|
Bird beak tales
A.S
Byatt is swept along by the story of a lost scroll and a lost language
Once on
a Moonless Night
by Dai
Sijie, translated by
Adriana Hunter
224pp,
Chatto & Windus, 5. £12.99
Một
lần một đêm không trăng
Dai
Sijie is a wonderful
storyteller. There are not many storytellers writing at present in the
French
language, which makes his speed and intricacy and drama appear even
more
surprising. Once on a Moonless Night is full of tales within tales and
worlds
within worlds, ranging from ancient Chinese empires through communist China to modern Beijing. The female narrator is
French,
studying Chinese. She becomes involved in the search for a lost sacred
text, on
a roll of silk, in a lost language.
*
Dai
Sijie. nhà văn gốc Trung
Hoa, sau thành công của cuốn đầu tay, "nhà văn Pháp Balzac và cô thợ
may
nhỏ bé người Trung Hoa" [đã được quay thành phim], còn là tác giả của
những thước phim, thí dụ như "Trung Hoa, nỗi đau của tôi" [Chine, ma
douleur], đã cho ra lò một cuốn mới toanh: Mặc Cảm của Di [Le Complexe
de Di].
Lần này, văn hóa đế quốc "Trung Nguyên" [l'empire du Milieu] đối đầu
với ông tổ phân tâm học Freud.
Mới từ Trung Quốc trở lại Pháp, nhà văn gốc Trung Hoa, nhưng viết văn
bằng
tiếng Tây này tỏ ra không được vui: "Đám ký giả 'trong nước' xúm lại
cấu
xé tôi, nói, mày là thằng phản bội..." Tôi trả lời: "Liệu có phải là
một tội ác không, khi yêu nước Tây, và những tác giả của nó?"
Trường hợp của ông làm nhớ tới nhà văn Nga viết văn bằng tiếng Tây,
André
Makine, tác giả của những cuốn như Di Chúc Pháp,
Sông
Tình Một Thuở mà
Tin Văn đã giới thiệu.
Trường hợp Makine, ông đã phải coi những cuốn sách của mình, như là bản
dịch,
từ nguyên bản tiếng Nga, bởi vì giới xb không tin, một người Nga chân
ướt chân
ráo tới Paris, lại có thể giỏi tiếng Tây như thế!
Với Dai Sijie, là nhờ cặp mắt xanh của Bernard Pivot, đạo diễn show văn
học "Bouillon
de culture" [Nước dùng văn hóa] trên France 2. Trong chương
trình bữa 21
Tháng Giêng 2000, dành cho những best sellers như Max Gallo, Daniel
Pennac...
ông cài vào một tay mơ, là Dai Sijie, với cuốn sách đầu tay còn nóng
hổi từ
Gallimard. Một thứ tự thuật, câu chuyện về hai chàng trai trí thức
thành phố
được đi thực tế, đúng ra là để tàn đời, tại một vùng núi. "Một cuốn
sách
nên tìm đọc", đó là lời giới thiệu của Bernard Pivot, và tác giả của nó
thì ngồi chết dí trong chiếc ghế bành, trong cái dáng thiểu não lần đầu
chường
mặt ra công chúng, trên một sân quay, anh ta búng búng nói vài tiếng
rồi câm
luôn... "Tôi thật bối rối. Tôi rất tin tưởng ở cuốn sách, " sau này
Pivot nhớ lại. Và rồi ông bốc lên:"Nếu cuốn sách không trở thành một
best-seller, thì kể như buổi chiếu này vứt đi."
Chỉ nội ngày hôm sau, bốn trăm ngàn ấn bản bán sạch. Gallimard phải cho
in
thêm...
Tin Văn xin giới thiệu bài phỏng vấn
Dai Sijie,
trích từ "Đàn Chim Việt"
Faulkner trả lời phỏng vấn, The Paris
Review
Âm
thanh và Cuồng nộ. Tôi
viết nó trong năm lần, cố kể câu chuyện và rứt ra khỏi giấc mộng tiếp
tục hành
hạ tôi, cho đến khi viết xong cuốn sách. Đó là một thảm kịch của hai
người đàn
bà bị mất, bị lạc, bị tiêu trầm: Caddy và con gái của cô, Quentin.
Dilsey là
một trong những nhân vật mà tôi trân trọng, bởi vì bà can đảm, độ lượng
dịu
dàng, và chân thật. Bà can đảm, chân thực và độ lượng hơn tôi rất nhiều.
Rừng
Tràm
Thảo
Trường
Thềm nắng
sau lưng
Note:
Đọc, nhớ NNT hồi đầu,
hồi mới viết, NNT của Một
Mối Tình
Còn
làm nhớ đến truyện
ngắn Nội
Cỏ Của Thiên Đường của John
Steinbeck
*
Có con thuyền đã
buông bờ
Lâu
rồi mới viết chuyện tình
Nguyễn Ngọc Tư
Nho
cho rằng, chỉ có ai đó ôm ghì lấy Bế một lần, thì mới mong cô hết
quay quắt, khắt khe.
