|
Imaginary Beings
Book
The Sphinx
The Sphinx found on Egyptian
monuments (called "Androsphinx" by
Herodotus, to distinguish it from the Greek
creature) is a recumbent lion with the head of
a man; it is believed to represent the authority
of the pharaoh, and it guarded the tombs and temples
of that land. Other Sphinxes, on the avenues of Karnak,
have the head of a lamb, the animal sacred to Amon. Bearded
and crowned Sphinxes are found on monuments in Assyria,
and it is a common image on Persian jewelry. Pliny includes
Sphinxes in his catalog of Ethiopian animals, but
the only description he offers is that it has "brown
hair and two mammae on the breast."
The Greek
Sphinx has the head and breasts of a woman,
the wings of a bird, and the body and legs of
a lion. Others give it the body of a dog and the
tail of a serpent. Legend recounts that it devastated
the countryside of Thebes by demanding that travelers
on the roads solve riddles that it put to them (it
had a human voice); it devoured those who could not
answer. This was the famous question it put to Oedipus,
son of Jocasta: "What has four feet, two feet, or three
feet, and the more feet it has, the weaker it is?" (1)
Oedipus answered
that it was man, who crawls on four
legs as a child, walks upon two legs as a man,
and leans upon a stick in old age. The Sphinx, its
riddle solved, leapt to its death from a mountaintop.
In 1849 Thomas
De Quincey suggested a second interpretation,
which might complement the traditional
one. The answer to the riddle, according
to De Quincey, is less man in general than Oedipus
himself, a helpless orphan in his morning, alone
in the fullness of his manhood, and leaning upon Antigone
in his blind and hopeless old age.
(1)
This is apparently the
oldest version of the riddle. The years
have added the metaphor of the life of man as
a single day, so that we now know the following version
of it: "What animal walks on four legs in the morning,
two legs at midday, and three in the evening?
Oedipus and the Enigma
Four-footed at dawn,
in the daytime tall,
and wandering three-legged down the hollow
reaches of evening: thus did the sphinx,
the eternal one, regard his restless fellow,
mankind; and at evening came a man
who, terror-struck, discovered as in a mirror
his own decline set forth in the monstrous image,
his destiny, and felt a chill of terror.
We are Oedipus and everlastingly
we are the long tripartite beast; we are
all that we were and will be, nothing less.
It would destroy us to look steadily
at our full being. Mercifully God grants us
the ticking of the clock, forgetfulness.
-A.S.T.
J.L. Borges [Penguin ed]
OEDIPUS AND THE RIDDLE
At dawn four-footed,
at midday erect,
And wandering on three legs in the deserted
Spaces of afternoon, thus the eternal
Sphinx had envisioned her changing brother
Man, and with afternoon there came a person
Deciphering, appalled at the monstrous other
Presence in the mirror, the reflection
Of his decay and of his destiny.
We are Oedipus; in some eternal way
We are the long and threefold beast as well-
All that we will be, all that we have been.
It would annihilate us all to see
The huge shape of our being; mercifully
God offers us issue and oblivion.
[John Hollander]
Thomas Di Giovanni ed
Nhân Sư và Thai Đố
Rạng đông bốn chân,
giữa trưa thẳng đứng
Ba chân,
lang thang, nơi không gian hổng vào lúc xế trưa
Đó là viễn ảnh của Nhân Sư về người anh em con người của Nàng
Vào lúc hoàng hôn, chàng khám phá ra, như trước tấm gương
Sự tàn tạ và số mệnh của mình
Chúng ta là Ơ Đíp, theo 1 cách miên viễn hằng hằng
Chúng ta là con thú, dài dài, ba nếp gấp, chứ còn ai nữa ở đây?
Tất cả là như thế, và sẽ là như thế, ngoài ra là hư vô
Nó sẽ huỷ diệt chúng ta khi nhìn suốt 1 cõi của mình
May mắn thay
Chúa bèn ban chúng ta
Tiếng tích tắc của cái đồng hồ
Và
Quên lãng
The Lamed Wufniks
On the earth there
are, and have always been, thirty-six just men whose mission is to justify
the world to God. These are the Lamed Wufniks. These men do not know each
other, and they are very poor. If a man comes to realize that he is a Lamed
Wufnik, he immediately dies and another man, perhaps in some other corner
of the earth, takes his place. These men are, without suspecting it, the
secret pillars of the universe. If not for them, God would annihilate the
human race. They are our saviors, though they do not know it. This mystical
belief of the Jewish people has been explained by Max Brod. Its distant roots
may be found in Genesis 18, where God says
that He will not destroy the city of Sodom if ten just men can be found
within it.
The Arabs have an analogous figure, the Qutb, or "saint."
Note: Ấn bản mới có tí khác ấn bản cũ, GCC được coi là "Thánh"!
The Lamed Wufniks
There
are on earth, and always were, thirty-six righteous men whose mission
is to justify the world before God. They are the Lamed Wufniks. They do
not know each other and are very poor. If a man comes to the knowledge that
he is a Lamed Wufnik, he immediately dies and somebody else, perhaps in another
part of the world, takes his place. Lamed Wufniks are, without knowing it,
the secret pillars of the universe. Were it not for them, God would annihilate
the whole of mankind. Unawares, they are our saviors. This mystical belief
of the Jews can be found in the works of Max Brod. Its remote origin may
be the eighteenth chapter of Genesis, where we read this verse: "And the
Lord said, If I find in Sodom fifty righteous within the city, then I will
spare all the place for their sakes."
The Moslems have an analogous personage in the Kutb.
Người Què Gánh Tội
Trên thế giới, có, và luôn luôn có, 36 người què,
còn được gọi là 36 vì công chính, mà sứ mệnh của họ, là, biện minh thế
giới, trước Thượng Đế.
Họ là
những tên què gánh tội, Lamed Wufniks.
Họ không
biết nhau, và rất ư là nghèo khổ.
Nếu có
1 tên biết rằng mình là tên què gánh tội, là bèn lập tức, ngỏm củ tỏi.
Và một
người khác, có lẽ ở đâu đó trên thế giới, thế chỗ anh ta.
Không
có 36 tên cà chớn này, là liền lập tức, Thượng Đế xóa sổ thế giới.
Cuốn này, mới mua, có minh
họa, cuốn cũ, Cô Út làm từ thiện!
