chắc cũng THNM, nên coi cô gái - bị
hai anh em cùng yêu, và 1 tên bèn giết cô gái – là văn chương Ngụy trước
1975, và sở dĩ thằng anh ruột làm thịt cô gái, để cả hai anh em sau đó, cùng
có chung 1 bổn phận, quên nàng!
Trên đây, là những dòng, của chính Borges, viết về truyện ngắn đó. Ông kể
là, lúc đó, ông đã mù, và đọc nó cho bà cụ thân sinh, Bả cũng không thích,
và sau đó, cấm ông con trai đừng bao giờ viết truyện như thế nữa. Vargas
Llosa cũng chê Borges, ưa viết truyện có tí dao găm, có tí máu.
Borges: The Intruder
Trong bài
viết
về Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker,
sau in
trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn
của
Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành
dương,
illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges.
Tò mò, Gấu
kiếm trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên net, có, nhưng chỉ
cho đọc,
không làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau,
một phụ nữ
trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì
chỉ có
cách đó mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên
nàng”.
Borges coi
nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những
câu chuyện
đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện
nhỏ, nhẹ,
nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên
net, Gấu
mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra,
của cả Miền
Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và
1 thằng
đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:
Như thể, sau
khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề
Gòn, và thấy
Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!
"The
Intruder," a very short story recently translated into English,
illustrates Borges's present ideal. Two brothers share a young woman.
One of
them kills her so that their fraternity may again be whole. They now
share a
new bond: "the obligation to forget her."
Borges
himself compares this vignette to Kipling's first tales. "The
Intruder" is a slight thing, but flawless and strangely moving. It is
as
if Borges, after his rare voyage through languages, cultures,
mythologies, had
come home and found the Aleph in the next patio.
Steiner cho
rằng cái sự nổi tiếng của Borges làm khổ dúm độc giả ít ỏi, như là 1 sự
mất mát riêng tư.
Và theo ông,
nó bắt đầu, cùng với sự kiện, cả hai đấng rất ư được người đời ít biết
đến, và đọc
được họ, là Beckett và Borges, khi hai đấng này chia nhau giải thưởng
Formentor
Prize, vào năm 1961.
Năm sau, cuốn Mê Cungvà Giả Tưởng của Borges có
bản tiếng Anh.
Vinh danh rớt xuống, như mưa: Honors
rained.
Vào cái tuổi
già chín rục, Borges tếu táo, tôi bắt đầu nghi, rằng thì là bi giờ cả
thế giới
biết tới mình!
Quả là 1 ngạc nhiên, bởi là vì vào năm 1932, cỡ đó, tôi có cho
xb 1 cuốnsách, và cuối năm, tôi khám phá
ra, chỉ bán được có 37 cuốn!
Beckett thì
cũng rứa! Gấu nhớ là 1 tay xb từ chối ông, sau quá ân hận.
TTT cũng thế.
May sau đó,
nhờ Nguyễn Đình Vượng, đổ mớ sách ra hè đường Xề Gòn, nhờ thế cuốn sách
tái
sinh, từ tro than, từ bụi đường!
Khủng nhất,
là, ông già NDV như tiên đoán ra được số phận của cả 1 nền văn chương
của cả 1 Miền
Nam, sau đó, sau 1975!
Gấu là thằng
may nhất, nếu không có cú bán xon của NDT, Gấu không làm sao được đọc
Bếp Lửa!
The Intruder
Note: GCC kiếm thấy
The Intruder, trong cuốn Borges
A Reader, mua xôn, từ đời nào. Bèn post ở đây, và sẽ dịch sau.
Borges coi
nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những
câu chuyện
đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện
nhỏ, nhẹ,
nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường.
Lần đầu đọc, trên
net, Gấu
mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra,
của cả Miền
Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và
1 thằng
đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:
Như thể,
sau
khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề
Gòn, và thấy
"Những Ngày Ở Sài Gòn", nằm trên bàn! (1)
THE INTRUDER
2 Samuel
1:26
[JLB 98]
They claim
(improbably) that the story was told by Eduardo, the younger of the
Nilsen
brothers, at the wake for Cristian, the elder, who died of natural
causes at
some point in the 1890s, in the district of Moron. Someone must
certainly have heard
it from someone else, in the course of that long, idle night, between
servings of
mate, and passed it on to Santiago Dabove, from whom I learned it.
Years later,
they told it to me again in Turdera, where it had all happened. The
second version,
considerably more detailed, substantiated Santiago's, with the usual
small
variations and departures. I write it down now because, if I am not
wrong, it
reflects briefly and tragically the whole temper of life in those days
along
the banks of the River Plate. I shall put it down scrupulously; but
already I
see myself yielding to the writer's temptation to heighten or amplify
some
detail or other.
In Turdera, they were
referred to as the Nilsens. The parish
priest told me that his predecessor remembered with some astonishment
seeing in
that house a worn Bible, bound in black, with Gothic characters; in the
end
pages, he glimpsed handwritten names and dates. It was the only book in
the
house. The recorded misfortunes of the Nilsens, lost as all will be
lost. The
old house, now no longer in existence, was built of unstuccoed brick;
beyond
the hallway, one could make out a patio of colored tile, and another
with an
earth floor. In any case, very few ever went there; the Nilsens were
jealous of
their privacy. In the dilapidated rooms, they slept on camp beds; their
indulgences were horses, riding gear, short-bladed daggers, a
substantial fling
on Saturdays, and belligerent drinking. I know that they were tall,
with red
hair which they wore long. Denmark, Ireland, places they would never
hear tell
of, stirred in the blood of those two criollos. The neighborhood feared
them,
as they did all red-haired people; nor is it impossible that they might
have
been responsible for someone's death. Once, shoulder to shoulder, they
tangled
with the police. The younger one was said to have had an altercation
with Juan
Iberra in which he did not come off worst; which, according to what we
hear, is
indeed something. They were cowboys, team drivers, rustlers, and, at
times,
cheats. They had a reputation for meanness, except when drinking and
gambling
made them expansive. Of their ancestry or where they came from, nothing
was
known. They owned a wagon and a yoke of oxen.
Physically, they were
quite distinct from the roughneck crowd
of settlers who lent the Costa Brava their own bad name. This, and
other things
we do not know, helps to explain how close they were; to cross one of
them
meant having two enemies.
The Nilsens were
roisterers, but their amorous escapades had
until then been confined to hallways and houses of ill fame. Hence,
there was
no lack of local comment when Cristian brought Juliana Burgos to live
with him.
True enough, in that way he got himself a servant; but it is also true
that he
showered her with gaudy trinkets, and showed her off at fiestas-the
poor
tenement fiestas, where the more intimate figures of the tango were
forbidden
and where the dancers still kept a respectable space between them.
Juliana was
dark-complexioned, with large wide eyes;
one had only to look at her to make her smile. In a poor neighborhood,
where
work and neglect wear out the women, she was not at all bad looking.
At first, Eduardo went
about with them. Later, he took a
journey to Arrecifes on some business or other; he brought back home
with him a
girl he had picked up along the way. After a few days, he threw her
out. He
grew more sullen; he would get drunk alone at the local bar, and would
have
nothing to do with anyone. He was in love with Cristian's woman. The
neighborhood,
aware of it possibly before he was, looked forward with malicious glee
to then subterranean
rivalry between the brothers. One night, when he came back late from
the bar at
the corner, Eduardo saw Cristian's black horse tethered to the fence.
In the
patio, the elder brother was waiting for him, all dressed up. The woman
came
and went, carrying mate. Cristian said to Eduardo:
"I'm off to a brawl at the
Farias'. There's Juliana for
you. If you want her, make use of her."
His tone was
half-commanding, half-cordial. Eduardo kept
still, gazing at him; he did not know what to do. Cristian rose, said
goodbye
to Eduardo but not to Juliana, who was an object to him, mounted, and
trotted
off, casually.
From that
night on, they shared her. No one knew the details of that sordid
conjunction,
which outraged the proprieties of the poor locality. The arrangement
worked
well for some weeks, but it could not last. Between them, the brothers
never
uttered the name of Juliana, not even to summon her, but they sought
out and
found reasons for disagreeing. They argued over the sale of some skins,
but they
were really arguing about something else. Cristian would habitually
raise his voice,
while Eduardo kept quiet. Without realizing it, they were growing
jealous. In
that rough settlement, no man ever let on to others, or to himself,
that a
woman would matter, except as something desired or possessed, but the
two of
them were in love. For them, that in its way was a humiliation.
One
afternoon, in the Plaza de Lomos, Eduardo ran into Juan Iberra, who
congratulated
him on the beautiful "dish" he had fixed up for himself. It was then,
I think, that Eduardo roughed him up. No one, in his presence, was
going to
make fun of Cristiano
The woman waited on the
two of them with animal submissiveness;
but she could not conceal her preference, unquestionably for the
younger one,
who, although he had not rejected the arrangement, had not sought it
out.
One day, they told Juliana
to get two chairs from the first
patio, and to keep out of the way, for they had to talk. Expecting a
long
discussion, she lay down for her siesta, but soon they summoned her.
They had
her pack a bag with all she possessed, not forgetting the glass rosary
and the
little crucifix her mother had left her. Without any explanation, they
put her
on the wagon, and set out on a wordless and wearisome journey. It had
rained;
the roads were heavy going and it was eleven in the evening when they
arrived
at Moron. There they passed her over to the patrona
of the house of prostitution. The deal had already been made; Cristian
picked
up the money, and later on he divided it with Eduardo.
In Turdera, the Nilsens,
floundering in the meshes of that
outrageous love (which was also something of a routine), sought to
recover
their old ways, of men among men. They went back to their poker games,
to
fighting, to occasional binges. At times, perhaps, they felt themselves
liberated, but one or other of them would quite often be away, perhaps
genuinely, perhaps not. A little before the end of the year, the
younger one
announced that he had business in Buenos Aires. Cristian went to Moron;
in the
yard of the house we already know, he recognized Eduardo's piebald. He
entered;
the other was inside, waiting his turn. It seems that Cristian said to
him,
"If we go on like this, we'll wear out the horses. It's better that we
do
something about her."
He spoke with the patrona,
took some coins from his money belt, and they went off with her.
Juliana went
with Cristian; Eduardo spurred his horse so as not to see them. They
returned
to what has already been told. The cruel solution had failed; both had
given in
to the temptation to dissimulate. Cain's mark was there, but the bond
between
the Nilsens was strong-who knows what trials and dangers they had
shared-and
they preferred to vent their furies on others. On a stranger, on the
dogs, on
Juliana, who had brought discord into their lives.
March was almost over and
the heat did not break. One Sunday
(on Sundays it is the custom to retire early), Eduardo, coming back
from the
corner bar, saw Cristian yoking up the oxen. Cristian said to him,
"Come
on. We have to leave some hides off at the Pardos'. I've already loaded
them.
Let us take advantage of the cool."
The Pardo place lay, I
think, to the south of them; they took
the Camino de las Tropas, and then a detour. The landscape was
spreading out
slowly under the night. They skirted a clump of dry reeds. Cristian
threw away
the cigarette he had lit and said casually, "Now, brother, to work.
Later
on, the buzzards will give us a hand. Today I killed her. Let her stay
here
with all her finery, and not do us any more harm."
They embraced, almost in
tears. Now they shared an extra
bond; the woman sorrowfully sacrificed and the obligation to forget
her.
De vent et de Fumée
III
Ces pages sont traduites.
D'une langue
Qui hante la mémoire que je suis.
Les phrases de cette langue sont incertaines
Comme les tout premiers de nos souvenirs.
J'ai restitue le texte mot après mot,
Mais le mien n'en sera qu'une ombre, c'est à croire
Que l'origine est une Troie qui brule,
La beaut é un regret, l' oeuvre ne prendre
À pleines mains qu'une eau qui se refuse.
Yves Bonnefoy
III
These pages are
translations. From a tongue
That haunts the memory I have become.
Its phrases falter, like what we recollect
From early childhood, long ago.
I built the text again, word for word:
But mine is only shadow. As though we know
All origin is a Troy that burns,
All beauty but regret, and all our work
Runs like water through our hands.
Translated by Hoyt Rogers
Của Gió và Khói
III
Những trang này đã được
dịch
Từ một ngôn ngữ quần nát bấy hồi nhớ
Là thằng Gấu Cà Chớn vào lúc bi giờ
Những câu kệ thì chẳng ra làm sao cả
Như là những gì mà chúng ta nhặt nhạnh được, từ thời ấu thơ, thuở nảo
thuở nào
Gấu cố gầy dựng lại bản văn, từng từ từng từ
Nhưng của Gấu thì chỉ là 1 bóng mờ
Mà nguyên bản thì là một thành phố Xề Gòn bị VC thiêu huỷ
[Bạn hẳn vưỡn còn nhớ cuộc phần thư năm đó?]
Cái đẹp ngày nào nếu còn chăng, thì là 1 niềm ân hận
Tác phẩm, cái gọi là văn học Miền Nam trước 1975, ư?
Như nước lọt qua kẽ tay của bạn.
THE POETRY OF VILLAGE IDIOTS
Làm thơ xuôi thì cũng giống như bắt 1 con ruồi
trong căn phòng tối. Có thể làm đếch gì có con ruồi ở đó, nhưng chắc chắn,
nó ở trong đầu của bạn; tuy nhiên, bạn vưỡn cố loay hoay, hì hục, đụng cái
này, cái kia, trong cuộc truy đuổi nóng bỏng. Thơ xuôi như thế thì giống
như 1 cú vỡ òa của ngôn ngữ, khi đụng 1 cái tủ to tổ bố.
Nếu thế, tại sao cố? Có cái gì quyến rũ, lôi kéo, trong 1 việc làm khùng điên như thế?
Trong trường hợp của riêng tôi, mỗi lần làm thơ xuôi là một lần cố rũ
tôi, ra khỏi chính mình. Thoát khỏi sự tưởng tượng, bộ não, của chính mình,
để lao vào 1 cuộc phiêu lưu với những hậu quả không làm sao biết trước được,
tiếp tục là giấc mộng lớn của tôi.
Những người khác cầu khẩn Thượng Đế. Tôi cầu khẩn cái cơ may của tôi,
chỉ cho tôi cách thoát ra khỏi nhà tù, mà tôi gọi là chính tôi đó.
Một cú ngoáy, nhanh, không suy tính và cái cửa phòng giam bèn mở ra.
Tôi không hề có ý nghĩ, như thế nào, bằng cách nào, tôi hoàn tất điều mà
tôi đã hoàn tất. Trong những lề luật viết lách có tính trực giác như thế.
Mỗi người thì bèn tùy thuộc cái khôn khéo văn chương của riêng người đó để
đi những bước đúng, và nhận ra, đúng rồi, cái trước mặt, cái cú ngoáy, quả
đúng là 1 bài thơ. Với tôi, thơ xuôi đúng là sáng tạo thuần túy, thằng bé
quỉ sứ của hai chiến thuật không thể xa lìa nhau, cái trữ tình, và cái tự
sự. Một bên, có cái ao ước trữ tình làm thời gian ngừng trôi chung quanh
1 hình ảnh, và một bên, người đó muốn, kể 1 tí chuyện.
Cú nhắm mà những dòng chữ đang được viết ra để thành 1 bài thơ xuôi, là,
làm dấy lên ở nơi người đọc, một ao ước không làm sao chinh phục được: đọc
lại cái vừa mới đọc. Nói một cách khác, “nó” có thể giống như 1 bài thơ xuôi,
nhưng “nó” hành động như một bài thơ. Cái lần thứ nhì, thứ ba, và thứ năm
hẳn là khá hơn. Mi sẽ chẳng bao giờ làm ta mệt phờ râu, nó hứa hẹn. Nếu bạn
không thích điều tôi nói, thì hãy thử đọc Illuminations của Rimbaud, hay
những bài thơ bảnh nhất của Russel Edson. Chúng chẳng bao giờ cạn láng.
Thực nhảm, nếu đưa ra vài huấn thị cho cái gọi là sản phẩm của tự do tưởng tượng, nhưng tôi cố đưa ra điều sau đây:
Bí mật của một bài thơ xuôi nằm ở trong cái kinh tế -sự kiệm lời, thắt lưng buộc bụng, từ - và cái kinh ngạc của nó.
Borges
made a profound impression on Spanish literary prose, as before him Ruben
Dado had on poetry. The difference between them is that Dado imported and
introduced from France a number of mannerisms and themes that he adapted
to his own world and to his own idiosyncratic style. In some way all this
expressed the feelings, and at times the snobbery, of a whole period and
a certain social milieu. Which is why his devices could be used by so many
without his followers losing their individual voices. The Borges revolution
was personal. It represented him alone, and only in a vague, roundabout way
was it connected with the setting in which he was formed and which in turn
he helped crucially to form - that of the magazine Sur. Which is why in anyone
else's hands Borges' style comes across as a caricature.
Vargas Llosa: The Fictions of Borges
Trong bài viết của Borges, trong cuốn tưởng niệm ông, của một số tác giả,
Vargas Llosa cho rằng Borges tạo một ấn tượng sâu đậm vào văn xuôi Tây Ban
Nha, như là trước đó, Rubén Darío, vào thơ. Cũng vẫn ông, cuộc cách mạng
của Borges là cá nhân. Nó đại diện mình ông ta, và chỉ là một ngọn sóng….
bởi thế, văn phong của Borges đụng bất cứ 1 tên TBN, là để lại 1 vết sẹo!
Tuyệt!
TTT, sở dĩ đếch có truyền nhân, là cũng xêm xêm. Ngoài lý do, thơ của TTT,
1 thứ thơ trí tuệ không 1 tên Mít nào có được, còn có cái lý do Vargas Llosa
vừa nói tới. Cái thứ thơ ngồi bên ly cà phê, nhớ bạn, thì cần chó gì đến
trí tuệ. Chẳng tên nào muốn làm thơ mà lại dính vết sẹo ở trong lòng bàn
tay.
Cần chó gì sư phụ.
Không có sư phụ, thì đếch có vết sẹo!
Cả 1 cõi thơ TTT, có thể nói, đầy ắp Hà Nội, nhất là trong Tôi không còn cô độc, Liên Đêm…
Con đường tình tự Ga Hàng Cỏ
Nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang
Đâu phải mưa ô buy vào thành phố
Nửa đêm Hà Nội
Anh sợ cái cột đèn đổ xuống....
Toàn những hình ảnh của Hà Nội
Chỉ đến khi đi tù - trở lại cố quận – thì người đàn bà Nam Kít, xuất hiện,
như hình ảnh của một quê hương mới, chốn trở về sau khổ lụy.
Giả như tụi Tẫu không phát động cuộc chiến biên giới, thì cuộc hội ngộ sẽ xẩy ra ở trong tù, ở Cổng Trời, thí dụ.
Cái tên thi sĩ dởm NDT mới nhảm làm sao. Hắn đếch đọc được thơ TTT, bèn lên
giọng dè bỉu. Một thái độ như thế mà sao không tởm cho được. Cái lũ làm thơ bên ly cà phê hẳn cũng bực Gấu lắm
Nhưng, kệ cha chúng.
Vargas Llosa, trong bài viết trích dẫn, cho biết đám Tây Bán Nhà cũng rất
ư là nực Borges, ở những dòng thơ đếch có tí mùi thịt chó, rau muống!
Một vị, ra đi từ miền Bắc , khi đọc bài thơ viết về Budapest, GCC đưa lên
mục Tạp Ghi trên tờ Văn Học, phán, cứ tưởng của 1 ông mũi lõ nào!
Borges cũng bị những đồng hương của ông chê, mất chất… Mít!
Tuyển tập essays “Table Talk” của tờ Ba Xu,
Tin Văn đã từng giới thiệu.
Nhớ, lần đầu mua tờ báo này, là vì cái bài viết
của 1 em, về 1 chuyến đi tham quan thư viện, chẳng nhớ gì, ngoài cái kỷ niệm,
lúc vô thang máy với 1 thằng con trai cùng tuổi, thằng con trai bèn tụt quần
cho đứa con gái ngắm khẩu súng của nó.
Thế là nhớ đời!
Nhớ & tưởng tượng ra liền, cảnh em Jackie, mới tuổi teen, bị 1 thằng Tẩy làm thịt tại, cũng 1 thang máy nào đó!
Tờ báo, khổ
bự, làm nhớ tờ “Nghệ Thuật” ngày nào. Lần đầu mua, vì loạt bài
viết về thư
viện (1)
DURING MY
senior year in college, the offices of my literature professor, with
whom I met
weekly for tutorial, were located deep in the stacks of Harvard's
Widener
library. I rarely saw anyone else among the aisles of medieval romances
and Icelandic
sagas, and when I did, they seemed to materialize from the darkness,
like the
spooky nun in Vertigo. I heard noises, I saw shadows, I imagined the
grisly
scenarios of horror films. My heart was always pounding by the time I
got to my
professor's door. In fact nothing unpleasant happened to me in Widener
Library.
That would have to wait until I reached the heartland and was teaching
at the
University of Iowa. A guy showed me his penis when we were alone in the
library
elevator. I recall him looking like a sumo wrestler, but that may not
be true.
I didn't think he was going to hurt me; he just wanted me to look. The
door
opened, I got off. He stayed on the elevator. But after that I got
vaguely
phobic about the library. I no longer enjoyed going there, and I began
to avoid
it until finally I asked my husband if he would accompany me into the
stacks-on
the off chance that Sumo Guy might reappear. My husband readily agreed;
there
were art books on the same floor as the literature section, and he is a
painter....
Francine
Prose
Note:
"Sumo Guy" chắc súng phải khủng lắm!
Hà, hà!
Em có chồng,
đi với chồng về nơi chốn cũ, "thiên đàng thư viện", vưỡn mong thằng
nhỏ ngày xưa xuất hiện!
It works,
he says. But
it will never be the same
Nó vưỡn OK.
Nhưng chắc chắn sẽ chẳng vưỡn như ngày xưa!
Tuyển tập này, mới ra lò, 2015, bèn
quơ liền. Đọc loáng thoáng bài viết “Bơi ở Việt Nam” thấy có nhắc tới Lê
Thị Diễm Thuý, tác giả “Tên Găng Tơ mà tất cả chúng ta tìm” TV đã từng giới
thiệu.
Cái bài viết về Kim Trọng, qua đấng Bắc Kít
DBA, Gấu viết bằng cái giọng có tí xấc láo, ấy là vì tuy không biết gì về
đấng này, nhưng nghĩ, cũng giống những đấng khác, nghĩa là đọc, nhưng đếch
thèm trả lời, ngu gì mà viết giọng đàng hoàng, như bao lần đã từng đàng hoàng.
Và quả đúng như thế. Rắc rối 1 tí, là thay vì trả lời, thì anh này để cho 1 tên đi 1 cái còm, rất ư là mất dậy.
Nhưng thôi, bỏ. Khen đấng DBA đàng hoàng, thì cũng như khen đám làm bồi Hồng Mao, đàng hoàng!
GCC, vào những ngày đầu, đã từng viết cho những diễn đàn Bắc Kít lạ hoắc,
tuy không được mời, như Cánh Én, Gió Đông, talawas… Đã từng về trong nước,
thằng đầu tiên, bắt tay VC, đâu có phải không biết cách hành xử?
[Milena letters to Max Brod]
[Bạn có thể tưởng tượng, đây là thư của "đảo xa", gửi cho MT, viết về TTT!]
Dear Herr Doktor:
[begìning of August 1920]
... Obviously, we are all capable of living, because at one time or another
we have all taken refuge in a lie, in blindness, enthusiasm, optimism, a
conviction, pessimism, or something else. But he has never fled to any refuge,
not one. He [Kafka] is absolutely incapable of lying, just as he is incapable
of getting drunk. He lacks even the smallest refuge; he has no shelter. That
is why he is exposed to everything we are protected from. He is like a naked
man among the dressed ... Everything he is, says, and lives cannot even be
called truth; actually, it is predetermined being, being in and of itself,
being with nothing added that might allow him to distort his picture of the
world- whether into beauty or distress. And his asceticism is completely
unheroic-hence all the greater and loftier. All "heroism" is lying and cowardice.
This is not someone who chooses asceticism as a means to an end; here is
a man who is forced to be ascetic because of his terrible clairvoyance, his
purity and inability to compromise.
There are very intelligent people who also refuse to make compromises.
But they don magic glasses and see everything in a different light. That's
why they don't need any compromises. That's why they are able to type quickly
and have their women. He stands beside them and gazes at them in wonder,
at everything, even this typewriter and these women. He will never understand.
His books are amazing. He himself is far more amazing. Many thanks for
everything. I wish you all the best. I'm allowed to visit you when I come
to Prague, am I not? I send you my most heartfelt greetings.
Hiển nhiên tất cả chúng ta đều có thể sống,
bởi là vì lúc này lúc khác, chúng ta đều có thể kiếm ra nơi ẩn náu, trong
1 lời dối trá, trong sự mù lòa, hưng phấn, lạc quan, tin tưởng, biếm thế,
hay một điều gì khác. Nhưng anh ta [Kafka] không làm được như thế, anh ta
chẳng bao giờ chạy tới bất cứ 1 nơi ẩn náu, không một nơi ẩn náu. Anh ta
tuyệt đối không thể nói dối, như anh ta không thể say rượu. Anh ta không
có lấy 1 chốn ẩn náu cho dù nhỏ bé nhất. Anh ta không có 1 nơi trú ẩn. Chính
vì thế mà anh ta cứ thế phơi ra trước mọi thứ, mọi điều mà chúng ta được
che chở, từ chúng. Anh ta như thể 1 kẻ trần truồng, giữa đám người ăn vận
quần áo. Mọi thứ, mọi điều anh ta là, nói, và sống, không thể, ngay cả, được
gọi là sự thực; sau cùng, đây là một sinh vật được tiền định, tính toán từ
trước, một sinh vật ở trong nó, và của chính nó, có mà chẳng cần hư vô thêm
vào, cái hư vô có thể cho phép anh vặn vẹo hình ảnh của anh ta về thế giới
- trở thành cái đẹp, hay sự chán chường, kiệt quệ. Và chủ nghĩa khổ hạnh
của anh ta thì hoàn toàn không-anh hùng - từ đó, tất cả lớn lao, cao vời
vợi. Mọi “chủ nghĩa anh hùng” thì là dối trá, hèn nhát. Đây không phải là
1 kẻ chọn khổ hạnh, như là một phương tiện đưa tới cứu cánh; dây là 1 người
đàn ông bắt buộc khổ hạnh bởi là vì cái tiên tri khủng khiếp của anh ta,
sự trong trắng của anh ta, và cái không thể thoả hiệp của anh ta.
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
Lá thư tình nằm ở dưới cái sô pha
Viên thiếu tá công binh, trẻ, là người tìm thấy lá tình thư, khi anh ta xục
xạo cái villa mà mà đơn vị của anh ta thừa hưởng từ người Đức.
Đám lính sợ tụi Đức gài mìn, gài bẫy, một việc làm vô ích, theo tôi, bởi
là vì chúng tôi tới đảo, rất êm ru bà rù, chỉ để chứng kiến một đơn vị đồn
trú, tất cả đều đói lả, rất ư là mừng đón tiếp chúng tôi.
Đám limh tráng Đức đúng là đang chết vì đói, cứ mỗi ngày là có 200 người chết đói, lính tráng và thường dân.
Nơi chốn, tôi muốn nói, hòn đảo, trông giống như 1 cái xác đang lảo đảo,
kéo lê cái thân xác của nó, tới hố chết, thì cứ nói đại như thế.
Tôi vẫn còn giữ như in, trong đầu óc của mình, hình ảnh, những chiếc tiềm
thủy đĩnh, bò lên bãi, mở ra những thùng bánh bít qui, dưới ánh đèn pin,
rồi cứ thể thẩy vô những cánh rừng, là những cánh tay người đang vẫy vẫy.
Đọc bài viết trên Blog NL, thấy có nhắc tới bài viết nhảm nhí của Đinh Bá Anh mà Tin Văn vừa mới lèm bèm về nó.
Đấng DBA này đưa ra 1 phát giác động trời: Kim Trọng chính là nhân vật vĩ đại trong Kiều của Nguyễn Du.
Cái sự kiện Kiều là hình ảnh “đoạn trường”, qua đó, ND gửi gấm tâm sự của
ông, mà cái tâm sự này, như GCC đã nhìn ra, từ những ngày mới tập tễnh bước
vào làng văn, nó liên can đến chính “cái gọi là” viết văn, làm thơ, nó như
thế này: Nếu cái sự viết ai oán, thì cái sự đọc lại là hoan lạc. Và bèn chôm
câu của Kafka, để “đóng đinh thập tự” cho cái nhận xét của Gấu: Nhà văn là
1 thứ dê tế thần. (1)
Một anh chàng như Kim Trọng, có làm được cái quái gì, mà sao lại là nhân
vật vĩ đại của Nguyễn Du, nhân vật hóa thân của ND cho được?
Tuy nhiên, bỏ chuyện đó đi, nhảm lắm, phi thì giờ, phí chữ. Vấn nạn mà Gấu muốn trình ra ở đây, là:
Kiều, OK, nhưng tại sao, Kiều?
Tại sao luôn là một hay nhiều nhân vật nữ, trong 1 thứ sử thi như “Kiều” của ND?
Như nàng chinh phụ, trong Chinh Phụ Ngâm.
Nàng… DTH – xin lỗi GCC không nhớ tên, nhân vật chính - trong Thiên Đường Mù?
Thanh, tiếng hát, Trở Về Mái Nhà, Xưa, trong Bếp Lửa.
Lara, trong “Tu Bíp Zhi Và Gồ”?
Thừa thắng xông lên, Cô Bạn, trong Cõi Khác của GCC.
BHD trong Tứ Khúc
Hà, hà!
Vấn nạn nhớn, nhe!
(1)
Bản tiếng Anh: He is the scapegoat of mankind. He makes it possible for men to enjoy sin without guilt, almost without guilt.
Anh ta là dê tế thần của nhân loại. Nhờ anh ta mà nhân loại enjoy tội, mà không lỗi gì ráo!
Đề tài mà GCC đang tính viết, là về những nhà thơ nữ Nga. Họ vừa là nhân
vật, vừa là tác giả, đại diện cho thời mà họ sống, theo nghĩa, chịu đựng
nó,
Những Anna Akhmatova, bà vợ Osip Mandelstam, Tsvetaeva….
Nhân đang đọc bài viết của Simic, “Tsvetaeva, một đời bi thương”
Tôi không phải là thơ Nga, và luôn luôn kinh ngạc khi được coi là, và được nhìn dưới ánh sáng, một nhà thơ Nga.
Lý do 1 con người là nhà thơ là để tránh là Tẩy mũi lõ, là Bắc Kít mũi tẹt, Nga Gấu Mẹ Vĩ Đại… để được là đủ thứ trên đời.
[Tsvetaeva, trong 1 thư gửi người đã từng là người yêu của Bà, Rilke]
I am not a Russian poet and am always astonished to be taken for one and
looked upon in this light. The reason one becomes a poet (if it were even
possible to become one, if one were not one before all else!) is to avoid
being French, Russian, etc., in order to be everything.
A bit later in that same letter, however, she says: "Yet every language has something that belongs to it alone, that is it." Tsvetaeva is the poet of that it.
Note: Bài viết của tên ký giả bộ lạc Cờ Lăng, Gấu đọc trên nét, cũng lâu rồi, nay được Công Tử Hà Đông lôi ra chửi.
Thì cũng đáng đời.
Tuy nhiên, khi đọc, Gấu nhận ra là, không phải anh tù thương tiếc thằng cai tù, mà là khoe một tri âm của “ảnh”!
Bởi là thằng cai tù VC ra lệnh cho tên tù Ngụy, “ta cấm mi không được thất bại”!
Ui chao, trong số những tên Ngụy đi học tập cải tạo mút mùa lệ thuỷ, có thể
có người gặp 1 tên cai tù còn tí ti lương tâm, nhưng làm sao gặp được “tri
âm” như tên này!
Ai đã từng đi tù VC thì đều biết, có 1 khoảng cách rất “lớn”, theo nghĩa
đen của từ này, giữa quản giáo và tù. Cấm không được tới gần, thấy quản giáo
là phải cúi mặt…
Dễ gì mà gặp được tri âm, được tri âm thỉnh thoảng thí cho điếu thuốc lá.
Có điều, đọc bài viết, thì thấy tên ký giả quèn này quên không khoe, đã làm
được những gì, để xứng đáng với câu phán của tên cai ngục VC, ta cấm mi không
được thất bại?
Tù Ngụy, trên thực tế, sướng hơn quản giáo VC rất nhiều, ai đã từng đi tù
VC thì đều nhận ra điều này. Gia đình, nói riêng, và Miền Nam nói chung,
không quên người thân của họ. Lẽ tất nhiên, vẫn có những ngoại lệ. Ai đã
từng đọc “Nhà Hội”, của Amis, đọc Solz, đọc Anne Applebaum... viết về Gulag,
có 1 khoảng cách rất lớn, về đẳng cấp, giữa quản giáo và người tù. Tội ác,
thù hận, thường là giữa tù với nhau. Dễ gì mà gặp quản giáo, làm sao có thù
hận, giữa họ? Nói
rõ hơn, VC dùng chính sách tù trị tù. Chúng chọn những tên tù chúng tin tưởng,
làm ăng ten, trao cho chức tước này nọ, để cai trị lũ tù còn lại. Nazi cũng
dùng chính sách này. Nếu có thù hận, là giữa tù và ăng ten.
Sở dĩ Duyên Anh
bị đánh là còn do lý do, có dư luận ông đã từng làm ăng ten, và đối xử tàn
tệ với người ơn của ông, là Nguyễn Mạnh Côn.
Nhớ, ông phủ nhận chuyện này,
khi trả lời Đỗ Tiến Đức.
Ghi chú
của người dịch.
Kể từ khi cuốn sách được xb vào
năm 1955, nó trở thành nổi tiếng trên thế giới dưới cái tít Tây, thành
thử - và
cũng theo lời yêu cầu của M. Lévi-Strauss – chúng tôi giữ nguyên tên
của nó. Những
“Sad Tropics”, “The Sadness of the Tropics”, “Tragic Tropics”… đều
không chuyển
được ý nghĩa, và hàm ngụ của “Nhiệt đới buồn thỉu buồn thiu”: “Tristes
Tropiques”, vừa đọc lên là đã thấy tếu tếu và thơ thơ, ironical and
poetic, bởi sự lập đi lập lại của âm đầu, bởi nhịp điệu căng thẳng (- U
U – U),
bởi giả dụ về một “Hỡi ơi, Nhiệt đới
buồn”, “Alas
for the Tropiques”. Cuốn
này đã được dịch ra tiếng
Việt, “Nhiệt đới buồn”.
Đúng ra, nên dịch là Nhiệt đới buồn
thiu, (1) hay buồn hiu, thì vẫn giữ được
tính tếu tếu, lẫn chất thi ca, nhưng, có thể vì đã có cụm từ nổi tiếng
của PTH,
rồi, cho nên đành bỏ chữ "thiu" đi chăng?
Xin giới thiệu, để tham khảo,
bài viết của DMT:
Theo nhà nghiên cứu Pháp Pierre Roussett, tác
giả cuốn Communisme et Nationalisme Vietnamien, xuất bản năm 1978, thực ra
Việt Minh là lực lượng được mang tới quyền lực, hơn là người đã giành được
quyền lực.
BBC
Note: Cái tên của nhà nghiên cứu, viết trật.
Tên ông này là Pierre Rousset.
GCC đã nói rồi, đám Bi Bì Xèo này dốt lắm!
Tên của người ta mà cũng viết trật.
Bác Hồ, mà thành Bác Hố [Xí], VC sao chịu nổi!
Cái chuyện khoảng trống quyền lực thì cũng có lý, nhưng tại làm sao chỉ có Vẹm, biết nắm lấy cơ hội?
Trần Trọng Kim, đếch phải Vẹm, tất nhiên, trong cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi
cho biết, ông có tới gặp Vẹm, đề nghị nắm vòng tay nhớn, Vẹm lắc đầu, tụi
mi là Việt Gian, chúng ông sẽ làm thịt sạch, nhớn với chẳng bé gì.
Lẽ tất nhiên, đây là ngôn ngữ của Gấu Cà Chớn, nhưng quả có cái cú gặp gỡ,
và Vẹm vờ. TTK nhận xét, lũ này hiếu chiến quá, thể nào cũng gây họa.
Có khoảng trống quyền lực, cái khoảng trống giữa "No Longer" và "Not Yet" mà Hannah
Arendt đã nói tới, và Vẹm đã lợi dụng nó, chỉ cho Vẹm.
Không chỉ khoảng trống quyền lực, mà còn khoảng trống văn học, và lỗi
này, GCC đã từng lèm bèm, là của Tự Lực Văn Đoàn. Đám này quá mê đổi mới,
mê Tây Phương [Pamuk cũng đã nói tới tình trạng này, ở nước ông, khi viết
về Dos], cộng thêm cái thái độ đứng trên cao, ngó xuống, cái gì gì, “bùn
lầy nước đọng”, Vẹm bèn thừa cơ nắm lấy lũ “ngu dân vô học”, với cái trò
“tam cùng”, hay mánh lới sửa thư viết đúng văn phạm, thành thứ sai bét nhè,
để lừa họ.
Đám
Mít làm Bi Bi Xèo này, như GCC đã từng tường trình, đều ra khỏi xứ Mít sau
1975, nhờ VC ăn cướp được Miền Nam, qua ngả Đông Âu, sau khi Bức Tường sụp
đổ, do chính sách của Bi Bi Xèo, thay hết đám gốc Ngụy, bằng đám gốc Bắc
Kít. Cái chuyện dốt, một phần là do đó. Không chỉ dốt, mà còn không biết
cách ứng xử như 1 tên văn minh.
Gấu đã từng khui ra khá nhiều lỗi lầm, khi dịch, khi sử dụng tiếng Mít, chưa 1 lần được chúng cám ơn cái con khỉ gì hết.
Quần đảo [Gulag] biến thành bán đảo, 1 cái lỗi như thế, còn chứng tỏ, chúng mù tịt về trại tù Liên Xô.
Lỗi, khi có người chỉ ra, là phải cám ơn. Đây là luật.
Tất nhiên, của lũ văn minh!
GCC đã từng bị “mắng yêu” nhiều lần, sao mi hay xin lỗi như thế!
Hơi tí là xin lỗi!
Ui chao, cứ như thể Dostoevsky thì thầm vào
tai tui, dậy cho tui cái ngôn ngữ bí mật của linh hồn, đẩy tôi vào xã hội
của đám tiến bộ, tuy, bừng bừng vì những giấc mộng thay đổi thế giới, nhưng
bị khoá chặt ở trong những hội kín hội hở, và hơi bị thích thú cái trò khốn
nạn, đánh lừa những kẻ khác, nhân danh cách mạng (1), đầy đọa, làm nhục,
làm mất nhân phẩm, những người không nói thứ ngôn ngữ cách mạng, không chịu
cùng chia sẻ viễn ảnh về một ngày mai ca hát của chúng.
(1) Đúng là tình cảnh nước Mít, năm 1945, trong có hoàn cảnh một nhạc sĩ,
nhà thơ, vì bát cơm của tổ trưởng tổ cách mạng, me-xừ Vũ Quí nào đó, mà phải
cầm súng đi làm thịt tay ăng ten cho hiến binh Nhật, Đỗ Đức Phin, và sau
này, sám hối, viết Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca.
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
Lá thư tình nằm ở dưới cái sô pha
Viên thiếu tá công binh, trẻ, là người tìm thấy lá tình thư, khi anh ta xục
xạo cái villa mà mà đơn vị của anh ta thừa hưởng từ người Đức.
