|
Chúc
Mừng Năm Mới
Richie
Hiếu
Grand Arabian nights
Truly
a work of world
literature, The Arabian (or 1,001) Nights has been fully translated
into
English for the first time in over a century
Ngàn
lẻ một đêm lần đầu tiên được dịch đầy đủ qua tiếng Anh.
Tác phẩm thứ thiệt của văn học thế giới. Văn học thế giới, lập lại,
không phải văn học quốc tế.
Làm đếch gì có thứ văn học quốc tế, mà giả như có, nó bằng tiếng gì?
Cũng thế, làm gì có văn học không biên giới.
Could Obama's speech be
called poetry?
Yes, it could.
The new
president's inaugural
address showed a master of 'common speech heightened' at work
Bài
diễn văn nhậm chức của
Obama có thể coi là thơ không?
Why not?
*
For poet Elizabeth Alexander, Barack Obama's inaugural
speech must have felt
like a
hard act to follow. I'm a great admirer of Alexander's work - she
has a
delicate touch, and her poems cut deep. In the circumstances, I think
she did a
fine job. Yet it was Obama's speech that rang in the world's ear, as
only the
purest poetry can.
But could it truly be termed "poetry"? If, as Gerard
Manley
Hopkins once suggested, poetry is "the
common language heightened", then President Obama (how I loved
typing
that phrase for the first time) became a poet in his speech. He made
the
language itself resonate; and he did so not by fancy writing or
superficially
elevated diction or self-conscious parallelism in the syntax. Anyone
who
rereads the speech closely will see that he used only the simplest of
words:
"new", "nation", "now", "generation",
"common", "courage", "world". And he spoke these
words in straightforward cadences that have already become familiar,
drawing
them out to exactly the right length.
Until now, Americans have had only two great
presidential orators: Lincoln
and Kennedy. Lincoln
was incomparable, a unique combination of man and times. Kennedy struck
one or
two famous phrases, perhaps the best-known being his own inauguration
speech
in which he called on his countrymen to "Ask not what your country can
do
for you – ask what you can do for your country". For his part, Kennedy
had
nothing like Obama's problems, which include the catastrophe of two
illegal
wars and a crumbling economy. President Eisenhower hadn't trampled on
the
Constitution with such abandon and ignorance as Obama's predecessor,
and the
good name of the United
States had not been so degraded around
the
world. In his speech on Tuesday, Obama had somehow to acknowledge all
of this,
and do so without alienating the millions who did not vote for him. He
had to
show a certain restraint.
*
Khi tờ The Paris Review hỏi, có
bao giờ làm thơ, Pamuk trả lời:
Tôi
thường bị hỏi như vậy. Tôi
làm thơ khi 18 tuổi, và có cho in vài bài thơ bằng tiếng Thổ nhĩ kỳ,
nhưng sau đó
tôi chừa [quit]. Lời giải thích của tôi là, thi sĩ là một kẻ nào đó, mà
qua kẻ đó,
Thượng Đế nói, a poet is someone through whom God is speaking. Bạn phải
bị thơ
cướp đoạt mất hồn vía, thì mới làm được thơ, mới trở thành thi sĩ [You
have to
be possessed by poetry]. Tôi thử mần thơ, nhưng sau đó, tôi nhận ra
Thượng Đế
không nói với tôi. Tôi thật ân hận về chuyện này, nhưng rồi tôi thử
tưởng tượng
- nếu Thượng Đế nói với tôi, thì Người sẽ nói gì? Tôi bắt đầu viết, một
cách thật
rị mọ, tỉ mỉ, thật chậm chạp, cố làm sao làm cho điều đó bật ra. Và nó
ra thật,
và đó là văn xuôi, là viết giả tưởng, prose writing, fiction writing.
Thế là tôi
làm việc như trâu, như một anh thư ký nhà giây thép, a clerk. Một vài
nhà văn
coi so sánh như vậy là một sỉ nhục. Nhưng tôi chấp nhận nó; tôi làm
việc như một
thằng thợ Bưu Điện, một thằng thư ký nhà giây thép, I work like a clerk.
*
Nhưng,
như Gerard Manley
Hopkins từng đề nghị, thơ chính là ngôn
ngữ đời thường đạt tới đỉnh cao chói lọi của nó, "the
common language heightened", định nghĩa này làm nhớ đến một định
nghĩa
của triết gia Mạc xịt, Henri Lefèbvre, thơ là phần mặt của đời sống,
theo nghĩa, những băn khoăn, những thắc mắc siêu hình phải ngoi lên đó,
để mà
thở.