The Sphinx
The Sphinx found on Egyptian monuments (called "Androsphinx" by Herodotus,
to distinguish it from the Greek creature) is a recumbent lion with the
head of a man; it is believed to represent the authority of the pharaoh,
and it guarded the tombs and temples of that land. Other Sphinxes, on the
avenues of Karnak, have the head of a lamb, the animal sacred to Amon. Bearded
and crowned Sphinxes are found on monuments in Assyria, and it is a common
image on Persian jewelry. Pliny includes Sphinxes in his catalog of Ethiopian
animals, but the only description he offers is that it has "brown hair
and two mammae on the breast."
The Greek Sphinx has the head and breasts of a woman, the wings
of a bird, and the body and legs of a lion. Others give it the body of a
dog and the tail of a serpent. Legend recounts that it devastated the countryside
of Thebes by demanding that travelers on the roads solve riddles that it
put to them (it had a human voice); it devoured those who could not answer.
This was the famous question it put to Oedipus, son of Jocasta: "What has
four feet, two feet, or three feet, and the more feet it has, the weaker
it is?" (1)
Oedipus answered that it was man, who crawls on four legs as
a child, walks upon two legs as a man, and leans upon a stick in old age.
The Sphinx, its riddle solved, leapt to its death from a mountaintop.
In 1849 Thomas De Quincey suggested a second interpretation,
which might complement the traditional one. The answer to the riddle, according
to De Quincey, is less man in general than Oedipus himself, a helpless
orphan in his morning, alone in the fullness of his manhood, and leaning
upon Antigone in his blind and hopeless old age.
(1)
This is apparently the oldest version of the riddle. The years have
added the metaphor of the life of man as a single day, so that we now
know the following version of it: "What animal walks on four legs in the
morning, two legs at midday, and three in the evening?"
An Animal Imagined by Kafka
It is the animal with the big
tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should like
to get my hands on this tail some time, but it is impossible, the animal
is constantly moving about, the tail is constantly being flung this way
and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face, which
is flat almost like a human face, and small and oval; only its teeth have
any power of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I
have the feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose
could it have in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again
waiting calmly until I am tempted again, and then leaping away once more?
FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the
German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)
Một con vật
Kafka tưởng tượng ra
Ðó là 1 con vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn.
Ðòi phen tôi thèm được sờ 1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh,
1 anh học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái
đuôi, thân hình luôn uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái
mặt không giống, bèn bẹt y chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái
gương bầu dục, chỉ có hàm răng là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em
chồn này, lúc thì giấu biệt, lúc thì phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em
tính thuần hóa tôi, biến tôi thành 1 con vật nuôi trong nhà, quanh quẩn
bên em. Hẳn là thế, nếu không tại sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với
tay tính sờ 1 phát, và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới khi tôi thèm quá,
thò tay ra, và em lại nguẩy 1 phát, đau nhói tim?
The Lamed Wufniks
There
are on earth, and always were, thirty-six righteous men whose mission
is to justify the world before God. They are the Lamed Wufniks. They do not
know each other and are very poor. If a man comes to the knowledge that he
is a Lamed Wufnik, he immediately dies and somebody else, perhaps in another
part of the world, takes his place. Lamed Wufniks are, without knowing it,
the secret pillars of the universe. Were it not for them, God would annihilate
the whole of mankind. Unawares, they are our saviors. This mystical belief
of the Jews can be found in the works of Max Brod. Its remote origin may
be the eighteenth chapter of Genesis, where we read this verse: "And the
Lord said, If I find in Sodom fifty righteous within the city, then I will
spare all the place for their sakes."
The Moslems have an analogous personage in the Kutb.
Người Què Gánh Tội
Trên thế giới, có, và luôn luôn có, 36 người què,
còn được gọi là 36 vì công chính, mà sứ mệnh của họ, là, biện minh thế
giới, trước Thượng Đế.
Họ là những tên què gánh tội, Lamed Wufniks.
Họ không biết nhau, và rất ư là nghèo khổ.
Nếu có 1 tên biết rằng mình là tên què gánh tội, là bèn lập
tức, ngỏm củ tỏi.
Và một người khác, có lẽ ở đâu đó trên thế giới, thế chỗ anh
ta.
Không có 36 tên cà chớn này, là liền lập tức, Thượng Đế xóa
sổ thế giới.
Note: Nervous brilliance, tạm dịch, “sáng
chói bồn chồn”.
Bỗng nhớ Cô Tư, “sáng chói, đen, và hơi khùng” [thực ra là, “đen,
buồn và hơi khùng”]
Nhưng cuốn tiểu sử của Mr Stach
cũng cho thấy cái phần nhẹ nhàng, sáng sủa hơn của Kafka. Trong 1 lần
holyday, đi chơi với bồ, ông cảm thấy mình bịnh, vì cười nhiều quá. Trong
những năm sau cùng của đời mình, ông gặp 1 cô gái ngồi khóc ở 1 công viên,
và cô nàng nói với ông, là cô làm mất con búp bế. Thế là mỗi ngày ông
viết cho cô bé 1 lá thư, trong ba tuần lễ, lèm bèm về con búp bế bị mất.
Với người tình sau cùng, Dora Diamant, rõ là ông tính lấy làm vợ. Cô này
còn dụ ông trở lại được với Do Thái giáo.
Những giai thoại trên chọc thủng hình ảnh 1 Kafka khắc khổ, qua
tác phẩm của ông. Mr Stach còn vứt vô thùng rác [undermine] những cái nhìn
có tính ước lệ [conventional views] về 1 Kakka như 1 nhà tiên tri của
những tội ác kinh hoàng ghê rợn [atrocities] sẽ tới (ba chị/em của ông
chết trong trại tập trung Nazi, cũng như hai bạn gái của ông). Trong những
nhận xét về mục tiêu bài Do Thái, ông mô tả 1 thế giới như ông nhìn thấy
nó, đầy nỗi cô đơn và những cá nhân con người bị bách hại, nhưng không phải
1 thế giới không có hy vọng.
Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm sao
giải thích được!
Trên TLS, số 7 Sept 2012,
GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị thầy gối đầu giường
của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này, thì kể như là
đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là khủng, “Sự
Xét Xử”. Và có thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng chẳng hiểu ông
nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của ông, và có lẽ sự thể nó phải
như thế, nghĩa là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch làm sao hiểu được Kafka!
Ở đây, cũng phải đi 1 đường
ghi chú ngoài lề!
1. Cuốn Bếp Lửa
của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra
đi, đếch thèm trở về, viết cho cô em bà con, buộc vào quê hương thì phải
là ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái
con quái vật, con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ,
vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà
cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ đi được!