Bàn
tay
vịn vai Nho rất lạnh và hơi run. Ôi những người đàn bà, hễ mặt mũi xấu
thì tay
chân đẹp, cổ xấu thì lưng đẹp, người xấu thì tâm hồn đẹp. Bằng cách này
hay
cách khác, họ cứ phải đẹp. Lúc buồn cũng đẹp.
Dọn
Gió
lẻ gợi người đọc nhớ ngay
đến Buồn nôn trước hết bởi chi tiết cô gái (nhân vật chính trong
truyện) cứ
buồn nôn khi nghe những tiếng nói không thành thật của bọn đàn ông được
lặp đi
lặp lại nhiều lần.
e
Van
Đã
có một đấng coi cái chết
vì tai nạn của Camus hơi bị được NNT thuổng đưa vô Gió Lẻ, bi giờ lại
đến buồn
nôn của J-P Sartre bị NNT chôm.
Lạ, là ở cuối bài viết, có
tham khảo bản dịch Buồn Nôn. Nếu có đọc Buồn Nôn, dù bản dịch tiếng
Việt, thì
cũng hiểu ra là buồn nôn của Sartre
là một tình cảm siêu hình, do đầy ứ, thừa mứa hiện sinh. Còn buồn nôn của NNT, là do tởm cái xã hội
toàn chị, toàn em, toàn lũ đàn ông khốn kiếp.
Đâu có giống nhau!
*
Vấn
đề của "Gió lẻ"
là ở chỗ, không mất quá nhiều thời gian và không cần quá tinh tế, người
ta cũng
sẽ thấy ngay dấu vết của Jean Paul Sartre và Albert Camus ở tác phẩm
này. Đáng
tiếc đó không phải là sự hấp thụ ánh sáng mà là núp bóng hai cây đại
thụ.
No
còm!
*
Buồn Nôn được coi là một cuốn
tiểu thuyết triết học, thí dụ như những dòng sau đây, từ Wikipedia, cho
thấy:
La Nausée est un roman
philosophique mais aussi quelque peu autobiographique de Jean-Paul
Sartre,
publié en 1938.
[Buồn Nôn là một cuốn tiểu
thuyết triết học, mà còn có tí tính tự thuật của J-P Sartre, xb năm
1938.]
Còn phi lý, quả là một trong những đề tài tủ của triết học
hiện sinh, nhưng phi lý ở Sartre, hay ở Camus vẫn là một phạm
trù triết học, khác ở một nhà văn miệt vườn như NNT, là từ đời thực, từ
chuyện thường ngày ở huyện]
*
Thú thực Gấu này không hiểu tại
làm sao mà lại có cái sự móc NNT vào với hiện sinh, với Xác, với Cá Mú?
Đành
phải giải thích bằng câu chuyện ngụ ngôn học từ hồi còn con nít, về một
ông nhà quê, thấy người ta vô tiệm kính, đeo kính, rồi mở cuốn sách ra
đọc,
thì bèn
suy ra là, cứ đeo kính là đọc được chữ.
Lớn lên, Gấu cứ bị câu chuyện ám ảnh hoài,
chẳng lẽ cổ nhân dỗi hơi, phịa ra câu chuyện như vậy để miệt thị người
nhà quê ngu dốt?
Chỉ đến
khi đọc mấy ông bà rành
tiếng Tây, viết phê bình bằng tiếng Tây, hay bằng tiếng Mít, thì mới
vỡ ra rằng
thì là, mấy ông bà này mù chữ, nhưng đeo kính [biết tiếng Tây], và nghĩ
là mình
hết mù chữ, và viết phê bình loạn cào cào châu chấu, nhặng xị cả lên!
Mới đây, Gấu đọc Salman
Rushdie, ông cũng có một nhân vật y chang. Một ông chủ đất mù, nhưng
phán về hội
họa Tây Phương còn hách hơn cả những nhà phê bình Mít, mù phê bình
nhưng rành tiếng
Tây!
*
Buồn Nôn không dễ đọc. Ngay cả mũi lõ thứ thiệt còn ớn nữa là.
Nhớ, hồi mới lớn ngồi Quán Chùa với ông anh, thằng em hung hăng khoe,
em mê nó lắm, ông anh trợn mắt, ngỡ ngàng:
-Cậu hiểu được nó hả?
Thằng em thu hết can đảm nói:
-Em nghĩ là em hiểu.
Ông anh gật gù:
-Thế thì cậu hơn ông anh của cậu rồi!
*
Tôi
đọc truyện ngắn đầu tiên
của Nguyễn Huy Thiệp khi còn đang học ở Cuba. Đó là truyện ngắn Vầng lửa...
Nguồn
Note: Không hiểu tòa soạn đánh máy
sai, hay là người kể chuyện [Nguyễn Quang Thiều] đọc lộn!