Đám lính sợ tụi Đức gài mìn, gài bẫy, một việc làm vô ích, theo tôi, bởi
là vì chúng tôi tới đảo, rất êm ru bà rù, chỉ để chứng kiến một đơn vị đồn
trú, tất cả đều đói lả, rất ư là mừng đón tiếp chúng tôi.
Đám limh tráng Đức đúng là đang chết vì đói, cứ mỗi ngày là có 200 người chết đói, lính tráng và thường dân.
Nơi chốn, tôi muốn nói, hòn đảo, trông giống như 1 cái xác đang lảo đảo,
kéo lê cái thân xác của nó, tới hố chết, thì cứ nói đại như thế.
Tôi vẫn còn giữ như in, trong đầu óc của mình, hình ảnh, những chiếc tiềm
thủy đĩnh, bò lên bãi, mở ra những thùng bánh bít qui, dưới ánh đèn pin,
rồi cứ thể thẩy vô những cánh rừng, là những cánh tay người đang vẫy vẫy.
Note: Trên net có mấy bài về Sebald, link ở đây, rảnh - những khi bớt nhớ
ai đó - dịch hầu quí vị độc giả TV, như GCC, mê Sebald, người có tài biến
nỗi ám ảnh của ông, thành, của chúng ta
Kim Trọng – Nhân vật văn chương vĩ đại của Nguyễn Du
Bác sĩ Zhivago là cuốn tiểu thuyết Gấu đọc, lúc mới lớn, thời gian biết bạn
Chất, em trai TTT, và được anh đưa về nhà giới thiệu.
Đọc cùng với bà cụ Chất. Cả hai bà cháu cùng quá mê nhân vật Lara.
Và khi viết bài điểm sách đầu tiên trong đời viết lách, cho tờ Dân Chủ, cuốn
Sau Cơn Mưa của Lý Hoàng Phong, Gấu đã nhìn ra, Hà, nhân vật nữ trong đó,
cũng 1 thứ Lara.
Rồi khám phá ra Hà, của Nhất Linh, bảnh hơn nhiều so với Loan, trước cả chính
Nhất Linh, khi viết Viết và Đọc tiểu thuyết, mới nhìn ra.
Rồi Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo Ninh.
Nhân vật nữ của Dương Thu Hương mà chẳng bảnh sao. Gấu mê nhất nhân vật trong
Thiên Đường Mù, hình như thế, qua Liên Xô lao động, nuôi cả 1 xứ Bắc Kít
– nói quá cho vui, nhưng có cái gì đúng trong đó. Bắc Kít, sở dĩ phát động
cuộc chiến lý do tiềm ẩn của nó, là do đói. Bắc Kít, sống nhờ chiến tranh,
và khi hết chiến tranh, có thời gian đói khủng khiếp, như 1 nhà văn nữ của
nó [LMH, trên FB] nhận xét.
Không chỉ Gấu, mà Calvino, khi đọc Bác sĩ Zhivago, cũng nhận ra, cả mấy tên
đàn ông vây quanh Lara, đều là những kẻ thất bại trong đời, kể cả cái tay
theo Cách Mạng, tức Người Sắt, Strelnikov.
Có mỗi 1 tên đường được, chính là cái tên người tình của mẹ Lara, sau làm thịt cả con.
Thảm nhất, là Zhivago, biết mình chẳng ra gì, bèn giao người yêu cho tên này, rồi ngồi làm thơ, nhớ em!
Vậy giờ thì mới vô đề:
Cái tên Kim Trọng, thất bại của thất bại, vậy mà bây giờ được đám Bắc Kít
khen lấy khen để, nhân vật văn chương vĩ đại của Nguyễn Du!
Xuyên suốt lịch sử xứ Bắc Kít, chưa từng có 1 nhân vật tiểu thuyết đàn ông nào cho ra hồn.
Không tin ư?
Hãy thử nêu ra 1 tên.
Thảm nhất có lẽ là Nhất Linh.
Tác giả không, mà nhân vật cũng không!
Cứ kéo cao cổ áo, đứng đầu gió, cho tóc xù ra, nơi Bến Đò Gió, mơ làm cách mạng, cuối cùng thua anh Vẹm, cả lũ!
Làm khổ lây cả Miền Nam!
Gấu nhớ là có
đọc đâu đó, người tình Lara của Pạt là nhân viên KGB, nhưng đọc bài
viết trên
TLS, không phải.
Số phận Lara thật là thê
lương, sau khi Pạt mất. Và nhân vật nữ
này quả đúng là tượng trưng cho nước Nga nát tan vì Cách Mạng: Liệu
chúng ta có
thể coi cái cú em Phương bị 1 bầy Bộ Đội Cụ Hồ bề hội đồng ở ga Thanh
Hoá, như là 1 lời
tiên tri - trù ẻo đúng hơn - và sau đó, trong "Cánh Đồng Bất Tận", nó
biến thành… hiện thực?
Awarded the
Nobel Prize for Literature in 1958, he was compelled by the Kremlin to
renounce
it. The Komsomol leader, Vladimir Semichastnyi, contrasted him
unfavorably with
a pig which would never foul its own sty. Pasternak, ailing in health
for
years, speculated that the KGB might try to poison him. But he stuck to
his
guns; and although he gave way to Khrushchev on secondary matters, he
took
satisfaction in the lasting damage he had done to the Soviet order.
What he
could not do was protect Olga Ivinskaya from persecution. When he died
in 1960,
her vulnerability was absolute and she was arrested. Even if she had
not been
involved in the practical arrangements for publication abroad, the KGB
would
probably still have gone after her. Indeed, Pasternak had intimated
that she
was the model for the novel's heroine, Lara.
Ở Miền Nam,
một nhân vật nữ như Lara, thấp thoáng trong Hà, trong “Sau Cơn Mưa” của
Lý
Hoàng Phong. Ngay từ bài điểm sách đầu tay trên nhật báo “Dân Chủ”, Gấu
đã đưa
cái nhìn này, khi coi “Sau Cơn Mưa” là bản phác, esquisse, cho một cuốn
tiểu
thuyết sẽ có, giống như “Bác Sĩ Zhi Và Gồ” của Pạt.
Nhưng thay vì Zhi Và Gồ, thất
bại, thì là Kiệt, bị bắn chết, trong “Một Chủ Nhật Khác”, và thay vì
Lara, thì
là Hiền, biệt tích đâu đó, trong trí tưởng của Kiệt, như khi anh nói
với vợ, Thùy,
anh đưa cô ta tới đó, rồi trở về với em.
Calvino coi “Bác Sĩ Zhi Và
Gồ” là 1 Odyssey
của thời đại chúng ta:
… The
exceptions are the chapters evoking Zhivago's final wanderings through
Russia,
the horrific march amongst the rats: all the journeys in Pasternak are
wonderful.
Zhivago's story is exemplary as an Odyssey of our time, with his
uncertain
return to Penelope obstructed by rational Cyclops and rather unassuming
Circes
and Nausicaas.
Trong ba người đàn ông vây
quanh Lara, cả hai đấng Zhivago, và Người
Thép Strelnikov, đều là những kẻ thất bại, không xứng với Em, như
Calvino nhận định. Xứng với em theo ông, là cái tên khốn nạn, bồ của bà
mẹ của em:
During the
civil war in the Urals, Pasternak shows us both men as though they were
already
destined for defeat: Antipov-Strelnikov, the Red partisan commandant,
terror
of the Whites, has not joined the Party and knows that as soon as the
fighting
is over he will be outlawed and eliminated; and Doctor Zhivago, the
reluctant
intellectual, who does not want to or is not able to be part of the new
ruling
class, knows he will not be spared by the relentless revolutionary
machine.
When Antipov and Zhivago face each other, from the first encounter on
the armed
train to the last one, when they are both being hunted in the villa at
Varykino, the novel reaches its peak of poignancy.
*****
Đã đành mĩ nhân dậy thì là niềm
cảm hứng khó diễn tả của không ít nhà văn nam – chuyện này vốn không có gì
lạ và mới – nhưng các nàng thường chỉ là đối tượng gây cảm hứng, là căn cớ
của nỗi niềm, chứ không phải hóa thân của họ.
DBA
Nhân vật nữ thường là nhân vật tượng trưng cho đất nước, nhất là trong 1 thời kỳ loạn lạc.
Lara là nước Nga thời kỳ cách mạng vô sản. Phương, người nữ Bắc Kít thời
kỳ chống Mẽo kíu nước. Chinh Phụ Phâm, Trịnh Nguyễn phân tranh….
Tên này, viết chẳng khác gì 1 đứa con nít mới lớn!
Bà mẹ Nga của Makine mới ghê:
Khác với Pasternak với một Lara, ở đây, những người như A. Makine, "họ trốn
chạy, thứ tình yêu như vậy. Họ cố tự cứu mình. Thất bại, họ trù ẻo, viết
lách, và hát hỏng về nó, họ nhận được giải thưởng, bằng khen, ở nơi quê người,
hay là quê hương lưu đầy, vương quốc hải ngoại bịa đặt của họ." Tác giả Dr.
Zhivago cuối cùng phải "tôi chọn mẹ tôi" và từ chối giải Nobel. Với "Giấc
Mơ Hè", lòng tự ái, tự hào Nga chắc chắn là rất thỏa mãn. Bởi vì trường hợp
đoạt giải văn chương Pháp của "Giấc Mơ" thật đáng gọi là một scandale văn
học (T. Tolstaya).
Phương của Bảo Ninh, tượng trưng cho người đàn bà Miền Bắc, ị vào cuộc chiến
ăn cướp của VC: Đâu có còn đêm nào như đêm nay, thằng ngu kia ơi. Nếu mi
nghe theo Đảng, xẻ Trường Sơn kíu nước, thì ta sẽ đem bướm của ta “cho không’
lũ bộ đội Cụ Hồ, bạn của mi!
Số phận Lara thật là thê lương, sau khi Pạt mất. Và nhân vật nữ này quả đúng
là tượng trưng cho nước Nga nát tan vì Cách Mạng: Liệu chúng ta có thể coi
cái cú em Phương bị 1 bầy Bộ Đội Cụ Hồ bề hội đồng ở ga Thanh Hoá, như là
1 lời tiên tri - trù ẻo đúng hơn - và sau đó, trong "Cánh Đồng Bất Tận",
nó biến thành… hiện thực?
Một tên, mù tịt về văn học, vậy mà cũng bày đặt viết phê bình!
Gấu cũng đã từng đi vài đường về nàng Kiều của Nguyễn Du.
Trước 1975, sau cú phạng nhà thơ NS, bị ông và ê kíp của ông, cũng đông lắm,
trong có Thương Sinh, chửi, ròng rã cả năm trời, Gấu đếch thèm trả lời, chỉ
đến khi tờ Văn làm số Tưởng Niệm ND, bèn đi 1 đường.
Bài viết này, được Sến tìm thấy được, bèn cho đàn em type, post trên talawas,
sau được mấy đấng trong nước mail cho, tks all, post lại ở đây, bonus bài
“Ba trăm năm sau có ai khóc GCC!” (1)
Nguyễn Du biết trước, ông sẽ phải đối đầu với một nàng Kiều. Có thể
ngay từ khi còn là một đứa bé, theo ông anh đi tới trà đình, tửu quán,
nghe một nàng Kiều nào đó thốt lên lời đau thương, ông đã nhận ra cái
tâm
sự đồng bệnh tương lân giữa nghệ sĩ và nghệ sĩ… Người đời sau tra hỏi,
Nguyễn Du viết Truyện Kiều khi nào, trước hay sau khi đi sứ, trước hay
sau loạn Tây Sơn… tôi xin được có "ý kiến ý cò" ở đây: ông viết nó,
ngay từ giây phút bước chân vào đời, hay nói rõ hơn: ngay từ giây phút
bước chân vào một nhà hát ả đào, nghe tiếng hát cất lên: "Đời ca hát
ngày tháng, cho người mua vui",
"Sống làm vợ khắp người ta"…, và "cậu bé" sững sờ tự hỏi: "Phải
chăng
lời ca của cô làm chúng ta bay bổng, hay biết đâu, chính sự lặng ngắt
dị
thường quấn quít quanh sợi tơ, là tiếng hát của cô?" (Josephine
the
Singer, or Mouse Folk, Josephine Nữ Ca sĩ, hay là Dân Chuột. Kafka).
Đâu có khác nhà tiên tri, chịu không thấu gánh nặng mặc khải: gánh nặng
mặc khải của Nguyễn Du, là nàng Kiều; ông biết ông sẽ phải đương đầu
với "nó". Và "nó" phải thành công. Và thiên hạ sau này sẽ chỉ biết tới
"nó". Ông cầu mong được san sẻ một vài giọt nước mắt, khi thiên hạ nhỏ
xuống,
cho một "ma không chồng".
"Cuộc đời trăm năm rách nát với văn chương" (thơ
chữ Hán, Nguyễn Du). Đâu khác chi Kafka, khi khẳng định: "Ông Trời
‘năn nỉ’ tôi đừng viết nhưng tôi phải viết" ("Dieu ne veut pas que
j'écrive, mais moi je dois"). Nguyễn Du, thời gian "trốn đời, ở
ẩn", khiêm tốn gọi mình là một tên thợ săn ở núi Hồng Sơn (tài liệu từ
cuốn thơ chữ Hán của Nguyễn Du, in ấn ở miền bắc, lọt vào miền nam do
ngả Paris, người viết được đọc trước 1975); lúc này ông già, yếu, đói,
bịnh, và đói, nhưng "nhằm nhò chi ba cái lẻ tẻ", cuộc đời trăm năm đã
dành cho "mắt xanh" mất rồi, đâu có thời giờ đi kiếm tiền chữa bịnh!
Ông than van, ông cầu mong; nhưng "bạn của ông", nhà văn người Pháp,
Gustave Flaubert, thì không "hiền khô" như vậy: Flaubert đã từng phát
điên lên, tại sao ‘con điếm’ Bovary cứ sống hoài, trong khi ta nằm
đây, chết như một con chó ghẻ? (Flaubert cried out against the paradox
whereby he
lay dying like a dog whereas that ‘whore’ Emma Bovary, his creature…
continued alive. G. Steiner, The Uncommon Reader). Đời đọc tính
theo giờ, đời
sách tính bằng thiên niên kỷ. Pindar là người đầu tiên nhận ra sự trớ
trêu
này: Khi thành phố mà tôi ca ngợi, đã lụi tàn, khi những
con người mà tôi hát hỏng, đã chìm vào quên lãng, những con chữ của tôi
vẫn
còn hoài. Đây chính là "sợi chỉ xuyên suốt", khởi từ Horace với
khẳng
định ‘exegi monumentum’* tới Mallarmé, với giả dụ rằng: thế giới hiện
hữu
là để tiến tới một cuốn sách, cuốn sách sau cùng, bản văn vượt thời
gian
(the final book, the text that transcends time. George Steiner)
....
nhưng các nàng thường chỉ là đối tượng gây cảm hứng, là căn cớ của nỗi niềm, chứ không phải hóa thân của họ.
DBA
Ui chao, giả như Kiều là hóa thân của... Nguyễn Du?
Hay ND…. lesbian?
Dám lắm!
Hà, hà!
(1) "Cái này" là K cảnh cáo, mi không bớt chửi tục, thì 300 năm sau, hậu thế kiếm mi đọc, chỉ thấy “đếch”, với “kít”…
'I am memory come alive' … Franz Kafka. Photograph: Culture Club/Getty Images
Note: Câu của Kafka, I am memory come alive, Gấu đã từng chôm, khi
còn Sài Gòn, trước 1975, qua bản tiếng Tây, "Je suis une mémoire devenue
vivante d’où l’insomnie", và đặt lên đầu truyện ngắn Kiếp Khác.
Phùng NguyễnKhông
biết đây có phải là nhà văn lão thành Nguyễn Quốc Trụ cùng thời với
những Nguyễn Xuân Hoàng, Đặng Phùng Quân, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Nhật
Duật... hay chỉ là là một tên vô lại nào đó giả tên Nguyễn Quôc Trụ vô
đây đưa ra lời "còm" với ẩn ý tồi b...See More
Note: Tên PN này, biết rõ là còm của GCC, nhưng vẫn hỏi, để phang ra từ “vô lại”.
Người khác, có thể sẽ tự hỏi, tại sao có cái còm như thế, và sẽ thấy ngay câu trả lời.
Không một người phê bình, hay điểm sách, cẩn trọng, lại dùng từ “sâu”, để
đọc 1 cái bài viết có tên là “phần mềm”, của 1 nữ tác giả.
Đây là vô thức làm việc, nói theo Freud. Tâm địa khốn nạn, nghĩ chuyện xấu xa, bửn thỉu, bật ra từ nhơ bẩn.
Sao lại trách GCC cho được?
Phải có 1 người làm 1 cái việc bực mình như thế này, ở đây.
Bà này, ngay từ khi mới viết, là đã sử dụng những từ, những cảnh gây sốc rồi.
"Nhà có cửa khóa trái", rồi xin cái xịp làm kỷ niệm đi, bây giờ già rồi,
thì "phần mềm".
Khốn nạn nhất, theo GCC là cái chuyện quá mê danh hão, cho công bố thư riêng.
Một thứ thư như thế, đâu có thua gì của Kafka gửi Milena, còn hơn thế nữa,
vì với Kafka, thiên hạ biết, còn với bà này, chỉ mình bà ta biết, quí biết
bao, vậy mà khoe hết, cực là tởm!
Tên PN này, hồi GCC mới viết cho Văn Học, lần đầu, khi chưa giữ mục Tạp Ghi, tự động
lấy bài viết gửi cho VHNT trên lưới của PCL.
Khi biết, Gấu bực quá,
có hỏi, tại sao mi làm 1 chuyện vô hạnh như thế.
Anh ta không trả lời.
Đúng ra là phải trả lời.
Đúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.
NQT
(1) “chỉ mình bà ta biết, quí biết bao”: GCC thực sự không tin, bà này hiểu được điều này.
Trong Mùa Hè La Mã, anh phóng viên không công bố những bức hình của nàng
công chúa, và thay vì vậy, thì gửi hết cho người đẹp vương giả:
For your eyes only.
V/v Thư Kafka. Mãi về sau, khi cô con gái của Milena, Jana Cerna, đã lớn,
rất bực về việc công bố thư. Cô tuyên bố, cả hai, mẹ tôi và Kafka, nếu còn
sống, là đều phản đối.
Thứ Sáu, ngày 8 tháng 3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm
thi sĩ Joseph Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28, 1996), Nobel
văn chương 1987, tại nhà thờ St. John the Divine, New York, có lẽ đã
đúng như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống vị kỷ, những người bạn của
ông đã nhắc nhở nhau về những chu toàn, the achievements, ngôn ngữ - the
language - của người quá cố:
SN Gấu, FB nhắc, bằng cái memory về Brodsky.
Tuyệt!
SN năm ngoái, thì đi 1 đường chúc mừng.
Được, được!
Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi.
Hai câu thơ này, Gấu nghe Joseph đọc cho nghe, chưa từng đăng báo.
Vậy mà có 1 đấng, cũng thi sĩ, đọc đâu đó, trên Khởi Hành!
Nhắc lại 1 lần là lần đầu là lần chót, là, Joseph Huỳnh Văn chưa từng đăng thơ ở đâu hết, khi còn
sống, trước 1975, ngoài Tập San Văn Chương, tờ báo của bạn bè, do anh làm Tổng
Thư Ký.
CHÚC LUÔN KHỎE ĐỂ GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG THẾ GIỚI .
CHÚC LUÔN NHỚ ĐỂ NHỮNG "ĐỜI" TRƯỚC MÃI VẪN ĐẬM TRONG KÝ ỨC
CHÚC LUÔN QUÊN ĐỂ NHỮNG "THNM" MẤT DẤU BỚI HOÀI TRONG TRÍ VẪN KHÔNG RA
CHÚC LUÔN AN ĐỂ HƯỞNG HẠNH PHÚC BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU ĐANG HIỆN DIỆN
K
Đa tạ.
GCC
hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn:
Tuyệt!
Tks
NQT
Nhớ là Kundera có nhận xét, cái gì gì, "chúng ta có một đời để sống", nhảm.
Một đời thì sống làm khỉ gì. Phải vài đời, nhiều đời, đời đời.
Gấu Cà Chớn cũng nghĩ như thế, và cũng đã kể về vài đời Gấu đã từng trải
qua. Luôn cả 1 tiền kiếp của GCC.
Trong những cuộc đời như thế, khủng nhất là
cuộc đời dởm, chẳng có gì hết, vậy mà cực kỳ thê thương….
Ui chao, Vargas Llosa cũng phán như thế, và không chỉ phán, mà còn đi cả
1 cuốn tiểu thuyết về nó, và ông coi đó là giấc mơ của 1 tên… Bắc Kít, Ái
Nhĩ Lan.
Each one of us is, successively, not one but many. And these
successive personalities that emerge one from the other tend to present the
strangest, most astonishing contrasts among themselves.
-Jose Enrique Rodó, Motives of Proteus
“The Dream of the Celt” is a moral tale. It is about the choice between denial
or denunciation in the face of evil, and the fine line between activism and
fanaticism. That makes an old story strikingly contemporary.
“Giấc mơ của tên Bắc Kít, GCC” là một câu chuyện đạo đức. Đó là về sự chọn
lựa giữa nói “Không” với cái Cái Ác Bắc Kít – hay là ị vào mặt Bắc Bộ Phủ
như 1 bà nhà văn cũng Bắc Kít đã từng làm – và sợi dây mỏng dính, đẹp tuyệt
vời, như sợi sữa, trong 1 bức danh họa, (2) giữa hành động và cuồng tín.
Mỗi tên GCC trong chúng ta, là tiếp diễn của, không phải một, mà là nhiều
tên GCC. Trong số những tên GCC, tên nọ tiếp tên kia như thế đó, sẽ có 1
tên cực là khủng, chứa chấp trong nó, những tương phản lạ lùng nhất, kinh
ngạc nhất - bảnh nhất trong những tên GCC - giữa chúng.
Chắc là tên GCC làm trang Tin Văn?
Hay là tên chạy theo em BHD, khóc như cha chết ở Đại Lộ Cộng Hòa, bên ngoài cổng trường Đại Học Khoa Học?
Hay là tên khóc thằng em trai, tử trận, khiến một em không làm sao nỡ bỏ đi, lấy sữa cho con uống? (1)
Hay là…
Hay là...
Hà, hà!
(1)
Ui chao, đọc ba chớp ba nháng, as always, tưởng em không nỡ bỏ đi lấy chồng, hóa ra, con khóc, khát sữa, đi lấy sữa cho con!
I merely wish to remind the reader
once again (and Robert Conquest knows this very well) that the Soviet state
was not created out of thin air, that its inhabitants were the inhabitants
of yesterday's Russian state who awoke one fine morning to find themselves
under the so-called Soviet regime. The October revolution and the civil war
that soon followed led to the exile and destruction, or de-civilizing, of
the Europeanized Russian population (by Europeanized I mean people who were
literate, educated; who possessed a work ethic, a developed religious consciousness,
respect for law and reason; and who were also familiar with Europe and the
achievements of world culture). Those who survived and remained in Russia
lost the right to speak their mind and were too frightened or weak to influence
anything. Russian society, though it wandered in the dark for centuries,
had nonetheless by 19I7 given birth not only to an educated class but to
a large number of people with high moral standards and a conscience, to honest
people who were not indifferent to issues of social good. This is the intelligentsia
- not really a class but a fellowship of people "with moral law in their
breast," as Kant put it. Lenin hated them more than anyone else, and they
were the first to be slaughtered. When Maxim Gorky wrote to Lenin in their
defense, saying that "the intelligentsia is the brain of the nation," Lenin
answered with the famous phrase: "It's not the brain, it's the shit."
HAILED AS "the indispensable critic" by The
New York Review of Books, Harold Bloom- New York Times bestselling writer
and Sterling Professor of Humanities at Yale University- has for decades
been sharing with readers and students his genius and passion for understanding
literature and explaining why it matters. Now he turns at long last to his
beloved writers of our national literature in an expansive and mesmerizing
book that is one of his most incisive and profoundly personal to date. A
product of five years of writing and a lifetime of reading and scholarship,
The Daemon Knows may be Bloom's most masterly book yet. Pairing Walt Whitman
with Herman Melville, Ralph Waldo Emerson with Emily Dickinson, Nathaniel
Hawthorne with Henry James, Mark Twain with Robert Frost, Wallace Stevens
with T. S. Eliot, and William Faulkner with Hart Crane, Bloom places these
writers' works in conversation with one another, exploring their relationship
to the "daemon" -the spark of genius or Orphic muse-in their creation and
helping us understand their writing with new immediacy and relevance. It
is the intensity of their preoccupation with the sublime, Bloom proposes,
that distinguishes these American writers from their European predecessors.
As he reflects on a lifetime lived among the works explored in this book,
Bloom has himself, in this magnificent achievement, created a work touched
by the daemon.
“Nhà tiên tri của thoái trào”, “nhà phê bình không thể nào bỏ qua”, xuất
sắc nhất, không phải thời nào Mít - ấy chết xin lỗi – Yankee mũi lõ có thể
sản xuất ra được, trong hàng chục niên làm giáo sư, Bloom chia sẻ với sinh
viên và độc giả của mình, thiên tài và đam mê của ông trong cái sự hiểu biết
văn học, và giải thích cái sự tình tại sao lại như thế, why it matters.
Bi giờ, ông xoáy vào một số nhà nhà văn nhà thơ Yankee mũi lõ yêu quí của
ông, và, thuổng thày Phúc, ông cứ cho 1 ông đứng kế một ông, và kết quả có
được, là Quỉ Hiểu, The Daemon Knows.
Từ daemon này, độc giả Tin Văn đã từng gặp nó, khi đọc Tứ Tấu Khúc Alexandria của Durrell.
Ở đây, nó có nghĩa khác, với Bloom: the spark of genius, or Orphic muse,
ánh thiên tài loé lên, hay nữ thần Orphic [từ Orpheus].
Mít kêu là phút linh
cầu, “phiện thú lắm” [inspiration].
Hãy
chừa riêng ra cho anh,
những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn. (Épargne-moi
les blessures de
l’amour partagé
avec Justine). Lũ
đàn ông chúng mình, đều được
tạo ra bằng
bùn và quỉ ma của Sài Gòn.
GCC đọc Bloom lèm bèm về Wakefield, thấy thua xa Borges, khi viết về trưyện ngắn này
Một câu thần sầu, Borges vinh danh Hawthorne, TV gửi tới bạn đọc:
Khi Hawthorne mất, những nhà văn khác thừa hưởng ông, cái nhiệm vụ nằm mơ,
và, như… GCC, khóc thảm thiết, cứ như là đang sống những ngày Mậu Thân,
ở Xề Gòn.
When Hawthorne died, the other writers inherited his task of dreaming.
Borges viết thêm:
Trong 1 thời gian nào đó ở tương lai, chúng ta sẽ nghiên cứu - nếu bạn đọc
TV cho phép- vinh quang và sự dằn vặt, the glory and the torment, của Poe,
qua ông, giấc mơ bị đẩy tới mức biến thành ác mộng.the dream was exalted
to a nightmare.
Hãy làm thịt Hawthorne trước đã.
Chuyện Kể
Hai Lần. Trong cuốn này, có cả hai truyện, The
Ambitious Guest và Wakefield.
Borges viết, Hawthorne cố hiểu nó, loay hoay hoài với nó, tức
“Wakefield”, câu
chuyện 1 người chồng đi hoang [lưu vong] hai chục niên, vì vợ:
“Wakefield” is
the conjectural [phỏng đoán] story of that exile.
… The twenty-four chapters of The Scarlet Letter abound in memorable passages,
written in good and sensitive prose, but none of them has moved me like the
singular story of "Wakefield" in the Twice-Told Tales.
Hawthorne had read in a newspaper, or pretended for literary reasons that
he had read in a newspaper, the case of an Englishman who left his wife without
cause, took lodgings in the next street and there, without any- one's suspecting
it, remained hidden for twenty years. During that long period he spent all
his days across from his house or watched it from the comer, and many times
he caught a glimpse of his wife. When they had given him up for dead, when
his wife had been resigned to widowhood for a long time, the man opened the
door of his house one day and walked in-simply, as if he had been away only
a few hours. (To the day of his death he was an exemplary husband.) Hawthorne
read about the curious case uneasily and tried to understand it, to imagine
it. He pondered on the subject; "Wakefield" is the conjectural story of that
.exile, The interpretations of the riddle can be infinite; let us look at
Hawthorne's. He imagines Wakefield to be a calm man, timidly vain, selfish,
given to childish mysteries and the keeping of insignificant secrets; a dispassionate
man of great imaginative and mental poverty, but capable of long, leisurely,
inconclusive, and vague meditations; a constant husband, by virtue of his
laziness. One October evening Wakefield bids farewell to his wife. He tells
her-we must not forget we are at the beginning of the nineteenth century
-that he is going to take the stagecoach and will return, at the latest,
within a few days. His wife, who knows he is addicted to inoffensive mysteries,
does not ask the reason for the trip. Wakefield is wearing boots, a rain
hat, and an overcoat; he carries an umbrella and a valise. Wakefield-and
this surprises me-does not yet know what will happen. He goes out, more or
less firm in his decision to disturb or to surprise his wife by being away
from home for a whole week. He goes out, closes the front door, then half
opens it, and, for a moment, smiles. Years later his wife will remember that
last smile. She will imagine him in a coffin with the smile frozen on his
face, or in paradise, in glory, smiling with cunning and tranquility. Everyone
will believe he has died but she will remember that smile and think that
perhaps she is not a widow. Going by a roundabout way, Wakefield reaches
the lodging place where he has made arrangements to stay. He makes himself
comfortable by the fireplace and smiles; he is one street away from his house
and has arrived at the end of his journey. He doubts; he congratulates himself;
he finds it incredible to be there already; he fears that he may have been
observed and that someone may inform on him. Almost repentant, he goes to
bed, stretches out his arms in the vast emptiness and says aloud: "I will
not sleep alone another night." The next morning he awakens earlier than
usual and asks himself, in amazement, what he is going to do. He knows that
he has some purpose, but he has difficulty defining it. Finally he realizes
that his purpose is to discover the effect that one week of widowhood will
have on the virtuous Mrs. Wakefield. His curiosity forces him into the street.
He murmurs, "I shall spy on my home from a distance." He walks, unaware of
his direction; suddenly he realizes that force of habit has brought him,
like a traitor, to his own door and that he is about to enter it. Terrified,
he turns away. Have they seen him? Will they pursue him? At the comer he
turns back and looks at his house; it seems different to him now, because
he is already another man-a single night has caused a trans- formation in
him, although he does not know it. The moral change that will condemn him
to twenty years of exile has occurred in his soul. Here, then, is the beginning
of the long adventure. Wakefield acquires a reddish wig. He changes his habits;
soon he has established a new I routine. He is troubled by the suspicion
that his absence
Lại một lần, vào năm 1994 thì phải, tôi hỏi
ông: Xưởng phim muốn làm một phim tài liệu về anh. Theo anh, nên mời ai viết
kịch bản. Ai biết về anh hơn cả?
Nghĩ một chút rồi Tô Hoài lại thủng thẳng:
Chẳng ai biết về tôi bằng tôi. Tôi viết lấy là tốt nhất. Rồi ông
chép miệng như nói về một người nào: Người như ma, lúc là ma, lúc là người,
bố ai biết được là thế nào.
Note: Nhân mới đọc bài về Tô Hoài trên blog NL.
Bài viết về Tô Hoài hay nhất, đúng bài do ông viết, nhưng đề tên Vương Trí Nhàn.
Hay nói rõ hơn, ông để cho đệ tử của ông, viết về ông, tốt hơn là chính ông viết ra.
Cái tệ nhất của TH, theo Gấu, là không chịu nổi những người bỏ xứ Bắc mà
đi, như Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Hoạt, và luôn cả Võ Phiến, khi bỏ kháng chiến
về thành.
Cái gì làm cho ông tệ như thế?
Đây là 1 câu hỏi “lớn”, với những người như ông.
GCC có câu trả lời, nhưng thay vì nói ra, thì lấy chính câu của Tô Hoài,
tiện hơn. Người như ma, lúc là ma, lúc là người, bố ai biết được thế nào.
Cái lũ bỏ đi, chúng chọn làm người, bỏ lại phần ma.
Đúng như thế.
Một khi bạn bỏ đi được, có thể chưa chắc đã thành người, nhưng không lâm vào tình trạng lúc là ma lúc là người
Nhớ Walter Benjamin có phán, đâu đó, người
ta thích nghe kẻ đi xa về nhà nói khoác, nhưng chính cái kẻ ngồi bên Bếp
Lửa, mới rành chuyện quê nhà.
Tô Hoài là cả hai.
Nhờ Dế Mèn chở ông đi khắp thế gian, hưởng đủ thứ phần
thịt nhờ nó, nhưng ông chính là ngồi bên Bếp Lửa kể chuyện Bắc Kỳ!
Thứ Sáu, ngày 8 tháng 3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm
thi sĩ Joseph Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28, 1996), Nobel
văn chương 1987, tại nhà thờ St. John the Divine, New York, có lẽ đã
đúng như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống vị kỷ, những người bạn của
ông đã nhắc nhở nhau về những chu toàn, the achievements, ngôn ngữ - the
language - của người quá cố:
SN Gấu, FB nhắc, bằng cái memory về Brodsky.
Tuyệt!
SN năm ngoái, thì đi 1 đường chúc mừng.
Được, được!
Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi.
Hai câu thơ này, Gấu nghe Joseph đọc cho nghe, chưa từng đăng báo.
Vậy mà có 1 đấng, cũng thi sĩ, đọc đâu đó, trên Khởi Hành!
Nhắc lại 1 lần là lần đầu là lần chót, là, Joseph Huỳnh Văn chưa từng đăng thơ ở đâu hết, khi còn
sống, trước 1975, ngoài Tập San Văn Chương, tờ báo của bạn bè, do anh làm Tổng
Thư Ký.
Trên Tin Văn đã từng giới thiệu cái truyện ngắn thần sầu mà Borges cực mê,
của Hawthorne, "Wakefield". Bi giờ, mời quí độc giả thân mến của Tin Văn,
đọc lời phán của Thầy Kuốc - ấy chết xin lỗi - Thầy Bloom, về nó, về cái
anh chồng cà chớn, một buổi sáng, thay vì đi ra Quán Chùa uống cà phe, thì
lại bỏ nhà đi một mách, tưởng đi đâu, đi tới 1 căn nhà nào đó, trong xóm,
thuê, ở một mách mấy chục năm, lâu lâu hóa trang qua loa dơ măng, rồi ghé
nhà cũ, đứng xa xa, nhìn bà vợ già 1 phát, cho đỡ nhớ!
******
Thế rồi một buổi chiều, Borges điện thoại, và OK ghé thăm chúng tôi, dùng cơm.
Tuy chưa từng gặp lần nào, nhưng thái độ của Borges thực là cởi mở. Ông vừa
từ Concord trở về, và cho biết, rất ngưỡng mộ Hawthorne, thèm được thăm căn
nhà ngày nào của Hawthorne. Và Borges đã quỳ xuống, ở ngay bực thềm căn
nhà, mặc dù trời lạnh, tuyết đầy.
Và Borges hỏi tôi, đã từng đọc “Wakefield”?
Tôi chưa đọc “Wakefield”, và Borges bèn tóm tắt cho tôi nghe, bằng tiếng Tẩy.
Một người đàn ông, nói với vợ, mình phải rời thành phố chừng đôi ngày. Và
ông ta bèn từ giã vợ, với 1 nụ cười ngây ngô [a “sourrire idiot” – Bạn còn
nhớ nụ cười của Trung Uý Kiệt, với bà vợ, trong MCNK:
“Ngửng lên hắn lại nhìn nàng. Nàng giữ nguyên vẻ mặt thách thức. Hắn thở
phì, nhắm mắt rồi bỗng cười. Nụ cười lặng lẽ, mở rộng, lay động khuôn mặt
ngẩn ngơ”].
Ra đường, đi được vài bước, người đàn ông chợt đứng sững, tự hỏi chính mình, đi ư, giang hồ vặt ư? Quận Cam ư, San Diego ư?
Đi xa làm quái gì cơ chứ? Có ai thèm gặp ta nữa đâu?
Hà, hà!
Thế là ông chồng bèn ghé 1 khách sạn cũng quanh quẩn khu đó, muớn 1 căn phòng, tính ngày hôm sau, thì về lại với bà vợ già!
Ngày hôm sau Wakefield bèn tự hỏi chính mình, về làm gì bây giờ, mai về không được ư?
Thế là người đàn ông bèn dời cái ngày trở về gặp lại vợ già, nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm!
Cải trang “qua loa dơ măng”, ông chồng nhiều lần đi qua căn nhà của mình, có lần, từ xa, nhìn thấy bà vợ già…
Và “ông ta” nhận ra 1 điều, trước chưa từng nhận ra, hay để ý tới, ui chao, Gấu Cái già đi quá nhiều rồi!
Robbe-Grillet được coi là giáo chủ của TTT [tân tiểu thuyết] nhưng nếu ai
có đọc nhóm này, thì biết, họ đứng chung với nhau, thành 1 nhóm, nhưng mỗi
người viết một cách. Sartre gọi nó bằng cái tên, “phản tiểu thuyết”, khi
vinh danh Nathalie Sarraute, 1 trong nhóm, và bà này, cám ơn, có, nhưng phán
thêm, thằng chả chẳng hiểu gì về tiểu thuyết của tôi. Còn Nabokov, khi được
hỏi, thì chỉ chọn Robbe-Grilet, còn dzục thùng rác những tác giả còn lại,
như trong Bạo Miệng, Strong Opinions, cho biết. (1)
Nó còn có cái tên tiểu thuyết khách quan, “objective novel”, như trong bài phỏng vấn Robbe Grillet, của tờ The Paris Review.
Cũng thế, là với nhóm gọi là TTT ở Miền Nam, trước 1975. Chúng chơi với nhau,
có cái tên chung như thế, nhưng mỗi tên viết 1 kiểu, và nếu có tên, có mùi
TTT, thì là Mít Butor. Văn của đấng này rất giống văn Butor, ở cái vỏ, nghĩa
là, tránh sa đà vào cái trò vãi nước mắt, vẫn có cái gọi là tình cảm, nhưng
vậy vậy, và chú trọng đến cái nhìn, trong khi miêu tả.
Bây giờ nhìn lại, thì rõ ràng là cả lũ ghét Gấu, và là do Gấu viết khác hẳn
cả lũ, nếu không muốn nói, trội hẳn, nhất là ở cái khoản phê bình, độc miệng.
Đúng như 1 ông bạn mới quen nhận xét, “viết đanh đá khiếp”!
Tiểu thuyết của Robbe Grillet còn khác hẳn những người cùng nhóm ở cái khoản
sex, rất âm u, rất bịnh, [có thể nói như vậy]; bà vợ của ông, một kịch sĩ
nổi tiếng, là con gái của ông.
Tiểu thuyết của ông có mấy cuốn được chuyển thể thành phim ảnh, trong có
Năm ngoái ở [Last Year at] Marienbad, do Alain Resnais dàn dựng, rất nổi
tiếng.
Barthes, rất coi trọng TTT, và cách viết của Robbe-Grillet. Theo ông, nó đưa tới cách viết trung tính,
cách viết trắng, mà ông vinh danh, trong Độ Không của Cách Viết.
Literature and Meta-language
Logic teaches us to distinguish the language object from meta-language. The
language object is the very matter subject to logical investigation; meta-language
is the necessarily artificial language in which we conduct this investigation.