2. Cuốn Sinh Nhật
của bạn quí của Gấu, NXH, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít,
là Sinh Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách,
“Đi tìm 1 cái mũ đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo
bài điểm trên như đoạn sau đây cho thấy:
Truyện ngắn mà Brod gọi là
"Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks, của Kafka,
đã được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc của truyện: “Giai thoại thường
toan tính giải thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi lên
sự thực [chữ của TTT, trong Cát Lầy],
nó phải lại chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because
it arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]
Nói rõ hơn, nhân loại không
làm sao đọc được Kafka, vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào đó", nẫng mẹ mất
cái nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến
ông thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!
Fairies
The name of these creatures
is linked to the Latin word faturn, meaning "fate" or "destiny";
with their magic they intervene in the affairs of men. Some have said
that the Fairies are the most numerous, beautiful, and memorable of
the minor deities. They are not limited to anyone region r time; the
ancient Greeks, the Eskimos, and the American Indians tell stories of
heroes who have won the love of these fantastic creatures. Such adventures
are dangerous, however: once the Fairy's passion is satisfied, it
may kill its lover.
In Ireland and Scotland, Fairies are said to
have underground dwellings where they lock up the men, women, and
children that they kidnap. People believe that the neolithic arrowheads
they dig up in their fields once belonged to the Fairies, and that
these arrowheads possess unfailing medicinal properties.
Fairies like singing and music and the color
green. In the late seventeenth century, a Scottish cleric, one Reverend
Kirk, of Aberfoyle, compiled a treatise titled The Secret Commonwealth
of the Elves, Fairies, and Fauns. In 1815, Sir Walter Scott had
Kirk's manuscript printed. Mr. Kirk was said to have been carried off
by the Fairies because he had revealed their secrets. In the seas off
Italy, there is a Fairy, the Fata Morgana, that weaves mirages that con-
fuse sailors and make them lose their course.
67
Cuốn sách những sinh vật tưởng tượng
An Animal Imagined by Kafka
It is the animal with the big
tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should like to
get my hands on this tail some time, but it is impossible, the animal is
constantly moving about, the tail is constantly being flung this way and
that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face, which is flat
almost like a human face, and small and oval; only its teeth have any power
of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I have the
feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose could it
have in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again waiting
calmly until I am tempted again, and then leaping away once more?
FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the
German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)
Một con vật
Kafka tưởng tượng ra
Ðó là 1 con vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn. Ðòi
phen tôi thèm được sờ 1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh
học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái
đuôi, thân hình luôn uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt
không giống, bèn bẹt y chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương
bầu dục, chỉ có hàm răng là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn
này, lúc thì giấu biệt, lúc thì phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần
hóa tôi, biến tôi thành 1 con vật nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn
là thế, nếu không tại sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1
phát, và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới khi tôi thèm quá, thò tay ra, và
em lại nguẩy 1 phát, đau nhói tim?
The Bloi and the Morlocks
The hero of the novel The Time Machine, which a young writer
Herbert George Wells published in 1895, travels on a mechanical device into
an unfathomable future. There he finds that mankind has split into two species:
the Eloi, who are frail and defenseless aristocrats living in idle gardens
and feeding on the fruits of the trees; and the Morlocks, a race of underground
proletarians who, after ages of laboring in darkness, have gone blind, but
driven by the force of the past, go on working at their rusted intricate
machinery that produces nothing. Shafts with winding staircases unite the
two worlds. On moonless nights, the Morlocks climb up out of their caverns
and feed on the Eloi.
The nameless hero, pursued by Morlocks, escapes back into the present.
He brings with him as a solitary token of his adventure an unknown flower
that falls into dust and that will not blossom on earth until thousands
and thousands of years are over.
Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết “Máy Thời Gian”, sử dụng cái
máy thần sầu du lịch xuyên qua thời gian tới những miền tương lai không làm
sao mà dò được. Ở đó, anh ta thấy Mít – nhân loại - được chia thành hai, một,
gọi là Ngụy, yếu ớt, ẻo lả, và là những nhà trưởng giả, bất lực, vô phương
chống cự, sống trong những khu vườn nhàn nhã, ăn trái cây, và một, VC, gồm
những tên bần cố nông, vô sản, sống dưới hầm, địa đạo [Củ Chi, thí dụ], và,
do bao nhiêu đời lao động trong bóng tối, trở thành mù, và, được dẫn dắt
bởi sức mạnh kẻ thù nào cũng đánh thắng, với sức người sỏi đá cũng thành
cơm, cứ thế cứ thế lao động, để thâu hoạch chẳng cái gì. Có những cầu thang
nối liền hai thế giới, và vào những đêm không trăng, VC, từ những hang động,
hầm hố, bò lên làm thịt lũ Ngụy.
Nhân vật chính, không tên, bị VC truy đuổi, trốn thoát được, và trở
lại thời hiện tại. Anh ta mang theo cùng với anh, một BHD, như chứng tích
của cuộc phiêu lưu, và vừa trở lại hiện tại, bông hồng bèn biến thành tro
bụi, và, như…. Cô Sáu trong Tiền Kiếp Của GCC, hàng hàng đời sau, sẽ có
ngày nào đó, bông hồng lại sống lại…
Who knows?
Hà, hà!
The Tigers of Annam
To the Annamites, tigers, or spirits who dwell in tigers, govern the
four corners of space. The Red Tiger rules over the South (which is located
at the top of maps); summer and fire belong to him. The Black Tiger rules
over the North; winter and water belong to him. The Blue Tiger rules over
the East; spring and plants belong to him. The White Tiger rules over the
West; autumn and metals belong to him.
Over these Cardinal Tigers is a fifth tiger, the Yellow Tiger,
who stands in the middle governing the others, just as the Emperor stands
in the middle of China and China in the middle of the World. (That's why it
is called the Middle Kingdom; that's why it occupies the middle of the map
that Father Ricci, of the Society of Jesus, drew at the end of the sixteenth
century for the instruction of the Chinese.)
Lao-tzu entrusted to the Five Tigers the mission of waging war
against devils. An Annamite prayer, translated into French by Louis Cho
Chod, implores the aid of the Five Heavenly Tigers. This superstition is
of Chinese origin; Sinologists speak of a White Tiger that rules over the
remote region of the western stars. To the South the Chinese place a Red
Bird; to the East, a Blue Dragon; to the North, a Black Tortoise. As we see,
the Annamites have preserved the colors but have made the animals one.