Tên truyện ngắn của NHT là Vàng
Nửa! NQT
*
Bài viết về NHT của ‘theo’
[?] Nguyễn Quang Thiều này, là một bài viết hay, và làm Gấu nhớ đến một
bài viết
của Gấu; bài viết của Gấu, "tất nhiên là hay", nhưng
không hay bằng cái tít của bài viết, và
cái tít này, là của PTH:
Bạn văn VC của
Gấu: Nguyễn Quang Thiều & Trung Trung Đỉnh
Hình chụp năm
2001, chuyến về Hà Nội lần thứ nhất, sau hơn nửa thế kỷ, trong túi chỉ
có địa chỉ, số phôn
NHT. (1)
Trước khi về, có phôn cho ông bạn quí HPA ở Sài Gòn, nói, giới
thiệu một
hai người bạn ở Hà Nội. Anh giới thiệu NQT.
NHT là người thứ
nhất Gấu gặp ở nhà ông cậu, cậu Toàn, tại phố cổ. Ngày thứ nhì. Ngày
thứ ba, gặp
NQT cùng một số bạn nữa. Cũng khá đông. DMT. PXN… Hình chụp tại một
quán ăn gần
nhà.
Cái vụ đi ăn quán này
cũng có vấn đề.
Số là, bỏ ngày đầu về Hà Nội,
gặp ông cậu và họ hàng bà con. Ngày thứ nhì NHT tới thăm. Ngày thứ ba,
đám NQT tới
thăm. Mời Gấu đi ăn, Gấu nhận lời, nhưng vội nghĩ lại. Tật của Gấu là
rượu vào
lời ra. Thành thử sợ, bèn nói lại, thôi mấy ông tới nhà ông cậu Gấu,
tiện hơn.
Sau bữa ăn đó, biết lòng
nhau, mới dám ra quán!
TTD,
gặp sau đó.
*
(1)
From:
Date: Saturday May 12, 2001
To:
Subject:
Dia chi NHTHiep:
Tel cua NHT:
Ong co ve cho... gui loi tham
anh ay. Tiec la anh ay khong co Email nen khong lien lac duoc truoc. Ha
noi mua
nay da nong lam. May nam nay cang nong. Ong ve giu suc khoe. Dung an
uong ngoai
hang, dac biet la dung uong, tru bia trong chai. Minh di xa lau, bung
da khong
quen nua, de om lam.
*
Subject:
Date: Sun, 2 Apr 2000
14:56:33 +0200
From:
To:
Ong Tru oi,
Vua roi NHThiep co qua… va den tham nha…
Noi chuyen rat vui.
Ong nay dac biet kieu ngao, y
thuc rat ro ve danh tieng cua minh va ve cai nghiep minh da mang, ma
lai rat
gian di, khong mau me ti nao lam ….tu dung nho ong Hai Lua.
*
Cái tít
Vầng Lửa dễ nhận ra hơn,
so với Vàng Lửa.
Truyện
của NHT, cũng chông chênh
giữa hai nghĩa đó.
Có thể,
đây là điều hậu thế than tiếc
hùi hụi: Giá mà cái mũi của Cléopatre dài thêm một tị!
Đúng như một đấng độc giả viết:
Qua bài
của Bác Thiều, tôi
thực sự xúc động về cuộc sống của bác Thiệp. Là một độc giả thường
xuyên, tôi
đã mua, đã đọc nhiều tác phẩm của bác Thiệp và cứ nghĩ rằng mình nghèo
quá văn
chương bây giờ được xuất bản giá hơi bị "ngất " so với đồng lương còm
của tôi .Thế mà nghe bác Thiều thì bác Thiệp cũng vẫn khổ sao? Bác
Thiệp ơi, hôm
bác đi Italia về bác có ghé qua Kim Liên. Nếu tôi biết đời sống của bác
thực
như thế này tôi sẵn sàng mời bác ăn cơm bình dân, nghỉ ở phòng yên tĩnh
miễn
phí. Tôi đã nhận được một cuốn sách bác đề tặng. Tôi vô cùng cảm
ơn bác Thiệp
nhiều. Bác Thiều, bác Thiệp ơi! Tôi cho rằng các bác nhà văn ở vùng
miền nào
cũng thấm đẫm chất dân tộc, vì thế các bác mới rút ruột viết nên những
trang
chúng tôi đọc lúc khóc, lúc cười, lúc hơi điên điên chứ!
Ui
chao, 'nếu tôi biết...": Giả như đấng độc giả này, biết, thì thử hỏi,
sự tình sẽ như thế nào?
Chính
vì thế, mà không nên "biết", thì hơn!
Tại sao
lại có thứ độc giả coi thường tác giả mà mình yêu mến đến như thế?
Hay là Gấu hiểu lầm thiện ý của đấng độc giả này, theo nghĩa, câu chào
hỏi thực tình của dân Miền Bắc, là, "Ăn cơm chưa?", thay vì "Hi, How R
U?" NQT
Ui
chao, Gấu lại nhớ cảnh đồng chi Vũ Quí chờ con mồi của "Tổ Chức", là
Văn
Cao, ngay trước Ga Hàng Cỏ, ngay trước một cửa hàng bán cơm!
*
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ
Quí. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ
mấy năm
qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước, như
Đống Đa,
Thăng Long Hành Khúc, Tiếng Rừng, và một số ca khúc khác
Chúng
tôi gặp nhau trước ga
Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn. Ở đây quyết định một cuộc đời mới
của tôi.
Câu
chuyện giữa chúng tôi
thật hết sức đơn giản.