Thus-and this is the role of logical reflection-I can express in a symbolic
language (meta-language) the relations, the structure of a real language
(language object).
For centuries, our writers did not imagine it was possible to consider literature
(the word itself is recent) as a language, subject, like any other, to logical
distinction: literature never reflected upon itself (sometimes upon its figures,
but never upon its being), it never divided itself into an object at once
scrutinizing and scrutinized; in short, it spoke but did not speak itself.
And then, probably with the first shocks to the good conscience of the bourgeoisie,
literature began to regard itself as double: at once object and scrutiny
of that object, utterance and utterance of that utterance, literature object
and meta-literature. These have been, grosso modo, the phases of the development:
first an artisanal consciousness of literary fabrication, refined to the
point of painful scruple, of the impossible (Flaubert); then, the heroic
will to identify, in one and the same written matter, literature and the
theory of literature (Mallarmé); then, the hope of somehow eluding literary
tautology by ceaselessly postponing literature, by declaring that one is
going to write, and by making this declaration into literature itself (Proust);
then, the testing of literary good faith by deliberately, systematically
multiplying to infinity the meanings of the word object without ever abiding
by anyone sense of what is signified (surrealism); finally, and inversely,
rarefying these meanings to the point of trying to achieve a Dasein of literary
language, a neutrality (though not an innocence) of writing: I am thinking here of the work of Robbe-Grillet.
All these endeavors may someday permit us to define our century (the last
hundred years) as the century of the question What Is Literature? (Sartre
answered it from outside, which gives him an ambiguous literary position.)
And precisely because this interrogation is conducted not from outside but
within literature itself, or more exactly at its extreme verge, in that asymptotic
zone where literature appears to destroy itself as a language object without
destroying itself as a meta-language, and where the meta-language's quest
is defined at the last possible moment as a new language object, it follows
that our literature has been for a hundred years a dangerous game with its
own death, in other words a way of experiencing, of living that death: our
literature is like that Racinean heroine who dies upon learning who she is
but lives by seeking her identity (Eriphile in Éphigenie). Now this situation
defines a truly tragic status: our society, confined for the moment in a
kind of historical impasse, permits its literature only the Oedipal question
par excellence: Who am I? By the same token it forbids the dialectical question:
What is to be done? The truth of our literature is not in the practical order,
but already it is no longer in the natural order: it is a mask which points
to itself.
Ông ta là cha tôi và chồng tôi. Chúng tôi biết những giới hạn quá chúng
chúng tôi không muốn tới
"Il est mon père et mon mari. Nous connaissons les limites au-delà
desquelles nous ne voulons pas aller"
Ông
nghĩ sao về cái mà người ta gọi là tiểu thuyết mới ở Pháp?
Tôi không mê mấy thứ nhóm, lực lượng, trường phái văn học. Chỉ nghệ sĩ
cá nhân
làm tôi quan tâm. Làm gì có 'tiểu thuyết mới', thực sự là vậy, nhưng có
một tay
thật bảnh, người Pháp: Robbe-Grillet. Tác phẩm của ông bị một đám cà
chớn bắt
chước một cách thô kệch rồi dán cái nhãn dởm lên, hòng đánh lận con
đen. (1)
Nabokov, Bạo Miệng
Robbe
Grillet được coi là giáo chủ, Le Pape, của TTM, và là tác giả của cuốn
“Vì
một TTM, Pour un nouveau roman”, 1963. Đây là 1 plaidoyer, bài biện hộ, không
phải 1 tuyên ngôn, manifeste, theo tờ ML.
I merely wish to remind the reader
once again (and Robert Conquest knows this very well) that the Soviet state
was not created out of thin air, that its inhabitants were the inhabitants
of yesterday's Russian state who awoke one fine morning to find themselves
under the so-called Soviet regime. The October revolution and the civil war
that soon followed led to the exile and destruction, or de-civilizing, of
the Europeanized Russian population (by Europeanized I mean people who were
literate, educated; who possessed a work ethic, a developed religious consciousness,
respect for law and reason; and who were also familiar with Europe and the
achievements of world culture). Those who survived and remained in Russia
lost the right to speak their mind and were too frightened or weak to influence
anything. Russian society, though it wandered in the dark for centuries,
had nonetheless by 19I7 given birth not only to an educated class but to
a large number of people with high moral standards and a conscience, to honest
people who were not indifferent to issues of social good. This is the intelligentsia
- not really a class but a fellowship of people "with moral law in their
breast," as Kant put it. Lenin hated them more than anyone else, and they
were the first to be slaughtered. When Maxim Gorky wrote to Lenin in their
defense, saying that "the intelligentsia is the brain of the nation," Lenin
answered with the famous phrase: "It's not the brain, it's the shit."
Trong sự trầm
lặng của những doanh trại
trong sự im lặng của một buổi Chủ Nhật mùa hè
tiếng chim én chát chúa
Có thực sự đó là tất cả những gì còn lại
của tiếng người ?
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
*
TRAVELING
BY TRAIN ALONG THE HUDSON
TO
BOGDANA CARPENTER
River
gleaming in the sun-
river,
how can you endure the
sight:
low crumpled train cars
made of steel, and in their
small windows
dull faces, lifeless eyes.
Shining
river, rise up.
How can
you bear the orange
peels,
the Coca-Cola cans, patches
of dirty snow that
once was pure.
Rise
up, river.
And I
too drowse in
semidarkness
above a library book
with someone's pencil marks,
only half living.
Rise
up, lovely river.
Đi xe lửa dọc sông Hudson
Dòng
sông lấp lánh trong ánh mặt
trời –
sông
ơi, làm sao mi chịu nổi cảnh
tượng:
những chiếc xe xe lửa lùn, nhầu
nát,
làm bằng thép, và ở những
khung cửa sổ nhỏ của chúng
là những khuôn mặt đần độn,
những cặp mắt vô hồn.
Sông
sáng kia ơi, hãy nhô lên,
nhô lên.
Làm sao
sông chịu nổi những vỏ
cam,
vỏ Coca-Cola, những mảng tuyết
dơ
có một thời trắng ngần.
Nhô
lên, sông ơi.
Và tớ
thì ngủ gật, trong
tranh tối tranh sáng,
bên trên một cuốn sách thư viện
mà ai đó đánh dấu bằng viết
chì,
nửa đời nửa đoạn.
Nhô
lên, con sông đáng yêu
kia ơi.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
*
SYRACUSE
City with the loveliest name, Syracuse;
don't let me forget the dim
antiquity of your side streets, the pouting balconies
that once caged Spanish ladies,
the way the sea breaks on Ortygia's walls.
Plato met defeat here, escaped with his life,
what can be said about us, unreal tourists.
Your cathedral rose atop a Greek temple
and still grows, but very slowly,
like the heavy pleas of beggars and widows.
At midnight fishing boats radiate
sharp light, demanding prayers
for the perished, the lonely, for you,
city abandoned on a continent’s rim,
and for us, imprisoned in our travels.
Adam Zagajewski: Eternal
Enemies
A BIRD SINGS IN THE EVENING
TO LILLIE ROBERTSON
Above the vast city, plunged in darkness,
breathing slowly, as if its earth were scorched,
you, who sang once for Homer
and for Cromwell, maybe even
over Joan of Arc's gray ashes,
you raise your sweet lament again,
your bright keening; no one hears you,
only in the lilac's black leaves, where
unseen artists hide,
a nightingale stirred, a little envious.
No one hears you, the city is in mourning
for its splendid days, days of greatness,
when it too could grieve
in an almost human voice.
Adam Zagajewski:Eternal
Enemies
WAIT
FOR AN AUTUMN DAY
(FROM EKELOF)
Wait for an autumn day, for a
slightly
weary sun, for dusty air,
a pale day's weather.
Wait for the maple's rough,
brown leaves,
etched like an old man's hands,
for chestnuts and acorns,
for an evening when you sit in
the garden
with a notebook and the bonfire's smoke contains
the heady taste of ungettable wisdom.
Wait for afternoons shorter
than an athlete's breath,
for a truce among the clouds,
for the silence of trees,
for the moment when you reach
absolute peace
and accept the thought that what you've lost
is gone for good.
Wait for the moment when you
might not
even miss those you loved
who are no more.
Wait for a bright, high day,
for an hour without doubt or pain.
Wait for an autumn day.
Adam Zagajewski: Eternal
Enemies
Đợi một ngày thu
[Từ Ekelof]
Đợi một ngày thu, trời mền mệt,
oai oải,
không gian có tí bụi và tiết trời thì nhợt nhạt
Đợi những chiếc lá phong mầu
nâu, cộc cằn, khắc khổ,
giống như những bàn tay của một người già,
đợi hạt rẻ, hạt sồi, quả đấu
ngóng một buổi chiều, bạn ngồi
ngoài vuờn
với một cuốn sổ tay và khói từ đống lửa bay lên
chứa trong nó những lời thánh hiền bạn không thể nào với lại kịp.
Đợi những buổi chiều cụt thun
lủn,
cụt hơn cả hơi thở của một gã điền kinh,
đợi tí hưu chiến giữa những đám mây,
sự im lặng của cây cối,
đợi khoảnh khắc khi bạn đạt tới
sự bình an tuyệt tối,
và khi đó, bạn đành chấp nhận,
điều bạn mất đi thì đã mất, một cách tốt đẹp.
Đợi giây phút một khi mà bạn
chẳng thèm nhớ nhung
ngay cả những người thân yêu ,
đã chẳng còn nữa.
Đợi một
ngày sáng, cao
đợi một giờ đồng hồ chẳng hồ nghi, chẳng đau đớn.
Đợi một ngày thu (2)
Lại một lần, vào năm 1994 thì phải, tôi hỏi
ông: Xưởng phim muốn làm một phim tài liệu về anh. Theo anh, nên mời ai viết
kịch bản. Ai biết về anh hơn cả?
Nghĩ một chút rồi Tô Hoài lại thủng thẳng:
Chẳng ai biết về tôi bằng tôi. Tôi viết lấy là tốt nhất. Rồi ông
chép miệng như nói về một người nào: Người như ma, lúc là ma, lúc là người,
bố ai biết được là thế nào.
Note: Nhân mới đọc bài về Tô Hoài trên blog NL.
Bài viết về Tô Hoài hay nhất, đúng bài do ông viết, nhưng đề tên Vương Trí Nhàn.
Hay nói rõ hơn, ông để cho đệ tử của ông, viết về ông, tốt hơn là chính ông viết ra.
Cái tệ nhất của TH, theo Gấu, là không chịu nổi những người bỏ xứ Bắc mà
đi, như Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Hoạt, và luôn cả Võ Phiến, khi bỏ kháng chiến
về thành.
Cái gì làm cho ông tệ như thế?
Đây là 1 câu hỏi “lớn”, với những người như ông.
GCC có câu trả lời, nhưng thay vì nói ra, thì lấy chính câu của Tô Hoài,
tiện hơn. Người như ma, lúc là ma, lúc là người, bố ai biết được thế nào.
Cái lũ bỏ đi, chúng chọn làm người, bỏ lại phần ma.
Đúng như thế.
Một khi bạn bỏ đi được, có thể chưa chắc đã thành người, nhưng không lâm vào tình trạng lúc là ma lúc là người
Nhớ Walter Benjamin có phán, đâu đó, người
ta thích nghe kẻ đi xa về nhà nói khoác, nhưng chính cái kẻ ngồi bên Bếp
Lửa, mới rành chuyện quê nhà.
Tô Hoài là cả hai.
Nhờ Dế Mèn chở ông đi khắp thế gian, hưởng đủ thứ phần
thịt nhờ nó, nhưng ông chính là ngồi bên Bếp Lửa kể chuyện Bắc Kỳ!
Youwarkee
In his Short History of English Literature, Saintsbury
finds the flying girl Youwarkee one of the most charming heroines of the
eighteenth-century novel. Half woman and half bird, or-as Browning was to
write of his dead wife, Elizabeth Barrett-half angel and half bird, she can
open her arms and make wings of them, and a silky down covers her body. She
lives on an island lost in Antarctic seas and was discovered there by Peter
Wilkins, a shipwrecked sailor, who marries her. Youwarkee is a gawry (or flying woman) and belongs to a race of flying people known as glumms.
Wilkins converts them to Christianity and, after the death of his wife, succeeds
in making his way back to England. The story of this strange love affair
may be read in the novel Peter Wilkins (1751) by Robert Paltock.
Trong Lịch sử bỏ túi văn học Anh, Saintsbury nhận
ra người đẹp bay, Youwarkee, là nhân vật nữ tuyệt vời nhất của tiểu thuyết
thế kỷ 18. Nửa đờn bà, nửa chim, hay là - như Browning viết về bà vợ đã mất
của mình, là Elizabeth Barrett- nửa thiên thần, nửa chim, nàng có thể mở
rộng đôi tay, làm thành đôi cánh, và mượn mà phủ nó lên cái body thần tiên
của nàng.
Nàng sống tại 1 hòn đảo mất tích ở vùng biển Bắc Cực. Một anh thuỷ
thủ, tầu đắm, khám phá ra nàng và lấy nàng làm vợ. Anh chàng cho vợ theo
đạo Chúa, và sau khi vợ chết, bèn kiếm đường về lại cõi trần.
The Double
Suggested or
stimulated by reflections in mirrors and in water and by twins, the
idea of the
Double is common to many countries. It is likely that sentences such as
A
friend is another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were
inspired
by it. In Germany this Double is called Doppelganger, which means
"double
walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man to
bring him to his death; there is also the Scottish word wraith for an
apparition thought to be seen by a person in his exact image just
before death.
To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad
"Ticonderoga" by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this
theme. There is also the strange picture by Rossetti ("How They Met
Themselves") in which two lovers come upon themselves in the dusky
gloom
of a woods. We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's
Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly
Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn
(Some Chinese Ghosts).
The ancient Egyptians
believed that the
Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his same walk and
his
same dress. Not only men, but gods and beasts, stones and trees, chairs
and
knives had their ka, which was invisible except to certain priests who
could
see the Doubles of the gods and were granted by them a knowledge of
things past
and things to come.
To the Jews
the appearance of one's Double was not an omen of imminent death. On
the
contrary, it was proof of having attained prophetic powers. This is how
it is
explained by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the
story
of a man who, in search of God, met himself.
In
the story "William Wilson" by
Poe, the Double is the hero's conscience. He kills it and dies. In a
similar
way, Dorian Gray in Wilde's novel stabs his portrait and meets his
death. In
Yeats’s poems the Double is our other side, our opposite, the one who
complements us, the one we are not nor will ever become.
Plutarch
writes that the Greeks gave the
name other self to a king's ambassador.
Kẻ Kép
Ðược đề xuất,
dẫn dụ, huých huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ
cặp song
sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu
này “Bạn
Quí là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư tưởng Hãy Biết Mình của
trường
phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là
Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”. Trong tiếng
Scotland thì
là từ fetch, cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái
chết đến
cho bạn. Còn có từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang
bạn, và
bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái
chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác
của
mình trôi qua, quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương
"Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài
này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How
They
Met Themselves"], hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc
chạng
vạng. Còn nhiều thí dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"),
Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist,
Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người
Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích thị
của 1 con
người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con
người mà thần
thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ
một vài
ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần
ban cho
khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do
Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha
nội, lẹ
lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao
Bồi, bạn của
Gấu, như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...đi,
là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ
đòi mạng, thì đi thế
đéo nào được?]. Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã
thành, đạt
được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom
Scholem.
Một giai thoại
được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm
hoài
Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong
“William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong
truyện. Anh ta
thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian
Gray,
trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ
Thần Chết.
Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ
bổ túc,
hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở
thành.
Plutarch viết,
người Hy Lạp gọi, “cái ngã khác”, bằng cái tên, viên “đại sứ của hoàng
đế”.
An Animal
Imagined by Kafka
It is the
animal with the big tail, a tail many yards long and like a fox's
brush. How I
should like to get my hands on this tail some time, but it is
impossible, the
animal is constantly moving about, the tail is constantly being flung
this way
and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face,
which is
flat almost like a human face, and small and oval; only its teeth have
any
power of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I
have the
feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose could
it have
in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again waiting
calmly
until I am tempted again, and then leaping away once more?
FRANZ KAFKA:
Dearest Father (Translated from the German by Ernst Kaiser and
Eithne Wilkins)
Một con
vật Kafka
tưởng tượng ra
Ðó là 1 con
vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn. Ðòi phen tôi
thèm được sờ
1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh học sinh, xa nhà,
trọ học,
đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu
Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái đuôi, thân
hình luôn
uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt không giống, bèn
bẹt y
chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương bầu dục, chỉ có hàm
răng là
biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn này, lúc thì giấu biệt,
lúc thì
phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần hóa tôi, biến tôi thành
1 con vật
nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn là thế, nếu không tại sao em thu
cái
đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1 phát, và sau đó lại nhu mì ngồi,
cho tới
khi tôi thèm quá, thò tay ra, và em lại nguẩy 1 phát, đau nhói
tim?
Cái làng của Gấu,
khi ra đi, Gấu mang theo cùng với mình, toàn là những hình ảnh tuyệt
vời về nó. Trước hết, là
cái bãi cát bên sông, phía bên kia là Việt Trì, nơi ông via Gấu
làm hiệu trưởng trường tiểu học, nhiệm sở cuối cùng trước khi ông bị
một ông
học trò cho đi mò tôm, bằng cách lùa Thầy vô bẫy: Mời thầy dự tiệc tất
niên,
tối 30 Tết. Bởi vì Thầy đã
cho học trò nghỉ học trước đó, và Thầy thì cũng đã rời Việt Trì,
qua sông, về làng quê ăn Tết. Thế là chúng bèn gửi cái thiệp mời cho bà
cụ, do
tham phiên chợ Tết ngày 30, ở nán lại. Bà cụ về đưa cái thiệp mời cho
ông
chồng, và ông chồng tất tả qua sông, dự tiệc! Sau này, bà
nội Gấu bèn đổ cho con dâu cái tội giết chồng, sao mày ngu thế, tại
sao không xé cái thư đi mà lại đưa cho thằng chồng mày. Gấu nhớ, có
lần, bà cụ
cầm chổi nện cho bà mẹ Gấu một trận tơi bời. Suốt tuổi thơ, Gấu cứ băn
khoăn tự
hỏi chính mình, giá mà mẹ mình xé bỏ, hay đốt bỏ cái thư, không hiểu sự
tình sẽ
ra sao, chắc là số phận gia đình hoàn toàn đổi khác. Lần về Bắc,
vào năm 2000, Gấu có đi gặp một bà cô, con ông chú làm trùm VC vùng
quê Gấu. Bà cô cho biết thêm nhiều chi tiết liên quan tới cái chết của
ông via,
Gấu mới vỡ ra, là, không thể nào tránh được. Cái bẫy giăng ra ‘bảnh’
quá, con
mồi vô phương thoát ra khỏi! Nói rõ hơn,
chính con mồi tự động chui vô bẫy! Y chang thằng
con sau này, cũng bị gài bẫy, và cũng cứ vô tư chui vô! Ông cụ Gấu
chết vì cái bẫy 'yêu nước' do ông học trò giăng ra, y chang cả nước
sau này bị bẫy "Đường ra trận mùa này đẹp lắm"! Ông con cũng
bị bẫy, nhưng là bẫy tình! Bị chính Gấu
Cái gài, và tự động chui vô! * “My homeland
was a feeling, and that feeling was mortally wounded…What we swore
to uphold no longer exists… There was a world for which it was worth
living and
dying. That world is dead”. Sándor Márai: The
Candles Burn Down (1) Quê Bắc của tớ
là một cảm nghĩ, và cảm nghĩ này bị thương tổn trầm trọng… Điều
mà tớ quyết tâm gìn giữ cho bằng được, thì đếch còn nữa… Có một cõi Bắc
Kít
thật đáng sống, đáng chết vì nó. Cái cõi đó ngủm củ tỏi mất rồi. NQT
(1)
Cuốn này hình như trong nước đã dịch, và hình như có tranh chấp về dịch
giả?
Một trong
những hình ảnh khủng khiếp một cách tuyệt vời, hay tuyệt vời một cách
khủng khiếp, là về bãi cát ven sông làng Gấu, nó liên quan đến những
phiên
chợ
chính ở Việt Trì bên kia sông. Với người dân trong làng, đó là dịp để
họ mang
mớ rau, mớ tôm, mớ cá, con gà, con vịt... qua sông, bán kiếm tí tiền,
và mua
những vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Xế trưa,
chiều, về, bãi cát dài, nóng bỏng, vai gánh nặng, chân trần, người đàn
bà mang theo một tầu lá chuối, và chạy thật nhanh trên mặt cát, tới khi
bỏng
không thể chịu được nữa, ném tầu lá chuối xuống mặt cát, và đứng lên
trên đó,
thở. Những ngày về
Hà Nội, được bà cô cho ăn học, được thưởng thức những món ăn
tuyệt vời, vì tuyệt vời và vì ăn lần thứ nhất trong đời, nào chiếc bánh
mì
đũa, nào thịt nguội hun khói, nào mứt [confiture], Gấu quên hẳn
làng của
Gấu, chỉ đến khi vào Nam, khi đi làm, sống cuộc đời một gã công chức
bậc trung,
kèm thêm job phụ, nhân viên UPI, cái làng của Gấu bắt đầu hành Gấu, và
mãi đến
năm 2000, trở về, Gấu mới có dịp thanh toán quá khứ. Có thể nói,
những mối tình với bất cứ một cô gái Bắc, có thực, như BHD, hay
tưởng tượng, rất nhiều đều là tưởng tượng, có thể nói, gặp bất cứ một
cô gái
Bắc nào mà đều muốn mê, muốn yêu, chỉ để được gặp lại hình ảnh tuyệt
vời thê
lương kia, có thể biểu hiện khác đi, nhưng “yếu tính”, “bản chất” thì
đúng như
vậy!
WE OWE William Blake the famous Songs of Innocence and Songs of Experience.
We incline instinctively toward a chronological reading of Blake's poems:
first innocence, and then, compensated for by suffering, experience. Is this
really so? Is innocence really something that we lose, like childhood, once
and for all? Isn't it possible that experience can also be lost? Experience
is a kind of knowledge, and there is nothing that disintegrates as easily
as knowledge. This also goes for ethical knowledge, that is, wisdom. Someone
who has survived a concentration camp, dignity and moral sense intact, might
later change into a cocky egoist, might hurt a child. If he notices this
and begins to regret it, he will return to a state of innocence. That is
why it may not be right to have experience come at the end. Innocence follows
experience, not the other way around. Innocence richer in experience but
poorer in self-assurance. We know so little. We understand something for
a moment and then forget it, or we betray the moment of understanding. In
the end there is innocence, the bitter innocence of ignorance, despair, curiosity.
Adam Zagajewski: Two Cities
Ngây thơ & Kinh nghiệm
Chúng ta mắc nợ William Blake về Những Bài Ca của Sự Ngây Thơ và Những Bài Ca của Kinh Nghiệm, nổi tiếng, của ông.
Thơ của ông, theo dòng biên niên, lúc đầu ngây thơ, rồi thì, cái ngây thơ như được đền bù bằng đau khổ, bằng kinh nghiệm.
Thực thế ư? Thực thế ư, cái sự kiện ngây thơ là cái mà chúng ta mất đi –
tính dịch nhảm, như trinh tiết của một em, hà, hà – như tuổi thơ, một lần
cho tất cả.
Nhưng nếu như thế, thì liệu, kinh nghiệm cũng có thể mất đi?
Kinh nghiệm là 1 thứ tri thức, hiểu biết, và không có chi dễ tan rã ra, dễ
dàng, như là tri thức. Y chang như thế, là tri thức đạo hạnh, nghĩa là cái
gọi là túi khôn, là minh triết.
Một gã Ngụy, tù cải tạo VC mút
mùa lệ thuỷ, sống sót nó, giữ nguyên vẹn đủ thứ trên đời, nào là phẩm giá,
nào là cảm quan, ý nghĩa đạo đức, vậy mà sau đó, có thể trở thành 1 tên
ích kỷ, có thể làm tổn thương 1 đứa con nít.
Nếu hắn ta nhận ra điều này,
bắt đầu ân hận, hắn ta sẽ trở về trạng thái ngây thơ.
It is the year 2042. The world has devolved
into apocalypse. The sky is dark in the day, and there are howls and screams
at night. Marauding bands roam the countryside, preying on-and eating-their
fellow-humans.
The mail comes only about once a week, twice if you're lucky. It is mostly
junk mail. Somehow I have a subscription to a horrible magazine, Cannibalism
Today. It features gruesome photographs and recipes. I have written to the
magazine's circulation department, asking them to please cancel my subscription,
but every month I get the current issue with a note that says, "Welcome,
New Subscriber!" Nothing makes any sense anymore.
*
Today I hear the sound of wild dogs chasing something, or someone. There is a dreadful shriek, then silence.
I, also get a notice that my favorite magazine, Survival Gardening, is
going out of business. I had feared as much. The number of pages, and the
size of the pages, had been getting smaller and smaller.
I feel forlorn. What kind of a world is it where an informative, helpful
magazine like Survival Gardening can go broke but despicable rags like Rape
and Hitler! are full of glossy ads with freakish fashion models?
I get out a cartoon that I submitted to Survival Gardening. It shows
a farmer with a hoe. A giant asteroid is about to crash into his field. The
farmer says, "Well, there go the carrots. “They didn't buy it, but I got
a nice rejection letter. The notice from Survival Gardening says they hope
to restart the magazine at a later date, but will focus less on gardening
and more on torture.
*
Despite my cancellation request, I continue to receive Cannibalism Today.
I hear on the radio that the Great Leader has re-taken large parts of the
cannibal domain. Then why hasn't he conquered Wichita, which is where Cannibalism
Today is published? Makes you wonder.
Our pulsing giant of a sun shows its face for the first time in weeks. It feels good.
My mood brightens further when I receive a free sample issue of a magazine
called Secret Hideout. I assume it will tell you how to set up and secure
a secret hideout. But, of course, no it's about how to find other people's
secret hideouts and flush them out, mainly using smoke bombs.
*
X-ray storms force me to move into the lead -lined shelter. I hear an
armored vehicle pull up out front, then move on. It's the mailman.
I am so desperate for reading material that I rush out to the mailbox,
only to discover some junk mail and a double issue of Cannibalism Today.
As I stand there under the roiling, violet clouds, with acid rain dripping
on my face, I cannot believe my eyes. The magazine cover shows a vicious-looking
hillbilly eating a baby! He holds the roasted infant up to his teeth like
a slice of watermelon. The headline reads, "WHAT GOES WITH TATERS? TOTS!"
I feel sick to my stomach.
I am determined to cancel this obscene piece of trash. Somehow I am able
to get the circulation department on the therma-phone. But I am put on hold.
A recording of Frank Sinatra singing "Come Fly with Me" plays over and over.
I consider taking my own life.
*
Then something strange happens: the X-ray storms suddenly stop. Also,
after receiving a few more issues of Cannibalism Today I realize that it's
not such a bad magazine. Yes, it has horrible recipes and photographs, but
there are also some entertaining features, like the column on stargazing.
The articles can be interesting even if you're not a cannibal, like the one
about how human flesh is actually better for you than beef or dog. And there's
some pretty decent fiction, too.
*
Cannibalism Today stops coming. It's not the best magazine in the world,
but after a while you get used to something. I try to renew by phone, but
I can't get through. After a few anxious days, a handwritten letter arrives
from "The Editorial Team." It says that the magazine has lost its bulk-mail
permit, and if I want the current issue I should come to the abandoned farm-house
about a mile away, after dark. And I should bring some friends. •
THE NEW YORKER, AUGUST 3, 2015
V/v Jesus
You who were born this night
To tear us from the Devil’s might
- TRADITIONAL POLISH CAROL
Đấng sinh ra đêm nay
Để kéo chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Đồng dao Ba Lan
[Czeslaw Milosz trích dẫn]
Whoever considers as normal the order of things in which the strong triumph,
and the weak fail, and life ends with death, accepts the devil's rule.
Kẻ nào coi trật tự sự vật, theo đó, kẻ mạnh thì thắng, kẻ yếu thì thua, và
đời thì chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận luật của Quỉ.
Czeslaw Milosz
V/v Maria đồng trinh
Mary now speaks to Christ:
"Are you my son?-or God?
You are nailed to the cross.
Where lies my homeward road?
Can I pass through my gate
not having understood:
Are you dead-or alive?
Are you my son?-or God?"
Christ speaks to her in turn:
''Whether dead or alive,
woman, it's all the same-
son or God, I am thine."
4
Tôi về thăm nơi đã sống những năm mồ côi đầu tiên thuở nhỏ. Mẹ tôi buôn bán
xa và tôi ở với bà ngoại. Những đồng trinh để mua những bát bánh đúc nóng,
kê, sôi lúa, bánh khúc, quà sáng, đều do bà tôi chu cấp. Ở đây có nghĩa địa,
ao, chuôm, bến sông, đường lên núi, giếng nước, cánh đồng, kè đá… để bắt
dế câu cá, đi đồng, leo trèo, vùng vẫy.
Tôi bảo Long:
“Tôi nhìn những con đường hẹp hơn ngày trước.”
Long chỉ tay, giải thích:
“Nhà cửa đổ xuống không ai cất dọn. Cỏ hoang mọc lan tràn với lại mắt mình lớn lên chứ.”
“Bếp Lửa”
Tất cả những chất liệu thô ròng, mà người ta gọi bằng cái tên “thiên tài
của nơi chốn” đó, đã bầy ra trước con mắt của một thằng bé tí sau này sẽ
trở thành nhà văn.
Trong những món ăn Bắc Kỳ của thằng bé con đó, thiếu một món, với Hai Lúa: những cục kẹo bột.
Đó là thứ bột tẩm đường, mầu nâu. Người ta rắc bột trắng lên chúng, cho đường đừng chẩy, và cho khỏi dính tay.
Bạn cứ thử tưởng tượng, từ vượn thành người, như thế nào, bằng sự phân biệt
cái cảm giác giữa một cục kẹo bột, [nhiều khi đắng nghét, do đường bị cô
quá lửa], và một cục sô cô la, thí dụ vậy, đối với thằng bé Hai Lúa mắt lác
thuở nào!
*
Trở về mái nhà. Xưa.
[Back to Torento]
Đây là bản nhạc của Bếp Lửa.
Một Chủ Nhật Khác. Mỗi một em là một bản nhạc. Ly, Hòa Tấu Khúc Số 5, lần đầu tiên gióng lên, khi Kiệt mò đến Nghiêm.
"Như đứng lạc giữa tòa nhà bí ẩn, ma quái, Kiệt lóng tai nghe Hoà Tấu Khúc số 5. Những hòa tấu khúc của...."
[Chương Ba]
Chúng ta lại nghe Duy, nhái lại những tiếng gằn khai mở của nó, bắt chước
Kiệt, "mỗi lần hối thúc bạn bè phát biểu hoặc quyết định một chuyện gì, Kiệt
thường hát dóng mấy âm... Chàng giải thích: Những bước trầm hùng của Định
Mệnh".
Sự thực, như độc giả khám phá ra sau đó, đây là bản nhạc Kiệt đã hát cho Ly nghe, lần hai người đi dưới trời lạnh dưới 10 độ.
Lạ một điều, Kiệt chẳng hề nhớ về Ly, chẳng hề nhớ lần du Ly đi như thế hát
như thế. Cho đến khi gặp lại, tại Đà Lạt, bao nhiêu năm sau đó.
Như vậy có nghĩa, chàng không hề bao giờ tìm hiểu, tại sao chúng lại là những bước trầm hùng của... Định Mệnh?
Duyên cớ nào nó đến và gắn chặt vào chàng?
Đó mới là tội lỗi của Kiệt.
Tội lỗi của mọi người đàn ông.
"Chàng đã choàng vai Ly đi trong đêm. Chàng đã hát những đề nhạc của hoà
tấu khúc ấy cho đỡ lạnh, bước lâng lâng, Ly thỉnh thoảng hát theo, lắm lúc
run lập cập phải núp vào người chàng. Kiệt không thấy gì khác lạ trong đêm
ấy và cả những ngày sau. Nhưng lúc này, chàng vụt rõ sự ngu muội vô tâm của
chàng."
[Chương Bẩy].
Thánh Thán gọi kỹ thuật này là "phục bút". Hay Rắn nằm trong cỏ. Đừng đụng
tới nó. Đụng tới, là nó mổ cho một cái. Là Nọc Đọc chạy vô tim. Là chết đứ
đừ.
Thế mới gọi là Những Bước Trầm Hùng Của Định Mệnh được chứ!
Ở đây, đúng ra phải gọi là "phục bút của phục bút."
Bởi vì, bình thường ra, chúng ta cứ nghĩ rằng thì là, Kiệt nhớ bản nhạc, là vì nhớ Ly. Họăc Ly là nguồn cơn của bản nhạc ở Kiệt.
Hoá ra không phải.
Cho đến khi gặp lại Ly, thì Kiệt mới ngã ngửa ra, bằng cách nào bản nhạc cắm sâu vào trí nhớ của chàng.
Và chàng "thù hận" sự vô tâm khốn nạn của mình.
Với Oanh, Câu Chuyện Tình: Cuộc tình của chúng ta thì cũng thiên thu và làm xàm như bất cứ cuộc tình nào.
Buồn Nôn, hay những trang nhật ký của Roquentin, chỉ là một đoạn nhạc, cứ thế lập đi lập lại, tại một thành phố biển.
Some of these days,
You'll miss me, honey
Đêm xuống. Tầng một khách sạn Printania, ánh đèn sáng lên ở hai khung cửa
sổ. Công trường Ga Mới sực lên mùi gỗ ẩm: ngày mai trời sẽ mưa trên thành
phố Bouville.
cái
giá "một nghìn bốn trăm tỉ đồng" khiến mình nghĩ đến những sự tốn kém
khổng lồ và ngu xuẩn khác của nhân loại. thờ hồ chí minh thực ra cũng
chỉ ngớ ngẩn ngang với thờ siddharta hay jesus mà thôi. thậm chí là
không ngớ ngẩn bằng. chúng ta đều biết rằng siddhartha thực ra là một gã
chán đời, liệt dương do chơi gái quá nhiều, nhưng vì vẫn muốn tìm sự
thoả mãn nên phải quay ra cổ suý sự "diệt dục." còn jesus thì rõ ràng là
bị chứng vĩ cuồng nặng, và chắc là phải hơi "thần kin...
Note: HCM là người đương thời. Những gì ông ta làm, đương
thời kiểm chứng được, và lịch sử càng ngày càng cho thấy, HCM là 1 tên tráo
trở, lưu manh, mạt hạng. Sự kiện, ông ta xoá thư viết bằng tiếng Tàu, đúng
văn phạm của đệ tử là Hoàng Văn Hoan, thay bằng 1 lá thư viết sái văn phạm,
do chính HVH kể, được kể lại trong cuốn Hồ Sơ Đệ Tứ, là 1 thí dụ về tính
lưu manh mạt hạng của HCM.
Trong khi đó, Jesus là thuộc 1 thời quá xa vời, thành ra những gì nhân loại
biết về Jesus, với tín hữu Ky Tô, là phép lạ, với 1 tên vô đạo, thì là ngớ
ngẩn…
Những tín hữu Ky Tô, khi họ tin vào đạo của họ, là cho họ chứ đâu phải cho Jesus.
Nhờ niềm tin mà Czeslaw Milosz, Joseph Brodsky, chỉ kể hai trường hợp, sống sót hoả ngục Đỏ.
Viết như thế này, thì đúng là tên khốn nạn, cực kỳ khốn nạn, và nó còn chứng
tỏ, đây là do nền giáo dục vô thần của Miền Bắc gây nên.
Hậu quả sẽ rất là khủng khiếp.
Còn dài dài những tên khốn như tên này.
NQT
Khoan nói đến tính tôn giáo, bạn thử chỉ cho GCC, 1 tên nhà văn Bắc Kít, mà trong văn của nó, có cái gọi là tâm linh?
Khi mới viết, Phạm Hải Anh, khi còn là 1 học sinh, viết từ 1 mái nhà Hà Nội, có cái chất này, sau mất dần.
Sến? Cực độc, cực kỳ vô lễ, thí dụ, rũ bụi cũng không thèm làm quen
Tâm linh, tôn giáo, không. Ngay cái tầm thường, “nhân hậu”, cũng đếch có luôn.
Todorov mở
ra cuốn sách nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc trị Cái Ác
Bắc Kít, Memory as a Remedy for
Evil, bằng nhận xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện
nhất, của dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và chấm
dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver us from evil". Câu
này ngụ ý, trong chúng ta có...quỉ, và
chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng
con, tức
loài người thì lúc nào cũng hăm hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và
chính tham
vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.
Cái giấc mơ
thống nhất nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn trị!
Trong cuốn
trên, Todorov cho biết, câu "Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế giới", là của
Dos.
Nhiều
người biết, nhưng cái này thì ít người biết.
Cái Đẹp mà Dos nhắc tới ở đây, là
Chúa Ky Tô, nhập thân vô Gã Khờ.
Les
aventuriers de l'absolu
… Le prince
Mychkine, qui croit que la beautésauvera
le monde, est lui-même une variante,
contemporaine, et purement
humaine,du personnage de Jésus. Les
brouillons du roman le disent ouvertement, à maintes reprises: “Le
Prince – le
Christ”
******
Antoine
SPIRE :
Ông có đưa ra một tay già, thông tuệ kinh tan-mút, nói:
Chúng ta cầu
nguyện Chúa Cứu Thế tới, nhưng đâu hẳn như thế, bởi là vì có những đấng
Do
Thái, trong bóng tối, thì thầm với Thượng Đế: Này, đừng có nhập thế đấy
nhé!
George
STEINER:
Tôi mô phỏng Hegel. Tay này
không ưa dân Do Thái. Một bữa ông ta kể chuyện tiếu lâm, Thượng Đế vi
hành, gặp
một tên Do Thái, và đề nghị: Mày chọn gì, giữa 2 món này, hoặc là cứu
chuộc, hoặc
tờ nhật báo buổi sáng, hắn ta bèn chọn tờ báo.
Căng lắm đấy,
cái câu chuyện tiếu lâm này. Chúng tôi là 1 dân tộc bị hớp hồn bởi lịch
sử, bởi
những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt vĩ đại… là cái số mệnh của chúng
tôi, và thỉnh
thoảng, tôi tự nhủ thầm, có khi còn mỉm cười và nhủ thầm: Giá mà “Chúa
Cứu Thế”,
tức anh VC Giải Phóng Bắc Kít, đừng có tới, thì thật đỡ khổ biết là
chừng nào!
*****
Ha Jin cho rằng dân Tẫu của ông không tin có ông Trời, và mọi khốn kiếp là từ đó mà ra.
Ông viết, về Solzhenitsyn, sở dĩ ông này bảnh đến như thế, là nhờ niềm tin Ky Tô của ông, và ông so sánh với Lâm Ngữ Đường.
In fact, I am always moved by Solzhenitsyn's bravery and his acceptance of
isolation as the condition of his work. "All my life consists of only one
thing-work," he once said. The village of Cavendish didn't even have a doctor
at the time, according to his biographer D. M. Thomas, and, because of sciatica,
the aging Solzhenitsyn would stand at a lectern when writing. What made him
so tenacious, I believe, was not only his dedication to work but also his
Christian faith, which had inculcated in him a sense of continuity beyond
this life. The belief in the afterlife can enable one to live this life fearlessly.