Hổ An Nam
Với người An Nam Mít, hổ, hay cái tinh anh ngự trong hổ, cai quản bốn
góc trời. Hổ Đỏ trị vì phía Nam [ở đỉnh bản đồ], mùa hè và lửa thuộc về nó.
Hổ Đen, Miền Đông, mùa xuân và cây cối thuộc nó. Hổ Xanh, Miền Bắc, mùa đông
và nước thuộc nó. Hổ Trắng, Miền Tây, mùa thu và kim khí thưộc nó.
Trên những hổ này, là hổ thứ năm, Hổ Vàng, ở giữa, cai quản chúng,
y chang Hoàng Đế Tẫu, ở Trung Nguyên, tức trung tâm nước Tẫu, và nước Tẫu,
đến lượt nó, là trung tâm Thế Giới, chính vì thế mới có tên Vương Quốc Tẫu,
hay,Vương Quốc Trung Nguyên. Chính vì thế mà Cha Ricci, của Hội Giê Su,
vào cuối thế kỷ 16 đã đi 1 đường bản đồ chỉ dẫn về người nướcTẫu.
Lão Tử trao cho Ngũ Hổ thiên chức làm cuộc chiến chống lại quỉ ma.
Một cầu nguyện bằng tiếng An Nam Mít, được Louis Cho Chod dịch sang tiếng
Tẩy, khẩn cầu sự trợ giúp của Ngũ Hổ Nhà Trời. Sự mê tín có nguồn gốc Tẫu;
những nhà Tẫu học nói tới một vì Bạch Hổ trị miền xa xôi của những ngôi
sao Tây Phương. Ở Miền Nam, người Tẫu đặt một Chim Đỏ; miền Đông, Rồng Xanh,
miền Bắc, Rùa Đen. Như chúng ta thấy, người Mít giữ những mầu sắc, nhưng
coi những con vật, là một.
The Bloi and the Morlocks
The hero of the novel The Time Machine, which a young writer Herbert
George Wells published in 1895, travels on a mechanical device into an unfathomable
future. There he finds that mankind has split into two species: the Eloi,
who are frail and defenseless aristocrats living in idle gardens and feeding
on the fruits of the trees; and the Morlocks, a race of underground proletarians
who, after ages of laboring in darkness, have gone blind, but driven by the
force of the past, go on working at their rusted intricate machinery that
produces nothing. Shafts with winding staircases unite the two worlds. On
moonless nights, the Morlocks climb up out of their caverns and feed on
the Eloi.
The nameless hero, pursued by Morlocks, escapes back into the present.
He brings with him as a solitary token of his adventure an unknown flower
that falls into dust and that will not blossom on earth until thousands
and thousands of years are over.
Nguỵ vs VC
Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết “Máy Thời Gian”, sử dụng cái máy
thần sầu du lịch xuyên qua thời gian tới những miền tương lai không làm
sao mà dò được. Ở đó, anh ta thấy Mít – nhân loại - được chia thành hai,
một, gọi là Ngụy, yếu ớt, ẻo lả, và là những nhà trưởng giả, bất lực, vô
phương chống cự, sống trong những khu vườn nhàn nhã, ăn trái cây, và một,
VC, gồm những tên bần cố nông, vô sản, sống dưới hầm, địa đạo [Củ Chi, thí
dụ], và, do bao nhiêu đời lao động trong bóng tối, trở thành mù, và, được
dẫn dắt bởi sức mạnh kẻ thù nào cũng đánh thắng, với sức người sỏi đá cũng
thành cơm, cứ thế cứ thế lao động, để thâu hoạch chẳng cái gì. Có những cầu
thang nối liền hai thế giới, và vào những đêm không trăng, VC, từ những hang
động, hầm hố, bò lên làm thịt lũ Ngụy.
Nhân vật chính, không tên, bị VC truy đuổi, trốn thoát được, và trở lại
thời hiện tại. Anh ta mang theo cùng với anh, một BHD, như chứng tích của
cuộc phiêu lưu, và vừa trở lại hiện tại, bông hồng bèn biến thành tro bụi,
và, như…. Cô Sáu trong Tiền Kiếp Của GCC, hàng hàng đời sau, sẽ có ngày
nào đó, bông hồng lại sống lại…
Who knows?
Hà, hà!
The Tigers of Annam
To the Annamites, tigers, or spirits who dwell in tigers, govern the
four corners of space. The Red Tiger rules over the South (which is located
at the top of maps); summer and fire belong to him. The Black Tiger rules
over the North; winter and water belong to him. The Blue Tiger rules over
the East; spring and plants belong to him. The White Tiger rules over the
West; autumn and metals belong to him.
Over these Cardinal Tigers is a fifth tiger, the Yellow Tiger, who
stands in the middle governing the others, just as the Emperor stands in
the middle of China and China in the middle of the World. (That's why it
is called the Middle Kingdom; that's why it occupies the middle of the map
that Father Ricci, of the Society of Jesus, drew at the end of the sixteenth
century for the instruction of the Chinese.)
Lao-tzu entrusted to the Five Tigers the mission of waging war against
devils. An Annamite prayer, translated into French by Louis Cho Chod, implores
the aid of the Five Heavenly Tigers. This superstition is of Chinese origin;
Sinologists speak of a White Tiger that rules over the remote region of
the western stars. To the South the Chinese place a Red Bird; to the East,
a Blue Dragon; to the North, a Black Tortoise. As we see, the Annamites have
preserved the colors but have made the animals one.
The Sphinx
The Sphinx of Egyptian monuments (called by Herodotus androsphinx, or
man-sphinx, in order to distinguish it from the Greek Sphinx) is a lion having
the head of a man and lying at rest; it stood watch by temples and tombs:
and is said to have represented royal authority. In the halls of Karnak,
other Sphinxes have the head of a ram, the sacred animal of Amon. The Sphinx
of Assyrian monuments is a winged bull with a man's bearded and crowned
head; this image is common on Persian gems. Pliny in his list of Ethiopian
animals includes the Sphinx, of which he details no other features than
"brown hair and two mammae on the breast."