Cho tới
nay, Mẽo chỉ có hai
tay tông tông ăn nói giỏi, đó là Lincoln and Kennedy. Lanh Cồn khỏi
nói, một kết hợp độc nhất giữa
con người và thời của mình. K. thì nổi cộm với câu phán, [chẳng thua gì
câu của Bác
Hồ, tôi nói đồng bào nghe rõ không?]: Đừng đòi hỏi Đảng làm gì cho
anh, mà anh
làm gì cho Đảng!
Nhưng K đâu có gặp những vấn đề như Obama, trong đó có hai cuộc
chiến bất hợp pháp, và một nền kinh tế sập tiệm.
Goodbye, US Gulag!
Obama
breaks from Bush and
orders Gitmo to close
Rừng
Tràm
Thảo
Trường
Trân
trọng giới thiệu
Cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Hữu Thể và Hư Vô
Phong
thần bảng
N# 1: L'ÉTRANGER d'Albert Camus (1942)
Le n # 1 de ce
classement des
50 livres du siècle, choisis par le vote de 6.000 Français, n'est pas
moi mais
je m'en fous, même pas vexé, je serai dans le «Premier Invenntaire» du
XX le
siècle, non? Non plus? ?
Il
faut souligner que notre
grand vainqueur rassurera les paresseux : un roman très court (123
pages en
gros caractères). Pas besoin de se fatiguer : on peut donc écrire un
chef-d'œuvre sans noircir des millliers de pages comme Proust.
Chef-d'œuvre
que
nous pouvons lire en une demi-heure montre en main. Autre bonne
nouvelle : le
n# 1 de notre liste est un premier roman. Il s'agit donc d'un premier
roman
premier. Enfin, mauvaise nouvelle pour les xénophobes : le roman
préféré des
Français s'intitule L'Etranger.
Il
nous narre l'histoire de
Meursault, un type décalé qui se fout de tout : sa mère meurt - il s'en
fiche;
il tue un Arabe sur une plage algérienne - ça lui est égal; on le
condamne à
mort - il ne se défend même pas. La célèbre première phrase du livre le
montre
bien : «Aujourd'hui maman est morte. Ou peut-être hier, je ne sais pas. » Le gars ne
sait même pas quel
jour sa mère est morte! On ne se rend pas toujours compte d'une chose :
tous
les losers magnifiques, les meurtriers paumés, les anti-héros désabusés
de la
littérature contemporaine sont des héritiers de Meursault. Ce sont des
Sisyphe
heureux, des révoltés pas dupes, des nihilistes optimistes, des naïfs
blasés :
bref, des paradoxes ambulants qui contiinuent de respirer malgré
l'inutilité de
tout.
C'est
que, pour Albert Camus
(1913-1960), la vie est absurde. Pourquoi tout ça? A quoi bon? Pourquoi
cette
chronique inutile? N'avez-vous rien de mieux à faire que de lire ce
livre? Tout
est vanité en ce bas monde (Camus, c'est l'Ecclésiaste chez les
pieds-noirs).
Cette lucidité taciturne n'a pas empêché Camus d'accepter le Prix Nobel
de
Littérature en 1957 (à 44 ans, ce qui faisait de lui le plus jeune
lauréat
après Kipling). Pourquoi? Parce qu'il a résumé son existentialisme en
une
devise simple : «La vie est d'autant mieux vécue qu'elle n'a pas de
sens. »
Rien ne rime à rien - et alors? Et si c'était justement cela, «le
bonheur
inévitable»? Contrairement au refus snob de Sartre, 7 ans plus tard,
qui
confère de l'importance à la récompense, Albert Camus accepte le Nobel
précisément parce qu'il s'en moque. On peut se foutre de l'univers, et
l'accepter tout de même, voire l'aimer. Ou bien il faut se suicider
tout de
suite, puisque tel est le seul « problème philosophique vraiment
sérieux ».
Même
la mort de Camus sera
absurd.
Bien
que tuberculeux, ce play-boy,
sosie d'Humphrey Bogart, fut assassiné à 47 ans par un platane en
bordure de la Nationale 6 entre Villleblevin et Villeneuve-la-Guyard,
avec la complicité de Michel
Gallimard et d'une Facel Vega décapotable.