At an interview before departing for Russia, Solzhenitsyn was asked if he
feared death, and he replied with obvious pleasure on his face: "Absolutely
not! I t will just be a peaceful transition. As a Christian, I believe there
is life after death, and so I understand that this is not the end of life.
The soul has a continuation, the soul lives on. Death is only a stage, some
would even say a liberation. In any case, I have no fear of death." In another
context he said, "The goal of Man's existence is not happiness but spiritual
growth." That may account for the spiritual strength with which he completed
his work in exile.
His words remind me of my meeting with a group of Chinese poets in River
Falls, Wisconsin, in the summer of 2001. One of them was my former schoolmate.
He greatly admired the small Midwestern town because its climate and landscape
brought to mind the northeast of China where we were both from. I asked him,
"If possible, would you mind living in this town alone so that you can concentrate
on writing poetry?" He answered, "I need a friend at least." That was a typical
Chinese answer. The Chinese mind does not rely on a power beyond humanity
for spiritual sustenance. This explains why very few Chinese exiles in North
America have lived in isolation and why most of them have been city dwellers.
Gregariousness is only a surface characteristic, and deep down it is the
absence of the religious belief that produces a different outlook on life.
Sự thực, tôi luôn thấm thía bởi sự can đảm của Solz, chấp nhận cô đơn như
là 1 điều kiện để viết của ông. Cả đời tôi, chỉ có 1 điều, viết, làm việc.
Theo nhà viết tiểu sử của ông, D.M. Thomas, làng Cavendish không có bác sĩ,
và vì bị bịnh đau thần kinh hông, ông nhà văn già Solz phải đứng để viết.
Điều gì khiến ông kiên cường như thế, theo tôi, không chỉ do ông dâng hết
mình cho việc viết, mà còn do niềm tin Ky Tô, niềm tin này khiến ông tin
là có sự tiếp tục, quá cả cuộc đời này. Niềm tin vào cõi sau khiến con người
sống mà đếch có sợ chết. Trong 1 cuộc phỏng vấn, khi được hỏi, có sợ chết
không, ông bật cười, tuyệt đối không….
Lần khác, ông phán, làm người không phải là để hưởng hạnh phúc, mà là tăng trưởng tinh thần.
Ông làm tôi nhớ đến Tẫu của tôi. Tẫu đếch tin có đời sau, và sống thì phải
có bầy. Tớ cần có bạn quí, bạn văn, đang ngồi uống cà phê, bỗng nhớ bạn,
đếch có bạn là đếch sống được!
The writer Lin Yutang (1895-1976) discusses the Chinese ideal of life at
length in his book My Country and My People (1935). He points out that to
the Chinese the essence of the ideal life is the enjoyment of this life.
In the absence of a belief in an afterlife, the Chinese hold dearly on to
this life and try their hardest to make the best of it. As a result, most
Chinese fear death and the isolation that leads to loneliness. Their ideal
of life, according to Lin Yutang, is "brilliantly simple" and is a "concentration
on earthy happpiness." Confucius, the man who has influenced Chinese culture
more than anyone else, once replied when asked about death, "I don't know
enough about life, how can I know about death?" It is the deliberate focus
on this life that makes the Chinese afraid of missing out on the joy this
life offers and that makes them believe the best death is inferior to the
worst life-a theme, the novelist Yu Hua dramatized eloquently in his novel
To Live (1993). (1)
Bản thân Gấu, lúc mới lớn, bậm vô chủ
nghĩa hiện sinh, rồi đọc “Bếp Lửa”, quá mê đoạn anh chàng tên Tâm, khi bỏ
Hà Nội qua Gia Lâm làm giáo sư tại một trường đạo, và, bị 1 ông thầy tu cật
vấn về niềm tin, đã trả lời, một khi Christ giáng sinh làm người là bèn chịu
đầy đọa, như 1 con người, và chỉ thoát ra bằng sự thất bại… khiến Gấu bỏ
qua Ky Tô giáo, sau này, đọc Weil, đọc thơ Brodsky, bị trắc trở, thâu hoạch
ít quá, ân hận hoài.
Thư Tình nơi Sofa
Letter in the Sofa
1957
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
Note: Trong cuốn “Trên lưng voi”, Gấu lọc ra được hai bài tuyệt. “Thư tình” đi trước. Cực kỳ thê lương.
Sẽ đi 1 đường tiếng Mít sau.
Note: Cái truyện ngắn này, trên trang của K, vậy mà bây giờ, nhờ server, mới được đọc.
Phạm Vũ Thịnh, dịch Murakami, thần sầu. Độc giả TV đọc cái này trước, trong khi chờ GCC dịch “thư tình”, của Durrell.
GCC mê nhất 1 câu, nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực khó, nhưng chết chung, thì OK
Có em nào muốn, chuyện này, thì đăng ký!
Cái truyện “cùng chết thì OK” này, coi lại hóa ra là đã chôm về Tin Văn từ hồi Diễm Xưa rồi.
Ấy là vì Gấu bực quá, không lẽ chưa... chôm, bèn rà lại folder Giới Thiệu…
Ra luôn cái truyện Liêu Trai thần sầu sau đây.
Đọc Tiểu Thu, thì lại phân vân, có khi duyên, kiếp này, là duyên thừa, của bố, hay của mẹ, kiếp trước! Tiểu Thu
Cole: You said you don’t often do negative reviews. What do you do with a book you don’t like? How do you handle it?
Vendler: I forget it-you mean if I have to write about it?
Cole: Yes.
Vendler: I tell the truth as I see it. I was reading a biography of Mary
McCarthy, and it turns out she was hurt by a review that I did of her Birds
of America. But she also believed it to be true, which hurt her more.
Cole: As a writer and a professor, I guess I understand both sides of the
equation. This has been interesting. Thank you for taking time out from your
academic schedule.
Vendler: Thank you.
[Bà nói, bà không viết nhiều, cái thứ điểm sách tiêu cực - tức chê bai, mạ
lị, miệt thị… như GCC thường viết – Bà làm gì với cuốn bà không thích? Làm
thế nào bà “handle” nó?
Bạn tính nói, nếu tôi phải viết về nó?
Yes
Thì cứ nói thẳng ra ở đây. Tôi đọc tiểu sử của Mary McCarthy, hóa ra là bà
bị tui, chính tui, phạng cho 1 cú đau điếng, khi điểm cuốn "Chim Mẽo" của
bà. Nhưng bà cũng nói thêm, tui phạng đúng, và cái đó làm bà còn đau hơn
nhiều!]
Ui chao, GCC đã từng gặp đúng như thế, khi
phạng nhà thơ NS. Ông đau tới chết, như 1 bạn văn nhận xét, “anh đâm trúng
tim của ông ta, nhà văn nhà thơ dễ dãi và sung sướng và hạnh phúc”!
Cú đánh NTH mà chẳng thú sao!
“Văn chương khủng khiếp”!
Hà, hà!
Cũng
nhờ các blog bạn giới thiệu, tôi mượn được quyển A History of Reading của
Alberto Manguel. Quyển sách dày, tôi chỉ mới đọc một chương The Translator
as Reader. Rất hay. Đủ để tôi đặt mua sách cũ trên Amazon.
Alberto Manguel dân Canada, như Gấu. Cuốn đầu tiên của ông mà Gấu đọc, đúng
là cuốn trên, khi mới ra hải ngoại, qua NTV giới thiệu.
“Rất hay, đủ để”… Gấu đọc ông nhiều hơn, không chỉ cuốn đó. Trên TV có nhiều trang dành cho ông.
Có thể nói đọc Manguel, cuốn trên, Gấu mới hiểu thêm nhiều, về Kafka. Những trang tuyệt vời nhất, ở trong đó, là về Kafka.
Cuốn này nữa, của ông cũng thật tuyệt. A Reading Diary. Trong cuốn này, Gấu
cũng chọn được hai bài viết thú vị, một về cuốn Sa Mạc Tartar, như cái tên
gọi bằng tiếng Tẩy, Gấu đọc nó, hồi còn Sài Gòn. Bản tiếng Anh, The Tartar
Steppe, của Buzzati.
Và bài viết về Quixote.
Kể như Gấu có gần đủ sách của Manguel, trừ 1 cuốn, chỉ có ở trong thư viện, viết về những nơi chốn thần kỳ do con người phịa ra.
Gấu đọc Tô
Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc
ông mà
có.
Khi còn ở xứ
Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu
nói, là giấc
mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi
tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thoả
mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất
hiện!
Lúc thì ở
nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái xứ
Bắc Kỳ
mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong
bao nhiêu nước Nam Kỳ khác, do đọc sách mà có!
Trong những
“nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày mới lớn mà có đó, có “Sa mạc
Tartares” của
Dino Buzzati.
Mới đây, đọc
A Reading Diary, Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông nói là đọc nó
vào thời
mới lớn, cũng như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc Nam Kỳ, tại Sài
Gòn,
khi có BHD.
The Tartar Steppe
Similar to other "end of the world" places-Finisterre,
Land's End, Tierra del Fuego-Newfoundland has the quality of standing outside
ordinary time. St. John's has something of the Fort in Dino Buzzati's novel
The Tartar Steppe (which I reread on my return flight): a place that seems
impossible to leave but also impossible to reach, a place so anchored in
its own routine that nothing from the outside can touch it. Maybe that is
why I found St. John's so appealing.
HOT:
Một trong những tiểu luận quan trọng nhất về nghệ thuật hiện đại: "Tác
phẩm nghệ thuật trong kỷ nguyên nhân bản kỹ thuật" của Walter Benjamin
sắp có bản dịch tiếng Việt. Để có cảm nhận trước về độ hay và khó khủng
khiếp của Benjamin, các bạn tạm thời thưởng thức bản tiếng Anh ở đây:
Note: Cái tít, tiếng Anh, theo GCC, dịch là “tái sản xuất theo kiểu cơ khí”,
dịch “nguyên xi” như vậy, bởi là vì, “nhân bản” thì sẽ bị hiểu là clone,
cloning, “kỹ thuật”, technical, khác hẳn nghĩa đi, và nguy hiểm hơn nữa,
làm người đọc không làm sao hiểu ra được, và sẽ tự hỏi, không lẽ vào thời
Walter Benjamin mà đã có “nhân người” [nhân bản]
The Work of Art in the Age of Mechanical
Reproduction: Tác phẩm nghệ thuật trong thời đại tái sản xuất theo cách cơ
khí [nghĩa là theo kiểu máy móc, dùng máy móc].
Dịch Walter Benjamin rất khó, đúng, vì bạn phải đọc ông ta, làm quen với ông ta, rồi, cái thời của ông ta nữa.
Dịch có cái tên bài viết, mà đã thấy có vấn đề rồi. Đến ngay bạn thân của
Walter Benjamin mà còn đếch đọc được ông ta, đâu có dễ nhá! (1)
(1) In March 1936, Adorno had written to
Benjamin criticizing his "Work of Art" essay. "My own task is to hold your
arm steady until the Brechtian sun has finally sunk beneath its exotic waters."
Yet it was precisely to that sun that Benjamin had already turned, having
spent considerable time living with the Brecht family in Denmark (for months
at a time, from 1934 onwards). A translation into English would be a luxury rather than a necessity: Câu này, tặng bản tiếng Mít, cũng đặng:
Dịch qua tiếng Mít thì đúng là trò chơi trội, xa xỉ, hơn là 1 sự cần thiết
NQT
TV đi
liền,
và chắc chắn sẽ dịch liền, vì GCC mê tay này lắm, cũng đệ tử Cô Ba,
nhưng sướng
hơn GCC nhiều, vì được Cô Ba gật đầu cho theo hầu!
Trên tờ Literary Review, Dec 2013 / Jan 2014, có
1 bài điểm cuốn mới ra lò, tiểu sử Walter Benjamin, Một đời phê phán, A Critical Life, coi ông là người cuối cùng của chủng
loại trưởng giả bực cao, Last of the
Haute Bourgoisie.
Mystic,
Marxist, man of
letters
NICHOLAS JACOBS
Jean-Michel
Palmier
WALTER BENJAMIN
Lumpensammler, Engel und
bucklicht Mannleinn -
Asthetik und Politik bei Walter Benjamin
Translated from the French by
Horst Bruhmann
1,372pp. Frankfurt:
Suhrkamp. E64. 9783518585368
Despite George Steiner's
consistently eloquent, scrupulous and committed advocacy of Walter
Benjamin for
over forty years in these columns, the British literary world has taken
little
notice of him, and he is only perhaps now even beginning to enter the
world of
German studies in Britain.
And although he has been translated into over forty languages,
including the
substantial four-volume Harvard edition in English, it is primarily
writers on
media, film and photography, and some graphic artists, who have so far
paid
most attention to him in Britain.
This is partly because Benjamin was first introduced here to a wide
audience on
the television screen, as far back as 1967, by John Berger in his Ways
of
Seeing (the book of which was recently reprinted); but it is also
because
Benjamin is strongly embedded in German and French culture and, however
engrossing, original and exciting to read, is difficult to orient in
the
English-language literary world, with which he had little to do beyond
a surprising
weakness for Arnold Bennett and Somerset Maugham. However, the more we
get to
know the real Benjamin emancipated, though never completely, from the
Jewish
half-mystic, half-Marxist between-all-stools intellectual bequeathed us
by
Gershom Scholem and Theodor Adorno, the keepers of his flame after his
early
death (he was forty-eight) - the more he comes to resemble what we once
knew as
the individual homme de lettres, in
the style of Edmund Wilson, or Cyril Connolly, whose own more
pessimistic Unquiet Grave sometimes recalls
Benjamin's One-Way Street not only in
form, just as Connolly's Enemy of Promise
sometimes recalls Benjamin’s Berlin
Childhood. On the one hand, Connolly's hapless Palinurus; on the
other, the
"bucklicht Mannlein" (the little hunchhback), that imp of ill fortune
which dogged Benjamin.
This massive book, partly a
biography of Walter Benjamin, and partly a discursive/ descriptive
commentary
on his work, remained uncompleted on the author's death and was first
published
in French in 2006. The reader is not helped by the seventy-page
foreword by its
French editor, Florent Perrier, whose dazzling characterization of
Benjamin,
complete with its own virtuoso piece of research on Benjamin's
chiffonier, is
strictly redundant because it barely mentions Jean-Michel Palmier's
book and
tells us nothing about him. Not until an Editor's Note on page 1,205 do
we
learn the extent of the unfinished material included (two of the five
parts),
and that the editorial policy, in the case of these two unfinished
parts, was
to include everything possible, as a gesture of loyalty towards an
author who
sometimes drafted his texts up to five times. From the book's jacket we
learn
that Palmier taught aesthetics and art history at the University of Paris
1 and died aged fifty-four in 1998.
Palmier writes
chronologically, with rich thematic diversions. His aim is not to
synthesize
but to "deconstruct" and bring out the tensions and make contemporary
a work that "can only be read with a beating heart". The palimpsest
of quotation and discussion of secondary literature that extends to
myriad
footnotes makes for demanding reading. The discussion of Benjamin's
pampered
childhood as the son of a wealthy antique and carpet dealer living in
the
smartest part of Berlin is particularly rich, drawing on the two great
autobiographical texts, Berlin Chronicle
and Berlin Childhood, the first
providing the raw material (by no means all used) for the second; a
characteristic 700-word footnote explains the significance of this.
Palmier
gives a detailed account, accompanied by quotation from Benjamin's rich
correspondence,
of his part in the Youth Movement, in which in 1913/14 he played a
leading
role, but in which he ended up isolated, between the more political
(anarchist
rather than socialist) radicals, including the later socialist, even
Marxist,
psychoanalyst Siegfried Bernfeld, and the romantic youth cultist
followers of
Gustav Wyneken, Benjamin's first inspiration in the Movement. All this
came to
an end with the outbreak of the First World War - celebrated by Wyneken
- and
the suicide of Benjamin's close friend, Fritz Heinle.
The three male friendships of
the greatest consequence to Benjamin were those with Gershom Scholem,
Theodor
Adorno and Bertolt Brecht (in chronological order of their meeting).
Palmier
does justice to all three relationships. Most commentators on Benjamin
have
followed Scholem in accepting that the Jewish mystical element,
particularly in
his early thought and writing, greatly encouraged and influenced by
Scholem,
was a positive, necessary element in his work. For a long time it was
difficult
to deny this, particularly in Germany.
Palmier lets the story speak for itself, in great scholarly detail,
without judgment,
but with scrupulous attention to the biographical dimension, including
Scholem
and Benjamin's close friendship which began in 1915 and never ended,
but was
subject to tension when Benjamin was caught between Scholem's
increasingly
urgent calls for him to move to Palestine and his own ambition to
become the
leading literary critic in Germany.
Palmier is unusual in giving
a context to the question of the political censorship of Benjamin's
work by
Adorno, and the latter's criticism of Benjamin's use of Marx, at a time
when Benjamin
was financially and even existentially dependent on the Institute of Social Research. Palmier points
out that the Institute
was itself leading a precarious exile existence (in Paris,
awaiting transfer to the USA),
in the context of post-New Deal America
and the Moscow Trials, and therefore had to proceed with political
caution. He
does not excuse Adorno's intellectually brutal treatment of his friend,
but
makes it comprehensible. Benjamin stood up remarkably well to the
seemingly
tactless tone of Adorno's censorious letter of November 10, 1938, which
criticized and rejected his long article "The Paris of the Second
Empire
in Baudelaire" (in Volume Four of the Harvard Benjamin), at one of the
darkest moments of his life, when he most needed publication and
support. Far
from buckling under Adorno's criticism, he revised the article, aware
that
Adorno and the Institute were his only possible lifeline.
In March 1936, Adorno had
written to Benjamin criticizing his "Work of Art" essay. "My own
task is to hold your arm steady until the Brechtian sun has finally
sunk
beneath its exotic waters." Yet it was precisely to that sun that
Benjamin
had already turned, having spent considerable time living with the
Brecht
family in Denmark
(for months at a time, from 1934 onwards).
Palmier
does justice to the Brecht/Benjamin relationship, concentrating on
Brecht's
vital influence, through his work, on the literary theory which
Benjamin developed
in face of the rise of fascism. This strictly functional theory of art,
expressed in Benjamin's essay "The Author as Producer", with its
praise of the Soviet Russian Tretyaakov (albeit already a dissident,
soon to be
shot), makes Palmier a little uncomfortable, as does the famous call at
the end
of the "Work of Art" essay: "Such is the aestheticizing of
politics cultivated by fascism; communism responds with the
politicizing of
art". This position was not a general aesthetic manifesto, but a
response
to a particular situation, even if it was - as Palmier points out - a
little
late in 1939 when it was published, when even the Popular Front had
been and
gone.
Palmier has written nothing
short of an encyclopedic work from which every reader of Benjamin who
can read
French or German will greatly benefit. It is a pity that it remained
unfinished
owing to its author's early death. It is also regrettable that a great
publisher like Suhrkamp is unable to give such an important book a
proper
index. A translation into English would be a luxury rather than a
necessity.
Thương Xá,
The Arcades Project, của Benjamin mở ra bằng câu thơ của một thi sĩ
Việt Nam, để
vinh danh Paris, Kinh Đô Thế Kỷ 19:
The waters
are blue, the plants pink, the evening is sweet to look on;
One goes for
a walk; the grandes dames go for a walk; behind them stroll the petites
dames.
[Những dòng
nước xanh, cây cối đỏ hồng, buổi chiều nhìn thú biết bao;
Người ta đi
dạo, những mệnh phụ phu nhân đi dạo, theo sau nhẩn nha là những phụ nữ
bình
dân]
Nguyen Trong
Hiep, Paris, capitale de la France: Receuil de vers (Hanoi, 1897), poem
25.
Bản tiếng
Anh của Harvard University Press.
Nguyên
bản tiếng Pháp [do Nguyễn Tiến Văn sưu tầm]:
Les eaux sont bleues et les plantes roses;
Le soir est doux à contempler;
on se promène.
Les grandes dames se promènent;
derrière elles vont et viennent de petites dames.
Nguyễn
Trọng Hiệp [1934-1902], danh thần đời Tự Đức, quê Hà Đông, tác giả
những bộ sử quan trọng như Minh Mạng Chính Yếu, Đại Nam Chính Biên Liệt
Truyện, từng giữ chức Tổng Tài Quốc Sử Quán.
Hai câu thơ Benjamin trích dẫn, ở trong tập thơ Tây Sà Thi Tập.
Benjamin
khởi sự viết Thương Xá tháng Năm 1935, sau khi bỏ chạy Đức Nazi qua
Pháp. Vụ Yên Bái nổ ra vào năm 1930. Simone Weil bị ảnh hưởng sâu đậm
bởi những bài báo trên tờ Người Paris Nhỏ, về số phận người Annamites,
vài tháng sau khi vụ Yên Bay bị dập tắt trong hai tuần lễ. "Tôi không
bao giờ quên được lúc mà, lần đầu tiên trong đời, tôi cảm và hiểu được
bi kịch thực dân thuộc địa". Chắc là Benjamin cũng bị ảnh hưởng tương
tự, và đó là lý do Benjamin mở ra Thương Xá bằng những dòng thơ của
Nguyễn Trọng Hiệp, như là một tiên đoán sự cáo chung của chế độ thực
dân Pháp ở Việt Nam.
Engels
nói với tôi rằng chính tại Paris,
vào năm 1848, ở quán Café de la Régence [một trong những trung tâm sớm
sủa nhất của cách mạng 1789), Marx đã trình bày cho Engels về định mệnh
thuyết kinh tế về lý thuyết duy vật lịch sử của ông. - Paul Lafargue.
Vào năm
1757 cả Paris
chỉ có 3 tiệm cà phê.
[Thương Xá, trang 108].
Tôi bị
hạ đo ván, khi đọc Thương Xá, nói vậy vẫn chưa đủ mạnh!
Tôi biết, đây là một tác phẩm về lịch sử văn hóa, và nó còn thật có ích,
nếu được đọc như phê bình văn học, hay triết học.
Nhưng tôi không làm sao bỏ qua, ý tưởng, rằng,
đây là một bài thơ sử thi vĩ đại nhất được viết bởi thế kỷ 20:
mẩu đoạn, mâu thuẫn, xung đột, và mời gọi một cách thật là sâu thẳm.
André Alexis, Globe and Mail
Đây là
sân khấu của tất cả những cuộc chiến đấu, tất cả những tư tưởng của tôi.
Benjamin viết về Thương Xá NKTV
Sartre
(Situations, I) nhắc tới
"ý hướng tính", coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận:
"Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào
trong
những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và của những nhà
tiên tri:
Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với những bến cảng, nơi trú
ẩn của
ân sủng và tình yêu." Tôi đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta lại
được đọc những trang sách tuyệt vời, về Hà-nội. Có thể là do một câu
thơ và
viễn ảnh khủng khiếp nó gây ra ở nơi tôi. "Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ
đỏ" (Trần Dần), câu thơ như một "Apocalypse Now" (Tận Thế Là
Đây), không phải chỉ riêng cho Hà-nội. Làm sao mà thi sĩ lại nhìn thấy
suốt
cuộc chiến sau đó, không phải chiến thắng, mà huỷ diệt, một thành phố,
rồi cùng
với nó, là biểu tượng của cả một dân tộc ?
La rupture avec le PC suivra en 1956 avec l'invasion soviétique en
Hongrie. Mais le vrai déclic se fera à Paris au milieu des années 1960,
une époque où la capitale française est encore un centre intellectuel,
et où Calvino, parallèlement à sa lecture des classiques - notamment
Conrad, Shakespeare, Dante -, va rencontrer Barthes, Perec et
Lévi-Strauss. Et c'est pourquoi on ne peut pas ne pas éprouver une
certaine nostalgie en lisant Si une nuit d'hiver un voyageur.Chez Calvino comme chez Cortázar, par exemple, le structuralisme sans
doute a remplacé le marxisme. Mais la théorie n'est pas encore desséchée
ni réduite à elle-même. Elle est un carburant, une contre-force à
laquelle jamais l'écrivain n'abandonne sa sensibilité. Réduite au rôle
de contrainte stimulante, elle permet tous les envols.
« Aucun homme politique dans le monde actuel ne m'inspire autant de sympathie et d'admiration que Hitler »
Không tên nào bảnh được như Bác Hồ, ấy chết xin lỗi, Hitler!
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
Note: Trong cuốn “Trên lưng voi”, Gấu lọc ra được hai bài tuyệt. “Thư tình” đi trước. Cực kỳ thê lương.
Sẽ đi 1 đường tiếng Mít sau.
Note: Cái truyện ngắn này, trên trang của K, vậy mà bây giờ, nhờ server, mới được đọc.
Phạm Vũ Thịnh, dịch Murakami, thần sầu. Độc giả TV đọc cái này trước, trong khi chờ GCC dịch “thư tình”, của Durrell.
GCC mê nhất 1 câu, nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực khó, nhưng chết chung, thì OK
Có em nào muốn, chuyện này, thì đăng ký!
Cái truyện “cùng chết thì OK” này, coi lại hóa ra là đã chôm về Tin Văn từ hồi Diễm Xưa rồi.
Ấy là vì Gấu bực quá, không lẽ chưa... chôm, bèn rà lại folder Giới Thiệu…
Ra luôn cái truyện Liêu Trai thần sầu sau đây.
Đọc Tiểu Thu, thì lại phân vân, có khi duyên, kiếp này, là duyên thừa, của bố, hay của mẹ, kiếp trước!
Was
Walser a great writer? If one is reluctant to call him great, said Canetti,
that is only because nothing could be more alien to him than greatness. In
a late poem Walser wrote:
I would wish it on no one to be me.
Only I am capable of bearing myself.
To know so much, to have seen so much, and
To say nothing, just about nothing.
Walser, nhà văn nhớn?
Nếu có người nào đó, gọi ông ta là nhà văn nhớn, 1 cách ngần ngại, thì đó
là vì cái từ “nhớn” rất ư là xa lạ với Walser, như Canetti viết.
Như trong 1 bài thơ muộn của mình, Walser viết:
Tớ đếch muốn thằng chó nào như tớ, hoặc nhớ đến tớ, hoặc lèm bèm về tớ, hoặc mong muốn là tớ
Nhất là khi thằng khốn đó ngồi bên ly cà phê!
Một mình tớ, chỉ độc nhất tớ, chịu khốn khổ vì tớ là đủ rồi
Biết thật nhiều, nhòm đủ thứ, và
Đếch nói gì, về bất cứ cái gì
[Dịch hơi bị THNM. Nhưng quái làm sao, lại nhớ tới lời chúc SN/GCC của K!]
Walser được hiểu như là 1 cái link thiếu, giữa Kleist và Kafka. “Tuy nhiên,”
Susan Sontag viết, “Vào lúc Walser viết, thì đúng là Kafka [như được hậu
thế hiểu], qua lăng kính của Walser. Musil, 1 đấng ái mộ khác giữa những
người đương thời của Walser, lần đầu đọc Kafka, phán, ông này thuổng Walser
[một trường hợp đặc dị của Walser]."
Walser được ái mộ sớm sủa bởi những đấng cự phách như là Musil, Hesse, Zweig.
Benjamin, và Kafka; đúng ra, Walser, trong đời của mình, được biết nhiều
hơn, so với Kafka, hay Benjamin.
W. G. Sebald, in his essay “Le Promeneur Solitaire,” offers the following
biographical information concerning the Swiss writer Robert Walser: “Nowhere
was he able to settle, never did he acquire the least thing by way of possessions.
He had neither a house, nor any fixed abode, nor a single piece of furniture,
and as far as clothes are concerned, at most one good suit and one less so….
He did not, I believe, even own the books that he had written.” Sebald goes
on to ask, “How is one to understand an author who was so beset by shadows
… who created humorous sketches from pure despair, who almost always wrote
the same thing and yet never repeated himself, whose prose has the tendency
to dissolve upon reading, so that only a few hours later one can barely remember
the ephemeral figures, events and things of which it spoke.”
Bài viết của Coetzee về Walser, sau đưa vô
“Inner Workings, essays 2000-2005”, Gấu đọc rồi, mà chẳng nhớ gì, ấy thế
lại còn lầm ông với Kazin, tay này cũng bảnh lắm. Từ từ làm thịt cả hai,
hà hà!
Trong cuốn “Moral Agents”, 8 nhà văn Mẽo tạo nên cái gọi là văn hóa Mẽo,
Edward Mendelson gọi Lionel Trilling là nhà hiền giả (sage), Alfred Kazin,
kẻ bên lề (outsider), W.H, Auden, người hàng xóm (neighbor)…
Bài của Coetzee về Walser, GCC mới đọc lại, không có tính essay nhiều, chỉ
kể rông rài về đời Walser, nhưng mở ra bằng cái cảnh Walser trốn ra khỏi
nhà thương, nằm chết trên hè đường, thật thê lương:
On Christmas Day, 1956, the police of the town of Herisau in eastern Switzerland
were called out: children had stumbled upon the body of a man, frozen to
death, in a snowy field. Arriving at the scene, the police took photographs
and had the body removed.
The dead man was easily identified: Robert Walser, aged seventy-eight, missing
from a local mental hospital. In his earlier years Walser had won something
of a reputation, in Switzerland and even in Germany, as a writer. Some of
his books were still in print; there had even been a biography of him published.
During a quarter of a century in mental institutions, however, his own writing
had dried up. Long country walks—like the one on which he had died—had been
his main recreation.
The police photographs showed an old man in overcoat and boots lying sprawled
in the snow, his eyes open, his jaw slack. These photographs have been widely
(and shamelessly) reproduced in the critical literature on Walser that has
burgeoned since the 1960s
Walser’s so-called madness, his lonely death,
and the posthumously discovered cache of his secret writings were the pillars
on which a legend of Walser as a scandalously neglected genius was erected.
Even the sudden interest in Walser became part of the scandal. “I ask myself,”
wrote the novelist Elias Canetti in 1973, “whether, among those who build
their leisurely, secure, dead regular academic life on that of a writer who
had lived in misery and despair, there is one who is ashamed of himself.”
Nhờ đầu tháng, đọc được khúc này, Tẩy mũi lõ chửi “Yankee lõ & tẹt”
De Lattre nói với một tay phóng viên Mẽo:
Chúng tôi bỏ tất cả những vị trí thuộc địa. Có tí mỏ than, có tí vườn cao
su chúng tôi không thể giữ được nữa. Nhưng cái gì có thể so sánh với máu
của đám Tây mũi lõ con cháu của chúng tôi đổ ra, và 350 triệu phật lăng chi
mỗi ngày cho Đông Dương? Cái việc chúng tôi đang làm là cứu vớt dân Mít.
Và cái trò tuyên tuyền của Yankee mũi lõ các anh, coi chúng tôi chỉ là thực
dân cũ làm chúng tôi đau lắm, thiệt hại lắm cho tất cả chúng ta - dân Mít,
chính lũ Mẽo nhà các anh, và chúng tôi.
Và ông đọc diễn văn trước đám sinh viên Hà Lội:
Cuộc chiến này, dù tụi khốn mày có thích hay là không thích, thì nó vẫn là
cuộc chiến của tụi mày, cho chính tụi mày. Và nước Pháp chỉ có thể gánh tí
nào cho lũ chúng mày, nếu chúng mày ôm lấy nó... nếu chúng mày muốn chiến
đấu cho Bác Hồ thì cút cha lên bưng, lên rừng đi!
Người
thân chỉ cho mình bài viết của tác giả Nguyễn Hưng Quốc về đề tài "lãnh
đạo" và "cai trị". Đây là một đề tài rất hay để suy ngẫm.
[Nguyễn Hưng Quốc] Lãnh đạo chứ không phải là cai trị. Đó là hai điều
hoàn toàn khác nhau. Cai trị chỉ cần dùng sức mạnh để dập tắt mọi sự
phản kháng của những người bị trị để giữ nguyên tình trạng hiện có trong
đó người cai trị vẫn là những người cai trị và những người bị trị vẫn
tiếp tục bị trị. Nói cách khác, cai trị là nỗ lực kéo dài một...
Cai trị, là từ “rule”, cai trị, “ruler”, kẻ cai trị, và thường được dùng
để chỉ lũ thực dân, và xưa nữa, vua chúa, cai trị dân đen.
Lãnh đạo, leader, thường dùng để chỉ 1 tay đảng trưởng, lãnh đạo 1 đảng,
1 lực lượng, như Vẹm vẫn khoe lãnh đạo dân Mít đánh thắng hai tên đế quốc
đầu sỏ.
Tất nhiên. hai từ khác nhau. Ở xứ dân chủ, làm gì có cái chuyện cai trị.
Lãnh đạo cũng không luôn, theo GCC. Bởi là vì 1 vị nguyên thủ quốc gia, chỉ
là người đứng đầu 1 chính phủ, và quả là ông ta lãnh đạo đất nước, nhưng
đâu chỉ mình ông ta. Còn chính phủ, còn lưỡng đảng còn quốc hội, và tất nhiên
còn dân chúng. Lãnh đạo dở, là đi chỗ khác chơi, tao bầu thằng khác, đảng
khác, trong kỳ tới.
Do VC còn tàn ác hơn cả thực dân Pháp, hay Tẫu, thành ra dùng từ “cai trị”
quá đúng với chúng. Cai trị đã ghê, “toàn trị”, lại càng khiếp.
Lãnh đạo cái con khỉ gì bây giờ nữa.
Tình trạng xứ Mít VC hiện nay, do chúng tranh quyền lẫn nhau, giữa những
tên đầu sỏ, thành ra có thể nói, không có lãnh đạo. Trước kia, uy quyền nằm
trong tay tên Tổng Bí Thư, bây giờ, Tổng Lú yếu xìu, so với Y Tá Dạo Ba Dzũng.
Phải chờ chúng đấu đá xong, tên nào sống, còn đứng vững, thì mới biết được.
Lạ, là 1 bài tào lao, về 1 số từ ngữ quá xưa cũ đã mòn sạch cả nghĩa, được Nguyễn Tiến Trung ca ngợi, rất hay để suy ngẫm?
The Ocean, the Bird, and the Scholar: Essays on Poets and Poetry
by Helen Vendler
Charles Simic đọc nữ phê bình gia số 1, một thứ Thụy Khê của Mẽo. Bà Thụy
Khê Yankee mũi lõ này bảnh lắm, đúng là 1 chuyên gia về thơ.
Tin Văn sẽ đi bài này, thì cũng 1 cách giới thiệu cho những nhà phê bình Mít, phê bình là gì, và phê bình thơ ghê gớm cỡ nào.
Tuy nhiên, cái tít hình như chôm của NXH, phê bình gia không thể so sánh vs phê bình gia không phải thời nào cũng có được.
Helen Vendler khám phá ra tài phê bình thơ của bà năm 23 tuổi, khi đọc thơ
Wallace Stevens. Trước đó bà cũng đã đọc thơ, và nhớ khá nhiều bài, nhưng
đọc Stevens, là, như thi sĩ Mít hải ngoại Nguyễn Đức Tùng, hòa tan vô liền
- chôm từ của Thanh Thảo, hay dùng từ của chính bà: tôi cảm thấy cái tinh
anh khoả thân của chính tôi nói với tôi từ trang giấy, “as if my own naked
spirit spoke to me from the page”!
Bài viết này tuyệt lắm. Mít ta chưa có tay nào phê bình thơ bảnh như bà này.
Có Đặng Tiến, nhưng với riêng Gấu, Đặng Tiến phê bình thơ có cái bẩm sinh,
nghĩa là ít… đọc, còn bà này, đọc kinh người, khác hẳn.
Helen Vendler is the A. Kingsley Porter University Professor at Harvard,
where she received her Ph.D. in English and American literature, after completing
an undergraduate degree in chemistry at Emmanuel College. She has written
books on Yeats, Herbert, Keats, Stevens, Shakespeare, Seamus Heaney, and
Emily Dickinson. Her most recent books are The Ocean, the Bird, and the Scholar;
Dickinson: Selected Poems and Commentaries; Last Looks, Last Books: Stevens,
Plath, Lowell, Bishop, Merrill; and Our Secret Discipline: Yeats and Lyric
Form. She is a frequent reviewer of poetry in such journals as The New York
Review of Books, The New York Times Book Review, and The New Republic. Her
avocational interests include music, painting, and medicine.
Aleksandr
Solzhenitsyn, tiểu thuyết gia chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20,
mất ngày
3 Tháng Tám 2008, thọ 89 tuổi.
Vài tuần sau
khi chôn ông, nhà nước Nga của Putin làm 1 cú thật đểu cáng, [a sly,
even
cynical gesture] là đổi tên 1 cái phố lớn nhất của VC Nga, ở Moscow,
thành tên
của Solz. Và còn làm 1 tấm plaque vinh danh những thành tựu văn học của
ông, kế
ngay bảng tiệm McDomald, trên cùng con phố!
Bà vợ góa của
nhà văn, Natalia Solzhenitsyn kiên nhẫn ôm những trớ trêu của lịch sử.
Tuần lễ
vừa rồi, bà tới Triển Lãm Sách Mẽo, ở trung tâm Javits Center, vì một
dự án tưởng
niệm quan trọng hơn nhiều: Thành lập một kho dự trữ hồ sơ văn học gồm
tất cả những
gì, từ tuổi thơ bị đóng đinh thập tự của Solz, tới hàng ngàn trang bản
thảo viết
tay của ông, trong có bản thảo Quần
Đảo Gulag mà bạn bè đã chôn giấu từ 20 năm ở
vùng quê Estonia, bên ngoài tầm tay của KGB.
Tin Văn: 1,242,390
Gió To: 1,475,097
Da Mùi:
1,874,281
Một mình một
ngựa mà trùm thiên hạ, thế mới ghê chứ!
Hà, hà!
Lâu lâu thì
cũng phải cho GCC phởn 1 tí chứ! Cứ....
Lò Thiêu
hoài, mệt quá!
TV có
nhiều cộng tác viên
“thầm lặng”, chứ 1 mình GCC, sức mấy mà bảnh như
thế!
Tks all.
NQT
Ảnh: Bùi
Chát trong buổi đọc văn tại Literaturwerkstatt, Berlin tháng 11.2010
(Ảnh của Hồ
Phạm Huy Đôn)
Trang web của
tỉnh Bến Tre có bài viết về sự ra đời của đội quân tóc dài. Trong
bài viết đó
có đoạn thuật lại như sau: "Nhiều người phẫn nộ không ngần ngại tụt
quần
trườn mặt những tên ác ôn mặt dày mày dạn làm chúng phải cúi mặt bỏ
đi".
Trang Ngôi sao đăng những bức ảnh chụp cảnh
cưỡng chế đất, trong đấy có những cảnh
vệ sĩ lôi kéo hai phụ nữ trần truồng ở Cần Thơ. Dưới chế độ Ngụy những
tên ác
ôn mặt dày mày dạn đã cúi mặt bỏ đi trước những người phụ nữ lõa thể,
nhưng ở
chế độ ta những người ngày ngày được nghe tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
vẫn hăng
hái xông vào lôi kéo những người phụ nữ trần truồng. Đấy là điểm khác
nhau giữa
chế độ ta và chế độ Ngụy. Không
biết những người phụ nữ trong đội quân tóc dài
ngày xưa đấy giờ ra sao, có kinh nghiệm gì truyền lại cho chị em hôm
nay không
và khi xuôi tay có nhắm mắt được không? Đông A Blog
Note: Lần đầu
tiên 1 anh VC xác nhận, chế độ ta khốn kiếp hơn nhiều so với chế độ Ngụy
Cái đội quân tóc dài ngày nào, nhờ Bắc Kít giải phóng, biến thành
Quỉ Đỏ
hết rồi.
Chứng cớ: Một bà Bình, chót đời viết hồi ký, đâu có biết Bà là Quỉ,
thua 1 một
em Yankee mũi lõ như Jane Fonda, mang nỗi đau qua bên kia mồ, thua Cao
Bồi PXA,
không làm sao nhắm mắt.