-Văn có
thể thoát ly hoạt
động đuợc chưa?
-Được.
-Ngày
mai Văn bắt đầu nhận
công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày
hôm sau anh đưa tôi lại
nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và
cho quyết
định về công tác. Đây là lần đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của
tôi.
Tại sao tôi viết TQC
*
Trong bài viết có chi tiết về cháo làm Gấu giật mình, vì đã từng có
kinh nghiệm. Gấu đã kể rồi, nay kể lại.
Khi còn ở Đất Bắc, Gấu phải sống nhờ ông Bác. Một lần sốt, bà Bác
bắt ăn cháo. Hết sốt rồi, bà vẫn bắt ăn cháo, mày chưa hết sốt! Sau Gấu
đói quá, xỉu luôn. Thế là suốt đời, nghe nhắc đến "cháo" một cái là tóc
gáy dựng đứng lên!
Khủng khiếp thật!
*
Trong truyện ngắn của
ông,
nhiều lúc tôi thấy cái nghèo đói làm rối loạn tâm trí của con người và
bắt con
người phải nhắm mắt đạp lên đức hạnh của mình.
Bài đã
dẫn
Gấu tin rằng, trong bất cứ một
người Bắc, đều tiềm ẩn nỗi sợ khủng khiếp của Gấu!
*
Xa
Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu canh cánh trong lòng một
điều, giả
như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng Gấu ở lại, nó
sẽ như
thế nào.
Quả là thế. Gấu về với một bài toán, đại khái như thế này: Trước cái sợ
đến dựng đứng tóc gáy lên đó, thì thằng Gấu ở lại, sẽ phản ứng như thế
nào, so với thằng Gấu tắm đẫm mưa nắng Miền Nam, mà vẫn không làm sao
quên được cái lạnh, cái đói của Miền Bắc?
How one book ignited a culture war
It's 20 years since Iran's
religious leader Ayatollah Khomeini pronounced a death sentence on
Salman
Rushdie for 'insulting' Islam with his novel The Satanic Verses. The
repercussions were profound - and are still being felt. Andrew Anthony
traces
the course of the affair, from book-burnings and firebombings to the
dramatic
impact it had on freedom of expression in a multicultural society
*
Salman Rushdie
Những
đứa con giờ Tý
Đưa mắt
thoáng nhìn và ánh phản chiếu từ cặp kính
đen của Ghani khiến ông bác sĩ bất thình lình hiểu ra là vị chủ đất mù.
Phát
giác ra điều này càng làm ông thêm ngán ngẩm: một người mù mà lại hiu
hiu tự
đắc là sành điệu, là biết thưởng thức hội họa Âu Châu. Sự mù lòa của vị
chủ đất
còn khiến ông sửng sốt, ấy là vì ông không hề va đụng vào bất cứ đồ vật
nào
trong nhà…
*
Giấc mơ Áo
gấm về làng
Thứ Năm 6 Tháng Tư, 2002
Tôi rời Ấn Độ nhiều lần. Lần đầu,
khi 13 tuổi rưỡi, đi học, tại một trường ở Anh quốc. Mẹ tôi không muốn
tôi đi.
Chuyến bay, Tháng Giêng 1961 làm tôi thật phấn kích, không hề biết rằng
nó làm
cuộc đời của tôi thay đổi hoàn toàn. Vài năm sau, cha tôi, không nói
cho tôi biết,
bất thình lình bán căn nhà của chúng tôi tại Bombay. Bữa tôi biết tin này, tôi cảm
thấy hố
thẳm mở ra ngay dưới chân, và nghĩ, sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho ông
già của mình.
Nếu ông không bán nhà, chúng tôi vẫn còn ở đó.
Kể từ khi những nhân vật của
tôi từ Đông bỏ qua Tây, thì tôi, hay nói rõ hơn, trí tưởng tượng của
tác giả,
luôn bò về, hết cuốn tiểu thuyết này tới cuốn khác. Điều này có lẽ nói
lên
ý nghĩa,
yêu một xứ sở có nghĩa là gì: dáng của nó là dáng của bạn, its
shape is
yours. Dáng nghĩ, dáng cảm, dáng mơ dáng mộng. Dáng đứng Bến Tre! Dáng
đứng đường băng [Tân Sơn Nhứt]. Dáng đứng Mít!
[The shape of the way you
think,
and feel and dream].
Rằng, bạn chẳng thể nào thực sự bỏ
đi. That you can never really leave.
Salman Rushdie: A Dream of Glorious
Return
Phi Châu
Truyền Kỳ
Du lịch với
Herodotus [TLS Review]
Note:
Post lại
một bài cũ trên Tin Văn của John Ryle, tác giả bài viết về Kap
Disneyland
cho những tên
độc tài
Những
đứa con của trí tưởng
TLS đọc Áo
Đỏ Tiểu Thư Con Gái Nhà Quan
Vĩnh Biệt
Bạn Cờ
Xuân Diệu: Phượng
hoàng đậu chốn cheo leo
Sương rất độc tẩm
vào người nỗi chết
Nguồn gốc thần đồng của Trần
Đăng Khoa
Khi còn là một đứa bé ở ngoài Bắc,
vào cái tuổi của Trần
Đăng Khoa, tôi có được đi theo sau một đám ma. Mấy bà cụ vừa đi đường
vừa đọc
một bài kể. Tôi còn nhớ, đó là những lời dặn dò linh hồn người chết,
trong
chuyến viễn du về âm phủ. Đi tới bến đò chia đôi hai bờ âm dương thì
phải làm
sao, ăn bát cháo lú như thế nào, gặp những linh hồn vất vưởng không ai
hương
khói thì làm gì, gặp quỉ dữ thì sao...
