nqt 
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

TƯỞNG NIỆM






 Tưởng niệm nhà văn Phi Châu đã từng là lính viễn chinh Pháp tại Việt Nam:

Ahmadou Kourouma [1927-2003], giải thưởng văn chương Renaudot của Pháp.

 Nhà văn Phi Châu đã dám thách đố ngôn ngữ thuộc địa của Pháp.

Ahmadou Kourouma, mất ở tuổi 76, có lẽ là tiểu thuyết gia đáng kể nhất của Phi châu, viết văn bằng tiếng Pháp. Ông rà lại mớ tư tưởng làm nền tảng cho những chính sách của Pháp trong khu vực sử dụng ngôn ngữ này. Chúng biện minh cho chủ nghĩa thực dân thuộc địa, toan biến người Phi Châu và những người tại những nơi khác, thành những người phát ngôn, những nhà văn đáng kính của tiếng Pháp; coi đây là một tiến trình văn minh hóa tách ra khỏi tính thực dân bóc lột. Thay vì vậy, Kourouma sử dụng ngôn ngữ như ông thấy nó thích hợp với ông, và nói điều ông muốn, không coi trọng mẹo luật và những kiềm tỏa khác của nó.

Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Mặt Trời của những Độc Lập (Le Soleil des Indépendances, 1968), dịch sang tiếng Anh, Những Mặt Trời của Sự Độc Lập, The Suns Of Independence (1981), bối cảnh hai xứ Phi Châu, thật dễ nhận ra đó là Ivory Coast và Guinea. Được độc lập, xứ sở ông hoàng Malinké rốt cục biến thành đất nước của một tên ăn mày, dưới quyền cai trị của chính quyền độc đảng của Felix Houphouet, và sau đó, của Sekou Touré. Trước khi có những vĩ nhân của nền độc lập thì đây là những tên cai trị lót đường thời kỳ tiền-độc lập.

Cuốn sách được chú ý do văn phong và những mặt hài của nó, và nó bầy ra lịch sử Phi Châu. Kourouma cho biết, ông không biết gì về văn chương cổ điển Pháp, mà chỉ trộn lẫn, một bên là ngôn ngữ Malinké và một bên là tiếng Pháp thông thường; tuy nhiên, ông thú nhận, đã từng biết tới cuốn tiểu thuyết Chuyến Đi Tới Tận Cùng Của Đêm, Voyage Au Bout De La Nuit (Journey To The End Of The Night, 1932), của nhà văn Pháp Louis Ferdinand Céline, và văn phong uyên nguyên, mạnh bạo, và có tính thuyết phục của nhà văn này.

Kourouma sinh gần Boundiali, phía bắc Ivory Coast, và được một ông chú người Guinea nuôi nấng, ông này là một nhân viên dân sự. Học tại Mali, ông gia nhập quân đội Pháp, phục vụ tại Đông Dương từ 1950 tới 1954, trong thời gian này, ông nhận ra là rất nhiều người Pháp chống lại chủ nghĩa thực dân thuộc địa. Sau đó, ông tới ParisLyon, ỏ đây, ông học toán và những môn khác có thể giúp ông sau này có được việc làm, như là một nhà quản lý. Ông kết hôn với một phụ nữ Pháp, và gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp.

Khi Ivory Coast được độc lập, vào năm 1960, Kourouma trở lại quê hương, chỉ để khám phá ra một điều là chính quyền Houphouet Boigny coi ông như kẻ thù, và bỏ tù ông. Ông dời đi Algeria, trở về lại vào năm 1969 khi Houphouet Boigny bổ nhiệm ông vào những chức vụ hành chánh tại Cameroon hay tại Togo, thật cách xa Ivory Coast. Kourouma tính thực hiện một vở kịch, như bị cấm, và chẳng bao giờ được xuất bản.

Vào năm 1990, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ nhì, Monné, Lăng Nhục Và Thách Thức [Monné, Outrages Et Défis, được dịch sang tiếng Anh với tựa đề Monnew, 1993). Cuốn truyện kể lại cuộc chinh phục Phi Châu của người Pháp, và chứng tỏ, bao bịnh hoạn của lục địa này, là từ thời kỳ này mà ra. Tuy không được thành công, nhưng ông được giải thưởng hàng năm, Những Quyền Hạn Mới Của Con Người. Giải thưởng như tiếng gáy của một con gà sống, báo hiệu 18 giải thưởng sau đó.

Năm 1998, cuốn Trong Khi Chờ Những Con Thú Hoang Bỏ Phiếu, En Attendant Le Vote Des Bêtes Sauvages (Waiting For The Wild Beasts To Vote, 2003) của ông được nhiều người biết tới tại Phi Châu. Hai năm sau, Trời Đâu Muốn Thế,

Allah N'Est Pas Obligé, thuật câu chuyện, bằng một thứ ngôn ngữ hung bạo của đường phố, về những binh sĩ con nít trong những cuộc chiến tại vùng Tây Phi Châu, và những tàn bạo của chúng, cuốn này được giải thưởng nổi tiếng của Pháp, là giải Renaudot, tại Paris.

Khi những biến động ở trong nước đưa đến cuộc nội chiến tại Ivory Coast vào năm vừa rồi, Kourouma trở lại Lyon. Đã là tác giả của cỡ chừng 9 cuốn sách viết cho trẻ con, ông hứa với những cô con gái của ông, sẽ viết nhiều hơn, về số phận của những đứa trẻ tại quê hương của ông.

Ông mất ngày 11 Tháng Chạp 2003, để lại vợ và ba con.

 Jennifer Tran chuyển ngữ bài viết của Douglas Johnson

trên tờ The Guardian, Monday January 5, 2004