Be careful
what you wish for
Hãy coi chừng,
hãy cẩn thận cái điều mà bạn mong muốn:
Bắc Kít mong
thắng cuộc chiến với bất cứ giá nào.
Thắng, nhưng cái giá phải trả đắt quá, và
nó liên quan tới cái sự giáo dục con nít hận thù.
Ở hải ngoại,
có ba diễn đàn. Hậu Vệ và Da Mùi không rành tiếng Mít, Chợ Cá quá rành,
nhưng
toàn thứ cực độc, cực ác, phải dẹp tiệm, quay qua “lốc liếc”, nhưng
cũng không
khá!
Không thể nào
khá được, bởi vì cái độc nó tẩm vô người tới xương tới da, tới linh hồn
Bắc Kít
rồi, mà điều này là do nền giáo dục hận thù gây nên.
Đường ngắn tới… Heo
Heo 1: Ngay sau 30 Tháng 4, 1975 cho lũ Ngụy
Heo 2: Dài dài sau đó, cho tới 40 năm sau, và sau nữa, cho xứ Mít.
Nhìn hình, thì thấy Tông Tông Thiệu bảnh trai hơn bất cứ 1 tên nào ở Bắc Bộ Phủ!
Được, được!
“Short road to Hell”, cụm từ này, là của tuỳ
viên báo chí của Tông Tông Thiệu, phát biểu, khi Nixon và Kissinger tìm đủ
mọi cách đe dọa Thiệu, bắt ông phải ngồi vô bàn hội nghị ở Paris. Trên tờ
Vietnam, số mới nhất Tháng 10, 2015, có bài viết của J. Veith, tác giả Tháng
Tư Đen: Miền Nam thất thủ, Black April : The Fall of South Vietnam, 1973-75,
viết về cú bức tử Miền Nam của Nixon và Kssinger. Bài viết là từ cuốn New
Perceptions of the Vietnam War: Essays on the War: The South Vietnamese Experience,
The Diaspora, and the Continuing Impact, do Nathalie Huynh Chau Nguyen biên
tập:
Sau khi dụ khị đủ mọi cách, Thiệu vẫn lắc đầu, Nixon dọa cắt hết viện trợ Mẽo, nếu không chịu ký hòa đàm.
After persuasion had failed, Nixon threatened Thieu with the cessation of all American aid if he did not sign the accords
Tổng Lú nhớ đọc nhe, vừa hôn đít O bá mà, vừa đọc nhe!
Hôn rồi, về xứ Mít đọc, cũng được!
Chúng ta giả dụ, sau khi Mẽo lại đi đêm với Tập, như Kissingger đã từng đi đêm với Mao, chúng yêu cầu, thịt thằng VC Mít nhe?
Mẽo dùng bom khôn đánh sập cầu Hàm Rồng [the Dragon's Jaw]
In 1951 John Fowles was an assistant teacher at Poitiers University when
he fell seriously in love for the first time. More than 60 years on, Mike
Abbott meets the student he fell for and uncovers the unpublished poem he
wrote for her
GCC, do mắt kém, vừa già, vừa lé, vừa đọc lộp chộp, as always, lầm Walser với Alfred Kazin.
Nhân mới đọc 1 entry trên Blog NL, mới à 1 phát, ta lầm rồi, bèn đi 1 đường
về nhà văn đã từng được coi là bảnh hơn cả Kafka này. Trên tờ The New Yorker
có 1 bài về ông, nhưng GCC hết credit, chịu thua, dù đã đi 1 đường vòng qua
google, đành giới thiệu bài của Coetzee trên NYRB.
Robert Walser (15 April 1878 – 25 December 1956) was a German-speaking Swiss writer.
Walser is understood to be the missing link between Kleist and Kafka. "Indeed,"
writes Susan Sontag, "At the time [of Walser’s writing], it was more likely
to be Kafka [who was understood by posterity] through the prism of Walser.
Robert Musil, another admirer among Walser’s contemporaries, when he first
read Kafka pronounced [Kafka’s work] as, 'a peculiar case of the Walser type.'"[1]
Walser was admired early on by artists such as Robert Musil, Hermann Hesse,
Stefan Zweig, Walter Benjamin and Franz Kafka,[2] and was in fact better
known in his lifetime than Franz Kafka or Walter Benjamin, for example.[3]
Was Walser a great writer? If one is reluctant to call him great,
said Canetti, that is only because nothing could be more alien to him
than greatness. In a late poem Walser wrote:
I would wish it on no one to be me. Only I am capable of bearing myself. To know so much, to have seen so much, and To say nothing, just about nothing. Robert Walser (15 April 1878 – 25 December 1956) was a German-speaking Swiss writer.
Walser được hiểu như là 1 cái link thiếu, giữa Kleist và Kafka. “Tuy nhiên,”
Susan Sontag viết, “Vào lúc Walser viết, thì đúng là Kafka [như được hậu
thế hiểu], qua lăng kính của Walser. Musil, 1 đấng ái mộ khác giữa những
người đương thời của Walser, lần đầu đọc Kafka, phán, ông này thuổng Walser
[một trường hợp đặc dị của Walser]."
Walser được ái mộ sớm sủa bởi những đấng cự phách như là Musil, Hesse, Zweig.
Benjamin, và Kafka; đúng ra, Walser, trong đời của mình, được biết nhiều
hơn, so với Kafka, hay Benjamin.
W. G. Sebald, in his essay “Le Promeneur Solitaire,” offers the following
biographical information concerning the Swiss writer Robert Walser: “Nowhere
was he able to settle, never did he acquire the least thing by way of possessions.
He had neither a house, nor any fixed abode, nor a single piece of furniture,
and as far as clothes are concerned, at most one good suit and one less so….
He did not, I believe, even own the books that he had written.” Sebald goes
on to ask, “How is one to understand an author who was so beset by shadows
… who created humorous sketches from pure despair, who almost always wrote
the same thing and yet never repeated himself, whose prose has the tendency
to dissolve upon reading, so that only a few hours later one can barely remember
the ephemeral figures, events and things of which it spoke.”
In one of Berenice Abbott's photographs of the Lower East Side; I recall a store sign advertising Silk Underwear.
Underneath, there was the additional information about "reasonable prices
for peddlers." How interesting, I thought. Did someone carry a suitcase full
of ladies' underwear and try to peddle them on some street corner further
uptown? Or did he ring doorbells in apartment buildings and offer them to
housewives?
Bài viết này, "Cuộc sống của những hình ảnh", được Simic
dùng cho toàn tập văn xuôi của ông, đọc 1 phát, đoạn mở ra của nó, là bạn
bèn nhớ đến cái xen trong "Nhà Có Cửa Khoá Trái", của “đảo xa”, mà VP cực
mê: sau khi làm/mần xong xuôi, chàng hỏi nàng, cho xin cái xịp để làm kỷ
niệm.
Một trong những bức hình của Abbott về khu Lower East Side, làm tôi nhớ đến cái tấm biển quảng cáo, “Đồ Lót Mềm Như Mơ”. Ở bên dưới còn thêm 1 hàng chữ, “giá vừa phải cho những người bán dạo”.
Thú vị nhỉ. Liệu có ai đi bán dạo, tay xách 1 cái cà tạp, đầy những “của
quý, hàng hiếm, đồ xịn, hàng ngoại, đồ zin”, là những cái xịp, cái “ví” “mềm
như mơ?”
Ui chao, trên FB của “Lờ Tờ Mờ” cũng vừa đi 1 đường về nó. Chính là do đọc loáng thoáng mấy cái còm, mà Gấu nhớ ra bài viết này.
Hà, hà!
Nhà có khách. Mấy hôm giặt váy phơi váy cho khách. Rũ chiếc váy không phải của mình, tuyệt vọng.
Khách đi. Quên váy. Gập váy cho khách, nghĩ làm thế quái nào gửi được
cho người bây giờ? Lại nghĩ ôi giời, bà chị cũng chỉ eo ót bằng mình lúc
tuổi 30. Váy hàng Việt Nam, đẹp dễ sợ. Nhìn chả ai nghĩ hai mươi
năm trước mình còn phải thu vén gửi đồ về cho người nhà bạn bè ăn diện.
Lại nhìn mình. Tự hỏi có nên làm Smothy tuyền mướp đắng tươi sống uống
không hạ đường huyết tèo luôn th...
Liệu có người nào xách cái cà tạp đầy những
đồ lót [nội y như VC gọi] và bán dạo trên phố, rao như rao “bánh mì nóng
hổi vừa thổi vừa đợp?”
Hay là anh ta bấm chuông, và 1 bà, 1 cô, mở cửa, và anh bèn chìa hàng xịn ra…
Ở đâu cũng có cái xấu, trộm cắp, lừa đảo nhưng ở Việt Nam điều mà tôi sợ nhất đó là sự vô cảm.
Nhớ lần bị cướp giật túi xách ngay giữa trung tâm Quận 1, giữa thanh
thiên bạch nhật lúc 16:00, đường phố bắt đầu giờ tan làm cao điểm, đông
đúc xe cộ. Vậy mà khi tôi hô " Cướp ! Cướp !" tất cả mọi người đi đường
đều thờ ơ, chỉ duy nhất có một ông Tây đang đi xe máy thì đuổi theo bọn
cướp nhưng ko bắt kịp. Lại cũng vẫn là ông Tây đó quay lại và hỏi tôi có
cần giúp đưa đến công an k...
Trong
ba năm gần đây, mỗi năm cộng đồng 84.000 người Việt ở Đức phạm khoảng
5000 vụ hình sự, trong đó trên dưới 1000 vụ là tội ăn cắp. Để so sánh:
cộng đồng Trung Quốc 110.000 người, mỗi năm trên dưới 200 vụ ăn cắp. Trừ
tranh tượng nghệ thuật và bí mật công nghệ, nói chung không có thứ gì
mà người Việt ở đây không thể và không nỡ ăn cắp, từ mèo nhà hàng xóm,
xe nôi, xe đạp, hộ chiếu, thẻ tín dụng, điện, nước, biển số, đến nhân
thân, vịt trời...; làm nấm ăn cắp nấm, làm xúc xí...
Đọc bài viết của Hải Anh, và của Sến, cả hai đều là nhà
văn, theo Gấu, không hiểu ra vấn đề, về nạn ăn cắp và sự vô cảm của người
Việt.
Cái xã hội Việt Nam, sở dĩ trở nên “đáy địa ngục” [chôm Tạ Tỵ, khi viết
về thời gian đi tù VC], là do, nó đã từng muốn “đáy thiên đường”!
Để Gấu kể chuyện này, rồi sau đó, tự hai nhà văn Bắc Kít suy ra kết luận.
Thời gian mới ra hải ngoại, có thời gian Gấu làm thiện nguyện cho 1 Hội Người
Việt địa phương, và trong 1 lần, được phái đi uý lạo mấy đấng Bắc Kít trẻ,
du đãng, ăn cướp, giết người, tệ nhất là ăn cắp.
Khi Gấu hỏi, cần nói gì với xứ Cà Na Điên, thì nói đi, để Gấu về trình lại,
họ nói, mày về hỏi chúng nó, tại làm sao bắt chúng ông [ngôn ngữ thậm
xưng, nhưng đúng là họ muốn nói như thế, khi nhìn thái độ khinh khỉnh của
cả đám]. Chúng ông đâu có muốn sang Canada. Khi ở Trại Tị Nạn, chúng ông
muốn đi Mẽo, chúng vô Trại năn nỉ chúng ông, bây giờ bắt bớ, còn dọa trả
về Việt Nam.
Về cái chuyện ăn cắp, họ nói, trong khi chúng ông cực khổ ở xứ Bắc Kít, chúng
nó ở Canada, sướng như Trời, muốn gì cũng có, bây giờ, chúng ông ăn cắp,
là để bù lại những ngày đói khổ, có gì đâu mà cằn nhằn hoài!
Một đấng nói, đúng như thế, với Gấu!
Đức Phật Sống hình như cũng cảm nhận ra điều này, khi nói, não của đám Bắc Kinh, mất 1 mẩu.
Kinh nghiệm của riêng Gấu, khi trở lại đất Bắc, cũng cảm thấy thế: Có 1 cái
gì đó, thật cao quí, mất đi, khi Miền Bắc lao vào cuộc chiến, để thực hiện
giấc mơ lý tưởng, nhưng kết quả, ngược hẳn lại.
Kafka phán, mới ghê, xây tháp Babel, OK, nhưng đừng có trèo lên nhé!
Hà, hà!
Khi Bắc Bộ Phủ đưa cả 1 miền đất đi tù, có người tù dài đằng đẵng như Thảo Trường, 17 năm, sao không thấy ai lên tiếng?
Cái đó không phải… vô cảm ư?
Lạ, là chưa hề có 1 tên Bắc Kít nào tỏ ra “không vô cảm”, trước số phận của một nửa nước là lũ Ngụy.
Suy ra, Ngụy còn thua 1 tên Bắc Kít, ăn cắp, ở Đức?
Bây giờ hôn đít Mẽo, có cần ai khóc cho 3 triệu người chết trong cuộc chiến không?
“Hôn” chứ không “liếm”, ấy là vì CS có cái trò ôm hôn thắm thiết, trong khi chúng chửi Ngụy là liếm giầy Mẽo, ngoại bang.
V/v “cái gì mất đi trong cuộc chiến”.
Chất đực, cái gọi là “virility” của Mít?
Cuộc chiến dai dẳng, tàn nhẫn, nham hiểm quá, nuốt sạch những kẻ dám đương đầu với nó, còn lại toàn 1 lũ quặt quẹo, vô cảm?
Nếu còn chăng, thì là “cánh tay ma”.
Đây là đề tài của cuốn “A Burn-out Case”. Như lũ cùi, Mít mất mẹ 1 cánh tay trong cuộc chiến, và suốt đời bị nó ám ảnh.
Như 1 thứ… tội tổ tông?
Hà, hà!
Cuốn Cánh Tay Ma, “Một trường hợp lụi tàn”, một cách nào đó, đặt ngược vấn
đề của Kafka, “xây Babel thì được, nhưng đừng trèo lên nó”: Có gì “thiếu”
ở trong đó, chứ không “thừa” [đừng trèo lên]. Gấu khi mua, là vì bài giới
thiệu của Giles Foden, nhiều hơn là vì cuốn sách. Nhưng càng đọc, càng mê,
tuyệt thật.
[I felt something was lacking from A Burnt-out Case. Later I realized that
was exactly the point. The thrust of the novel is, somewhat paradoxically,
to express a sense of 'lack'; to make you feel that something you had expected
is missing.]
Bèn đi cái bài giới thiệu trước, rồi sau đó, lèm bèm lai rai.
Reading A Burnt-out Case again, I am struck by a strong sense of how it stands
in relation to the colonial literature that preceded it. The Bishop's boat,
in which Querry travels up the river, that 'resembled a small battered Mississippi
paddle-steamer with a high nineteenth-century forestructure', is powerfully
reminiscent of the 'tin-pot steamer' in Conrad's Heart of Darkness. One can
draw many parallels between Querry and Marlow. Both have a strong sense of
moral disgust, even if Marlow does not share Querry's degree of (self-proclaimed)
inner desolation. As an author, too, Conrad shared Greene's complex relation
with genre fiction; both used adventure tropes in a semi-parodic fashion.
We know Greene read a lot of Conrad. He quotes Conrad's Congo
diary in his travel book Journey without Maps (I936) to show what he calls
the 'unexplained brutality' of Africa. Immediately afterwards comes a reference
to Céline's Voyage au Bout de la Nuit. Used to describe the sense of despair
so often associated with the continent, it is reminiscent of passages in
A Burnt-out Case: 'Hidden away in all this flowering forest of twisted vegetation,
a few decimated tribes of natives squatted among fleas and flies, crushed
by taboos and eating nothing all the time but rotten tapioca.'
Đọc Một trường hợp lụi tàn, tôi bị "quíu", struck, bởi 1 cảm quan mạnh về,
làm thế nào, như thế nào, nó liên hệ với thứ văn chương thực dân thuộc địa
trước nó. Cái thuyền "Bishop’s boat", với nó, Querry [nhân vật chính trong
A Burn-out Case] ngược dòng sông, làm cực nhớ tới con thuyền, trong Trái
Tim Của Bóng Đen của Conrad. Người ta có thể nhận ra rất nhiều cái quen quen
giữa Querry và Marlow [nhân vật trong Trái Tim Của Bóng Đen].
Cả hai đều tởm
"cái gọi là đạo hạnh", theo cái kiểu, ôi sao Mít bây giờ sao vô cảm quá, hay ăn cắp quá!
Chúng ta biết Greene rất mê Conrad. Ông trích dẫn nhật ký của Conrad, trong cuốn
sách Đi đếch cần bản đồ, Journey without Maps [1936], để trình ra, cái mà
ông gọi là sự “tàn nhẫn không làm sao giải thích được” của Phi Châu. Nhưng
liền sau đó, là 1 trích dẫn Celine, trong Đi cho hết đêm đen, “Voyage au
Bout de la Nuit”. Cuốn “Cánh Tay Ma”, là về nghịch lý, cái gì
còn, sau khi cái gì mất đi, what is left after something has gone [sau cuộc
chiến Mít, cái gì còn, sau khi tất cả đều mất đi].
Cái từ “bout” trong cái
tít của Celine, còn, như Foden chỉ ra: Querry luôn ở trong tình trạng “mẩu”,
“chuột nhũi” [mẩu thuốc lá], của niềm tin, nhưng không hề, chẳng khi nào,
tàn lụi sạch, never burns down.
A cognate of the word for 'end' in Céline's tide, bout, seems useful here: Querry is
always at the 'butt' of faith, but it never quite burns down.
The Wall and the Books
He, whose long wall the wand'ring
Tartar bounds ...•
Dunciad, II, 76.
I read not long ago that the man who ordered the building of the almost infinite
Chinese Wall was the first Emperor, Shih Huang Ti, who also decreed the burning
of all the books that had been written before his time. The fact that the
two vast undertakings-the construction of five or six hundred leagues of
stone to ward off the barbarians, and the rigorous abolition of history,
or rather, of the past-had proceeded from the same person and had come to
be regarded as expressions of his character, unaccountably satisfied and,
at the same time, disturbed me. To investigate the reasons for that emotion
is the purpose of this note.
Historically speaking, there is nothing abstruse in the two measures.
Shih Huang Ti, King of Tsin, who lived at the time of the wars of Hannibal,
conquered the Six Kingdoms and put an end to the feudal system. He built
the wall, because walls were defenses; he burned the books because his opponents
were invoking them to praise the emperors who had preceded him. Burning books
and erecting fortifications are the usual occupations of princes; Shih Huang
Ti was unusual in the scale on which he worked. At any rate, that is the
opinion of some Sinologists, but I believe those two acts are more than an
exaggeration or hyperbole of trivial orders. It commonly occurs that an orchard
or a garden is enclosed within a wall, but not a whole empire. Nor is it
a small matter to induce the most traditional of races to renounce the memory
of its mythical or real past. The Chinese had had three thousand years of
chronology (and during those years, the Yellow Emperor and Chuang-tze and
Confucius and Lao-tzu) when Shih Huang Ti ordered that history should begin
with him.
Shih Huang Ti had exiled his mother because she was a libertine; the
orthodox saw nothing but impiety in his stern justice. Perhaps Shih Huang
Ti wanted to destroy the canonical books because they were his accusers;
perhaps Shih Huang Ti wanted to abolish the whole past in order to abolish
a single memory: the memory of his mother's dishonor. (It was not unlike
the case of a king in Judea who, seeking to kill one child, ordered that
all children should be killed.) That is a valid conjecture, but it tells
us nothing of the wall, the other aspect of the myth. According to historians,
Shih Huang Ti forbade the mention of death and searched for the elixir of
immortality. He became a recluse in a figurative palace, which had as many
rooms as the number of days in the year. Those facts suggest that the wall
in space and the fire in time were magic barriers to halt death. Baruch Spinoza
has written that all things desire the continuance of their being; perhaps
the Emperor and his magicians believed that immortality was intrinsic and
that decay could not enter a closed sphere. Perhaps the Emperor wanted to
re-create the beginning of time and called himself First in order to be really
first. Perhaps he called himself Huang Ti in an endeavor to identify himself
with that legendary Huang Ti, the emperor who invented writing and the compass
and who, according to the Book of Rites, gave things their true names; for
Shih Huang Ti boasted, on inscriptions that still exist, that all things
under his reign had the names that befitted them. He dreamed of founding
an immortal dynasty; he decreed that his heirs should be called Second Emperor,
Third Emperor, Fourth Emperor, and so on to infinity.
I have spoken of a magic plan; we might also suppose that building the
wall and burning the books were not simultaneous acts. And so, depending
on the order we chose, we should have the image of a king who began by destroying
and then resigned himself to conserving; or the image of a disillusioned
king who destroyed what he had previously defended. Both conjectures are
dramatic; but as far as I know there is no historical truth in either. Herbert
Allen Giles relates that anyone who concealed books was branded with a hot
iron and condemned to work on the mammoth wall until the day of his death.
That favors or tolerates another interpretation. Perhaps the wall was a metaphor;
perhaps Shih Huang Ti condemned those who adored the past to a work as vast
"as the past, as stupid and as useless. Perhaps the wall was a kind of challenge
and Shih Huang Ti thought, "Men love the past and I am powerless against
that love, and so are my executioners; but some day there will be a man who
feels as I do, and he will destroy the wall, as I have destroyed the books,
and he will erase my memory and will be my shadow and my mirror and will
not know it." Perhaps Shih Huang Ti walled his empire because he knew that
it was fragile, and destroyed the books because he knew that they were sacred
books (another name for books that teach what the whole universe or each
man's conscience teaches). Perhaps the burning of the libraries and the building
of the wall are operations that secretly nullify each other.
The tenacious wall, which at this moment, and always, projects its system
of shadows over lands I shall never see, is the shadow of a Caesar who ordered
the most reverent of nations to burn its past; and that idea-apart from the
many conjectures it permits-is probably what we find so touching. (Its principal
virtue may be in the contrast between construction and destruction on an
enormous scale.) We could generalize, and infer that all forms possess virtue
in themselves and not in a conjectural "content." That would support the
theory of Benedetto Croce; in 1877 Pater had already stated that all the
arts aspire to resemble music, which is pure form. Music, states of happiness,
mythology, faces molded by time, certain twilights and certain places-all
these are trying to tell us something, or have told us something we should
not have missed, or are about to tell us something; that imminence of a revelation
that is not yet produced is, perhaps, the aesthetic reality.
Buenos Aires, 1950
Shih Huang Ti had exiled his mother because she was a libertine;
the orthodox saw nothing but impiety in his stern justice. Perhaps Shih Huang
Ti wanted to destroy the canonical books because they were his accusers;
perhaps Shih Huang Ti wanted to abolish the whole past in order to abolish
a single memory: the memory of his mother's dishonor.
Tần Thủy Hoàng cho bà mẹ của mình làm 1 chuyến lưu vong, vì cái tội dâm bôn;
nghịch đạo, con làm sao mà bắt mẹ lưu vong. Tuy nhiên, có thể, phần thư là
do đây mà ra: Những cuốn sách buộc tội ông. Nhưng cũng có thể, ông ta muốn
tiêu huỷ trọn quá khứ, chỉ để huỷ 1 hồi ức độc nhất, về 1 bà mẹ dâm bôn của
mình?
Bài viết sau đây, mở ra cuốn sách trên.
Nhưng GCC sợ là cuộc phần thư được nói
tới trong bài viết của NL không liên quan tới Tần Thủy Hoàng.
Đây là đòn “cách sơn đả ngưu” trong chuởng Kim Dung:
Chúng ta có 1 cuộc phần thư 30 Tháng Tư, 1975, và, thay vì “khanh nho”, thì
là “trại tù", dành cho những nho sĩ, như TTT, TTY….
The Wall and the Books
He, whose long wall the wand'ring
Tartar bounds ...•
Dunciad, II, 76.
I read not long ago that the man who ordered the building of the almost infinite
Chinese Wall was the first Emperor, Shih Huang Ti, who also decreed the burning
of all the books that had been written before his time. The fact that the
two vast undertakings-the construction of five or six hundred leagues of
stone to ward off the barbarians, and the rigorous abolition of history,
or rather, of the past-had proceeded from the same person and had come to
be regarded as expressions of his character, unaccountably satisfied and,
at the same time, disturbed me. To investigate the reasons for that emotion
is the purpose of this note.
Historically speaking, there is nothing abstruse in the two measures.
Shih Huang Ti, King of Tsin, who lived at the time of the wars of Hannibal,
conquered the Six Kingdoms and put an end to the feudal system. He built
the wall, because walls were defenses; he burned the books because his opponents
were invoking them to praise the emperors who had preceded him. Burning books
and erecting fortifications are the usual occupations of princes; Shih Huang
Ti was unusual in the scale on which he worked. At any rate, that is the
opinion of some Sinologists, but I believe those two acts are more than an
exaggeration or hyperbole of trivial orders. It commonly occurs that an orchard
or a garden is enclosed within a wall, but not a whole empire. Nor is it
a small matter to induce the most traditional of races to renounce the memory
of its mythical or real past. The Chinese had had three thousand years of
chronology (and during those years, the Yellow Emperor and Chuang-tze and
Confucius and Lao-tzu) when Shih Huang Ti ordered that history should begin
with him.
Shih Huang Ti had exiled his mother because she was a libertine; the
orthodox saw nothing but impiety in his stern justice. Perhaps Shih Huang
Ti wanted to destroy the canonical books because they were his accusers;
perhaps Shih Huang Ti wanted to abolish the whole past in order to abolish
a single memory: the memory of his mother's dishonor. (It was not unlike
the case of a king in Judea who, seeking to kill one child, ordered that
all children should be killed.) That is a valid conjecture, but it tells
us nothing of the wall, the other aspect of the myth. According to historians,
Shih Huang Ti forbade the mention of death and searched for the elixir of
immortality. He became a recluse in a figurative palace, which had as many
rooms as the number of days in the year. Those facts suggest that the wall
in space and the fire in time were magic barriers to halt death. Baruch Spinoza
has written that all things desire the continuance of their being; perhaps
the Emperor and his magicians believed that immortality was intrinsic and
that decay could not enter a closed sphere. Perhaps the Emperor wanted to
re-create the beginning of time and called himself First in order to be really
first. Perhaps he called himself Huang Ti in an endeavor to identify himself
with that legendary Huang Ti, the emperor who invented writing and the compass
and who, according to the Book of Rites, gave things their true names; for
Shih Huang Ti boasted, on inscriptions that still exist, that all things
under his reign had the names that befitted them. He dreamed of founding
an immortal dynasty; he decreed that his heirs should be called Second Emperor,
Third Emperor, Fourth Emperor, and so on to infinity.
I have spoken of a magic plan; we might also suppose that building the
wall and burning the books were not simultaneous acts. And so, depending
on the order we chose, we should have the image of a king who began by destroying
and then resigned himself to conserving; or the image of a disillusioned
king who destroyed what he had previously defended. Both conjectures are
dramatic; but as far as I know there is no historical truth in either. Herbert
Allen Giles relates that anyone who concealed books was branded with a hot
iron and condemned to work on the mammoth wall until the day of his death.
That favors or tolerates another interpretation. Perhaps the wall was a metaphor;
perhaps Shih Huang Ti condemned those who adored the past to a work as vast
"as the past, as stupid and as useless. Perhaps the wall was a kind of challenge
and Shih Huang Ti thought, "Men love the past and I am powerless against
that love, and so are my executioners; but some day there will be a man who
feels as I do, and he will destroy the wall, as I have destroyed the books,
and he will erase my memory and will be my shadow and my mirror and will
not know it." Perhaps Shih Huang Ti walled his empire because he knew that
it was fragile, and destroyed the books because he knew that they were sacred
books (another name for books that teach what the whole universe or each
man's conscience teaches). Perhaps the burning of the libraries and the building
of the wall are operations that secretly nullify each other.
The tenacious wall, which at this moment, and always, projects its system
of shadows over lands I shall never see, is the shadow of a Caesar who ordered
the most reverent of nations to burn its past; and that idea-apart from the
many conjectures it permits-is probably what we find so touching. (Its principal
virtue may be in the contrast between construction and destruction on an
enormous scale.) We could generalize, and infer that all forms possess virtue
in themselves and not in a conjectural "content." That would support the
theory of Benedetto Croce; in 1877 Pater had already stated that all the
arts aspire to resemble music, which is pure form. Music, states of happiness,
mythology, faces molded by time, certain twilights and certain places-all
these are trying to tell us something, or have told us something we should
not have missed, or are about to tell us something; that imminence of a revelation
that is not yet produced is, perhaps, the aesthetic reality.
Buenos Aires, 1950
Shih Huang Ti had exiled his mother because she was a libertine;
the orthodox saw nothing but impiety in his stern justice. Perhaps Shih Huang
Ti wanted to destroy the canonical books because they were his accusers;
perhaps Shih Huang Ti wanted to abolish the whole past in order to abolish
a single memory: the memory of his mother's dishonor.
Tần Thủy Hoàng cho bà mẹ của mình làm 1 chuyến lưu vong, vì cái tội dâm bôn;
nghịch đạo, con làm sao mà bắt mẹ lưu vong. Tuy nhiên, có thể, phần thư là
do đây mà ra: Những cuốn sách buộc tội ông. Nhưng cũng có thể, ông ta muốn
tiêu huỷ trọn quá khứ, chỉ để huỷ 1 hồi ức độc nhất, về 1 bà mẹ dâm bôn của
mình?
To fall in love is to create a religion that has a fallible god.
Iêu, là tạo ra 1 tôn giáo mà vị thần của nó chỉ mong "vấp ngã", sa đọa...
Note: Bài viết này kể câu chuyện, Dante/GCC làm xong trang TV, bèn đi xuống địa ngục gặp Beatrice/BHD
On the morning of April 13, 1300, the day before the last day of his journey,
Dante, his tasks accomplished, enters the Earthly Paradise, which flourishes
on the summit of Purgatory. He has seen the temporal fire and the eternal
one, he has passed through a wall of fire, his will is free and upright.
Virgil has crowned and mitred him lord of himself (per ch'io te sovra te
corona e mitrio). He follows the paths of the ancient garden to a river
that transcends all other waters in purity, although neither the sun nor
the moon penetrates the trees to illuminate it. Music floats on the air,
and a mysterious procession advances on the opposite bank. Twenty-four elders
in white robes and four animals, each with six wings adorned with open eyes,
precede a triumphal chariot drawn by a griffin. At the right wheel three
women are dancing; one is so ruddy that we would scarcely be able to see
her in a fire. Beside the left wheel there are four women in purple raiment,
one of whom has three eyes. The chariot stops and a veiled woman appears;
her costume is the color of a living flame. Not by sight but by the stupor
of his spirit and the fear in his blood, Dante knows that it is Beatrice.
On the threshold of Glory he feels the love that had transfixed him so many
times in Florence. Like a frightened child he looks for Virgil's protection,
but Virgil is no longer beside him.
Imperiously, Beatrice calls him by name. She tells him not to mourn Virgil's
disappearance but rather his own sins. With irony she asks him how he has
deigned to tread where men are happy. The air has become populated with angels;
implacably, Beatrice enumerates Dante's aberrations. She says that her quest
for him in dreams was unavailing; he fell so low that the only means for
his salvation was to show him the reprobates. Dante lowers his eyes, mortified,
and stammers and weeps. The fabulous beings listen; Beatrice obliges him
to make a public confession. This, then, in imperfect prose, is the pitiful
scene of the first meeting with Beatrice in Paradise.
The assault began on 13
March
1954, and Dien Bien Phu fell on 7 May, the day before the delegates
turned at last from the question of Korea to the question of
Indo-China.
But General Giap could not be confident that the politicians of the
West, who showed a certain guilt towards the defenders of Dien Bien Phu
while they were discussing at such length the problem of Korea, would
have continued to talk long enough to give him time to reduce Dien Bien
Phu by artillery alone.
So the battle had
to be fought with the maximum of human suffering and loss. M.
Mendes-France, who had succeeded M; Laniel, needed his excuse for
surrendering the north of Vietnam just as General Giap needed his
spectacular victory by frontal assault before the forum of the Powers
to commit Britain and America to a division of the country.
The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!' And again the Spirit of Pity
whispered, 'Why?'
Cuộc tấn
công bắt đầu này 13 Tháng Ba 1954, và DBP thất thủ ngày 7 Tháng Năm,
trước khi
các phái đoàn, sau cùng rời vấn đề Korea qua số phận Đông Dương.
Nhưng Tướng
Giáp không thể yên trí, chính trị gia Tây Phương - vốn cảm thấy có tí
tội đối với
những người chống giữ DBP, khi họ lèm bèm quá lâu về Korea - kéo
dài cuộc
cò cưa, đủ thời giờ cho ông, chỉ dùng pháo, đủ san thành bình địa lòng
chảo
DBP.
Và thế là trận
DBP đi vào cuộc nướng người....Thủ Tướng
Tẩy cần xin lỗi, về cái sự đầu hàng VC Bắc Kít, còn Tướng Giáp, cần
chiến
thắng huy hoàng, trước khi những thế lực Tây Phương kéo Mẽo và Anh vô
bàn hội,
để xẻ thịt xứ Mít.
Con ma nham
hiểm Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn của Kafka, bèn cười khinh bỉ: Phải thế
thôi!
Và Linh Hồn
Trắc Ẩn của một miền đất, bèn thì thầm, Tại sao?
Note:
Theo GCC, ông này mới là nhà văn vĩ đại nhất viết bằng tiếng Đức, sau Kafka:
W.G. Sebald, quê hương chỉ có, ở trên trang giấy.
Ông viết bằng tiếng Đức, nhưng là một “nhà văn Đức”, theo kiểu của những
nhà văn Alfred Döblin, Hermann Broch and Stefan Zweig là “nhà văn Do Thái”:
bi thảm và do tai nạn.
Six loosely linked essays
from the author “whose only homeland was on the
page.”
Tác phẩm
mới xb của W.G. Sebald: "Một Chỗ Trong Một Xứ Sở": Sáu tiểu
luận nối kết lỏng lẻo, của một tác giả mà “quê hương chỉ có ở trên
trang giấy”
He wrote in
German, but was a “German writer” in the same way that Alfred Döblin,
Hermann
Broch and Stefan Zweig were “Jewish writers”: tragically and by
accident.
Ông
viết bằng tiếng Đức, nhưng là một “nhà văn Đức”, theo kiểu của
những nhà
văn Alfred Döblin, Hermann Broch and Stefan Zweig là “nhà văn Do Thái”:
bi thảm
và do tai nạn.
The book’s finest essay
concerns its earliest figure, Jean-Jacques
Rousseau. Its opening resembles a Sebald novel, with the author hiking
up the
Schattenrain in September 1965, and glimpsing Île St. Pierre, which,
Sebald
notes, Rousseau had visited in September 1765, after having been forced
out of
Paris with the banning of his books “Émile” and “The Social Contract,”
and
exiled from Geneva in a campaign masterminded by a resentful Voltaire.
Sebald
combines an account of his sojourn with Rousseau’s, and of the
philosopher’s
subsequent travails — getting tossed out of Switzerland, and even his
own
grave: In 1794, Rousseau, dead for 16 years, is exhumed by
revolutionists and
entombed in the Panthéon, in a procession “led by a captain of the
United
States Navy bearing the banner of the stars and stripes and followed by
two
standard-bearers carrying the tricolore and the colors of the Republic
of
Geneva.”
Bài tiểu
luận
bảnh nhất thì lèm bèm về một khuôn mặt sớm sủa nhất của cuốn sách, J.J.
Rousseau. Cú mở ra thì giống như của một cuốn tiểu thuyết của Sebald,
với hình ảnh
tác giả leo lên Schattenrain,September 1965, nhìn xuống hòn đảo Île St. Pierre. Như Sebald cho biết,
Rousseau đã
từng thăm viếng nơi này, sau khi bị tống ra khỏi Paris, cùng với việc
sách của ông - “Émile” và “The Social
Contract” - bị biếm, và sau
đó là lưu vong, trong 1 chiến dịch “bỉ ổi”, cầm đầu bởi 1 Voltaire “bực
bội”.
Sebald trộn cuộc viếng thăm của ông, với của Rousseau, và với 1 số tác
phẩm của
vị triết gia Tẩy này, bị truy bức bật ra khỏi Thụy Sĩ, và, bật ra khỏi
ngôi mộ
của chính mình: Vào năm 1794, Rousseau, chết đã được 16 năm, được các
“biệt
kích văn nghệ” mang danh những nhà “cách mạng”, đào ra khỏi mộ, mang
cái xác vô
Điện Chư Thần, trong 1 nghi lễ, dẫn đầu bởi 1 vị Đại Uý Hải Quân Mẽo
[Mẽo nhe -
dám xẩy ra, trong tương lai, biệt kích VC mang xác nhà thơ Mít chôn ở
Mẽo, thí
dụ, về Xứ Mít, như lần đưa vô Văn Miếu, mấy năm trước đây], mang băng
rôn Cờ Sao
Sọc, tiếp theo sau, là cờ tam tài của Tẩy, và cờ CH Geneva!
Sự khác biệt giữa TB và Sebald có lẽ nằm trong cái tít của bài viết.
Sebald khiêm tốn hơn nhiều so với TB: Ông chỉ đau nỗi đau, là 1 tên Đức!
Y chang… GCC!
Hà, hà!
V/v Kafka: GCC không tin, bất cứ 1 tên Bắc Kít nào hiểu được câu của Kafka,
nhất là những đầu óc cực kỳ tinh anh của chúng: Trong cuộc đấu sinh tử giữa
mi và thế giới, hãy đâm vào lưng… mi!
Chứng cớ: Sến, trong lúc chiến tranh khủng khiếp như thế, là bèn kiếm được 1 ghế ngồi ở thư viện Đức, 1 ông chồng Đức.
Hay thế!
Làm sao so được với thí dụ, DTH
Còn Nobel Toán, thua xa DTH, khi VC nhét 1 cái nhà to tổ bố vô họng ông ta, là bèn làm 1 con cừu đi theo lề phải!
Hà, hà!
Sebald’s self-definition was the shadow subject of everything
he wrote, but especially of his nonfiction, which, like his fiction, is measured,
solemn, sardonic — with just a whisper of bibliography. “On the Natural History
of Destruction” addresses the lack of German response to Allied aerial bombing.
“Campo Santo” is composed of a travelogue to Corsica, and Sebald’s more scholarly
work on peers like Peter Handke (written before Handke came out in defense
of Slobodan Milosevic) and Günter Grass (written before Grass came out as
having been a member of the Waffen SS). “A Place in the Country,” which contains
profiles of five writers and one painter, is the third volume of nonfiction
Sebaldiana to appear in English, and the most casually generous, not least
because it’s the last. It’s fitting that his English posterity ends at the
beginning — with literary history, and with influence.
S. tự coi mình, như là 1 cái bóng của những gì ông viết ra, nhất là thứ không-giả
tưởng, mà, như giả tưởng, chừng mực, nghiêm trang, chua chát – với, chỉ 1
tiếng thì thào của thi mục học, bibliography.
"Về Lịch Sử Tự Nhiên Của Huỷ Diệt" - cuốn này thần sầu, cực thần sầu với
riêng GCC – lèm bèm về cái sự thiếu phúc đáp, trước những cú dội bom của
Đồng Minh – dân Đức có cái chung này, với Bắc Kít, ít khoe khoang vết thương,
tủi nhục trong nhà với người lạ.