La seule chose qui n'est pas
absurde, c'est le style que Camus a inventé : des phrases courtes (« sujet, verbe, commplément, point », écrivit
Malraux dans sa note de lecture à l’éditeur), une écriture sèche,
neutre, au
passé composé, qui a fortement influencé tous les auteurs de la seconde
moitié
du siècle, Nouveau roman inclus. Ce qui n'interdit pas les Images
fortes - par
exemple, pour décrire les larmes et la sueur sur le visage de Perez :
«Elles
s'étalaient, se rejoignaient et formaient un vernis d'eau sur ce visage
détruit.
» Même si on l'a un peu trop étuudié à l'école, il faut relire
L'Etranger, dont
le désespoir ensoleillé, reste, comme dit la publicité pour la Suze,
«souvent
imité, jamais égalé ». L'humanisme gentille d'Albert Camus peut parfois
lasser,
mais pas son écriture tranchante.
Au moment de conclure ce
dernier inventaire avant liquidation, alors que la fin du monde
approche
tranquillement et que l'homme organise sa propre disparition en
souriant, n'y
a-t-il pas une légère ironie à voir Camus s'emparer de la première
place (donc la
dernière du compte à rebours), lui qui nous a expliqué que le secret du
bonheur
consistait à s'accommoder de toutes les catastrophes?
Những cuốn sách được đưa
lên
bảng phong thần cuối cùng, trước khi quăng vào lửa.
Dernier inventaire avant
liquidation
Nhà xuất bản Grasset 2001
Năm muơi cuốn sách của thế
kỷ, do bạn chọn, nhưng Frédéric Beigbeder: làm công việc của Thánh Thán.
Đứng đầu bảng là Kẻ Xa
lạ của Albert Camus.
Cái ngôi vị số dzách, năm bơ
oăn, của Bảng Phong Thần Cuối Cùng
gồm 50 cuốn, thuộc về Kẻ Xa Lạ của ông Tây thuộc địa
Albert Camus, và là do 6000 độc giả Tây chọn. Tuy
không được hân hạnh đó, nhưng tôi đếch cần. Cũng chắng vếc xê vếc
xiếc gì
hết trơn hết trọi. Biết đâu nhờ vậy, tôi sẽ có tên trong Bảng Phong
Thần Đầu
Tiên của thế kỷ 21. Tại sao không?
Phải nhấn mạnh một điều là kẻ
chiến thắng vĩ đại này rất được lòng phái... nữ - ấy chết xin lỗi - mấy
tướng
đại lãn, hay nói theo người miền bắc, lười chảy thây ra: đây là một
cuốn tiểu
thuyết rất ngắn, 123 trang, chữ bự tổ trảng... Đâu cần phải bôi đen
hàng ngàn
trang giấy mới đẻ ra được một đại tác phẩm, như Proust...
«La vie est d'autant
mieux vécue qu'elle n'a pas de sens. »: Đời đáng sống, và nếu nó đếch
có một ý nghĩa nào, thì lại càng đáng sống!
Contrairement au
refus snob de Sartre, 7 ans plus tard, qui
confère de l'importance à la récompense, Albert Camus accepte le Nobel
précisément parce qu'il s'en moque. On peut se foutre de l'univers, et
l'accepter tout de même, voire l'aimer. Ou bien il faut se suicider
tout de
suite, puisque tel est le seul « problème philosophique vraiment
sérieux ».
Trái hẳn cái trò xì
tin dởm của Sartre, 7 năm sau đó, Camus chấp nhận Nobel, vì ông đếch
cần. Người ta có thể ị vào mặt cả vũ trụ, có Đảng ở trong đó, thì hà cớ
gì từ chối Nobel?
Hay là tự tử liền tù tì, bởi vì đó là vấn đề triết học nghiêm túc.
Đây là muốn nhắc tới câu của Camus: Suy nghĩ, cuộc đời đáng sống hay
không đáng sống, là trả lời câu hỏi nghiêm túc của triết học.
Phi lý của Camus ở
đâu mà ra?
Tôi đọc Camus, đâu
đó trước
khi đọc Dos và Borges, vào lúc 18 tuổi, dưới ảnh hưởng của cha tôi, một
nhà kiến
trúc sư về xây cất. Vào thập niên 1950, nhà xb Gallimard cho Camus ra
lò hết cuốn
này tới cuốn tới, cha tôi cho mua chúng đều đặn, và được chuyển tới Istanbul, nếu ông không ở Paris. Còn ở đó thì ông
tự mình đi mua, lẽ tất
nhiên! Ông đọc chúng một cách tới nơi tới chốn, và bèn lèm bèm về
chúng, với thằng
con. Mặc dù đôi lúc hứng lên, ông lèm bèm về cái gọi là “triết học của
sự phi ní”
[ấy chết xin lỗi, phi lý], bằng những từ ngữ mà tôi chẳng làm sao hiểu
nổi, chỉ
đến mãi sau này, thì tôi mới ngộ ra rằng thì là tại sao ông lèm bèm về
Camus, về
phi lý: Cái triết học phi lý đó đến với chúng ta không phải là từ những
thành
phố lớn của Tây Phương, cũng không phải từ những nội thất của những đền
đài tưởng
niệm hay những căn nhà của họ, nhưng mà từ một thế giới bên lề, có tí
ti hiện đại,
có tí ti Hồi giáo, có tí ti Địa Trung Hải, giống như thế giới của chúng
tôi.