Chuyến viễn du cuối cùng. Chết
là hết. Dặn dò
làm gì?
Không đâu! Sống gửi, chết về.
Về để làm gì?
Để đi nữa.
Đối với người Việt, thấm nhuần
Phật Giáo, tắm
đẫm không gian Mục Kiều Liên, chết chỉ là một cuộc hẹn (appointment)
với Diêm
Vương, để 'thương lượng' (deal) với Ngài. Để được tái sinh. Làm giống
gì chưa
biết. Thường ra là lại làm người, có lẽ vậy.
Tôi không còn nhớ một chút nào
về bài kể này.
Một cách nào đó, sau này tôi "viết văn" là để tìm lại riêng cho mình
một bài kể như thế.
*
Nhưng cái bài kệ đó, chưa ấn tượng bằng cái cảnh lúc hạ huyệt.
Khi chiếc quan tài từ từ đưa xuống lòng huyệt, mấy bà nhà quê, mặc váy,
tất nhiên, bèn cứ thế lồng lộn, bà nào bà đó thi nhau vén váy nhảy qua
nhảy lại mặt huyệt, như để cho cái xác nằm trong quan tài được chiêm
ngưỡng lần chót, nơi chốn âm u, ẩm ướt mà Thượng Đế thường xuyên lai
vãng, cũng là nơi mọi người từ đó bò ra đời.
Bạn nên nhớ, mấy bà Bắc gần
như chẳng hề mặc nội y!
Ý là cho đến khi Gấu rời đất
Bắc, 1954, thì hình hình nó là như thế.
Chẳng thế mà mấy anh cu Sài,
khi vô tới Sài Gòn, kháo nhau, hàng gái Nam có gân!
Một trong những kỷ niệm của Gấu
về làng của Gấu, là hình ảnh mấy bà ghếch một chân lên, kéo cái váy
lên, và cứ
thế tè tè tuới cỏ vệ đường làng.
Khỉ thật. Nhớ gì không nhớ, toàn nhớ cái đáng nhớ!
*
Gửi
ông Tụ,
Bài
“Chửi” của ông, lý
do tại sao ông viết, tôi sợ ông ngại không nói ra, thành thử để tôi nói
giùm, vậy.
Liệu
có phải, mấy bài chửi liên quan tới “cái áo mưa” làm ông… bực
mình?
[Xin
xem các bài liên hệ trên talawas]
Chửi,
cho dù hay cách mấy, như bà cô của ông, cũng chưa “ghê gớm”,
tôi muốn nói ép phê của nó, bằng “không chửi”. Cá nhân tôi có một bài
viết, về
mất vịt [hay gà thì cũng thế] không chửi, ở địa chỉ sau đây, xin mời
ông ghé
thăm mất vịt không chửi.
Rời
đất Bắc từ năm 1954, ở trong Nam, lớn lên, tôi cứ nghĩ dòng họ
tôi ngoài đó chỉ có hai người, một ông bác, và một ông bố. Mới đây, về
lại đất
Bắc, gặp họ hàng, tôi mới biết, và cùng lúc, nhớ ra là mình còn mấy
người,
trong đó, có một bà cô. Và cùng lúc, nhớ ra những lời chửi của bà nội
tôi, nhắm
vào một anh chàng thương yêu cô tôi, và xin bàn tay của cô tôi, nhưng
bị bà nội
tôi chửi.
Bà
chửi, tiền ít mà muốn hít “bàn tay” thơm!
Tôi
còn nhớ ra, nhiều lắm, những câu chửi ly kỳ của cụ.
Nhưng
tôi không làm sao nhớ ra được, một bài hát mấy bà Bắc, đi
theo đám ma, hát cho hồn người chết nghe. Đây là những lời dặn dò đường
đi nước
bước ở dưới âm phủ. Đi đường, qua sông, qua cầu, gặp ma, quỉ, và phải
làm gì
trong những trường hợp như vậy.
Tôi
không còn nhớ một chút gì về bài hát này, nhưng tôi nhớ là, nó
tuyệt vời vô cùng. Nó khơi dậy trí tưởng tượng của một thằng bé, về một
cõi
khác tiếp theo cõi này.
Và
tôi cũng không thể nào quên được cảnh, khi quan tài hạ xuống
huyệt, trước khi lấp đất, các bà hát bài hát trên, mỗi lúc một nhanh,
và cùng
lúc, vén váy nhảy qua huyệt. Nhảy qua, nhảy lại, hết người này tới
người khác.