Hochigan
Ages ago, a certain South African bushman, Hochigan, hated
animals, which at that time were endowed with speech. One day he disappeared,
stealing their special gift. From then on, animals. have never spoken again.
Descartes tells us that monkeys could speak if they wished to, but that they
prefer to keep silent so that they won't be made to work. In I907, The Argentine
writer Lugones published a story about a chimpanzee who was taught how to
speak and died under the strain of the effort.
Ngày xưa có một thổ dân Nam Phi, tên là Hochigan, ghét loài vật, khi đó, biết nói.
Một bữa, tay thổ dân này biến mất. Hoá ra là anh đi chôm báu vật “nói” của loài vật. Thế là kể từ đó, loài vật hết nói!
Nhưng triết gia Tẩy, Descartes thì lại kể 1 câu chuyện khác. Theo ông, khỉ
có thể nói, nếu như chúng muốn, nhưng “ngu gì mà nói”, nhờ vậy chúng chẳng
phải làm gì hết.
Vào năm 1907, nhà văn Á Căn Đình Lugones cho xb một câu chuyện về 1 con khỉ
chimpanzee được dạy nói, và tội thay, con khỉ bị chết, vì lao động khổ sai,
dến kiệt sức, trong 1 trại tù VC dành cho lũ Ngụy!
Hà, hà!
The Double
Suggested or
stimulated by reflections in mirrors and in water and by twins, the
idea of the
Double is common to many countries. It is likely that sentences such as
A
friend is another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were
inspired
by it. In Germany this Double is called Doppelganger, which means
"double
walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man to
bring him to his death; there is also the Scottish word wraith for an
apparition thought to be seen by a person in his exact image just
before death.
To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad
"Ticonderoga" by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this
theme. There is also the strange picture by Rossetti ("How They Met
Themselves") in which two lovers come upon themselves in the dusky
gloom
of a woods. We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's
Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly
Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn
(Some Chinese Ghosts).
The ancient Egyptians
believed that the
Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his same walk and
his
same dress. Not only men, but gods and beasts, stones and trees, chairs
and
knives had their ka, which was invisible except to certain priests who
could
see the Doubles of the gods and were granted by them a knowledge of
things past
and things to come.
To the Jews
the appearance of one's Double was not an omen of imminent death. On
the
contrary, it was proof of having attained prophetic powers. This is how
it is
explained by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the
story
of a man who, in search of God, met himself.
In
the story "William Wilson" by
Poe, the Double is the hero's conscience. He kills it and dies. In a
similar
way, Dorian Gray in Wilde's novel stabs his portrait and meets his
death. In
Yeats’s poems the Double is our other side, our opposite, the one who
complements us, the one we are not nor will ever become.
Plutarch
writes that the Greeks gave the
name other self to a king's ambassador.
Kẻ Kép
Ðược đề xuất,
dẫn dụ, huých huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ
cặp song
sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu
này “Bạn
Quí là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư tưởng Hãy Biết Mình của
trường
phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là
Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”. Trong tiếng
Scotland thì
là từ fetch, cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái
chết đến
cho bạn. Còn có từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang
bạn, và
bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái
chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác
của
mình trôi qua, quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương
"Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài
này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How
They
Met Themselves"], hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc
chạng
vạng. Còn nhiều thí dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"),
Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist,
Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người
Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích thị
của 1 con
người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con
người mà thần
thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ
một vài
ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần
ban cho
khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do
Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha
nội, lẹ
lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao
Bồi, bạn của
Gấu, như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...đi,
là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ
đòi mạng, thì đi thế
đéo nào được?]. Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã
thành, đạt
được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom
Scholem.
Một giai thoại
được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm
hoài
Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong
“William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong
truyện. Anh ta
thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian
Gray,
trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ
Thần Chết.
Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ
bổ túc,
hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở
thành.
Plutarch viết,
người Hy Lạp gọi, “cái ngã khác”, bằng cái tên, viên “đại sứ của hoàng
đế”.
VĂN HỌC MIỀN NAM 54-75 (121): NHÀ VĂN DUYÊN ANH: ĐỜI LƯU VONG BI KỊCH
Cho dù Duyên Anh có thế nào đi nữa, thì ông cũng là một người cầm bút, không
có lấy một tấc sắc trong tay để tự vệ. Nhân danh bất cứ một điều gì để tấn
công và hạ thủ một người như thế rõ ràng là một tội ác.
Note: Một đời DA, gây ân oán giang hồ biết
là chừng nào, cái nhân đó đẻ ra cái quả đó.
Chi tiết về lần bị đánh, anh
có kể lại cho Đỗ Tiến Đức, trong 1 cuộc phỏng vấn trên tờ Văn Học của NMG,
hình như vậy, nhớ đại khái, anh nói, thằng đó phải là võ sĩ, anh nghe hỏi,
“… có phải DA không”, anh né người, nên cú đấm trượt đi, nhờ vậy toàn mạng.
Tên viết bài này, cũng 1 tên nằm vùng ngày nào, đâu có mặt khi xẩy ra vụ
việc, nên viết nhảm, rất nhiều chi tiết sai, bài viết còn cố tình tố cáo
tội ác của lũ chống cộng điên cuồng hải ngoại, trong có băng đảng Khiến Chán.
Nhờ cú đánh, 1 cách nào đó, DA sống lại, có 1 đời khác, rũ sạch hết những
điều anh làm bậy, viết bậy, với ngay cả ân nhân của anh, là NMC.
Chúng ta tự hỏi, nếu không có cú đánh?
Adam
Zagajewski, trong “Một cái đẹp khác”, viết, tại làm sao tiểu thuyết trinh
thám chán.
Nhà thơ giải thích, bởi là vì chúng “deal” với chỉ 1 bí mật.
Nhưng chỉ có 1 bí mật thực sự, một câu hỏi thực sự: Thế giới là gì? Lửa là gì? Không khí là gì? (1)
Chúng ta thay thế “bí mật” thành “tội ác”, thì ra vấn đề chúng ta đang bàn
tới ở đây, tội ác của tên đấm DA, là chỉ một tội ác, của, chỉ 1 cá nhân.
Cái tội ác thực sự, là tội ác đẩy cả nước vào cơn băng hoại, mấp mé bờ huỷ diệt, tên VC nằm vùng này không nhìn thấy!
Simic cũng đã từng nêu lên vấn nạn này rồi, khi bị đồng bào của ông chửi:
Một tên bạn của tôi, từ Yugoslavia [Nam Tư ngày nào], một năm trước đây,
gọi điện cho tôi, và nói, “Charlie, tại sao mi không về nhà, mà thù hận với
đồng bào của chính mi?
Hắn chọc quê tôi. Tuy biết, nhưng tôi vẫn quê. Tôi bèn trả lời, cái chuyện
thù hận, thù ghét, tớ không quen, rằng, lâu lâu ghét thằng này, ưa thằng
kia, giữa lũ lưu vong hải ngoại, OK, nhưng làm sao mà thù hận trọn dân tộc
của tớ cho được.
"Vậy là mi đánh mất cái hạnh phúc lớn lao nhất mà 1 con người có được ở trên cõi đời này rồi!”
Ui chao, hình như Gấu có cái hạnh phúc lớn lao này, khi thù hận VC, và nhất là lũ VC nằm vùng!
(1)
Why are detective novels so boring? Because they deal with a single mystery, the simple question of who killed Mr. L.
But there's only one real mystery, one real question: What is the world? What is fire? What is air?
ADAM ZAGAJEWSKI: ANOTHER BEAUTY
V/v, Nếu không có cú đánh?
Robert Zaretsky, trong “Một Đời Đáng Sống: Albert Camus and the Quest for
Meaning”, viết, tác phẩm của Camus làm chúng ta nhớ tới bi kịch Hy Lạp, “Qua
đau khổ có được tri thức”:
In his effort to make sense of French Algeria's predicament through the works
of Greek tragedy, Camus' work reminds us that, as the Chorus in the Oresteia
sings: “Through suffering comes knowledge."
Đời lưu vong bi kịch?
Lưu vong viết như 1 khổ dâm?
Đây là câu của Thầy Kuốc
Thảo nào đến con gái rượu của y tá dạo cũng thèm được lưu vong?
V/v Kafka. Cuốn này, cũng thần sầu. Đọc 1 phát, chương Cha & Con Kafka,
thì bèn nhớ liền tới BHD. Em cực thù ông bố. Mà ông bố thì cũng cực kỳ dã
man, như “hầu hết” những ông bố Bắc Kít. Ông bố trung uý Kiệt trong MCNK,
nguyên mẫu ngoài đời là ông bố BHD. Bạn có nhớ lúc bà mẹ K mất, ông không
cho phép con đang du học, về thụ tang. Kiệt sau đó, quá đau lòng, tại làm
sao mà lại sợ ông bố đến mức như thế, đúng ra là phải về…
Cái câu em phán,
mi – GCC - không làm được việc đó đâu, khi nói về đấng boyfriend, cùng học
y khoa, sau là chồng, cứ mỗi lần Sài Gòn dục dịch biểu tình, là khệ nệ vác
mấy bao gạo tới nhà ông bố vợ tương lai, là có thực. Gấu không thể bịa ra
được.
Còn nhiều câu, sau nhớ lại, mỗi lần nhớ là 1 lần đau lòng.
BHD còn 1 người em trai, học giỏi lắm, sau đi du học [trước 1975] thành đạt,
nhưng cắt đứt mọi liên lạc với gia đình, chỉ hai chị em biết địa chỉ của
nhau. Và đều không nhận 1 tí tiền bạc, khi bán cái nhà ở Ngã Sáu Saigon.
*****
Không có gì đáng kinh ngạc khi nhà văn viết tiếng Đức vĩ đại nhất sau Kafka
không phải Günter Grass (xem thêm ở đây) mà là Thomas Bernhard
NL
Theo GCC, hai đấng này thuộc hai dòng khác hẳn nhau. Vĩ đại nhất, cũng khác
nhau. Vĩ đại nhất, như giới văn học nhận ra, là Sebald, nhưng tiếng Đức của
ông này, không thuộc dòng chính, như Thomas Mann, như sau đó NL nhận
xét, nhà văn bên lề.
Pamuk cũng nhận ra điều này, khi viết về TB: Thế giới của những tiểu thuyết
của Thomas Mann, trong Những Sắc Màu Khác.
Bài này cũng tuyệt lắm. Pamuk
nhận xét, có cái gì chung chạ giữa Dos và TB, nhưng thế giới TB gần thế giới
của Beckett hơn.
Note: Ngụy Ngữ có 1 truyện ngắn thần sầu, Con Thú Tật Nguyền, hình như
được chính Mai Thảo khám phá ra, và cho đăng trên Vấn Đề, cùng cái thời
kỳ với 1 số trường hợp của những truyện ngắn thần sầu khác, của những
tác giả khác, như Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn tôi, của Cung Tích Biền,
Trăng Huyết của Ngọc Minh…. Trần Hoài Thư cũng viết vào thời kỳ này,
nhưng chẳng có truyện ngắn nào khủng như thế này!
'But if we are incapable of love?'
'I'm not sure such a man exists. Love is planted in man now, even uselessly
in some cases, like an appendix. Sometimes of course people call it hate.'
'I haven't found any trace of it in myself.'
'Perhaps you are looking for something too big and too important. Or too active.'
'What you are saying seems to me every bit as superstitious as what the fathers believe.'
'Who cares? It's the superstition I live by. There was another superstition
- quite unproven - Copernicus had it - that the earth went round the sun.
Without that superstition we shouldn't be in a position now to shoot rockets
at the moon. One has to gamble on one's superstitions. Like Pascal gambled
on his.' He drank his whisky down.
'Are you a happy man?' Querry asked.
'I suppose I am. It's not a question that I've ever asked myself. Does a happy man ever ask it? I go on from day to day.'
'Swimming on your wave,' Querry said with envy. 'Do you never need a woman?'
'The only one I ever needed,' the doctor said, 'is dead.' 'So that's why you came out here.'
'You are wrong,' Colin said. 'She's buried a hundred yards away. She was my wife.' A burnt-out case p.117
Nhưng nếu đàn ông chúng ta không thể… iêu?
Tôi không tin có thứ đàn ông đó. ‘Yêu’ cắm vào một người đàn ông, ngay cả
khi vô dụng, trong vài trường hợp, giống như cục thịt dư. Đôi khi, có vài
người gọi là ‘thù’
Tôi đếch thấy một tí dấu vết nào của cái thứ đó trong người tôi.
Có thể, ông tìm một cục gì lớn hơn, quan trọng hơn. Hay cựa quậy dữ dằn hơn.
Điều ông nói sao nghe như trò mê tín của mấy ông thầy chùa.
Ai cần? Chính là trò mê tín mà tôi đang sống với nó. Có một thứ mê tín khác,
gần như không thể nào chứng minh – Copernicus có thứ này – trái đất quay
quanh mặt trời….
*
'A superb storyteller'
New York Times Một đoạn cực ngắn, như trên, trong 1 cuốn tiểu thuyết, mà với 1 độc
giả bình thường, chắc là lướt qua, nhưng với 1 tay có tí kiến thức về khoa
học, là hắn ta/chị ả lôi ra mấy cú cực khó nhá.
Copernic, là liên quan tới quĩ đạo hình bầu dục của các hành tinh. Đây là
đề tài của cuốn Những Kẻ Mộng Du của Koestler, Tin Văn đã từng lèm bèm nhiều
lần.
Pascal thì lại mắc mớ tới cái vòng tròn của ông, mà Đỗ Long Vân đã từng nhắc tới khi viết "Vô Kỵ giữa chúng ta"
Borges cũng có 1 bài thần sầu về vòng tròn Pascal.
Và võ học cũng như Thượng đế của Pascal, là một tinh cầu trung tâm ở khắp
nơi, nhưng không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ,
và võ công nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch. Làm thế
nào có thể thu cái thế giới nát vụn ấy vào một mối? Ai cũng muốn làm bá chủ
võ lâm. Người ta giết nhau như ngóe để độc chiếm những võ công kỳ bí có thể
cho phép người ta khuất phục chúng anh hùng. Câu chuyện nghĩa hiệp đã nhường
chỗ cho cuộc tranh cường đẫm máu. Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy tuy nhiên,
cái gì người ta thấy, là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất.
Đỗ Long Vân : Vô Kỵ giữa chúng ta
Bài viết của Borges về vòng tròn Pascal: The Fearful Sphere of Pascal, TV sẽ giới thiệu as soon as…
Đọc cái mẩu văn này, thì Gấu lại nhớ,
1 anh tù Gulag, lao động về, nghe tin có quà thân nhân, cứ nghĩ là đồ ăn,
vội vàng chạy tới giường của mình, với cơn đói mỗi lúc một nổi lên đùng đùng.
Lật cái cái khăn trải giường lên, thấy, chỉ cái thư nhà. Bèn khóc 1 trận thật là khủng.
Vì quá đau lòng.
Tất nhiên, sau đó, khi tính viết tiếp cái mẩu văn trên, thì là cái đói của Gấu Cà Chớn, khi đi tù VC.
Với xứ Bắc, với Gấu, thì không phải kẹo kéo, mà là kẹo bột, thời gian mẹ gửi ông ngoại nuôi giùm.
Cũng có 1 bà chuyên bán kẹo bột. Thứ kẹo bột trộn đường, cớ sao Gấu không
làm sao quên được, chỉ đến khi già rồi, thì hiểu ra, cơ thể lúc đó cần đường,
rất cần đường, giống như những ngày ở trại tù Đỗ Hòa, rất cần mỡ.
‘It would have been best for the Chinese Communist
Party if its members were not to believe in anything, not even in communism,’
Zorana Baković, the China correspondent for the Slovenian newspaper Delo,
wrote recently, ‘since numerous party members joined churches (most of them
Protestant churches) precisely because of their disappointment at how even
the smallest trace of their communist ideals had disappeared from today’s
Chinese politics.’
Tốt nhất cho Đảng CS Tẫu, là những đảng viên của nó, không tin bất cứ cái gì, ngay cả chủ nghĩa CS!
Zizek, chuyên gia số 1 về Mạc Xịt, tư tưởng gia số 1 hiện nay, lèm lèm về “Phép
Lạ Tầu”.
Bài này cho đọc free, Gấu không biết, mua tờ báo giấy về mới tiếc [tiền[,
hà, hà!
Có 1 bài thật ngắn của Kafka, lèm bèm về "Luật VC của chúng ta":
Cách đây chừng một năm, đài truyền hình Áo đã thực hiện
một cuộc nói chuyện
giữa ba người, một Serb, một Albanian, người nào cũng bảo vệ quyền lợi
của sắc
dân mình theo một đường lối hợp tình hợp lý, và người thứ ba, là một
hòa bình
gia người Áo (Austrian). Ông hòa bình gia năn nỉ hai ông kia: Thôi đừng
giết
lẫn nhau nữa, hãy cố gắng cưỡng lại thù hận..., nghe tới đó, hai ông
thù nghịch
đưa mắt nhìn nhau, nháy nháy thông cảm, rằng, tại sao lại có thằng
khùng như
thằng này, nó chẳng hiểu gì hết trơn hết trọi! Trong cái nháy mắt thông
cảm đó,
tác giả cuốn sách mà chúng ta đang nói tới hiểu ra được một điều là, có
chút hy
vọng, trong vấn đề Nam Tư cũ, giữa những sắc dân tại đây: nếu ông Serb
và ông
Albanian, hai kẻ thù không đội trời chung đó, thay vì giết lẫn nhau, họ
họp lại
làm thịt anh hòa bình gia (pacifist), như vậy là còn có chút hy vọng
cho Nam Tư!
Để tránh mọi hiểu lầm, Zizek, tác giả cuốn sách "Ai nói
tới chủ nghĩa
toàn trị đó" giải thích: Tôi hiểu, thật dễ dàng khi chế nhạo một ông
muốn
sống chung hòa bình mà yếu xìu, chẳng có quân đội, quyền lực gì ở trong
tay.
Tuy nhiên, cái nháy mắt thông cảm giữa hai ông quốc gia đời đời thù
nghịch là
Serb và Albanian, là: họ ngỡ ngàng, không phải vì ông hòa bình không để
ý đến
tính phức tạp tôn giáo, chủng tộc của vùng Balkan, mà họ nghĩ, ông hòa
bình
quan trọng hóa những vấn đề đó, giản dị là vậy, trong khi thực thế, hai
ông thù
nghịch, thay vì bị chết cứng ở trong những huyền thoại kéo dài hai ngàn
năm như
thế, họ đã lợi dụng, lèo lái chúng, để thủ lợi.
Đâu có khác gì "huyền thoại" "... sông có thể cạn núi có
thể
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi"!
... that the
devil lies not so much in the detail of what constitutes
totalitariarism as in
what enables the very designation totalitarian: the liberal-democratic
consensus itself.
Slavoj Zizek
[SZ]: Did somebody say
totalitarianism? Ai nói chủ nghĩa toàn trị đó?
[Quỉ không hẳn
nằm trong chi tiết tạo thành chủ nghĩa toàn trị cho bằng nằm trong chi
tiết tạo
thành chính cái chỉ danh toàn trị: sự đồng thuận tự do dân chủ, đích
thị chính
nó].
SZ là một
trí thức hàng đầu trong những phong trào xã hội mới ở Trung và Đông Âu.
Ông là
nhà nghiên cứu cấp cao trong Học Viện Nghiên Cứu Xã Hội, Đại Học
Ljubljana,
Slovenia, thuộc Nam Tư cũ. Ông còn chuyên về phê bình phim ảnh, chính
trị, văn
học.
Trên Điểm
Sách London, số 23 July, 2009, trong Berlusconi ở Tehran, Slavoj Zizek
viết:
Khi một chế
độ quyền lực đi tới cú giẫy chết, ngay trước khi đó, bất thình lình,
một cú gẫy
đổ, thoái vị bí ẩn, a mysterious rupture, xuất hiện, và nhân dân của nó
ngộ ra,
xong rồi, tới lúc rồi: họ giản dị ngưng sợ, they simply cease to be
afraid.
Không phải
chế độ mất tính chính thống, its legitimacy: cái sự phô trương quyền
lực của
nó, vào lúc này, làm cho người ta nhận ra, đây là một hành động trong
cơn hoảng
hốt, a panic action, một hành động của sự bất lực.
Rysard
Kapuscinski trong Shah of Shads,
kể về cuộc cách mạng Khomeini, đã định vị một
cách thật là rõ ràng, cái thời khắc bể vỡ, rồi thoái trào, này: Tại một
ngã tư
hay ngã ba, hay ngã sáu Tehran, một người biểu tình, chỉ một người, một
cư dân
của thành phố, hẳn thế, đếch chịu nhúc nhích khi một ông công an nhân
dân ra lệnh,
hãy đi chỗ khác chơi, và cái anh công an nhân dân bèn bứt rứt rút lui,
and the
embarrassed policeman withdrew!
Chỉ trong
vài giờ đồng hồ, cả thành phố đều biết biến cố trên, và mặc dù cuộc
chiến đấu
trong đường phố còn tiếp tục trong nhiều tuần lễ tiếp theo, nhưng mọi
người đều
hiểu, xong rồi!
Liệu cái cú
LCD, cái cú diễn đàn Bô Xịt, cái cú NTT, là những cánh chim báo bão, về
cái cú
‘gẫy đổ, sụm bà chè bí ấn’ của nhà nước VC? Hình như ngài Bùi Tín có vẻ
rất tin
tưởng chuyện này, vì trước đó chưa hề có. Những LCD, NTT, những đứa trẻ
của
cách mạng 30 Tháng Tư 1975, đúng ra là phải ngồi vào chỗ của họ, ở trên
đầu
nhân dân, vậy mà không khứng ngồi, báo hiệu cái mysterious rupture mà
Zizek nói
tới.
Có thể lắm,
bởi vì cái sự bắt giữ LCD, NTT... có gì hoảng loạn ở trong đó.
*
Blogger Huỳnh
Thục Vy nói trong phỏng vấn với BBC sau khi được trả tự do rằng Đảng
cầm quyền
đã suy yếu và người dân cần can đảm đấu tranh. (1)
Note: Bài viết này, được 1 vị bằng hữu post
lại trên blog của anh. Tks, và ghi chú thêm: Sawada, bị Khờ Me Đỏ hành quyết,
cùng 1 người Mẽo, trưởng phòng UPI tại Nam Vang, theo như tài liệu GCC mới
đọc được, trên tờ báo Time/Life, đặc biệt về cuộc chiến Mít của Mẽo!
Từ văn phòng hãng thông tấn UPI, 19 Ngô Đức Kế, nhảy mấy bước là tới
khách sạn Majestic. Một bữa xuống sở, gặp nhiếp ảnh viên người Nhật,
Sawada Kyoichi. Tôi bảo anh, tuần trước mới cưới vợ. Anh tròn xoe mắt,
nói sao không cho biết. Đám cưới mãi tít Cai Lậy, "many VC there!" Anh
bật cười, kéo tôi băng qua đường, lên terrace khách sạn, làm một c...See More
'But if we are incapable of
love?'
'I'm not sure such a man
exists. Love is planted in man now, even uselessly in some cases, like
an
appendix. Sometimes of course people call it hate.'
'I haven't found any trace of
it in myself.'
'Perhaps you are looking for
something too big and too important. Or too active.'
'What you are saying seems to
me every bit as superstitious as what the fathers believe.'
'Who cares? It's the
superstition I live by. There was another superstition - quite unproven
-
Copernicus had it - that the earth went round the sun. Without that
superstition we shouldn't be in a position now to shoot rockets at the
moon.
One has to gamble on one's superstitions. Like Pascal gambled on his.'
He drank
his whisky down.
'Are you a happy man?' Querry
asked.
'I suppose I am. It's not a
question that I've ever asked myself. Does a happy man ever ask it? I
go on
from day to day.'
'Swimming on your wave,'
Querry said with envy. 'Do you never need a woman?'
'The only one I ever needed,'
the doctor said, 'is dead.' 'So that's why you came out here.'
'You are wrong,' Colin said.
'She's buried a hundred yards away. She was my wife.'
A
burnt-out case p.117
Nhưng nếu đàn ông chúng ta không thể… iêu?
Tôi không tin có thứ đàn ông đó.
‘Yêu’ cắm vào một người đàn ông, ngay cả khi vô dụng, trong vài trường
hợp, giống
như cục thịt dư. Đôi khi, có vài người gọi là ‘thù’
Tôi đếch thấy một tí dấu vết
nào của cái thứ đó trong người tôi.
Có thể, ông tìm một cục gì lớn
hơn, quan trọng hơn. Hay cựa quậy dữ dằn hơn.
Điều ông nói sao nghe như trò
mê tín của mấy ông thầy chùa.
Ai cần? Chính là trò mê tín mà
tôi đang sống với nó. Có một thứ mê tín khác, gần như không thể nào
chứng minh –
Copernicus có thứ này – trái đất quay quanh mặt trời….
*
'A superb storyteller'
New York Times
Một đoạn cực ngắn, như trên, trong 1 cuốn tiểu thuyết, mà với 1 độc
giả bình thường, chắc là lướt qua, nhưng với 1 tay có tí kiến thức về khoa
học, là hắn ta/chị ả lôi ra mấy cú cực khó nhá.
Copernic, là liên quan tới quĩ đạo hình bầu dục của các hành tinh. Đây là
đề tài của cuốn Những Kẻ Mộng Du của Koestler, Tin Văn đã từng lèm bèm nhiều
lần.
Pascal thì lại mắc mớ tới cái vòng tròn của ông, mà Đỗ Long Vân đã từng nhắc tới khi viết "Vô Kỵ giữa chúng ta"
Borges cũng có 1 bài thần sầu về vòng tròn Pascal.
Và võ học cũng như Thượng đế của Pascal, là một tinh cầu trung tâm ở khắp
nơi, nhưng không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ,
và võ công nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch. Làm thế
nào có thể thu cái thế giới nát vụn ấy vào một mối? Ai cũng muốn làm bá chủ
võ lâm. Người ta giết nhau như ngóe để độc chiếm những võ công kỳ bí có thể
cho phép người ta khuất phục chúng anh hùng. Câu chuyện nghĩa hiệp đã nhường
chỗ cho cuộc tranh cường đẫm máu. Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy tuy nhiên,
cái gì người ta thấy, là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất.
Đỗ Long Vân : Vô Kỵ giữa chúng ta
Bài viết của Borges về vòng tròn Pascal: The Fearful Sphere of Pascal, TV sẽ giới thiệu as soon as…
Thú
thực, Gấu không mặn [thuổng của NXH] định nghĩa của Vargas Llosa về “dâm
tình”. Áp dụng cho thứ tình yêu lý tưởng [platonique], OK. Nhưng cho erotic,
No. Ngay em của Gấu, BHD, khi đó tí tuổi mà còn phán bảnh hơn Vargas Llosa:
Ngay cả thứ tình yêu lý tưởng, amour platonique, chỉ “chiêm ngưỡng và kính
trọng”, contemplation & respect, như anh nói đó, cũng làm H sợ.
Thiếu phần con heo là tình nào cũng hỏng hết!
Hà, hà!
Đọc cái mẩu văn này, thì Gấu lại nhớ,
1 anh tù Gulag, lao động về, nghe tin có quà thân nhân, cứ nghĩ là đồ ăn,
vội vàng chạy tới giường của mình, với cơn đói mỗi lúc một nổi lên đùng đùng.
Lật cái cái khăn trải giường lên, thấy, chỉ cái thư nhà. Bèn khóc 1 trận thật là khủng.
Vì quá đau lòng.
Tất nhiên, sau đó, khi tính viết tiếp cái mẩu văn trên, thì là cái đói của Gấu Cà Chớn, khi đi tù VC.
Với xứ Bắc, với Gấu, thì không phải kẹo kéo, mà là kẹo bột, thời gian mẹ gửi ông ngoại nuôi giùm.
Cũng có 1 bà chuyên bán kẹo bột. Thứ kẹo bột trộn đường, cớ sao Gấu không
làm sao quên được, chỉ đến khi già rồi, thì hiểu ra, cơ thể lúc đó cần đường,
rất cần đường, giống như những ngày ở trại tù Đỗ Hòa, rất cần mỡ.
Nhưng vào năm 1988, 16 năm sau chuyến
đi Hà Nội, Fonda gặp cựu quân nhân Mỹ để xin lỗi, trong 1 chương trình TV
toàn quốc, gọi chuyến đi, và cách hành xử của bà, là "vô ý thức, vô trách
nhiệm, cẩu thả", [thoughtess, and careless"] Và còn nói sorry, khi cuốn phim
Monster-in-Law ra mắt năm 2005, trong đó bà đóng vai chính,
trong 1 chuyến đi quảng cáo cho cuốn phim. Bà đặc biệt xin lỗi về tấm hình
cho thấy bà ngồi bên súng phòng không của VC, nhưng không, đối với những
hoạt động khác tại Bắc Việt.
Tôi sẽ đi xuống mồ mang theo nỗi ân hận….
Không 1 tên Bắc Kít làm được điều như trên. Rõ ràng là, cả hai cuộc chiến
đều bị VC dàn dựng lên, như GCC đã nhiều lần chứng minh. Những tên khốn kiếp
như NN, vẫn tự hào về những năm tháng chiến đấu, chống Mỹ Kíu Nước!
Bây giờ hôn đít Mẽo, cũng không thấy nhục!
Phải có 1 tên dám làm như Jane Fonda, thì mới có hy vọng mở ra 1 trang sử mới
“J’AURAIS
FAIT N'IMPORTE QUOI POUR ÊTRE AIMÉE. JE SUIS UN CAMÉLÉON”
"Tôi
làm bất cứ điều gì để được yêu. Tôi là con cắc kè"
-Finalement,
que regrettez-vous le plus? Sau
cùng, điều bà ân hận nhất?
De ne pas avoir été une
mère exemplaire. Je me rattrape avec mes
petits-enfants. Et puis, évidemment, il y
a eu Hanoi. En 1972, je
me suis fait photographier, riant, assise sur un lance-missiles
nord-vietnamien
pour viser les soldats américains, sans me rendre compte de ce que je
faisais. Je
l'ai payé très cher, et on me le
reproche encore. J'irai dans ma tombe en regrettant cette photo.
Không là 1
người mẹ gương mẫu. Tôi chuộc lỗi này qua mấy đứa cháu. Và, tất
nhiên, Hà Lội.
Vào năm
1972, tôi ngồi chụp hình ở cái trụ bắn hoả tiễn vào máy bay Mẽo của VC,
chẳng hề
nghĩ đến hậu quả cái điều mình làm đó. Tôi trả giá quá đắt cho tấm
hình. Người
ta vẫn còn trách tôi, và tôi mang theo với tôi vào đến tận tấm mồ của
mình, sự ân
hận của mình. Gần
như bài
phỏng vấn nào, Jane cũng nói ra nỗi ân hận của bà.
Không 1 tên VC, nằm
vùng hay Bắc Kít, nói ra điều
như Jane Fonda Hà Lội. Cái tội chúng đẩy cả nước Mít xuống hố nặng hơn
cái tội
của Jane Fonda nhiều.
Có vẻ như dân Mít ở trong nước đã kiếm ra được cách trừng trị tụi Mafia
Đỏ: Làm
thịt chúng, bằng cách gài bom vô nhà chúng ở. Hay trước khi chết, thì
cũng phải
thịt được vài thằng…
Có thể rồi sẽ xẩy ra cái cảnh, 1 người dân Mít chạy tới ôm hôn thắm
thiết đồng
chí Tấn Dũng, hay vị Chủ Tịch Lước, và "cờ lích" 1 phát, và ình 1 cú!
Chẳng ai cầu mong chuyện
đó, nhưng có lẽ chỉ còn có
cách đó. Khi Mẽo dội bom Hà Nội, là cũng sử dụng cách đó, để bắt Bắc
Kít ngồi
vô bàn hội nghị. Chết cả Miền Nam chúng đâu cần, nhưng chết “con chó”
nhà chúng
là không được!
Tất nhiên, chó chết, chủ
nó cũng chết!
Bom mù mà!
A Warm, Small Rain
Night, an alien city, I roamed
a street with no name.
Stone steps submerged me deeper
in otherness and thick spring.
A warm, small rain: birds sang,
guardedly, tenderly, from afar.
Ship sirens in the port
wailed farewell to the known earth.
In tenement windows, actors appeared,
from your dreams and my dreams: I knew
I was en route to the future, that lost
epoch-a pilgrim trekking to Rome.
Adam Zagajewski: Canvas
Cơn mưa nhỏ, ấm
Đêm, thành phố lạ,
Tôi lang thang con phố không tên
Bực đá nhấn tôi xuống sâu hơn nữa
Trong cái khác và mùa xuân dày đặc
Cơn mưa nhỏ, ấm: chim hót
Thận trọng, dịu dàng, xa xa
Tầu rúc còi ngoài cảng
Rền rĩ, than van, vĩnh biệt, tới một miền đất lạ
Ở nơi cửa sổ những căn phòng, nghệ sĩ xuất hiện
Từ giấc mơ của bạn, của tôi: Tôi biết
Tôi đang trên đường tới tương lai, cái thời đã mất -
Một cuộc hành hương tới La Mã.
Do not seek
too much fame,
but do not
seek obscurity.
Be proud.
But do not
remind the world of your deeds.
Excel when
you must,
but do not
excel the world.
Many heroes
are not yet born,
many have
already died.
To be alive
to hear this song is a victory.
Traditional,
West Africa
The Rag and the Bone Shop
of the
Heart A Poetry
Anthology
Robert Bly,
James Hillman and Michael Meade editors
Một trang
Tin Văn cũ
Đừng tìm kiếm
danh vọng nhiều quá
Nhưng đừng tìm
kiếm sự tối tăm.
Hãy hãnh diện
Nhưng cũng đừng
nhắc nhở thế giới về những chiến công của bạn
Chơi trội,
OK, nếu bạn phải chơi trội.
Nhưng đừng
chơi trò nổi cộm với cả thế gian
Nhiều vị anh
hùng chưa sinh ra
Nhiều người đã
chết
Sống, và vô
1 trang TV cũ, đọc, thì đã là một chiến thắng khổng lồ rồi!
This mythical great uncle interests me because I resemble him a bit. I, too,
came to America and, for long stretches of time, forgot where I came from
or had no contact with my compatriots. I never understood the big deal they
make about being born in one place rather than another when there are so
many nice places in the world to call home. As it is, I was born in Belgrade
in 1938 and spent fifteen eventful years there before leaving forever. I
never missed it. When I try to tell that to my American friends, they don't
believe me. They suspect me of concealing my homesickness because I cannot
bear the pain. Allegedly, my nightmarish wartime memories have made me repress
how much dear old Belgrade meant to me. My wartime memories may have been
terrifying, but I had a happy childhood despite droning planes, deafening
explosions, and people hung from lampposts. I mean, it's not like I knew
better and dreamed of a life of quiet strolls with my parents along tree-lined
boulevards or playing with other children in the park. No. I was three year
old when the first bombs fell and old enough to be miserable when the war
ended and I had to go to school.
The first person who told me about the evil in the world was my grandmother.
She died in 1948, but I recall her vividly because she took care of me and
my brother while my mother went to work. The poor woman had more sense than
most people. She listened to Mussolini, Hitler, Stalin, and other lunatics
on the radio, and since she knew several languages, she understood the imbecilities
they were saying. What upset her even more than their vile words were their
cheering followers. I didn't realize it then, but she taught me a lesson
that has stuck. Beware of the so called great leaders and the collective
euphorias they excite. Many years later I wrote this poem about her:
Empires
My grandmother prophesied the end
of your empires, O Fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet.
One of their heroes was giving a speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.
There was no need to. They were all
Going to the devil any day now.
"Don't go blabbering about this to anyone,"
She warned me.
And pulled my ear to make sure I understood.
Charles Simic: The Renegade
[Trích đoạn]
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi
tiên đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những anh hùng,
Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
Tôi quan
tâm tới ông chú huyền thoại này vì tôi có tí giống ông. Tôi cũng tới Mẽo, và
trong những khúc đời dài, tôi quên mẹ mất mình tới từ đâu và cũng đếch có
liên hệ, công tắc công tiếc cái chó gì với đám đồng bào của mình. Tôi không
bao giờ hiểu được cái “big deal” của chúng, ấy là nói về cái chuyện, thằng
này thì khoe, tao sinh ra ở Hà Lội, đứa kia, “Xứ Đoài mây trắng lắm”, hà,
hà!
Chúng không làm sao hiểu được có rất nhiều nơi chốn thần sầu, tuyệt cú mèo,
mà một con người, bất cứ 1 con người, có thể hãnh diện mà phán rằng, đây
là nhà của tao! Nhân tiện, nói huỵch toẹt ra ở đây, tôi sinh
ra ở Belgrade, vào năm 1938, và trải qua 15 năm ở đó trước khi rời khỏi nó
vĩnh viễn, đời đời. Tôi chẳng hề nhớ nó. Khi tôi nói với lũ bạn Mẽo, chẳng
tên nào tin. Chúng nghi tôi giấu diếm nỗi nhớ nhà của mình, bởi là vì tôi
không thể chịu nổi cú đau thương này!
Có thể chính vì thế mà hồi ức chiến tranh của tôi - những cơn ác mộng này
– chúng hành hạ tôi thật là khủng khiếp, chúng trấn áp tôi chẳng thua gì
VC - khúc ruột ngàn dặm mà, chúng làm tôi nhớ ơi là nhớ Sài Gòn ngày nào
của Gấu Cà Chớn!
Những cơn ác mộng thời kỳ chiến tranh khủng khiếp lắm, nhưng tôi có một tuổi
thơ thật là hạnh phúc, mặc dù VC pháo kích, mặc dù xơi hai trái mìn của
chúng ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, mặc dù xác người treo lủng lẳng ở cột đèn.
Tôi lên ba, khi nghe những trái bom đầu tiên từ trên trời rớt xuống, và quá
già, hoặc khiêm nhường hơn 1 tị, đủ già, để cảm thấy thê lương, khi chiến
tranh chấm dứt và tôi phải đi học, cái gì gì, buổi mai hôm ấy, trời đầy sương
thu và giá lạnh, mẹ tôi âu yếm….
There are many ways to define eroticism, but the best might be to call it
physical love stripped of animality. The satisfaction of an instinctive urge
becomes a shared creative activity that prolongs and sublimates physical
pleasure, providing a mise- en-scene that turns it into a work of art.
Có rất nhiều cách để định nghĩa “dâm tình”, nhưng bảnh nhất là, gọi, đây
là tình yêu xác thịt, loại trừ đi cái phần thú vật - tức con heo ở nơi con
người!
Thoả mãn đòi hỏi bản năng [anh/em thèm em/anh quá], trở thành hành động
sáng tạo; kéo dài, thăng hoa khoái lạc xác thịt, tạo ra “mise-en-scène”,
chuyển thành tác phẩm nghệ thuật.
Cái tít và nội dung bài viết, không ăn với nhau. Cái tít
thì nói cõi người 100 năm, lấy từ Nguyễn Du. Bài viết thì nói đến cõi VC
mà Tô Hoài và bạn văn phải sống, với những giai thoại về nó.
Và nếu như thế, thì nó lại thiếu cái “phần thịt” của Tô Hoài, khi được chia, trên cả thiên hạ.
Cái thiếu nhất, là vờ tác phẩm "Ba thằng lăng nhăng" của ông. Một tác phẩm
theo GCC, không thể nào bỏ qua được, khi viết về Tô Hoài
Bài viết khôn quá, thành vụng, thành dại, thành hỏng.
Gấu đã nói rồi Nguyên Đầu Bạc, 1 thứ cực kỳ tinh anh của xứ Bắc Kít, đâu phải thứ thường!