The Greek Sphinx has a woman's head and breasts, the wings of a bird,
and the body and feet of a lion. Some give it the body of a dog and a snake's
tail. It is told that it depopulated the Theban countryside asking riddles
(for it had a human voice) and making a meal of any man who could not give
the answer. Of Oedipus, the son of Jocasta, the Sphinx asked, "What has
four legs, two legs, and three legs, and the more legs it has the weaker
it is?" (So runs what seems to be the oldest version. In time the metaphor
was introduced which makes of man's life a single day. Nowadays the question
goes, "Which anima] walks on four legs in the morning, two legs at noon,
and three in the evening?") Oedipus answered that it was a man 'who as an
infant crawls on all fours, when he grows up walks on two legs, and in old
age leans on a staff. The riddle solved, the Sphinx threw herself from a
precipice.
De Quincey, around 1849, suggested a second interpretation, which
complements the traditional one. The subject of the riddle according to him
is not so much man in general as it is Oedipus in particular, orphaned and
helpless at birth, alone in his manhood, and supported by Antigone in his
blind and hopeless old age.
The, Elephant
That Foretold the Birth of the Buddha
Five centuries before the Christian era, Queen Maya, in Nepal, had a dream
that a white Elephant, which dwelled on the Golden Mountain, had entered
her body. This visionary beast was furnished with six tusks. The King's soothsayers
predicted that the Queen would bear a son who would become either ruler of
the world or the savior of mankind. As is common knowledge, the latter came
true. In India the Elephant is a domestic animal. White stands for humility
and the number six is sacred, corresponding to the six dimensions of space:
upward, downward, forward, back, left, and right.
An Animal Imagined by Kafka
It is the animal with the big
tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should like to
get my hands on this tail some time, but it is impossible, the animal is
constantly moving about, the tail is constantly being flung this way and
that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face, which is flat
almost like a human face, and small and oval; only its teeth have any power
of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I have the
feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose could it
have in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again waiting
calmly until I am tempted again, and then leaping away once more?
FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the
German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)
Một con vật
Kafka tưởng tượng ra
Ðó là 1 con vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn. Ðòi
phen tôi thèm được sờ 1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh
học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái
đuôi, thân hình luôn uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt
không giống, bèn bẹt y chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương
bầu dục, chỉ có hàm răng là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn
này, lúc thì giấu biệt, lúc thì phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần
hóa tôi, biến tôi thành 1 con vật nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn
là thế, nếu không tại sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1
phát, và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới khi tôi thèm quá, thò tay ra, và
em lại nguẩy 1 phát, đau nhói tim?
A Crossbreed
I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father.
But it only developed in my time; formerly it was far more lamb than cat.
Now it is both in about equal parts. From the cat it takes its head and claws,
from the lamb its size and shape; from both its eyes, which are wild and
changing, its hair, which is soft, lying close to its body, its movements,
which partake both of skipping and slinking. Lying on the window-sill in the
sun it curls itself up in a ball and purrs; out in the meadow it rushes about
as if mad and is scarcely to be caught. It flies from cats and makes to attack
lambs. On moonlight nights its favorite promenade is the tiles. It cannot
mew and it loathes rats. Beside the hen-coop it can lie for hours in ambush,
but it has never yet seized an opportunity for murder.
I feed it on milk; that seems to suit it best. In long draughts it
sucks the milk into it through its teeth of a beast of prey. Naturally it
is a great source of entertainment for children. Sunday morning is the visiting
hour. I sit with the little beast on my knees, and the children of the whole
neighborhood stand round me. Then the strangest questions are asked, which
no human being could answer: Why there is only one such animal, why I rather
than anybody else should own it, whether there was ever an animal like it
before and what would happen if it died, whether it feels lonely, why it has
no children, what it is called, etc.
I never trouble to answer, but confine myself without further explanation
to exhibiting my possession. Sometimes the children bring cats with them;
once they actually brought two lambs. But against all their hopes there was
no scene of recognition. The animals gazed calmly at each other with their
animal eyes, and obviously accepted their reciprocal existence as a divine
fact.
Sitting on my knees the beast knows neither fear nor lust of pursuit.
Pressed against me it is happiest. It remains faithful to the family that
brought it up. In that there is certainly no extraordinary mark of fidelity,
but merely the true instinct of an animal which, though it has countless
step-relations in the world, has perhaps not a single blood relation, and
to which consequently the protection it has found with us is sacred.
Sometimes I cannot help laughing when it sniffs round me and winds
itself between my legs and simply will not be parted from me. Not content
with being lamb and cat, it almost insists on being a dog as well. Once when,
as may happen to anyone, I could see no way out of my business difficulties
and all that depends on such things, and had resolved to let everything go,
and in this mood was lying in my rocking-chair in my room, the beast on my
knees, I happened to glance down and saw tears dropping from its huge whiskers.
Were they mine, or were they the animal's? Had this cat, along with the soul
of a lamb, the ambitions of a human being? I did not inherit much from my
father, but this legacy is worth looking at.
It has the restlessness of both beasts, that of the cat and that of
the lamb, diverse as they are. For that reason its skin feels too narrow
for it. Sometimes it jumps up on the armchair beside me, plants its front
legs on my shoulder, and puts its muzzle to my ear. It is as if it were saying
something to me, and as a matter of fact it turns its head afterwards and
gazes in my face to see the impression its communication has made. And to
oblige it I behave as if I had understood and nod. Then it jumps to the floor
and dances about with joy.
Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal;
but as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath
voluntarily leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a
look of human understanding, challenging me to do the thing of which both
of us are thinking.
FRANZ KAFKA: Description of a Struggle (Translated from the German
by Tania and James Stern)
Jorge Luis Borges: The Book of Imaginary Beings
I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father:
Tôi có 1 con vật kỳ kỳ, nửa mèo, nửa cừu. Nó là gia tài để lại của ông già
của tôi
Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong
nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo
nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha.
Walter Benjamin
Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal; but
as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath voluntarily
leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a look of human
understanding, challenging me to do the thing of which both of us are thinking.
Có lẽ con dao của tên đồ tể là 1 giải thoát cho con vật, nhưng tớ đếch
chịu như thế, đối với gia tài của bố tớ để lại cho tớ. Vậy là phải đợi cho
đến khi hơi thở cuối cùng hắt ra từ con vật khốn khổ khốn nạn, mặc dù đôi
lúc, con vật nhìn tớ với cái nhìn thông cảm của 1 con người, ra ý thách
tớ, mi làm cái việc đó đi, cái việc mà cả hai đều đang nghĩ tới đó!
Con chim giận dữ
Một con kên kên đợp chân tôi.