Cái
khung cảnh mà Camus đặt để
ở trong đó, khi viết Kẻ Xa Lạ, Dịch Hạch, và nhiều truyện ngắn của ông
là khung
cảnh của thời thơ ấu của chính ông, và tình yêu của ông, những miêu tả
tỉ mỉ những
con phố, những khu vườn ngập ngụa ánh mặt trời, chúng thuộc về không
Đông phương
mà cũng chẳng Tây phương.
Ngoài phát giác về
phi lý ở nơi
Camus, cha tôi còn sững sờ vì một Camus huyền thoại văn học, và càng
sững sờ hơn khi nghe tin ông chết vì tai nạn xe hơi, và đành coi đây là
‘phi
lý’.
Như
mọi người, cha tôi nhìn
ra hào quang của tuổi trẻ ở nơi văn xuôi của Camus. Tôi cũng cảm thấy
điều này, mặc dù bây giờ câu văn phản ảnh nhiều về thời đại, và cái
nhìn ra
thế giới bên ngoài của tác giả, so với trước đó. Khi tôi đọc tác phẩm
của ông,
có vẻ như đối với tôi, Âu Châu ở trong những cuốn sách của Camus vẫn là
một nơi
chốn trẻ, và mọi chuyện vẫn có thể xẩy ra. Như thể những nền văn
hóa của nó chưa rạn nứt, như thể nhìn ngắm thế giới vật chất bạn vẫn có
thể lọc
ra yếu tính của nó. Có thể điều này phản ảnh không khí lạc quan thời
hậu chiến,
khi nước Pháp chiến thắng tái khẳng định vai trò trung tâm của nó trong
văn hóa
thế giới và đặc biệt là trong văn chương. Đối với giới trí thức từ các
phần khác
trên thế giới, nước Pháp hậu chiến là một lý tưởng bất khả, an
impossible
ideal, không hẳn chỉ vì văn chương, mà còn do lịch sử của nó. Bây giờ,
chúng ta
nhìn ra thật rõ ràng, chính là tính ưu việt về văn hóa của nước Pháp đã
đem đến
cho chủ nghĩa hiện sinh và triết học của sự phi lý một thế giá bảnh bao
như vậy
ở trong nền văn hóa văn học, the literary culture, của thập niên 1950,
không chỉ
ở Âu Châu mà còn ở Mỹ, và những xứ sở không phải Tây phương.
Chính là từ một thứ
lạc quan
thời trẻ tuổi [của bất cứ ai trong chúng ta], đã khiến Camus tạo ra cú
làm thịt
anh chàng Ả Rập, và coi vụ “giết người không suy tư” này, the
thoughtless
murder, là một vấn đề mang tính triết học hơn là thực dân thuộc địa. Và
khi một nhà văn sáng láng
với một tấm bằng về triết học nói về một vị truyền giáo tức giận, hay
một nghệ
sĩ vật lộn với danh vọng, hay một người què leo lên một chiếc xe đạp,
hay một
người đàn ông đi ra bãi biển với người yêu, từ những tình huống đó
Camus chiết
ra những suy tư siêu hình sáng chói, mang tính giả dụ, đề xuất. Như một
nhà luyện
kim, ông biến đổi những chi tiết trần tục, những mảnh vụn của đời sống,
chuyển
hoá chúng vào một bài tản văn siêu hình. Nằm bên dưới nó, lẽ dĩ nhiên,
là cả một
truyền thống, cả một lịch sử dài của tiểu thuyết triết học của Pháp, mà
Camus,
cũng chẳng kém gì Diderot, thí dụ, đều thuộc về nó. Chẳng tỏ ra một
chút cố gắng
khi quyện mình vào truyền thống, đó là tài năng riêng của Camus. Và
điều này là
nhờ ở sự cực kỳ thông minh của ông, thêm một chút thông thái, một giọng
nói quyền
uy, có thể nói như vậy - với những câu văn ngắn giống như của
Hemingway, và một
cách tự sự mang tính hiện thực. Mặc dù những truyện ngắn của ông thuộc
vào truyền
thống truyện ngắn triết học trong có Poe và Borges, nhưng của ông, do
mầu sắc,
do sự sống động, do không khí truyện, khiến có thể coi ông là một tiểu
thuyết gia miêu tả, Camus, the descriptive
novelist.