Đọc cái mẩu văn này, thì Gấu lại nhớ,
1 anh tù Gulag, lao động về, nghe tin có quà thân nhân, cứ nghĩ là đồ ăn,
vội vàng chạy tới giường của mình, với cơn đói mỗi lúc một nổi lên đùng đùng.
Lật cái cái khăn trải giường lên, thấy, chỉ cái thư nhà. Bèn khóc 1 trận thật là khủng.
Vì quá đau lòng.
Tất nhiên, sau đó, khi tính viết tiếp cái mẩu văn trên, thì là cái đói của Gấu Cà Chớn, khi đi tù VC.
Với xứ Bắc, với Gấu, thì không phải kẹo kéo, mà là kẹo bột, thời gian mẹ gửi ông ngoại nuôi giùm.
Cũng có 1 bà chuyên bán kẹo bột. Thứ kẹo bột trộn đường, cớ sao Gấu không
làm sao quên được, chỉ đến khi già rồi, thì hiểu ra, cơ thể lúc đó cần đường,
rất cần đường, giống như những ngày ở trại tù Đỗ Hòa, rất cần mỡ.
AnonymousJul 19, 2015, 9:05:00 AM
Dear Bác Gấu,
Tin Văn hay lắm, chắc có rất nhiều bạn đọc theo dõi và yêu thích. Mong bác
đừng chửi thề, đừng gọi các nhà văn VC bằng từ miệt thị như "15 tên của Hội
Nhà Thổ", etc. Để tránh cho các học sinh, sinh viên mới lớn hiểu lầm, có
cảm tưởng "không ổn" về một nhà phê bình văn học, nổi tiếng của Miền Nam
một thời.
Bác viết, đại khái, "tụi VC gọi lũ Ngụy là bọ". Đọc web nhiều thì sẽ biết
không phải vậy, họ gọi "Ngụy" là "chó hoang", "bọn bán nước", "vị thế thấp",
etc. trong khi miả mai thay Trung Cộng đang mua họ mà họ không dám từ chối,
bởi vì họ đã trót mang ơn đồng chí giúp mình có được quyền lực.
Sự nhân hậu và cảm động có lẽ nên giữ ở trong lòng, đừng lăn vào "cứu nguy"...
văn chương nữa, bác Gấu ạ. Vô ích thôi, "giải ảo" mà có lợi cho họ thì họ
sẽ tâng bốc Bác, không trúng ý họ thì họ cũng gọi... như trên.
- GC.
Blog NL
V/v cái chuyện chửi tục, Gấu lậm nặng, nhân đọc 1 vị quen biết, khi còn Yahoo Blog. Cũng là 1 cách nhớ vị này.
Sẽ cố bớt dần, nếu có thể, nhưng thường, còn do hoàn cảnh, tính khí khi về già …
Một vị thân hữu, rất thân quen, rất quan trọng đối với trang TV/GCC, cằn
nhằn hoài chuyện chửi tục, viết tục, vậy mà không làm sao chừa được.
Cũng là chuyện mồm miệng đỡ tay chân, như mũi lõ gọi, a dirty old man.
Sorry abt that
V/v "tâng bốc GCC & hay cũng gọi như trên". Để tránh cho các học sinh, sinh viên mới lớn hiểu lầm, có cảm tưởng "không
ổn" về một nhà phê bình văn học, nổi tiếng cuả Miền Nam một thời.
Đừng vô trang TV đọc, là OK.
Thú thực, không quan tâm. Ngay từ trước 1975, Gấu cũng chẳng quan tâm đến
những bài viết phê bình, điểm sách này nọ. Chứng cớ là, chỉ có 1 tác phẩm
được xb trước 1975, là tập truyện ngắn Những Ngày ở Saigon. Ra hải ngoại,
khi nhớ lại, chỉ tiếc không giữ lại được bài viết về cuốn Bếp Lửa của TTT.
May làm sao, sau có lại nhờ THT, và sau đó, nhờ những bạn bè, toàn là nhà
văn VC, sưu tầm và gửi cho, gần như chẳng thiếu 1 bài nào, trừ những bài
từ Nghệ Thuật, thuở ban đầu.
Thành ra cái chuyện chẳng quan tâm, là thực lòng.
Thực lòng hơn nữa, Gấu không ưa viết phê bình, rất tởm phê bình gia.
VC gọi là VNCH, tức Miền Nam, trừ 1 số nằm vùng, là Ngụy, thì cũng như Nazi gọi Do Thái là bọ. Như nhau.
Anyways, cám ơn Bạn GC
[I think I know what it means, GC]
Viết thêm:
Gấu không hề, chưa từng có, ý tưởng cao quí, cứu nguy văn chương! Có thể lúc đầu, khi mới làm trang TV, có.
Trang TV được duy trì trên net trên chục năm, cho đến nay, không hề vì chuyện đó.
Bởi thế, con số độc giả khủng, đúng như vậy, cả ngàn visit mỗi ngày, thường
là 600 – 1000, là chuyện làm Gấu lúc thoạt đầu, không hiểu được.
Nhớ, mấy năm đầu, visitors/30-40/day, WHOIS đánh giá, $ US 5,000. Bây giờ, bảy triệu rưỡi.
Quái đản thực!
Domain www.tanvien.net
Base info :
Domain Ip Address:
192.254.190.216
Domain IP Server Addr
CH / Geneva / Plan-les-Ouates
Domain Value:
7,350,646$
Trong phim My Fair Lady, vị giáo sư cố dậy 1 cô gái miền
quê xứ Ăng Lê nói tiếng Anh giọng chuẩn. Cô bực quá, bỏ đi, vị này, nhớ quá,
bèn mang mấy cái băng nói tiếng Anh sai bét nhè ra nghe, để bớt nhớ. Cái
chuyện Gấu chửi tục nó giông giống như vậy. Có thể làm độc giả TV nhiều
người bực, nhưng chỉ biết sorry, chắc là khó bỏ chửi tục quá!
Hà, hà!
Note: Có đọc cái còm thứ nhì của bạn. Tks again, and take care.
NQT
•
AnonymousJul 20, 2015, 12:58:00 AM
Dear Bác Gấu,
- "Sẽ cố bớt dần, nếu có thể, nhưng thường, còn do hoàn cảnh, tính khí khi
về già …". Không phải "tính khí" cuả tuổi già đâu bác ạ, sự tiêm nhiễm cuả
văn hoá "chat", "cool", "cute", "pop", etc. cuả internet đấy thôi. Nó vưà
là một sự suy đồi, vưà là một hơi thở mới cuả... "thời đại chúng ta, thật
là vẻ vang" đó thôi.
- Bác viết ít, nhưng hay, đầy dấu ấn, "sense of art", thì cẩn trọng một chút
cho lớp trẻ được nhờ chứ. "Too much leftist" đôi khi sẽ trở nên imbalanced,
cho nên song song, chúng sẽ lại theo học thêm với "cánh hĩu", cho não bộ
được... quân bình " :-)
-- GC
Reply
•
Nhị LinhJul 20, 2015, 9:27:00 AM
GC và GCC: thật là một cuộc đàm đạo bổ ích trên "sân trung lập" :p
Reply
Đa tạ. NQT
TV:
Đúng rồi, nên thay đổi, kẻo không như O nói, ba trăm năm sau (hihi) có người
đi tìm tác phẩm của NQT chỉ thấy toàn ‘kít’ với ‘đếch’, ‘như kít’… thì không
biết sẽ xếp tác phẩm vào loại văn chương gì?
Hihi
K
Lại nói về vị quen biết hồi Blog Yahoo. Hồi đó đó, vị này còn ở Sài Gòn,
đi làm cho 1 công ty nào đó, văn phòng nhìn ra Sài Gòn cực là tuyệt vời.
Vị đó, khi chat với Gấu thì thực là đằm thắm, nhưng khi chat với bạn thì
thực là chửi thề tới chỉ. Vị đó nói, em chỉ thương được mấy tên già. Số của
em như thế, mẹ em nói…
PORTRAITS of writers hang in a new literature museum in Hanoi,
Vietnam’s capital. The ruling Communist Party of Vietnam (CPV) deems them
the best Vietnamese scribblers of the past millennium. Recent ones belonged
to the Vietnam Writers’ Association (VWA), formed in 1957 on the lines of
cultural associations in the Soviet bloc. Its unwritten credo is that writers
who challenge the CPV’s dominance over Vietnamese political life are to be
punished and ostracised.
At the VWA’s five-yearly conference, which ended on July 11th, the honored
guest was Dinh The Huynh, the CPV’s propaganda chief. Mr Huynh said the association’s
development should hew to the Party’s view of Vietnamese culture—ie, toe
the party line. Yet dissent is growing within the VWA’s ranks. In May 20
of its members quit, in one of the largest Vietnamese literary insurrections
in years.
Chân dung nhà văn VC treo ở Viện Bảo Tàng văn học mới ở Hà Lội, thủ đô xứ
Mít VC. Đảng CS xoa đầu lũ này, những tên viết sử VC số 1 của thiên niên
kỷ vừa qua. Lũ mới này thuộc Hội Nhà Thổ VC, được thành lập vào năm 1957,
ăn theo, cùng dòng với những Hội tương tự, thuộc khối CS, mà đầu não là Liên
Xô. Cái cương lĩnh chìm, không viết ra của nó, là, thằng nào con nào dám
thách đố sự độc tôn, độc đoán, độc tài của Đảng VC là làm thịt [bị trừng
phạt, và khai trừ].
Trong cuộc họp 5 năm một lần mới rồi, bế mạc vào ngày 11 Tháng Bảy, vị khách
danh dự của nó là Mr Huynh, còn là Trùm Tuyên Truyền của HNT, phán, sự phát
triển của Hội là phải đi theo đường lối của Đảng. Tuy nhiên, sự ly khai đã
lớn dần giữa lũ nhà văn VC cầm “cạc”. Ngày 20 Tháng Năm, 20 tên quit job,
con số lớn nhất cho tới nay.
15 tên đào ngũ bây giờ thuộc về một văn đoàn ‘alternative’ [có thể thay thế,
chọn lựa thay vì chỉ có Hội Nhà Thổ], Văn Đoàn Độc Nập. Phạm Toàn, một thành
viên, phán, ông “dị ứng” với Hội Nhà Thổ, và những hội dây dưa tới nhà nước,
khác, và phán thêm, sau bao nhiêu sống dưới chế độ VC, “cái từ ‘tài năng’
đi đâu mất mẹ nó rồi”. Tám bó thành viên HNT được thành lập vào năm 2014,
toan tính tránh né đụng độ với nhà nước, so với đám ly khai chính trị, hoặc
hô hào dân chủ. Tuy nhiên, so với hầu hết thành viên mang thẻ HNT, Bui Chát,
một thi sĩ thành viên, phán, họ bớt ủng hộ tư tưởng độc đoán của VC, và thay
vì vậy, họ -băng đảng của ông, trong có Nhóm Mở Miệng, nhà xb Giấy Vụn -
chọn “net”, hoặc 1 nhà xb tư nhân.
Tất nhiên VC đéo hài lòng. Bùi Chát cho biết, cớm nghe trộm khi Hội Nhà Thổ
Thành Hồ, họp. Trùm Phó Hội Nhà Thổ, Nguyễn Quang Thiều tuyên bố, ngày 1
Tháng Bảy, nhà văn VC không thể thuộc hai hội. Nghe phi ní, nhưng nó có 1
hiệu quả ớn lạnh: Hội Nhà Thổ kiểm soát những nhà xb chính trên toàn xứ Mít
VC - từ đó, kiểm soát lương lậu (không đáng kể, nhỏ nhoi) của hàng trăm nhà
văn. Một nhà thơ, hay một tiểu thuyết gia, lỡ hung hăng con bọ xít từ bỏ
Hội Nhà Thổ, một thứ nhà máy văn chương do nhà nước VC kiểm soát , sẽ thấy
ngay hiệu quả, là cái anh ta viết ra, chẳng hy vọng gì tới tay độc giả.
Việt Nam bây giờ là 1 trong những xứ được nối mạng số 1 của vùng Đông Nam
Á. Dân Mít cần xả xú bắp là bèn lên net, thành ra đám ma quỉ, cớm kiếc muốn
theo dõi tới chỉ 1 tên nhà văn phản động, khó khăn hơn trước nhiều [Bản thân
GCC đọc trong nước, thấy chửi VC bảnh hơn hải ngoại nhiều, do tính nóng hổi
vừa thổi vừa ăn của tin tức, hình ảnh, chỉ thiếu chiều sâu - vẫn theo Gấu].
Đảng VC, mặc dù vưỡn ôm lấy 1 thứ chủ nghĩa quốc gia ảnh hưởng TQ từ cổ đại,
nhưng ngày càng bám Mẽo, về mặt thương mại, an ninh. Me xừ Tổng Lú của nó,
vừa mới hôn hít thắm thiết anh da đen O bà mà. Tăng mức bắt bớ, đàn áp ở
xứ Mít nàm sao ăn nói với Tông Tông Mẽo rằng VC tôn trọng tự do ăn nói?
Tuy nhiên thói quen nhơ bửn cũ, khó chết. Tháng Chạp, Bọ Lập, nhà văn, nhà
viết phim kịch tiếng tăm, thuộc dòng chính, đã từng được giải thưởng này
nọ, bị bắt tại Thành Hồ, theo luật an ninh quốc gia rất ư là mơ hồ, sử dụng
để choàng cái nón hình sự lên những người ly khai. Mấy tên Trùm Hội Nhà Thổ
đang tính chuyện đá văng cái tượng của Bọ Nập, ra khỏi Viện Bảo Tàng Văn
Học, ở Hà Lội!
[Cái nick, “Hội Nhà Thổ”, thay vì “Hội Nhà Văn”, không phải của Gấu, mà là
thuổng Benjamin; ông viết, “prostitution can lay claim to being ‘work’ the
moment work becomes prostitution”, mại dâm có thể đòi được coi là ‘lao động’,
vào lúc mà lao động trở thành mại dâm. Cái nick này theo Gấu bảnh hơn nhiều
so với danh xưng Hội Nhà Văn, một sản phẩm Liên Xô xuất cảng tới các nước
chư hầu. Benjamin còn coi nhà văn và bướm y chang nhau, 1 bên thì sống bằng
cái số ta, miệng dưới, một bên thì sống bằng miệng trên, tức cái mồm, chuyên
nói dối, nói dối như Vẹm, dân Mít chẳng đã thường truyền tụng?
Note: Từ “block” này, không biết nó có nghĩa khoanh vùng, chỉ 1 khu vực,
a block, dành riêng cho đám nhà văn, như Zagajiewski giải thích, khi viết
về bài thơ “In Broad Daylight” của Szymborska.
Như Adam Zagajewski phán, nó là phát minh của Liên Xô, những con người được
ở tại một nơi chốn, cho phép nhà nước kiểm tra cái đầu, ngòi viết và cái
ví đựng tiền của họ. Ai đã từng đọc về Bulgakov, Mandelstam hay Pasternak
hẳn là nhớ những câu chuyện về những căn nhà văn học trong đó, nhiều máy
đánh chữ hơn bếp ga. Cũng mẫu mã này, cho thứ văn học tập thể, sau 1945,
được chuyển tới tất cả những xứ sở được Xì chiếm đóng....
This was a Soviet invention: writers housed in one place allowed the authorities
to control their minds, pens, and wallets. Each person who has ever read
about Bulgakov, Mandelstam, or Pasternak certainly remembers the stories
about literary apartment houses and tenements, about houses in which there
were more typewriters than gas stoves. This same model for a collectivized
literature was transferred after 1945 to all the countries conquered by Stalin.
In time, in Poland at least, this model lost its distinctiveness. There were
fewer "literary tenements"; writers came to live in regular houses, having
regular neighbors-engineers, laborers, officials. But collectivism did not
give up all its attributes, such as literary houses and cafeterias, to name
two.]
Cái chuyện VC hôn đít Mẽo bây giờ, chúng gọi là “mệnh lệnh của lịch sử”,
nó làm nhục 3 triệu người Mít chết trong cuộc chiến - con số người chết sau
đó, chưa biết bao nhiêu, sợ hơn cả con số 3 triệu, và đến tận bây giờ, do
vượt biên, do cố tìm 1 đời sống khác ở bên ngoài thiên đường CS, không nói
– là điều mà Todorov đã tiên đoán ra được, như Tin Văn đã từng trích dẫn,
và cũng đã từng hân hạnh được Thầy Kuốc thuổng (1)
Cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa CS, đây là lúc "thanh toán
quá khứ". Khi mà người ta còn thấy trước mặt, một sức mạnh không làm sao
tránh né, khi đó, sự đau khổ vẫn còn có ý nghĩa. Ngày mà chúng ta chấp nhận
ý nghĩ bi thảm, khi tuyên bố, chủ nghĩa CS là con đường nhức nhối (tortueuse)
dẫn từ "chủ nghĩa tư bản" đến "chủ nghĩa tư bản", khi đó, những người dân
tại những nước cựu-toàn trị chẳng thể nào nhìn ra, ý nghĩa cuộc đời này (Todorov,
p.69, sđd).
Tuy nhiên, cái chuyện hôn đít Mẽo, chưa chắc đã khá, chưa chắc đã là mệnh
lệnh của lịch sử, thế mới thê thảm. Nếu VC giết người bằng Cái Ác, Mẽo giết
người bằng Thiện Ý, bằng sự ngây thơ thần thánh của, thí dụ, anh thiện nguyện
viên Pyle, trong Người Mỹ Trầm Lặng!
Chế độ cộng sản tại Việt Nam hiện nay là một chế độ phong kiến nhưng không
có áo mão. Vậy thôi. Nếu ở Tây phương, sau khi chủ nghĩa cộng sản cáo chung
ở Đông Âu, người ta nhận định: “Chủ nghĩa cộng sản là con đường dài nhất
và đẫm máu nhất từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư bản” thì ở Việt Nam,
nơi người ta, nhân danh cách mạng, kết liễu một triều đại có thật nhiều lăng
để xây dựng một triều đại mới trên nền tảng một cái lăng thật đồ sộ và thật
uy nghi, như một thánh đường, ngay giữa trung tâm thủ đô, chúng ta cũng có
thể nói: Chủ nghĩa cộng sản là con đường dài nhất và đẫm máu nhất từ chế
độ phong kiến đến… chế độ phong kiến.
Câu nói trên, cái gì gì “đẫm máu nhất”… là của Todorov, Tin Văn trích dẫn
trong bài viết về ông, cũng lâu rồi, trên mục tạp ghi do Gấu phụ trách, của
tờ Văn Học của Nguyễn Mộng Giác…
AnonymousJul 19, 2015, 9:05:00 AM
Dear Bác Gấu,
Tin Văn hay lắm, chắc có rất nhiều bạn đọc theo dõi và yêu thích. Mong bác
đừng chửi thề, đừng gọi các nhà văn VC bằng từ miệt thị như "15 tên của Hội
Nhà Thổ", etc. Để tránh cho các học sinh, sinh viên mới lớn hiểu lầm, có
cảm tưởng "không ổn" về một nhà phê bình văn học, nổi tiếng của Miền Nam
một thời.
Bác viết, đại khái, "tụi VC gọi lũ Ngụy là bọ". Đọc web nhiều thì sẽ biết
không phải vậy, họ gọi "Ngụy" là "chó hoang", "bọn bán nước", "vị thế thấp",
etc. trong khi miả mai thay Trung Cộng đang mua họ mà họ không dám từ chối,
bởi vì họ đã trót mang ơn đồng chí giúp mình có được quyền lực.
Sự nhân hậu và cảm động có lẽ nên giữ ở trong lòng, đừng lăn vào "cứu nguy"...
văn chương nữa, bác Gấu ạ. Vô ích thôi, "giải ảo" mà có lợi cho họ thì họ
sẽ tâng bốc Bác, không trúng ý họ thì họ cũng gọi... như trên.
- GC.
Blog NL
V/v cái chuyện chửi tục, Gấu lậm nặng, nhân đọc 1 vị quen biết, khi còn Yahoo Blog. Cũng là 1 cách nhớ vị này.
Sẽ cố bớt dần, nếu có thể, nhưng thường, còn do hoàn cảnh, tính khí khi về già …
Một vị thân hữu, rất thân quen, rất quan trọng đối với trang TV/GCC, cằn
nhằn hoài chuyện chửi tục, viết tục, vậy mà không làm sao chừa được.
Cũng là chuyện mồm miệng đỡ tay chân, như mũi lõ gọi, a dirty old man.
Sorry abt that
V/v "tâng bốc GCC & hay cũng gọi như trên".
Không quan tâm
V/v Để tránh cho các học sinh, sinh viên mới lớn hiểu lầm, có cảm tưởng "không
ổn" về một nhà phê bình văn học, nổi tiếng cuả Miền Nam một thời.
Đừng vô trang TV đọc, là OK.
VC gọi là VNCH, tức Miền Nam, trừ 1 số nằm vùng, là Ngụy, thì cũng như Nazi gọi Do Thái là bọ. Như nhau
Anyways Cám ơn Bạn GC [I think I know what it means, GC]
Viết thêm, Gấu không hề, chưa từng có ý tưởng cao quí, cứu nguy văn chương!
Trang TV được duy trì trên net trên chục năm không hề vì chuyện đó.
Bởi thế, con số độc giả khủng, đúng như vậy, cả ngàn visit mỗi ngày, thường
là 600 – 1000, là chuyện làm Gấu lúc thoạt đầu, không hiểu được
Trong phim My Fair Lady, vị giáo sư cố dậy 1 cô gái miền
quê xứ Ăng Lê nói tiếng Anh giọng chuẩn. Cô bực quá, bỏ đi, vị này, nhớ quá,
bèn mang mấy cái băng nói tiếng Anh sai bét nhè ra nghe, để bớt nhớ. Cái
chuyện Gấu chửi tục nó giông giống như vậy. Có thể làm độc giả TV nhiều
người bực, nhưng chỉ biết sorry, chắc là khó bỏ chửi tục quá!
Bài
báo review cuốn "Ca tụng bóng tối" từ tháng 3 nhưng hôm nay, mình mới
biết. Cảm ơn Ba Mẹ đã ủng hộ, động viên tinh thần con trong thời gian dịch
sách và liên hệ xuất bản, cũng như đã không cản con đi du lịch Balô 1 mình
để mở rộng tầm mắt, dù Ba Me có lo lắng và nghe nhiều người bàn ra
Note: Bài điểm cuốn sách này, theo Gấu, nhảm.
Cuốn sách này, là 1 tập essays, không phải tản văn. Gấu sợ cái tay viết bài
điểm sách này không đọc được cuốn sách, bởi là vì Tanizaki, ở trong cuốn
này, “không hổ danh là tiểu thuyết gia”, mà cực hổ danh, như 1 nhà viết tiểu
luận.
Thổi dở quá, thì thà đừng thổi!
Hà, hà!
Cuốn sách này, ngay những ngày mới ra hải ngoại, vô thư viện Toronto, Gấu
vớ được, và khi từ biệt cái nghề viết mướn cho tờ Văn Học của NMG, bèn bye
bye mấy đấng bạn của băng đảng VH, như Trúc Chi, Tạ Chí Đại Trường, bằng
bài viết Một Chuyến Đi, trong đó, có lôi cuốn này ra
Nguyễn Tuân, trong một truyện ngắn, cho rằng trăng mười bốn hơn trăng rằm:
trong cái chưa chín có cái chưa tàn lụi. Nghe nói ở bên Nhật, có những cảnh
chùa dở dang: cứ để dành một khoảng trống cho tín đồ nhập vào. Đây là sự
khác biệt rất cơ bản giữa Đông và Tây. Charles Moore, trong lời giới thiệu
tác phẩm Ca Ngợi Bóng Tối (21) của nhà văn Nhật Tanizaki, cho rằng đồng minh
mãnh liệt nhất (the most powerful ally) của chúng ta (Tây phương) là ánh
sáng. Dẫn Louis Kahn, một nhà kiến trúc: 'Mặt trời chẳng bao giờ hiểu được
nó tuyệt vời như thế nào, cho tới khi nó ngã xuống bức tường của một tòa
nhà'; do đó việc xây nhà dựng cửa (là một trong những đòi hỏi cơ bản, đòi
hỏi trú thân, nối kết, quần tụ với nhau, cho dù theo kiểu ăn xổi ở thì với
nơi chốn thuộc về con người, hay con người thuộc về nó, nhưng) đối với chúng
ta, cái nhà phải tương hợp với mặt trời, đồng minh số một, phải giúp đồng
minh ban ánh sáng. Và ông cho rằng Tây phương đã "tá hoả" khi nghe chuyện
ca ngợi bóng tối và bóng đen; và đã sững sờ thích thú khi nhận ra rằng, nhạc
sĩ, ở đâu đâu cũng thế thôi, tạo nên những âm thanh của họ, là để nắm bắt
sự im lặng, và kiến trúc sư, khi tạo ra nhà cửa, là để ôm lấy quãng không.
Thành thử cái thuyết tài mệnh tương đố mà Nguyễn Du vin vào đó để làm khổ cô Kiều, là nằm trong truyền thống Đông-phương: không
phải ông Trời ghen cái đẹp, mà là: ông Trời chỉ đẹp, khi té xuống, khi nhập
vào một con người luân lạc như Kiều. Với Hương Cơ của Trúc Chi, tiếng đàn,
trong chín phần hư cần một phần thực, và phần thực này, chỉ có cuộc đời -
cuộc nồi da nấu thịt, củi đậu đun hạt đậu, chúng ông "chơi" chúng mày...
- mang lại cho nó thôi.
Trên net, Wiki giới thiệu cuốn sách cũng nhận ra ý này:
The essay consists of 16 sections that discuss traditional Japanese aesthetics
in contrast with change. Comparisons of light with darkness are used to contrast
Western and Asian cultures. The West, in its striving for progress, is
presented as continuously searching for light and clarity, while the subtle
and subdued forms of oriental art and literature are seen by Tanizaki to
represent an appreciation of shadow and subtlety, closely relating to the
traditional Japanese concept of sabi. In addition to contrasting light
and dark, Tanizaki further considers the layered tones of various kinds of
shadows and their power to reflect low sheen materials like gold embroidery,
patina and cloudy crystals. In addition, he distinguishes between the values
of gleam and shine.
The text presents personal reflections on topics as diverse as architecture
and its fittings, crafts, finishes, jade, food, cosmetics and mono no aware
(the art of impermanence). Tanizaki explores in close description the use
of space in buildings, lacquerware by candlelight,[1] monastery toilets[2]
and women in the dark of a brothel. The essay acts as "a classic description
of the collision between the shadows of traditional Japanese interiors and
the dazzling light of the modern age."[3]
Bạn để ý, những kiến trúc của Tây Phương, như của Tẩy, ở xứ Mít, ở Hà Nội,
hay ở Sài Gòn, luôn có những không gian bỏ hoang, hoang phế, thí dụ cái bao
lơn, trong khi Mẽo, ngu gì mà bỏ hoang như thế!
Lũ VC gọi Ngụy, thì cũng giống như lũ Nazi gọi Do Thái là con bọ, tức không phải con người.
Một trong những cắt nghĩa cuốn Hóa Thân, là coi hiện tượng buổi sáng ngủ
dậy biến thành con bọ của Samsa, là hiện tượng Chúa Giáng Sinh lần thứ nhì,
mà Gấu gọi nhảm là hiện tượng "Chúa Sảy Thai".
Cái gọi là “ca ngợi bóng tối”, đẩy tới mức cùng kiệt của nó, là như thế!
Weinberg khai triển biểu
tượng tôn giáo ngầm chứa trong câu chuyện,
đã coi đây là một chuyển hoá tiêu cực, a negative
transfiguration, một nghịch đảo hiện
tượng Chuá nhập thân làm người phàm, một Khổ nạn Giê-xu sẩy
thai [the Passion of an abortive Christ figure]
[Hoá Thân của Kafka, bản tiếng
Anh, Bantam Books; phần phụ lục, Explanatory Notes To The Text].
Mỗi lần tôi vào một nhà vệ sinh cũ kỹ,
âm u nhưng sạch sẽ không chê vào đâu được ở khu đền thờ Nara hay Tokyo,
tôi lại
thấy thán phục những hiệu quả phi thường của kiến trúc Nhật Bản. Phòng
khách có
thể mang nét duyên dáng riêng nhưng nhà vệ sinh Nhật mới đúng là nơi
thư giãn
tâm hồn. Nó luôn nằm tách biệt với ngôi nhà chính, ở tận cùng của hành
lang,
trong một khu rừng hương hoa với lá cây và rêu. Không từ ngữ nào có thể
diễn tả
cái cảm giác một người đang ngồi trong nguồn sáng lờ mờ, phơi mình
trong ánh sáng
yếu ớt phản chiếu từ cánh cửa trượt dán giấy, đắm chìm trong suy nghĩ
hoặc nhìn
đăm đắm ra khu vườn. Tiểu thuyết gia Natsume Soseki xem những chuyến đi
ra nhà
vệ sinh buổi sáng là niềm vui lớn, ông gọi đó là “niềm khoái cảm sinh
lý”… Tôi
thích ngồi lắng nghe tiếng mưa rơi nhè nhẹ ở trong một nhà vệ sinh như
thế, với
những cửa sổ dài và hẹp nằm ngang mặt đất; ở đó có thể nghe được thật
gần tiếng
mưa rơi xuống từ mái chìa và cây cối, thấm xuống mặt đất sau khi dội
vào lớp đế
của cây đèn đá và làm tươi mới lớp rêu trên những tảng đá giậm bước..
Tôi ngờ
rằng đây là nơi mà các nhà thơ haiku qua năm tháng đã nghĩ ra nhiều ý
thơ tuyệt
vời… (Ca tụng bóng tối – In praise of shadows, 陰翳礼讃Junichiro
Tanizaki, 1933)
Cuốn này, cc 1994, GCC mượn thư viện về
đọc, hồi mới qua Xứ Lạnh, làm nghề bán bảo hiểm nhân thọ, - thì cũng để
chiều lòng
cô bạn ngày nào, ông chồng của cô là 1 tay trong nghề, vả chăng, cũng
cần có 1
nghề làm, để lo cho mấy đứa nhỏ còn kẹt lại ở Lào, tính bỏ luôn ba cái
trò viết
lách… -mê
quá, bèn đi 1 đường về nó, khi làm nghề
viết muớn cho ông chủ NMG, cc 1997, giữ mục Tạp Ghi. Và khi thôi viết,
đã đi 1
đường từ giã băng VH, với những ông bạn thân như Trúc Chi, Tạ Chí Đại
Trường -
nhờ viết muớn cho tờ VH mà quen được - bằng những dòng viết về nhân vật
Hương Cơ,
một nhân vật của Trúc Chi.
Em của GCC, hồi nào, đọc bài viết, mê lắm, có mail
khen!
Reiner Stach, người viết cuốn tiểu sử nổi tiếng hiện đang được
giới văn học đánh giá cực cao, trong "Kafka, The Decisive Years," đã dành
1 chương cho "Hóa Thân", và, mở ra chương sách bằng 1 câu của Charlie Chan,
thần sầu:
Những sự kiện lạ lùng tự cho chúng cái sự hách xì xằng, là, xuất hiện, xẩy ra.
Strange events permit themselves the luxury of occurring.
Note: Từ “block” này, không biết nó có nghĩa khoanh vùng, chỉ 1 khu vực,
a block, dành riêng cho đám nhà văn, như Zagajiewski giải thích, khi viết
về bài thơ “In Broad Daylight” của Szymborska.
Như Adam Zagajewski phán, nó là phát minh của Liên Xô, những con người được
ở tại một nơi chốn, cho phép nhà nước kiểm tra cái đầu, ngòi viết và cái
ví đựng tiền của họ. Ai đã từng đọc về Bulgakov, Mandelstam hay Pasternak
hẳn là nhớ những câu chuyện về những căn nhà văn học trong đó, nhiều máy
đánh chữ hơn bếp ga. Cũng mẫu mã này, cho thứ văn học tập thể, sau 1945,
được chuyển tới tất cả những xứ sở được Xì chiếm đóng....
This was a Soviet invention: writers housed in one place allowed the authorities
to control their minds, pens, and wallets. Each person who has ever read
about Bulgakov, Mandelstam, or Pasternak certainly remembers the stories
about literary apartment houses and tenements, about houses in which there
were more typewriters than gas stoves. This same model for a collectivized
literature was transferred after 1945 to all the countries conquered by Stalin.
In time, in Poland at least, this model lost its distinctiveness. There were
fewer "literary tenements"; writers came to live in regular houses, having
regular neighbors-engineers, laborers, officials. But collectivism did not
give up all its attributes, such as literary houses and cafeterias, to name
two.
It destroys what is individual. What it worships is "milieu." Let each person
live in a milieu and let him not dare seek refuge on the sidelines. After
a while a secret police will be completely unnecessary. What for, if your
milieu knows everything about you already. There is more life in death than
in the existence to which collectivism condemns us: chicken noodle soup and
the neighbors' astute glance, the inextinguishable reflector of someone's
curiosity, long hours of common meetings, when nothing occurs except that
life is consumed and becomes ordinary, gray-similar to rationed, skimpily
rationed substitute goods. Baczynski was a darling of the gods-he died young.
He leads a mythic existence in our imagination. Wislawa Szyrnborska allowed
the absent poet to don the homespun suit of compromises made by his less
happy counterparts. The ashes of the everyday bury the wings of the angel.
One should consider another possibility, however: it is possible that Baczynski,
had the German bullet chosen a different course, would have been proud, bold,
and internally pure. Perhaps he would not have made a single compromise and
perhaps this would even have expressed itself in his noble face, not destroyed
but merely sculpted by time.
Hội Nhà Thổ huỷ diệt cái gọi là cá nhân. Nó thờ phụng cái gọi là "môi trường".
Cái gọi là tập thể. Chỉ 1 thời gian, cái gọi là cớm văn học cũng đếch còn
cần thiết!
Fifteen VWA defectors now belong to an alternative organisation, the League
of Independent Vietnamese Writers. Pham Toan, a member, says he is “allergic”
to the VWA and other state-affiliated associations, adding that, after so
many years of Communist rule, “the term ‘talent’ has gone.” The 80-odd members
of the League, founded in 2014, tend be less confrontational than democracy
activists and political dissidents. Yet compared with most card-carrying
VWA writers, says Bui Chat, a League poet, they are generally less supportive
of CPV dogma and more inclined to publish online or in private presses.
The authorities are not pleased. Mr Chat says spies eavesdrop on the League’s
bimonthly meetings in Ho Chi Minh City. The VWA’s vice-chairman, Nguyen Quang
Thieu, declared on July 3rd that Vietnamese writers may not belong to two
writers’ organisations at once. The directive sounds absurd, but it may have
a chilling effect: the VWA controls the country’s main publishing houses—and
hence hundreds of writers’ (paltry) earnings. A poet or novelist who falls
foul of Vietnam’s state-controlled literary machine may find that his writing
has far fewer outlets.
Such tactics seem old-fashioned. Vietnam now has one of South-East Asia’s
most wired societies. The proliferation of political commentary on Vietnamese-language
Facebook pages makes it increasingly hard for spooks to keep misbehaving
writers—professional and otherwise—in check. The CPV, as it grapples with
assertive Chinese nationalism, is also keen to deepen trade and security
ties with America; its general secretary, Nguyen Phu Trong, met Barack Obama,
America’s president, in Washington on July 7th. Ramping up domestic repression
is no way to convince Mr Obama that Vietnam respects free speech.
Yet nasty old habits die hard. In December Nguyen Quang Lap, an award-winning
mainstream novelist and screenwriter, was arrested in Ho Chi Minh City under
a vague national-security law used to criminalise dissent, apparently for
having written articles critical of the Party on his blog, which had received
more than 100m views. He was released in February—to house arrest—and still
has a huge fan base. The VWA will have to decide whether his politics should
keep his portrait out of the literature museum.
Nứt rạn văn chương làm nổi cộm những hạn chế lời nói.
15 tên đào ngũ bây giờ thuộc về một văn đoàn ‘alternative’
[có thể thay thế, chọn lựa thay vì chỉ có Hội Nhà Thổ], Văn Đoàn Độc Nập.
Phạm Toàn, một thành viên, phán, ông “dị ứng” với Hội Nhà Thổ, và những hội
dây dưa tới nhà nước, khác, và phán thêm, sau bao nhiêu sống dưới chế độ
VC, “cái từ ‘tài năng’ đi đâu mất mẹ nó rồi”. Tám bó thành viên HNT được
thành lập vào năm 2014, toan tính tránh né đụng độ với nhà nước, so với đám
ly khai chính trị, hoặc hô hào dân chủ. Tuy nhiên, so với hầu hết thành
viên mang thẻ HNT, Bui Chat, một thi sĩ thành viên, phán, họ bớt ủng hộ tư
tưởng độc đoán của VC, và thay vì vậy, họ chọn “net”, hoặc 1 nhà xb tư nhân.
Tất nhiên VC đéo hài lòng. Bùi Chát cho biết, cớm nghe trộm khi Hội Nhà Thổ
Thành Hồ, họp. Trùm Phó Hội Nhà Thổ, Nguyễn Quang Thiều tuyên bố, ngày 1
Tháng Bảy, nhà văn VC không thể thuộc hai hội. Nghe phi ní, nhưng nó có 1
hiệu quả ớn lạnh: Hội Nhà Thổ kiểm soát những nhà xb chính trên toàn xứ Mít
VC - từ đó, kiểm soát lương lậu (không đáng kể, nhỏ nhoi) của hàng trăm nhà
văn. Một nhà thơ, hay một tiểu thuyết gia, lỡ hung hăng con bọ xít từ bỏ
Hội Nhà Thổ, một thứ nhà máy văn chương do nhà nước VC kiểm soát , sẽ thấy
ngay hiệu quả, là cái anh ta viết ra, chẳng hy vọng gì tới tay độc giả.
Cái nick, “Hội Nhà Thổ”, thay vì “Hội Nhà Văn”,
không phải của Gấu, mà là thuổng Benjamin; ông viết, “prostitution can lay
claim to being ‘work’ the moment work becomes prostitution”, mại dâm có thể
đòi được coi là ‘lao động’, vào lúc mà lao động trở thành mại dâm.
Cái nick này theo Gấu bảnh hơn nhiều so với danh xưng Hội Nhà Văn, một sản phẩm Liên Xô xuất cảng tới các nước chư hầu.
Benjamin còn coi nhà văn và bướm y chang nhau, 1 bên thì sống bằng cái số
ta, miệng dưới, một bên thì sống bằng miệng trên, tức cái mồm, chuyên nói
dối, nói dối như Vẹm, dân Mít chẳng đã thường truyền tụng?
*****
Khoảng những năm 73-74, kho báo chí văn
nghệ Sài Gòn ở Thư viện quân đội Hà Nội chỉ có hai tạp chí Bách khoa và Văn,
vì thế văn học miền Nam với tôi lúc ấy chủ yếu là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến,
Vũ Hạnh, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác, Ngụy Ngữ, Trần Thị Ng.H...
Tới mấy tháng hè 1976, khi vào Sài Gòn tìm lại báo cũ ở một kho Thư viện…
tôi mới có dịp đọc rộng hơn. Đọc Khởi hành và Thời tập, làm quen với Vũ Khắc
Khoan, Viên Linh, Nguyễn Nhật Duật, Cao Huy Khanh. Trở lại Sáng tạo và Nghệ
thuật, biết thêm các tác giả lớp trước, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sĩ, Trần
Thanh Hiệp.
Mai Thảo 1973-75 là một cái gì đã thành hình và lẫn đi giữa những người
khác. Một người từ xa nhìn vào và chỉ đọc lõm bõm như tôi không có ấn tượng
gì rõ rệt.