Nó xé giầy vớ thành từng miểng; bây giờ tới cẳng. Nó đợp, xỉa tới tấp, lâu
lâu lại lượn vòng, và đợp tiếp. Một vị lữ hành phong nhã đi qua, nhìn ngắm
một lúc, rồi hỏi tôi, tại làm sao mà đau khổ như thế vì con kên kên. “Tôi
làm sao bây giờ?” “Khi con vật bay tới tấn công, lẽ dĩ nhiên tôi cố đuổi
nó đi, tôi còn tính bóp cổ nó nữa, nhưng loài thú này khoẻ lắm, nó chồm
tới, tính đợp vô mặt tôi, và tôi đành hy sinh cặp giò. Bây giờ nó xé nát
ra từng mảnh rồi.”
“Lạ thật, để cho 1 con vật hành hạ như thế”, vị phong nhã nói. “Chỉ 1
phát là rồi thôi”. “Thiệt ư?” “Làm ơn, làm đi”. “Rất hân hạnh”, vị phong
nhã trả lời, “Tôi chỉ cần về nhà lấy cây ‘sọt-gân’. Bạn có thể đợi chừng
nửa tiếng, nhe?” “Tôi không chắc có qua nổi con trăng nửa giờ không,” tôi
cố nén đau trả lời vị phong nhã. Và rồi tôi gật đầu cam chịu, ”Thì cũng
đành thôi, làm ơn làm đi” “Được lắm”, “Tôi sẽ làm nhanh chừng nào tốt chừng
đó”. Trong khi chúng tôi trao đổi thì con kên kên lắng nghe, mắt đảo qua
đảo lại giữa hai chúng tôi. Lúc này thì tôi biết rõ, nó hiểu hết mọi chuyện;
nó thu cánh, lui lại lấy đà, và rồi, như 1 dũng sĩ ném lao, nó thúc cái mỏ
vô miệng tôi thật sâu, thật sâu. Té ngửa ra sau, tôi cảm thấy khuây khoả
khi con vật chìm mãi sâu vào trong máu tôi, và máu tôi cứ thế tràn ra, lấp
đầy mọi hố thẳm, mọi bến bờ.
Kafka:
The Vulture (1)
Kafka: Years of insight
Note: Nervous brilliance, tạm
dịch, “sáng chói bồn chồn”.
Bỗng nhớ Cô Tư, “sáng chói, đen, và hơi khùng” [thực ra là, “đen, buồn
và hơi khùng”]
Nhưng cuốn tiểu sử của Mr Stach
cũng cho thấy cái phần nhẹ nhàng, sáng sủa hơn của Kafka. Trong 1 lần holyday,
đi chơi với bồ, ông cảm thấy mình bịnh, vì cười nhiều quá. Trong những năm
sau cùng của đời mình, ông gặp 1 cô gái ngồi khóc ở 1 công viên, và cô nàng
nói với ông, là cô làm mất con búp bế. Thế là mỗi ngày ông viết cho cô bé
1 lá thư, trong ba tuần lễ, lèm bèm về con búp bế bị mất. Với người tình
sau cùng, Dora Diamant, rõ là ông tính lấy làm vợ. Cô này còn dụ ông trở
lại được với Do Thái giáo.
Những giai thoại trên chọc thủng hình ảnh 1 Kafka khắc khổ, qua tác phẩm
của ông. Mr Stach còn vứt vô thùng rác [undermine] những cái nhìn có tính
ước lệ [conventional views] về 1 Kakka như 1 nhà tiên tri của những tội
ác kinh hoàng ghê rợn [atrocities] sẽ tới (ba chị/em của ông chết trong
trại tập trung Nazi, cũng như hai bạn gái của ông). Trong những nhận xét
về mục tiêu bài Do Thái, ông mô tả 1 thế giới như ông nhìn thấy nó, đầy
nỗi cô đơn và những cá nhân con người bị bách hại, nhưng không phải 1 thế
giới không có hy vọng.
Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm sao
giải thích được!
Trên TLS, số 7 Sept 2012, GABRIEL
JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị thầy gối đầu giường của
Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này, thì kể như là đúng
100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là khủng, “Sự Xét Xử”.
Và có thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng chẳng hiểu ông nhiều hơn,
so với những độc giả đầu tiên của ông, và có lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa
là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch làm sao hiểu được Kafka!
Ở đây, cũng phải đi 1 đường
ghi chú ngoài lề!
1. Cuốn Bếp Lửa
của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra đi, đếch
thèm trở về, viết cho cô em bà con, buộc vào quê hương thì phải là ruột
thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con quái
vật, con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ, vào 1 buổi
sáng, khi ngủ dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà cho bố
mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ đi được!
2. Cuốn Sinh Nhật
của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít, là Sinh Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi
tìm 1 cái mũ đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo bài điểm
trên như đoạn sau đây cho thấy:
Truyện ngắn mà Brod gọi là "Prometheus",
được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks, của Kafka, đã được gạch bỏ
[crossed out]. Câu kết thúc của truyện: “Giai thoại thường toan tính giải
thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi lên sự thực [chữ của
TTT, trong Cát Lầy], nó phải lại
chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because it
arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]
Nói rõ hơn, nhân loại không
làm sao đọc được Kafka, vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào đó", nẫng mẹ mất cái
nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến ông thành
Thánh!
Thánh đâu cần chim!
Youwarkee
In his Short History of English Literature,
Saintsbury finds the flying girl Youwarkee one of the most charming heroines
of the eighteenth-century novel. Half woman and half bird, or-as Browning
was to write of his dead wife, Elizabeth Barrett-half angel and half bird,
she can open her arms and make wings of them, and a silky down covers her
body. She lives on an island lost in Antarctic seas and was discovered there
by Peter Wilkins, a shipwrecked sailor, who marries her. Youwarkee is a gawry
(or flying woman) and belongs to a race of flying people known as glumms.
Wilkins converts them to Christianity and, after the death of his wife, succeeds
in making his way back to England. The story of this strange love affair may
be read in the novel Peter Wilkins (1751) by Robert Paltock.
Trong Lịch sử bỏ túi văn học Anh,
Saintsbury nhận ra người đẹp bay, Youwarkee, là nhân vật nữ tuyệt vời nhất
của tiểu thuyết thế kỷ 18. Nửa đờn bà, nửa chim, hay là - như Browning viết
về bà vợ đã mất của mình, là Elizabeth Barrett- nửa thiên thần, nửa chim,
nàng có thể mở rộng đôi tay, làm thành đôi cánh, và mượn mà phủ nó lên cái
body thần tiên của nàng.