Tôi
thành thực nghĩ, ở cái mảnh đất đó, con người phải chửi thô tục
cỡ nào, thì mới được đền bù, một cách thanh cao đến như thế!
Thì
cũng vẫn “bàn tay” đó!
Kính,
NQT
Note:
Hoá ra là, cái vụ vén váy nhảy qua nhảy lại, Gấu đã viết rồi, vậy mà
quên!
Giữa lòng đen
Xa
Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu canh cánh trong lòng một
điều, giả
như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng Gấu ở lại, nó
sẽ như
thế nào.
Đỉnh
cao chói lọi
Giữa
Hai Thế Giới
Trong cuộc
chiến Việt Nam, vì quá sợ
nó, tôi tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn núp
"khá" an toàn, là sách vở. Và trong đó, truyện trinh thám. Những cuốn
tiểu thuyết đen, série noire, với những tác giả như nhà văn người Mỹ
James
Hadley Chase (ông này hiện rất đang ăn khách ở Việt Nam), nhà văn người
Bỉ viết
tiếng Pháp Georges Simenon, và John Le Carré, được coi là "ông vua"
của tiểu thuyết gián điệp, với bối cảnh cuộc Chiến Tranh Lạnh.
Tôi tình cờ khám
phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm
sách Xuân Thu, ở đường Tự Do Sài Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh,
(L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "Từ Miền Lạnh" đập ngay vào
mắt. Như thể sợ, mà vẫn tò mò muốn biết, muốn thử! Y hệt nỗi sợ cuộc
chiến!
Biết chắc chạy trời không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để kéo
dài thời
gian "hoãn dịch" (sursis). Một cái sợ tiềm ẩn, ma quái, đâu đó từ góc
sâu quá khứ. Lạnh, Đói, Cô Đơn, Tủi Thân…
Chả là, tôi người
Bắc, bố mất sớm, mẹ còn trẻ,
một nách bốn con, cứ phải gửi hết đứa này đứa nọ đến ăn nhờ ở đậu nơi
bà con
chú bác, bên nội bên ngoại… Những chi tiết này chẳng liên quan gì tới
Gián Điệp
Từ Miền Lạnh , nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết của Le Carré.
John le Carré là
bút hiệu của David Cornwell,
người Anh, sinh năm 1931, làm Bộ Ngoại giao (công tác gián điệp), do
vậy, không
được dùng tên thực. Cuốn The Spy Who
Came in From The Cold là cuốn đưa ông lên
đài danh vọng. Đã được quay thành phim, với tài tử Richard Burton. Đã
được dịch
ra tiếng Việt, nhưng thú vị nhất, đã được nhà văn chuyên viết truyện
trinh thám
nổi tiếng, Người Thứ Tám, phóng tác, với nhân vật "thần sầu quỉ khốc"
Tống Văn Bình, bí số Z.28. Nội ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu
Lâm vào
hàng thượng thừa, Văn Bình được Ông Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam
phái ra
Bắc (Hà Nội), để cứu một điệp viên Miền Nam nằm vùng, một cán bộ cao
cấp CS.
Anh được cung cấp đầy đủ tài liệu: nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt
cách mạng" ở một ngân hàng Thụy Sĩ; ngày giờ, địa điểm những lần nhận
tiền…
Trong nguyên tác
của Le Carré, câu chuyện xẩy
ra tại nước Đức, bên này và bên kia Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc
ăn, ông
đã để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản gián cho về vườn, sau
khi
thất bại trong một điệp vụ, thân tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô
gái
thương tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và sau đó được móc nối với
"cách mạng" (Đông Đức).
Mọi việc diễn
tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn,
Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức bắt cóc cô gái, người yêu
của anh
chàng điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.
Bí mật bật mí:
tất cả những tài liệu tố cáo
đều là dởm. Người mà anh điệp viên tin là phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ
địch
này là một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa
Cộng Sản
sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"! Còn cái người mà anh điệp viên
"tởm" nhất, và tin rằng là kẻ địch, lại chính là phe ta!
Phản gián Anh,
qua nhân viên nhị trùng, tổ
chức cho anh điệp viên vượt bức tường Bá Linh, cùng với cô bồ, nhưng
lính gác
đã được lệnh: bắn chết cô bồ. Phải có một kẻ "hi sinh" chứ!
Cuối cùng anh
điệp viên nhất định không bỏ
người yêu, vả lại cũng quá chán sự tàn nhẫn của nghề điệp viên, quá
chán
"đế quốc Anh", anh cùng chịu chết với bồ.
Anh nghe một
giọng nói tiếng
Anh, từ phía Tây
bức tường:
-Nhẩy đi, Alec!
Nhảy!
Anh nghe tiếng
Smiley, thật gần:
-Cô gái, cô gái
đâu?
Đưa mắt nhìn
xuống chân tường, sau cùng anh
nhìn thấy cô gái, nằm bất động. Trong một thoáng, anh lưỡng lự, rồi
chầm chậm
bò xuống… cho tới khi đứng bên cô gái. Cô đã chết; khuôn mặt quay đi,
mớ tóc
đen phủ trên má, như để che những giọt mưa cho cô.