Nhưng trở về thời 1968-70, nhất là đặt ông trong cái mạch chung văn học miền Nam “thời kỳ góp đá”, mới thấy Mai Thảo rõ hơn.
Blog Vương Trí Nhàn
Note: Đếch thấy tên NQT!
Trong khi Gấu viết, kể như là từ đầu, Nghệ Thuật, Văn, Vấn Đề… báo nào Gấu cũng viết.
Nguyễn Mộng Giác, trước 1975, là một trong số những người viết mới, làm sao mà VTN đọc được?
Mai Thảo, thật sự với riêng Gấu, là 1 thứ văn chương thùng rỗng kêu to, do lạm dụng tu từ, làm sao so với TTT được?
Đừng nghĩ là, Gấu coi TTT hơn MT, nhưng mà như thế này, văn của TTT, có cái
mới, và cái mới nhất, thí dụ như ở trong Bếp Lửa, là tác giả không sử dụng
ẩn dụ, khi viết, mà muốn tới cõi của ảnh tượng, image poétique. Ẩn dụ cần
tới tri thức. Ảnh tượng không cần. Đây là phát giác lớn nhất của GCC, khi
đọc Bếp Lửa.
Tay VTN này, chưa tới cõi đó.
Đừng có nghĩ là Gấu này bực vì không thấy nhắc tới tên. Còn mừng là đằng khác!
Hà, hà!
Theo GCC, nhà văn, nhà thơ VC Miền Bắc, không nói, những
nhà phê bình, đấng nào thì cũng thiếu cái phần tu tập, để làm cái nghề phê
bình đọc sách của mình.
Việt Nam đã tiếp nhận quan niệm văn dĩ
tải đạo từ rất sớm và thể hiện trong văn thơ yêu nước rất mạnh mẽ. Trung
đại là một thời đại văn học nặng về giáo huấn, cho nên tính chất tải đạo
là cố hữu. Câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu “Chở bao nhiêu đạo thuyền không
khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” đã cho thấy quan niệm ấy mạnh mẽ và
sâu sắc biết chừng nào. Thời cận đại các nhà cách mạng đầu thế kỉ đã có truyền
thống dùng văn thơ tuyên truyền yêu nước, cổ động nhân dân duy tân, chiêu
hồn nước, canh tân đất nước. Theo truyền thống ấy các chiến sĩ cộng sản cũng
“Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” (Sóng
Hồng). Theo truyền thống ấy trong bức thư Gửi anh em văn hóa và trí thức
Nam Bộ, Hồ Chí Minh nói: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén
trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm
cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh
lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ Quốc.” Đó tức là quan điểm văn hóa
phục vụ chính trị sẽ còn được vị Chủ tịch nước đầu tiên của chúng nhắc lại
nhiều lần trong các dịp khác. Source
Note: Đây là cách giải thích “mập mờ đánh lận con đen”, cực kỳ nhơ bửn, của VC. Cố tình đồng hóa “đạo” với “chính trị”.
Brodsky cũng phán… “như thế”, khi coi “mĩ” là “đạo” của nhà văn, và nó còn
cao hơn cả cái gọi là đạo hạnh, “mĩ là mẹ của đạo hạnh”, ông nói.
Kafka cũng phán… như thế, nhưng với ông, kỹ thuật mới là linh hồn (đạo) của văn chương.
Với Simic, ông coi đạo, là mỗi cá nhân. Văn chuơng là chỉ cho cá nhân. Chỉ
cá nhân mới đáng kể: "The true poet is never a member of any tribe," Nhà
thơ thứ thiệt đếch thuộc bộ lạc nào.
Cao Hành Kiện cũng tin như thế.
Simic coi nhà thơ, nhà văn, ngay trong cái từ định nghĩa, họ, như là nhà
văn nhà thơ, là đã hàm ngụ cái ý tưởng, mi là 1 tên phản bội xứ sở, nhân
dân của mi, “the lyric poet is almost by definition a traitor to his own
people”, và chẳng chóng thì chầy, nhân dân sẽ tìm hắn ta, để đề nghị làm
tên đao phủ, chứng cớ rõ ràng, hãy coi trường hợp Văn Cao, “sooner or later,
our tribe always comes to ask you to agree to murder”: Cả miền Bắc đã được
VC biến thành những tên đồ tể, làm thịt thằng em Nam Bộ của nó.
Sacrifice
the children-an old story, pre-Homeric-so that the
nation will endure, to create a legend.
-ALEKSANDER
WAT
The
destruction of Vukovar and Sarajevo will not be forgiven the Serbs.
Whatever
moral credit they had as the result of their history they have
squandered in these
two acts. The suicidal and abysmal idiocy of nationalism is revealed
here
better than anywhere else. No human being or group of people has the
right to
pass a death sentence on a city.
"Defend
your own, but respect what others have,” my grand-father used to say,
and he was
a highly decorated officer in the First World War and certainly a
Serbian
patriot. I imagine he would have agreed with me. There will be no happy
future
for people who have made the innocent suffer.
Here is
something we can all count on. Sooner or later our tribe always comes
to ask us
to agree to murder.
"In the
hour of need you walked away from your own people," a fellow I know
said
to me when I turned down the invitation.
True. I
refused to turn my conscience over to the leader of the pack. I
continued
stubbornly to believe in more than one truth. Only the individual is
real, I
kept saying over and over again. I praised the outcast, the pariah,
while my
people were offering me an opportunity to become a part of a mystic
whole. I
insisted on remaining aloof, self-absorbed, lovingly nursing my
suspicions.
"For
whom does your poetry speak when you have no tribe anywhere you can
call your
own?" my interlocutor wanted to know.
"The true poet is never a
member of any tribe," I shouted back. It is his refusal of his
birthright
that makes him a poet and an individual worth respecting, I explained.
This wasn't
true, of course. Many of the greatest poets in the history of the world
have been
fierce nationalists. The sole function of the epic poet is to find
excuses for
the butcheries of the innocent. In our big and comfy family bed today's
murderers will sleep like little babies, is what they are always saying.
On the other
side are the poets who trust only the solitary human voice. The lyric
poet is
almost by definition a traitor to his own people. He is the stranger
who speaks
the harsh truth that only individual lives are unique and therefore
sacred. He
may be loved by his people, but his example is also the one to be
warned
against. The tribe must pull together to face the invading enemy while
the
lyric poet sits talking to the skull in the graveyard.
For
that
reason he deserves to be exiled, put to death, and remembered.
Mistaken ideas always end
in
bloodshed, but in every case it is
someone else's blood. This is why our
thinkers feel free to say just about everything.
-CAMUS
Simic
không đến tà giáo độ ấy, đặt cạnh những con người đó, em cảm thấy chỉ
đượcThe world doesn't end là đậm đặc. Khi em tìm thấy Anathemas and
Admirations trong một tiệm sách cũ ở BKK, em cũng chưa kịp biết Cioran
là ai cả. Quá sức chịu đựng, dù mới chỉ đọc mỗi cuốn đó. Nhưng biết là
sẽ.
V/v Cioran: Đấng này cũng rây rưa với hủi, như bài viết Nhật Ký Thời Chiến,
dưới đây cho thấy, nhưng Simic mà tà giáo cái gì chứ. Ông, khi còn nhỏ thì
ăn bom của đủ thứ bên, rồi may quá, qua được Mẽo, làm thơ, viết văn, bị đám
trong nước chửi là phản bội [như Gấu Cà Chớn hẳn thế!]… Cuốn “The World…”
là thơ xuôi, không phải thơ, Gấu cũng có, nhưng dở nhất trong những tác phẩm
của Simic, theo Gấu.
Nhật
Ký Thời Chiến
Tôi như nhiễm độc văn chương
(I am feeling poisoned by literature).
Charles Simic is one of our most celebrated living poets.
He has won a Pulitzer, a MacArthur Fellowship, the Wallace Stevens award,
the Frost Medal, the Zbigniew Herbert International Literary Award, and served
as the US poet laureate. What’s striking is that his distinctive poetic style
continues to feel modest, seemingly casual, with a built-in shrug of bemused
puzzlement before life’s anomalies. Most of the time it’s a good-humored
shrug, though there are moments when ferocity breaks in, along with an Eastern
European recognition of historical tragedy, as befits “someone like me who
had the unenviable luck of being bombed by both the Nazis and the Allies.”
With the passing of Mark Strand, Galway Kinnell, Kenneth Koch, and Maxine
Kumin, Charles Simic is one of the last remaining members of that marvelous
generation of writers born before 1940 who did so much to reinvigorate American
poetry. The Lunatic, his newest poetry collection, is his thirty-sixth. Simultaneously,
Ecco, his publisher, has brought out The Life of Images: Selected Prose,
which contains the cream of his six previous prose collections, and confirms
that he is not only one of our finest poets, but a singularly engaging, eminently
sane American essayist.
It’s through his nonfiction that we learn the basic facts about Simic’s
life. Born in 1938, he grew up in Belgrade during the war. “I’m also a child
of History. I’ve seen tanks, piles of corpses, and people strung from lampposts
with my own eyes.” Still, he regarded his childhood as happy, being too young
to imagine an alternative. It was when the war ended that things got really
tough: food was scarce, and people sold whatever they could for edibles.
In the course of the war and its aftermath, his father was separated from
the family, and his mother tried to sneak Charles and his brother into Austria
to rejoin him. When stopped by a British colonel who demanded to see their
passports, “my mother replied that had we had passports, we would have taken
a sleeping car.” They were sent back to Belgrade, and only when Charles turned
sixteen, in 1954, were they able to emigrate to the United States, settling
in Chicago.
Simic portrays his father, from whom he had been separated for ten years,
with tender affection as his model: a tolerant, easygoing man who loved good
food, music, pretty women, and philosophy, who had no use for organized religion
but liked to visit houses of worship. (He is less kind to his mother, who
comes across as something of a diva and a hypochondriac.) When his parents
broke up Simic left home, taking night classes at the University of Chicago
while working days at the Chicago Sun-Times.
He was initially drawn to Surrealism and the collages of Max Ernst. A
lifelong insomniac, he read philosophy at night, searching for the larger,
hidden meanings of existence. He was fond of Wittgenstein’s …
Qua
những bài viết non-fiction, mà chúng ta biết được những sự kiện cơ bản của
cuộc đời của Simic. Sinh năm 1938, [kém GCC 1 tuổi], ông lớn lên ở Belgrade,
trong chiến tranh. “Tôi cũng là 1 đứa trẻ của lịch sử. Tôi nhìn thấy xe tăng,
những đống xác người, và những con người xâu, treo ở những cột đèn, chính
mắt tôi trông thấy”. Tuy nhiên, ông vẫn coi tuổi thơ của mình, là hạnh phúc,
vì còn quá nhỏ, không làm sao có thể tưởng tượng ra được 1 cách nào khác.
Nhưng chính là khi chiến tranh kết thúc, đời sống mới trở nên khó khăn, thực
phẩm khan hiếm, người ta phải bán bất cứ cái gì có thể bán, để duy trì mạng
sống. Trong thời gian chiến tranh và tiếp theo sau đó, ông già của ông bị
chia cách khỏi gia đình, và bà mẹ cố tìm cách đưa anh em ông ra khỏi đất
nước để đoàn tụ với ông bố, ở Áo. Khi bị 1 viên trung tá Anh bắt trình giấy
thông hành, “mẹ tôi đã nói với ông ta, nếu có thông hành thì chúng tôi đã
đi bằng xe có chỗ nằm ngủ”. Bị trả về Belgrade, chỉ đến khi Simic 16 tuổi
thì họ mới được qua Mẽo, dưới dạng di dân, và định cư ở Chicago.
Đọc tiểu sử của Simic, như trên, có gì là... tà giáo?
TV sẽ đi hết bài trên, cùng 1 số bài trong The Life of Images.
Thơ Simic, có những bài cực kỳ thê lương, và cái ám ảnh
của chiến tranh, tàn phá, tang tóc đè nặng lên ông, ngay từ khi còn là một
đứa con nít, điều này thật lạ, nếu phải nhìn về những đấng Mít hải ngoại,
bỏ chạy VC, chứng kiến đủ thứ tai ương do VC gây nên, sau cùng bò về, không
chỉ như 1 tên khốn kiếp, mà còn là 1 nhà văn, cũng chạy chọt in tác phẩm
này nọ.
Searching for Cioran
by Ilinca Zarifopol-Johnston, edited by Kenneth R. Johnston, with a foreword by Matei Calinescu
Indiana University Press, 284 pp., $27.95
On the Heights of Despair
by E.M. Cioran, translated from the Romanian and with an introduction by Ilinca Zarifopol-Johnston
University of Chicago Press, 128 pp., $29.00; $17.00 (paper)
Tears and Saints
by E.M. Cioran, translated from the Romanian and with an introduction by Ilinca Zarifopol-Johnston
University of Chicago Press, 128 pp., $25.00; $17.50 (paper)
Who reads E.M. Cioran nowadays? Someone must, since most of his books have
been translated and are in print. At universities where graduate students
and professors are familiar with every recent French philosopher and literary
theorist, he’s practically unknown, though he was a much finer thinker and
wrote far better prose than a whole lot of them. Much of the neglect of Cioran
is unquestionably due to his uncompromisingly dark vision of the human condition;
his denunciations of both Christianity and philosophy read at times like
the ravings of a madman. To make it even more confusing, he had two lives
and two identities: the Romanian Cioran of the 1930s who wrote in Romanian
and the later, better-known French Cioran who wrote in French. Since his
death in 1995, the sensational revelations about his youthful sympathies
for Hitler and his involvement with the Iron Guard, the Romanian pro-fascist,
nationalist, and anti-Semitic movement in the 1930s, have also contributed
to his marginalization. And yet following the publication in 1949 of the
first book he wrote in French, he was hailed in France as a stylist and thinker
worthy of comparison to great seventeenth- and eighteenth-century moralists
like La Rochefoucauld, La Bruyère, Chamfort, and Vauvenargues.
This is what makes Searching for Cioran by the late Ilinca Zarifopol-Johnston,
who didn’t live to finish her book, so valuable. It tells the story of his
Romanian years and gives a fine account of the personal and political circumstances
in which both his philosophical ideas and his brand of nationalism were formed.
In later years, Cioran spoke rarely of that shameful period in his life and
never—except to allude vaguely to his “youthful follies”—talked openly of
his one political tract, Romania’s Transfiguration (1936), a short, demented
book in which he prescribed how his native country could overcome its second-rate
historical status through radical, totalitarian methods. Along with Mircea
Eliade, the philosopher and historian of religion, the playwright Eugène
Ionesco, and many others, equally eminent but less known abroad, he was a
member of Romania’s “Young Generation,” the “angry young men” responsible
for both a cultural renaissance and apocalyptic nationalism in the 1930s.
To understand what led Cioran to leave Romania and become disillusioned with
ideas he espoused in his youth, it’s best to start at the beginning.
Emil Cioran was born in 1911, the second of three children, in the remote
mountain village of Ra˘s¸inari near the city of Sibiu in southern Transylvania,
which at that time was still part of the Austro-Hungarian Empire. His father,
Emilian, was a Romanian Orthodox priest who came from a long line of priests,
as did his mother, Elvira. He loved his native landscape with its streams,
hills, and woods where he ran free with other kids, even telling one interviewer,
“I don’t know of anyone with a happier childhood than mine.”
At other times, when not moved by nostalgia, he called …
E.M. Cioran, Paris, 1982
Bây giờ, ai còn đọc Cioran?
Có, ít ra với Mít. Linda Lê, NTV, và bây giờ NL. Gấu, biết Cioran, qua NTV, những ngày đầu tới Xứ Lạnh…
Bài này
tuyệt.
Simic là ‘thi sĩ nhà nước’
của Mẽo.
Viết về sư phụ của Linda Lê!
*
“I
don’t know of anyone with
a happier childhood than mine.”
Tớ không biết có tên con nít
nào có 1 tuổi thơ hạnh phúc hơn thằng Cu Gấu ở xứ Bắc Kít!
Hà, hà!
+ Có vẻ như là triết học của Cioran (triết gia gốc Rumani
viết tiếng Pháp, nổi tiếng về tính bi quan) gây tác động rất lớn đến chị.
Chị có thể nói về điều này không?
Linda Lê:
Còn hơn nhiều triết học của Cioran, mà tôi phát hiện cùng lúc với triết học
của Kierkegaard, chính mối quan hệ giữa ông và tiếng Pháp mới thực hấp dẫn
tôi. Ông nói rằng bất hạnh của người trú dân là muốn làm mọi thứ giỏi hơn
dân bản địa. Ông đã làm được điều này, bằng cách viết một thứ ngôn ngữ vô
cùng thuần khiết. Sở thích của ông dành cho các tác phẩm thần bí cũng làm
sống dậy ở tôi cùng một niềm hứng khởi. Người ta vẫn thường coi Cioran là
một kẻ hư vô chủ nghĩa, còn với tôi trước hết ông là một kẻ tà đạo, người
đã giáng những cú đòn đau cho giới chính thống và làm chúng ta sung sướng
với những châm ngôn mang một màu đen đầy gợi hứng.
Blog Nhị Linh.
*
Rushdie chẳng đã từng phán: Chinh phục "tiếng không phải tiếng Mẹ" là hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng ta, sao?
Brodsky mới hách: Ông này viết, làm thơ, bằng bất cứ tiếng gì, thì cũng là bằng tiếng Mẹ [tiếng Nga] đối với ông.
Ngày này còn ai đọc ông này? Hẳn 'có tay' phải, nhất định phải [đọc], bởi
vì hầu hết sách của ông đều được dịch, và đều có ở tiệm.
Ở Đại học, cả sinh viên lẫn giáo sư, đều rất rành với bất cứ một triết gia
hay lý thuyết gia Tây thường được nhắc tới, ông kể như vô danh, mặc dù ông
hơn hẳn cả đám kia, suy tư mịn hơn, viết bằng một thứ thơ xuôi bảnh hơn.
Lý do của sự lơ là này, phần lớn là từ cái nhìn âm u, không hề giao lưu hòa
giải, đếch thèm năn nỉ Thượng Đế hãy khoan thứ cho/về phận người!
Đã thế, ông ta ‘phủi thui’ cả hai, Ky tô giáo và triết học, đọc ông, nhiều
đoạn ‘khủng’ đến nỗi giống như những tiếng gầm rú của 1 thằng khùng!
Để làm cho sự tình rối bung thêm lên, ông bèn trình cho đời, không phải 1
mà là 2 căn cước, 2 cuộc đời. Một ông Cioran gốc Romania, viết bằng tiếng
Romania, vào thập niên 1930, và sau đó, một ông Cioran Tây, khá nổi tiếng,
viết bằng tiếng Tây.
Kể từ khi ông mất vào năm 1995, những phát giác thật ấn tượng, thật ‘hot’,
về một thời mới lớn của ông, say mê thần tượng, là Hitler, đã từng rỏ máu
ngón tay viết đơn tình nguyện, và được Đảng và Nhà Nước OK, cho là 1 thành
viên của Thành Đoàn có tên là Vệ Sĩ Sắt, một lực lượng “tiền vệ, tiền phương,
đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên", phò Phát Xít, quốc gia, bài
Do Thái, vào thập niên 1930.
Những phát giác hay ho này lại càng đẩy ông ra ngoài lề của luồng chính.
Tuy nhiên, kể từ sau khi xuất bản cuốn đầu tiên viết bằng tiếng Tây, ông
được dân Tây ca ngợi, như một văn gia, tư tưởng gia ngang tầm với những nhà
đạo đức lớn lao của thế kỷ 17 và 18 như La Rochefoucauld, La Bruyère, Chamfort,
và Vauvenargues.
Những điều trên càng khiến thiên hạ càng thêm tò mò về ông, và càng khiến
cho tác phẩm Đi tìm Xia O Răng, Searching for Cioran của Ilinca Zarifopol-Johnston,
mất trước khi hoàn tất tác phẩm của mình, càng trở nên quí giá.
****
Simic qua Mẽo năm 16, và đổi đời. GCC cùng tuổi, cũng năm
đó, vô Nam, cũng đổi đời. Đến khi già già, được qua Canada, lại đổi đời 1
lần nữa.
Nhưng, để hiểu ra được điều này, thì phải đọc ra được cái “ký hiệu” của đời mình.
Gấu đã kể qua rồi. Trên chuyến xe đò đi từ 1 tỉnh biên giới Thái Lan với
Lào, chạy suốt đêm, tới Bangkok là tờ mờ sang, chủ xe cho hành khách coi
1 cái DVD, kể câu chuyện 1 anh sĩ quan hầu vợ vua. Anh này mê bà hoàng hậu,
nhưng sức mấy mà dám bất cứ chuyện gì. Lần đó, bà hoàng hậu tắm, sau khi
thoát y, trước khi bước vô bồn tắm, bèn quẳng đôi dép cho viên sĩ quan hầu
cận.Không hiểu làm sao vua biết, bèn chôn sống viên sĩ quan, bằng cách chét
bùn lên người, và viên sĩ quan cứ thế sống mãi, cùng với hình ảnh đôi dép
của người đẹp. Qua nhiều đời, bỗng tới 1 đời hiện đại, viên sĩ quan tỉnh
giấc mơ, lắc lắc người, bùn vỡ ra… Bèn đi tìm người đẹp, cùng cây kiếm võ
sĩ đạo, bay như bay trên những chiếc tắc xi, những chiếc túc túc.
Và gặp thật, và lại được người quăng cho đôi dép ngoại, Vuilton gì gì đó.
Gấu nhớ là cái DVD kể ba cuộc đời của anh võ sĩ đạo.
Như ba cuộc đời của Gấu Cà Chớn. Cái cuộc tình dởm suốt mấy chục năm ở hải ngoại, kể như là cuộc tình với BHD được lập lại!
Hà, hà!
Một anh bạn, cũng viết văn, ít tuổi hơn Gấu, nhưng viết sớm hơn, kiếm ra
tiền nhờ viết truyện ngắn cho mấy tờ tuần báo văn học ở Sài Gòn, ngay từ
khi còn đang đi học, với thứ truyện ngắn, tình cảm dễ đọc, đọc tập truyện
ngắn của Gấu “Những ngày ở Sài Gòn", nhận xét, nhân vật nữ mà anh mê nhất,
là cô Mai, chưa biết tình yêu, chưa có người yêu mà đã trở thành bà goá,
trong “Những Ngày Ở Sài Gòn”. Không phải BHD, con nít quá!
Sở dĩ cái cuộc tình dởm của Gấu, thê lương đến như thế, chính là vì cái tính góa bụa của nó!
Có tới hai tên sĩ quan Ngụy đã tử trận làm thần giữ của cho nó. Thằng em
của Gấu, chưa có vợ, người yêu lăng nhăng thì có mấy em, nhưng người yêu
thực sự, chưa.
"Anh Tam vẫn tỏ vẻ ghét chiếc mũ sắt nặng nề. Người ốm nhom,
mắt
cận thị, anh mặc áo thung, đội chiếc mũ sắt đứng trước gương ngắm
nghía, một
lát sau anh quay nhìn Mai, nói đùa, "Chết như thế này không ổn, nặng
quá…
không phải ý nghĩa của cái chết, mà là cái chết trở thành một đồ vật
nặng
nề…", hôm đó anh dẫn mấy người lính đi tuần tra quanh vùng đóng quân,
một
người lính giẫm phải mìn… Mai lật từng tấm vải trắng phủ mặt những xác
chết
nhưng không thể nhận ra một trong những tử thi đó, là anh Tam của Mai
ngày xưa.
Thần Chết như chơi trò đố tìm với Mai, và đã xóa hết những dấu vết quen
thuộc,
như muốn đánh lừa, hoặc muốn che giấu Mai một ý nghĩa nào đó, hoặc một
lời dặn
dò của người đã chết… Phải tưởng tượng xác chết giá lạnh kia, là người
thân
thương ngày xưa, phải tưởng tượng khoảng trống kia là cái miệng vẫn
tươi cười,
khoảng sâu hoắm cao hơn chút nữa là đôi mắt long lanh nhìn Mai tuần
trước… Phải
hiểu rằng chết là như thế đó, và đời sống lúc này phải kết thúc như
vậy, không
có cách nào khác. Anh Thụ, người con trai độc nhất của bác Mai, anh Tam
và Mai
là bạn từ hồi nhỏ, cả hai người con trai đều luôn luôn chiều chuộng săn
sóc Mai,
đứa con gái ốm yếu, gầy còm, vừa cất tiếng khóc chào đời, mẹ đau nặng,
phải tập
sống bằng nước cơm, suốt đời không biết mùi sữa mẹ, thay vào đó là mùi
vị căn
bệnh phong thấp quái ác, mỗi lần thời tiết thay đổi, hai chân tê cứng
không làm
sao cất bước… Anh Thụ đi lính, anh Tam bắt chước, anh Thụ chết trước độ
một
năm, anh Tam theo luôn, hai nấm mồ, cái hàng trước, cái hàng sau, cùng
một hàng
dọc… Ngày Mai đậu Tú Tài, anh Tam được tin liền bảo Mai, "Anh sẽ tặng
Mai
một món quà thật đặc biệt", món quà đặc biệt của anh Tam là chiếc nhẫn…
Lần đầu tiên anh làm Mai sợ. Mai yêu anh Tam nhưng không hiểu tình yêu
là gì.
Mai, đứa con gái biết ý nghĩa của cái chết trước khi biết ý nghĩa của
sự sống,
biết mọi người đều phải chết trước khi biết mọi người có thể sống, có
thể yêu
thương nhau. Mai có người yêu trước khi có tình yêu. Bây giờ, những lần
đọc
tiểu thuyết, đi coi chiếu bóng, thấy người ta yêu nhau, người ta tình
tự, vuốt
ve, hôn nhau… Mai chưa hề có diễm phúc hưởng chúng, chưa hề có tình yêu
đó. Mai
có một tình yêu khác, một người yêu khác.
Mai thôi làm
việc. Những dòng chữ cuối cùng nàng viết cho
tôi trước khi từ biệt, là trên mẩu giấy ghi điện đàm mạch Sài Gòn – Hoa
Kỳ: một
người lính Mỹ đang nói chuyện với người yêu: "I love you" –
"Don’t say anything. Let’s me think good about you before leaving"
(Đừng nói gì hết. Để Mai nghĩ tốt về anh trước khi từ biệt). Tiếng nói
người
lính đầy những lệ, người yêu của anh đang nói những lời vĩnh biệt…
"When a chess player looks at the board," Arthur Koestler wrote while covering
the world-championship match between Fischer and Boris Spassky in I972, "he
does not see a static mosaic, a 'still-life', but a magnetic field of forces,
charged with energy."
Sử gia lớn nhất (không được biết đến/không được thừa nhận) của Việt Nam (VHNA 13-7-15) -- Kim Định?!
Kim
Định là Thầy dậy Gấu, năm học chứng chỉ Dự Bị Triết, Đại Học Văn Khoa. Lấy
xong cái chứng chỉ này, Gấu ghi tên học chứng chỉ Triết Tây, vẫn theo kiểu
hàm thụ, vì lúc này đã cày hai job, một, chuyên viên Bưu Điện, một, UPI Radiophoto
operator. Do không học cours của Thầy Nguyễn Văn Trung, nhưng bày đặt học
cours Sorbonne, có bán tại Lê Phan, Thầy bèn đánh rớt, thế là bye bye Văn
Khoa.
Năm 1958, khi học Đệ Nhất, ban B [Toán] tại trường Chu Văn An, tôi được
học với
thầy Vũ Khắc Khoan, môn Sử. Một tuần một giờ. Cả thầy lẫn trò đều biết,
sử là
môn phụ, chỉ thoáng qua ở kỳ vấn đáp. Thầy họa hoằn ghé lớp. Và bởi vì
lớp B8
của chúng tôi ở ngay cổng trường, có khi thầy chỉ đảo một vòng chiếc
solex qua
cửa lớp, nói vội một câu, hôm nay nghỉ, rồi tà tà theo cây vợt cầm sẵn
trên tay.
Những giờ học thật họa hoằn thì cũng không phải để học, để bàn, về sử,
mà về
kịch, hoặc về một câu mà thầy đang tâm đắc, thí dụ “Chúng ta đã xuống
thuyền”
[Pascal, hình như vậy].
Rồi thi đậu, ghi danh học Đại Học Khoa Học. Đói, bỏ ngang, thi vô
trường Quốc
Gia Bưu Điện vừa mới được thành lập. Ra trường. Làm công chức Bưu Điện.
“Đành”
ghi danh học Văn Khoa, theo kiểu hàm thụ, chứng chỉ Dự Bị Triết, với
những ông
thầy như Kim Định, Lê Tôn Nghiêm… Nhờ bạn bè lấy bài học [cours] giùm.
Chẳng
bao giờ tới lớp. Cho đến bây giờ tôi không hề biết mặt thầy Kim Định.
Và như
thế, sẽ chẳng bao giờ biết mặt thầy, có chăng chỉ là tình cờ, trên mặt
sách
báo. Những môn đệ như tôi, chắc là cũng nhiều. Cũng nhiều, là những độc
giả của
ông. Đủ mọi tầng lớp, tuổi tác. Còn cả, những hội đoàn chính trị nữa,
coi Việt
học như là một vũ khí văn hóa chống chủ nghĩa Cộng Sản.
Riêng với lớp học trò như chúng tôi, Thầy đúng là ý thức đạo đức của
một thời,
“thời của chúng tôi”, những đứa trẻ hai mươi tuổi vào những năm 1960,
1970.
*
Claude-Lévi Strauss phân chia lịch sử ra những thời kỳ nóng, thời
kỳ lạnh.
Vào những thời kỳ lạnh, có khi kéo dài nhiều thế kỷ, nó chẳng đẻ ra
được một ý
thức, một tư tưởng, một ý thức hệ, một triết lý lớn lao nào.
“Thời của chúng tôi” nóng. Nóng lắm. Bên trời Tây, đó là lúc cơ cấu
luận đang ở
đỉnh cao, với rất nhiều triết gia, nhiều tác phẩm: Viết của
Lacan, Chữ
và Vật, của Michel Foucault, Phê Bình và Chân Lý của Roland
Barthes,
Lý thuyết Văn chương, của Todorov… cùng xuất hiện
vào năm 1966. Năm sau
1967, là những cuốn tiếp theo của bộ Huyền Thoại Học của
Claude-Lévi
Strauss: Từ mật ong tới tàn thuốc,Nguồn gốc của những trò
lẩm cẩm
muỗng nĩa, dao kéo.. ở bàn ăn [L’origine des manières de table],1968,
Con người trần trụi, L’Homme nu, 1971.
Nhưng Ấu châu có ở trong đó ? Chính họ tự hỏi. Và tuổi trẻ của Tây trả
lời,
bằng biến cố Tháng Năm 1968: Hãy mạnh dạn đòi hỏi những điều không thể
được,
không thể đòi hỏi. Càng làm tình bao nhiêu, càng cách mạng bấy nhiêu.
Octavio Paz, Nobel văn chương, có lần đưa ra một nhận xét thật độc đáo,
về biến
cố Tháng Năm 1968: Văn minh Tây Phương độc đáo ở chỗ, đã biến dục tình
thành
một vũ khí chính trị.
Nhưng 1968 cũng là năm pháo đài bay B.52 vào trận tại cuộc chiến Việt Nam.
Cùng với
276 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ.
1965: Cuộc Đổ Bộ Normandie Á Châu, tại bãi biển Đà Nẵng.
1968: Cú Mậu Thân. Mồ Chôn Tập Thể Huế.
Cần phải xác định thời của chúng tôi, Chữ Thời, bằng những sự kiện như
thế, mới
nhận ra vóc dáng khổng lồ của những bậc thầy tư tưởng Đông Phương như
Kim Định,
khi họ cố tìm cho ra một giải pháp, và cùng với nó, một thực hành, thí
dụ như
Cú Tháng Năm 1968, như của nước Pháp, cho một “thời khốn khổ của chúng
tôi”.
Và nếu đúng như Claude –Lévi Strauss khẳng định, tất cả văn hóa đều có
thể coi
như là một bộ của những hệ thống biểu tượng, thầy Lê Tôn Nghiêm, thầy
Kim Định,
cho thấy, chúng ta cũng có riêng những bộ hệ thống biểu tượng. Thầy Lê
Tôn
Nghiêm đã tìm thấy một “logos của phương Đông” trong khi đào bới những
di chỉ
của Khổng giáo. Thầy Kim Định, trong Việt Lý Tố Nguyên, Triết Lý
Cái Đình.
Tất cả những ông thầy tư tưởng, Đông hay Tây, đều tìm
một thứ đức hạnh mới.
Với Lacan, là một “đức hạnh của ước muốn” [éthique du désir], với
Foucault:
“đức hạnh của sự giải phóng”, với Kinh Định, đó là một đạo hạnh trong
sự cố
gắng tìm kiếm và bảo tồn những di chỉ của một nền văn minh Việt Nam, mà
những
đệ tử của ông coi đây là hàng rào cuối cùng chống lại chủ nghĩa cộng
sản.
Thầy Kim Định, chúng con xin vĩnh biệt Thầy.
NQT
'Đừng đẩy nhà văn sang phía đối lập'
Blogger Phạm Viết Đào Gửi cho BBC từ Hà Nội.
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/07/150711_phamvietdao_hoinhavan
Đọc bài này, Gấu thấy buồn kười quá! Bởi là vì nhà văn, tự nó, phải chọn
thế đối lập với nhà nước rồi. Solzhenitsyn chẳng đã phán, nhà văn là “nhà
nước của nhà nước”, là thế. Ngay cả ở 1 nước dân chủ, nhà văn cũng không
bao giờ của nhà nước được.
Đừng đẩy nhà văn vào thế đối lập, tếu thật!
Nhưng thôi, đám này quen viết dưới ánh sáng của Đảng rồi, kệ cha tụi nó!
Hoá ra nhà thơ Việt Chiến Nguyễn
(Nguyễn Việt Chiến, cựu phóng viên báo Thanh Niên) vụ PMU 18 cũng ở
trại B14. Lại đúng phòng B12. Phòng B12 là nơi giam tôi những tháng cuối
ở B14, trước khi dẫn giải vào trại Hoà Sơn, Đà Nẵng. Trên hai vách
tường phòng này tôi đã đục khắc hai câu “Chỉ có thể cưỡng bức được hành
vi, chứ không cưỡng bức nổi tư tưởng” và “Có loại tù làm người ta nhục
nhã, nhưng có loại tù chỉ khiến họ vinh quang”.
Note: Sao không đục khắc vào... trái tim, hay, “cây gậy làm mưa”, thí dụ?
Cái trò hề đi đến đâu đục đục khắc khắc này, sao giống trò cào l… ăn vạ quá. (1)
Simic đã từng viết về nó, khi phải nhìn lại quê hương của ông, là xứ Serbia.
NQT
(1)
Watching Yugoslavia dismember itself, for
instance, is like watching a man mutilate himself in public. He has
already
managed to make himself legless, armless, and blind, and now in his
frenzy he's
struggling to tear his heart out with his teeth. Between bites he
shouts to us
that he is a martyr for a holy cause, but we know that he is mad, that
he is
monstrously stupid. Nhìn xứ Mít đục đục khắc chính nó, tự huỷ hoại chính nó,
thí dụ, thì giống như nhìn một thằng đàn ông, như tay Vẹt Chén này, tự thiến
hắn ta trước công chúng, bàn dân thiên hạ. Hắn đã chặt thiến chân, tay, chọc
mù mắt, bây giờ hắn đang cố móc trái tim của hắn ra bằng răng của hắn. Trong
khi cắn cắn, đục đục, khắc khắc như thế, hắn la lớn tao đang làm 1 tên tử
đạo vì xứ Mít VC của tao. Đây là nghĩa lớn, nghĩa thánh của dân tộc tao,
nhưng chúng ta biết rõ, thằng khốn này khùng, và ngu suẩn, cực kỳ ngu suẩn.
In a
letter
to Hannah Arendt, Karl Jaspers describes how the philosopher Spinoza
used to
amuse himself by placing flies in a spider's web, then adding two
spiders so he
could watch them fight over the flies. "Very strange and difficult to
interpret," concludes Jasper. As it turns out, this was the only time
the
otherwise somber philosopher was known to laugh. A friend
from Yugoslavia called me about a year ago and said, "Charlie, why
don't
you come home and hate with your own people?" I knew he was pulling my leg, but
I was
shocked nevertheless. I told him that I was never very good at hating,
that
I've managed to loathe a few individuals here and there, but had never
managed
to progress to hating whole peoples. "In that case," he replied,
"you're missing out on the greatest happiness one can have in life."
I’m
surprised that there is no History of Stupidity. I envision a work of
many
volumes, encyclopedic, cumulative, with an index listing millions of
names. I
only have to think about history for a moment or two before I realize
the
absolute necessity of such a book. I do not underestimate the influence
of
religion, nationalism, economics, personal ambition, and even chance on
events,
but the historian who does not admit that men are also fools has not
really
understood his subject.
Watching Yugoslavia dismember itself, for
instance, is like watching a man mutilate himself in public. He has
already
managed to make himself legless, armless, and blind, and now in his
frenzy he's
struggling to tear his heart out with his teeth. Between bites he
shouts to us
that he is a martyr for a holy cause, but we know that he is mad, that
he is
monstrously stupid.
Bi khúc
trong mạng nhện
Trong 1 lá
thư viết cho Hannah Arendt, Karl Jaspers kể, về triết gia Spinoza, giải
khuây bằng
cách bắt mấy con ruồi bỏ vô một cái mạng nhện, và sau đó, bỏ thêm vô
hai con nhện,
và theo dõi hai đấng nhện quần thảo lẫn nhau, tranh giành mồi.
“Thật khó giải
thích, diễn nghĩa”, to interpret, Jaspers kết luận.
Hoá ra là, đó là những khoảnh
khắc độc nhất, mà người đời được biết, triết gia nổi tiếng là u sầu
này, bật cười.
Một tên bạn
của tôi, từ Yugoslavia [Nam Tư ngày nào], một năm trước đây, gọi điện
cho tôi,
và nói, “Charlie, tại sao mi không về nhà, mà thù hận với đồng bào của
chính mi?
Hắn chọc quê tôi. Tuy biết, nhưng tôi vẫn quê. Tôi
bèn trả lời, cái chuyện thù hận, thù ghét, tớ không quen, rằng, lâu lâu
ghét thằng
này, ưa thằng kia, giữa lũ lưu vong hải ngoại, OK, nhưng làm sao mà thù
hận trọn
dân tộc của tớ cho được.
"Vậy là mi đánh mất cái
hạnh phúc lớn lao nhất mà 1 con người có được ở trên cõi
đời này rồi!”
Tôi ngạc nhiên,
tại sao không có Lịch Sử của sự Ngu Đần, và bèn mơ tưởng một tác phẩm,
rất nhiều
tập, một bách khoa toàn thư, tích luỹ, thu thập… với
1 index gồm rất nhiều tên. Cứ mỗi lần nghĩ
đến lịch sử, chừng một, hai phút là tôi thèm viết nó, và bèn nhận ra
cái sự cần
thiết của cuốn sách như thế. Tôi không coi thường, đánh giá thấp, ảnh
hưởng của
tôn giáo, chủ nghĩa quốc gia, kinh tế học, tham vọng cá nhân, và ngay
cả cái gọi
là cơ may trong những sự kiện, nhưng một sử gia mà không thừa nhận
rằng, con người
là lũ khùng, thì người đó chưa thấu đáo về cái đề tài của mình.
xin giải thích "cuộc phần thư" là gì ạ?
Reply