Nàng sống tại 1 hòn đảo mất tích ở vùng biển Bắc Cực. Một anh thuỷ thủ,
tầu đắm, khám phá ra nàng và lấy nàng làm vợ. Anh chàng cho vợ theo đạo
Chúa, và sau khi vợ chết, bèn kiếm đường về lại cõi trần.
The Double
Suggested or stimulated by reflections
in mirrors and in water and by twins, the idea of the Double is common to
many countries. It is likely that sentences such as A friend is another
self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were inspired by it. In
Germany this Double is called Doppelganger, which means "double walker."
In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man to bring him
to his death; there is also the Scottish word wraith for an apparition thought
to be seen by a person in his exact image just before death. To meet oneself
is, therefore, ominous. The tragic ballad "Ticonderoga" by Robert Louis
Stevenson tells of a legend on this theme. There is also the strange picture
by Rossetti ("How They Met Themselves") in which two lovers come upon themselves
in the dusky gloom of a woods. We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's
Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"),
Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
The ancient Egyptians believed
that the Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his same
walk and his same dress. Not only men, but gods and beasts, stones and trees,
chairs and knives had their ka, which was invisible except to certain priests
who could see the Doubles of the gods and were granted by them a knowledge
of things past and things to come.
To the Jews the appearance of
one's Double was not an omen of imminent death. On the contrary, it was
proof of having attained prophetic powers. This is how it is explained by
Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the story of a man
who, in search of God, met himself.
In the
story "William Wilson" by Poe, the Double is the hero's conscience. He kills
it and dies. In a similar way, Dorian Gray in Wilde's novel stabs his portrait
and meets his death. In Yeats’s poems the Double is our other side, our
opposite, the one who complements us, the one we are not nor will ever become.
Plutarch
writes that the Greeks gave the name other self to a king's ambassador.
Kẻ Kép
Ðược đề xuất, dẫn dụ, huých
huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song sinh, ý
tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí
là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư tưởng Hãy Biết Mình của trường
phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger,
có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”. Trong tiếng Scotland thì là từ fetch,
cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái chết đến cho bạn.
Còn có từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn
chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái chuyện “Gấu gặp
bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua,
quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương "Ticonderoga" của Robert
Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti
[Họ gặp chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], hai kẻ yêu nhau
đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ nữa, từ
Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The
Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some
Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng,
Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích thị của 1 con người, kẻ đối
tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người mà thần thánh,
thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ một vài ông
thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho
khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự xuất hiện
Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến
tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của Gấu, như Võ
Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính... đi, là đã thấy
3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi thế đéo nào được?].
Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những
quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại
trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế,
và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong “William Wilson” của Poe,
Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn
ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết
của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết. Trong những
bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện
chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở thành.
Plutarch
viết, người Hy Lạp gọi, “cái ngã khác”, bằng cái tên, viên “đại sứ của hoàng
đế”.
An Animal Imagined by Kafka
It is the animal with the big
tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should like to
get my hands on this tail some time, but it is impossible, the animal is
constantly moving about, the tail is constantly being flung this way and
that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face, which is flat
almost like a human face, and small and oval; only its teeth have any power
of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I have the
feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose could it
have in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again waiting
calmly until I am tempted again, and then leaping away once more?
FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the
German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)
Một con vật
Kafka tưởng tượng ra
Ðó là 1 con vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn. Ðòi
phen tôi thèm được sờ 1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh
học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái
đuôi, thân hình luôn uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt
không giống, bèn bẹt y chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương
bầu dục, chỉ có hàm răng là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn
này, lúc thì giấu biệt, lúc thì phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần
hóa tôi, biến tôi thành 1 con vật nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn
là thế, nếu không tại sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1
phát, và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới khi tôi thèm quá, thò tay ra, và
em lại nguẩy 1 phát, đau nhói tim?
The Lamed Wufniks
There are on earth, and always were, thirty-six righteous
men whose mission is to justify the world before God. They are the Lamed
Wufniks. They do not know each other and are very poor. If a man comes to
the knowledge that he is a Lamed Wufnik, he immediately dies and somebody
else, perhaps in another part of the world, takes his place. Lamed Wufniks
are, without knowing it, the secret pillars of the universe. Were it not for
them, God would annihilate the whole of mankind. Unawares, they are our saviors.
This mystical belief of the Jews can be found in the works of Max Brod. Its
remote origin may be the eighteenth chapter of Genesis, where we read this
verse: "And the Lord said, If I find in Sodom fifty righteous within the
city, then I will spare all the place for their sakes."
The Moslems have an analogous personage in the Kutb.
Người Què Gánh Tội
Trên thế giới, có, và luôn luôn có, 36 người què, còn được
gọi là 36 vì công chính, mà sứ mệnh của họ, là, biện minh thế giới, trước
Thượng Đế.
Họ là những tên què gánh tội, Lamed Wufniks.
Họ không biết nhau, và rất ư là nghèo khổ.
Nếu có 1 tên biết rằng mình là tên què gánh tội, là bèn lập tức, ngỏm
củ tỏi.
Và một người khác, có lẽ ở đâu đó trên thế giới, thế chỗ anh ta.
Không có 36 tên cà chớn này, là liền lập tức, Thượng Đế xóa sổ thế giới.