Họ hình như ngần
ngừ, trước khi nổ súng tiếp;
một người nào đó ra lệnh, nhưng vẫn chưa có ai nổ súng. Sau cùng, họ
bắn anh,
hai hoặc ba phát. Anh đứng trơ, ngơ ngác, như một con bò mù giữa đấu
trường.
Rồi anh ngã xuống, trong khi ngã, anh nhìn thấy một chiếc xe nhỏ… và
những đứa
trẻ trong xe giơ tay vẫy vẫy anh, qua cửa xe.
Như trên đã nói, Gián Điệp Từ
Miền Lạnh
là cuốn đưa Le Carré lên đài
danh vọng, nhưng theo tôi, cuốn đầu tay của ông, Điện Thoại dành cho Người Đã Chết, Call For The Dead
mới là cuốn hay nhất của
ông. Và đây là một tác phẩm văn chương, thứ thiệt. Nó còn mang chất bi
hùng của
Kịch Hy Lạp.
Đây là câu chuyện
một nhân viên ngoại giao tự
tử, sau khi bị sở cho người điều tra, vì nghi là "thân Cộng". Để lại
thư tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều
tra.
"Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhã,
mất
danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
Trước mắt, ngay
sáng sớm hôm sau, Smiley phải
tới gặp bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện
thoại. Tưởng
của Sếp, anh nhắc nghe. Hoá ra là của nữ điện thoại viên bưu điện, do
người đã
chết tối hôm qua đã dặn, " Tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
Smiley tự hỏi:
làm sao một người sửa soạn từ
giã cõi đời, lại nhờ người đánh thức?
Hoá ra là bà vợ
mới là gián điệp nằm vùng. Bồ
của bà, một điệp viên Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là
nhân
viên của Smiley. Cũng là một tay Cộng Sản thứ thiệt.
Smiley vẫn còn
nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân
viên dưới quyền. Anh thử làm theo, và thành công.
Ông cho hai người
gặp nhau tại một rạp hát.
Khi nhân viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng
cớ, bắt
cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động.
(Let them
bolt, panic, anything… so long as they do ‘something’). Bởi vì theo
anh,
Dieter, nhân viên cũ của anh, khi gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ
nghĩ rằng
phản gián Anh đã biết tất cả.
Vấn đề là: anh ta
sẽ hành động như thế nào?
The
Last Act, màn chót của vở hát và cũng là
màn chót của cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và
rời rạp
hát cùng với khán thính giả.
Smiley và Dieter
đụng độ trên cầu. Nhớ lại
những năm tháng cùng chống Quốc Xã, anh tha chết cho tên bạn đế quốc,
và chịu
chết thay vì đầu hàng.
Những đoạn đối
đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa
Similey và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất
trong
truyện:
(Mendel hỏi
Smiley):
-Bà ta có phải là
cộng sản không?
-Tôi không tin bà
ta thích những nhãn hiệu.
Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng một thế giới có thể sống mà không có
tranh chấp…
Hoà bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn
hoà bình.
(I don’t think
she liked labels. I think she
wanted to help build one society which could live without conflict.
Peace is a
dirty word now, isn’t it? I think she wanted peace.)
-Còn Dieter?
-Trời biết Dieter
muốn gì. Thanh danh, tôi
nghĩ vậy. Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ
tưởng
hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên gián
điệp."
-Trời đất!
Smiley im lặng
một lát:
-Tôi không hy
vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy
tận cùng của anh ta. Tôi đã nhìn thấy khởi đầu. Anh ta là một trong
những người
xây dựng thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy
diệt.
Le Carré luôn tỏ
ra "ưu ái", với
những người Cộng Sản chân chính. Có vẻ như ông tin rằng, chính những
người đó
có lý hơn ông, như trong đoạn cuối ở trên, Smiley nước mắt ràn rụa, hét
lớn,
nhìn thân xác Dieter chìm xuống lòng sông, giữa sương mù Luân Đôn:
-Dieter!
Tại sao bạn không bắn tôi? Tại sao?…
Nguồn
Một chủ nhật khác
Đà Lạt
Một Orhan khác
Ngay từ khi còn bé tí, tôi đã
hồ nghi thế giới của tôi rộng hơn nhiều so với những gì tôi có thể nhìn
thấy: ở
đâu đó, trong những con phố của Istanbul, có một căn nhà giống như căn
nhà của
chúng tôi, ở đó có một thằng bé Orhan khác, rất giống tôi, tôi và nó là
hai đứa
sinh đôi, hơn thế nữa, nó có thể là một thế thân của tôi. Tôi không thể
nhớ,
tôi lấy ý nghĩ đó ở đâu, và làm thế nào nó đến với tôi. Hẳn là nó nhập
vào tôi,
từ mớ bòng bong, là những câu chuyện xì xầm, những hiểu lầm, ngộ nhận,
những ảo
tưởng, và những sợ hãi. Nhưng, trong một hồi ức sớm sủa nhất mà tôi còn
giữ
được, tôi đã cảm nhận thật rõ ràng, về một thằng bé Orhan khác, một
bóng ma của
mình rồi.
Chẳng bao lâu, ước muốn của
tôi trở thành sự thực. Nhưng cái bóng ma của một thằng bé Orhan khác,
trong một
căn nhà khác, đâu đó trong thành phố Istanbul
chẳng bao giờ rời bỏ tôi. Suốt thời ấu thơ, và luôn cả những năm mới
lớn, nó ám
ảnh, quấy nhiễu tôi. Vào những buổi chiều mùa đông, lang thang trên
đường phố,
tôi thường đưa mắt nhìn vô những căn nhà hai bên đường, qua ánh đèn
vàng nhạt ở
bên trong nhà, và mơ mòng tưởng tượng, những gia đình hạnh phúc, bình
dị, sống
những cuộc sống thoải mái dễ chịu của họ. Thế rồi, bỗng dưng tôi giật
mình đánh
thót khi nghĩ đến một anh chàng Orhan khác, có thể đang sống, trong một
trong
những căn nhà đó. Lớn dần thêm, già dặn hơn, bóng ma trở thành tai
quái, và tai
quái trở thành ác mộng cứ thế trở đi trở lại. Trong một vài giấc mơ,
cuộc gặp
gỡ giữa tôi và anh ta, một Orhan khác đó, luôn xẩy ra trong một căn nhà
khác,
khiến tôi sợ khiếp vía. Trong những lần mơ khác, hai Orhan im lặng nhìn
nhau,
lạnh như băng. Trong những khoảnh khắc giữa tỉnh thức và mê muội, tôi
ôm ghì
cái gối, bám riết căn nhà, con phố, cái chỗ của tôi, ở trên cõi đời
này. Khi
tủi thân, cảm thấy bất hạnh, tôi tưởng tượng ra mình ở trong căn nhà
khác,
trong cuộc đời khác, ở cái nơi chốn mà anh Orhan khác sống, và, mặc dù
mọi
chuyện, tôi nửa thuyết phục chính mình, tôi là anh ta và thích thú khi
tưởng
tượng, anh ta hạnh phúc, sự thích thú như thế đó, có một thời gian, nó
khiến
cho tôi cảm thấy không cần thiết phải tìm kiếm cho ra căn nhà khác,
trong một
phần khác, được tưởng tượng ra, của thành phố.
Istanbul
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
Sunday, January 11, 2009
11:43 PM
Re:
Cam on anh Tru .
Sau
mấy năm rồi, cũng vẫn câu
hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết, vừa chăm cháu ngoại, vừa nói
chuyện với
bạn bè được, hay quá .K thì chỉ đọc (internet) và xem là nhiều . Vừa
xem lại
"The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu hay
nhất, dù không vĩ đại . Chỉ có tình là vĩ đại thôi .
*
Tôi
chưa coi phim đó.
Tks.
Chỉ
có tình là vĩ đại thôi.
Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ đại. Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN
tôi có đọc một cuốn sách dịch chuyện
tình Tầu. Chuyện nào cũng hay. Có một
chuyện, về một anh học trò nhà quê, lên thành đô học, mê một em trong
xóm, chuộc
em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một anh lái
buôn. Anh này
thấy cô vợ đẹp quá bèn dụ anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp,
phải bán
vợ. Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác, bèn mở mấy cái rương bạn bè trong
xóm tặng
ra, hoá ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ thả xuống sông, rồi
thả mình
theo.
Có
một lời bàn, đẹp thế, sao
ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà theo!
Chuyện
hơi giống chuyện nàng
Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục. Nhưng chuyện TK
có hậu hơn, anh
chồng hối
hận, lo nuôi con, cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng,
tất nhiên,
khuyên theo phò Lê Lợi.
*
Chuyện
tình Mít
kể, đương thời, thì có NNT. Truyện số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc
sản
Miền Nam”,
là
Một
Mối Tình.
Truyện ngắn mới nhất,
Có con thuyền đã
buông bờ Lâu
rồi mới viết chuyện tình mà
chẳng hay ư? Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng trong
chuyện tình. Cái cô Bê phải có một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà đi,
và mối
tình trắc trở này chắc là mắc mớ tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ
bỏ chạy
theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản" của NNT, như trong Một Mối
Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận]. nếu không, cô không để ý tới anh chàng
có đứa
con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết
như thế, thì Gấu này phải chịu là Thầy!
Đặc sản Miền Bắc
thì có em Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi
tẹt,
mày ngu quá, đâu còn đêm nào như đêm nay…. Hay em trong Trăng Goá, do
sặc sụa
mùi nước đái tại Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam
chiến đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ
Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!
"Chẳng
còn đêm nào như đêm nay
đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự
nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó
trong
cuộc chiến này".
Gấu
đọc War
Sadness
Tại sao Bảo Ninh tịt
ngòi?
Gấu
tin rằng, chỉ Gấu mới trả
lời nổi câu hỏi hắc búa của đám mũi lõ, về nhà văn nổi tiếng nhất xứ
Mít.
*
Why
Vietnam's
best-known author has stayed silent
Fifteen
years after Bao
Ninh's admired war novel, he explains his fears about publishing a
sequel
Suzanne
Goldenberg in Hanoi
Sunday November 19,
2006
The Observer
|