http://www.tanvien.net/TG2/tg2_camus_ke_la.html
Nhưng "juste", ở đây theo tôi, còn muốn
nhắc tới huyền thoại về một con người công chính tiềm ẩn (the myth of the
hidden just man) của dân tộc Do-thái. Đây là một huyền thoại được nhiều
nhà văn sử dụng, như là một biểu tượng để nói về phận người, (nhất là phận
người Do Thái, trong thế kỷ của Lò Thiêu), thí dụ như trong truyện ngắn
Cây Vĩ Cầm (Rothschild's Fiddle) của Chekhov (đã giới thiệu trên Văn Học
Nghệ Thuật trên lưới do Phạm Chi Lan chủ biên, Việt Báo online, và trên Hợp
Lưu). Hoặc trong cuốn tiểu thuyết "Người Công Chính Cuối Cùng", (của André
Schwarz-Bart, đã được giải thưởng văn chương Pháp Goncourt năm 1959), theo
đó, thế giới ngự trị trên 36 kẻ công chính. Kẻ công chính, le juste, hay
"lamed-waf", người què gánh tội (waf: with all faults). Tuy là "những cội
rễ nhà trời" (les racines du ciel, chữ của Romain Gary), nhưng bề ngoài,
họ chẳng khác gì những con người bình thường. Giữa họ, cũng chẳng thể nhận
ra nhau. Nhưng chỉ cần một, trong số 36 kẻ công chính thiếu đi, là nỗi đau
khổ của con người làm độc ngay cả đến tâm hồn của những trẻ thơ, và nhân
loại nghẹt thở vì tiếng khóc bi thương này. Bởi vì "lamed-waf" là trái tim
của thế gian, nơi mọi đau khổ đều đổ xuống đó. Như thể nhân loại có bao nhiêu
khổ đau, là có bấy nhiêu truyền thuyết về "người què gánh tội", bởi vì sự
hiện diện của họ là ở khắp nơi. Vào thế kỷ thứ 7, những người Do Thái thuộc
vùng Andalousie, Tây Ban Nha, đã sùng bái một khối đá mang hình giọt nước
mắt, mà theo họ đây là linh hồn của một "lamed-waf". [Liệu chúng ta có thể
hiểu huyền thoại hòn vọng phu, như là giọt nước mắt, linh hồn người đàn bà
suốt chiều dài dựng nước của dân tộc?]. Và khi một kẻ công chính vô danh
về trời, trái tim của người đó giá lạnh đến nỗi Thượng Đế phải ấp ủ một ngàn
năm trong lòng bàn tay của Người, để sưởi ấm cho nó. Và như người ta được
biết, hầu hết trong số họ, trái tim chẳng làm sao ấm lại được nữa. Thượng
Đế cũng chịu thua. Và Người thỉnh thoảng lại phải vặn nhanh lên ‘một phút’
chiếc đồng hồ báo Cuộc Phán Xét Cuối Cùng.
The, Elephant
That Foretold the Birth of the Buddha
Five centuries before the Christian era, Queen Maya, in Nepal, had a dream
that a white Elephant, which dwelled on the Golden Mountain, had entered
her body. This visionary beast was furnished with six tusks. The King's soothsayers
predicted that the Queen would bear a son who would become either ruler of
the world or the savior of mankind. As is common knowledge, the latter came
true. In India the Elephant is a domestic animal. White stands for humility
and the number six is sacred, corresponding to the six dimensions of space:
upward, downward, forward, back, left, and right.
A Crossbreed
I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my
father. But it only developed in my time; formerly it was far more lamb
than cat. Now it is both in about equal parts. From the cat it takes its
head and claws, from the lamb its size and shape; from both its eyes, which
are wild and changing, its hair, which is soft, lying close to its body,
its movements, which partake both of skipping and slinking. Lying on the
window-sill in the sun it curls itself up in a ball and purrs; out in the
meadow it rushes about as if mad and is scarcely to be caught. It flies from
cats and makes to attack lambs. On moonlight nights its favorite promenade
is the tiles. It cannot mew and it loathes rats. Beside the hen-coop it can
lie for hours in ambush, but it has never yet seized an opportunity for murder.
I feed it on milk; that seems to suit it best. In long draughts it
sucks the milk into it through its teeth of a beast of prey. Naturally it
is a great source of entertainment for children. Sunday morning is the visiting
hour. I sit with the little beast on my knees, and the children of the whole
neighborhood stand round me. Then the strangest questions are asked, which
no human being could answer: Why there is only one such animal, why I rather
than anybody else should own it, whether there was ever an animal like it
before and what would happen if it died, whether it feels lonely, why it
has no children, what it is called, etc.
I never trouble to answer, but confine myself without further explanation
to exhibiting my possession. Sometimes the children bring cats with them;
once they actually brought two lambs. But against all their hopes there was
no scene of recognition. The animals gazed calmly at each other with their
animal eyes, and obviously accepted their reciprocal existence as a divine
fact.
Sitting on my knees the beast knows neither fear nor lust of pursuit.
Pressed against me it is happiest. It remains faithful to the family that
brought it up. In that there is certainly no extraordinary mark of fidelity,
but merely the true instinct of an animal which, though it has countless
step-relations in the world, has perhaps not a single blood relation, and
to which consequently the protection it has found with us is sacred.
Sometimes I cannot help laughing when it sniffs round me and winds
itself between my legs and simply will not be parted from me. Not content
with being lamb and cat, it almost insists on being a dog as well. Once
when, as may happen to anyone, I could see no way out of my business difficulties
and all that depends on such things, and had resolved to let everything
go, and in this mood was lying in my rocking-chair in my room, the beast
on my knees, I happened to glance down and saw tears dropping from its huge
whiskers. Were they mine, or were they the animal's? Had this cat, along
with the soul of a lamb, the ambitions of a human being? I did not inherit
much from my father, but this legacy is worth looking at.
It has the restlessness of both beasts, that of the cat and that
of the lamb, diverse as they are. For that reason its skin feels too narrow
for it. Sometimes it jumps up on the armchair beside me, plants its front
legs on my shoulder, and puts its muzzle to my ear. It is as if it were saying
something to me, and as a matter of fact it turns its head afterwards and
gazes in my face to see the impression its communication has made. And to
oblige it I behave as if I had understood and nod. Then it jumps to the floor
and dances about with joy.
Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal;
but as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath
voluntarily leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a
look of human understanding, challenging me to do the thing of which both
of us are thinking.
FRANZ KAFKA: Description of a Struggle (Translated from the German
by Tania and James Stern)
Jorge Luis Borges: The Book of Imaginary Beings
I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my
father: Tôi có 1 con vật kỳ kỳ, nửa mèo, nửa cừu. Nó là gia tài để lại của
ông già của tôi
Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong
nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo
nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha.
Walter Benjamin
Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal;
but as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath
voluntarily leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a
look of human understanding, challenging me to do the thing of which both
of us are thinking.
Có lẽ con dao của tên đồ tể là 1 giải thoát cho con vật, nhưng tớ đếch
chịu như thế, đối với gia tài của bố tớ để lại cho tớ. Vậy là phải đợi cho
đến khi hơi thở cuối cùng hắt ra từ con vật khốn khổ khốn nạn, mặc dù đôi
lúc, con vật nhìn tớ với cái nhìn thông cảm của 1 con người, ra ý thách
tớ, mi làm cái việc đó đi, cái việc mà cả hai đều đang nghĩ tới đó!
|
|