Hai tuyệt chiêu của Camus, tạo
khoảng cách giữa ông và đề tài, và giọng kể thầm thì. Như thể chính ông
cũng không
làm sao quyết định được, có nên đẩy độc giả lậm sâu vào câu chuyện, và
sau cùng
đành đem con bỏ chợ, nghĩa là bỏ mặc chúng ta lơ lửng giữa những âu lo,
thắc mắc
siêu hình của tác giả, và bản văn, chính nó. Đây có thể là sự suy tưởng
về những
vấn đề nhức nhối thương đau mà Camus gặp phải trong những năm cuối đời.
Chúng
ta có thể nhận ra điều này, ở đoạn mở ra Người Câm, khi Camus tự ý
thức về tuổi già. Hay
trong một truyện khác, Nghệ sĩ làm
việc, The Artist at Work, chúng ta có thể cảm
nhận vào những ngày tận cùng của ông, sống căng thẳng, và gánh nặng
vinh
quang đè lên ông mới khủng khiếp làm sao.
Nhưng
cú ‘bức tử’ Camus, chính
là Cuộc Chiến Algérie. Là một anh Tây mũi lõ ở thuộc địa, [an Algerian
Frenchman], ông bị sức ép của tình yêu của ông dành cho
thế giới Địa
Trung Hải này, và sự dâng hiến mình cho nước Pháp. Một khi ông nhìn ra
sự giận
dữ, Tây mũi lõ hãy cút về nước, và cuộc nổi dậy hung bạo từ đó mà ra,
ông không
thể chọn thái độ chống đối nhà nước của Sartre, bởi vì những bè bạn của
ông bị
giết bởi những người Ả rập - những tên "khủng bố", như báo chí Pháp gọi
– trong cuộc chiến giành độc lập. Ông đành chọn thái độ im lặng. Trong
bài ai điếu thật
cảm động về
người bạn cũ của mình, khi Camus mất, Sartre đã khai triển những chiều
sâu
nhức nhối mà Camus giấu kín chúng bằng sự im lặng đầy cao ngạo, đầy
phẩm giá của
mình.
Bị ép buộc phải chọn bên,
Camus thay vì chọn, thì khai triển ‘địa ngục tâm lý’, trong Người Khách,
The Guest. Truyện ngắn tuyệt hảo mang tính chính trị này diễn tả
chính trị, không
như là một điều mà chúng ta hăm hở vồ lấy nó, theo cái kiểu đường ra
trận mùa
này đẹp lắm, nhưng mà là một tai nạn chẳng sung sướng tí chó nào, mà
chúng ta bắt
buộc phải chấp nhận.
Thật khó mà 'phản biện' ông, về
điều này, nhất là Mít chúng ta!
Pamuk: Albert Camus
*
V/v giọng văn thầm thì:
Have U ever
seen the rain?
Et pourtant le miracle se
poursuivait. Le
monde durait, pudique, ironique, et discret (comme certaines formes
douces et
retenues de l’amitié des femmes). Un équilibre se poursuivait, coloré
pourtant
par toute l’appréhension de sa propre fin. Là était tout mon amour de
vivre:
une passion silencieuse pour tout ce qui allait peut-être m’échapper,
une
amertume sous une flamme. ...
Đó, là tất cả tình yêu sống của tôi: Một đam mê
lặng lẽ đối với tất cả những gì có thể vượt khỏi tầm tay tôi, một nỗi
đắng cay
dưới một ngọn lửa. Albert Camus: Amour
de vivre. L’envers et l’endroit
[Note: To U, CM. NQT]
Nếu
có tí mắc míu giữa NNT và
Camus, có thể, là qua truyện ngắn Người
Khách. Câu chuyện một anh giáo làng tại
một vùng xôi đậu, ngày Quốc Gia, đêm VC. Tay
giáo làng này một bữa đang dậy học thì được một ông cảnh sát Ngụy tới
nhờ giữ
giùm một anh VC nằm vùng, trong khi ông ta lên tỉnh xin thêm chi viện,
để giải
giao về tỉnh. Khi ông cảnh sát đi rồi, tay giáo làng bèn cởi trói của
anh VC nằm
vùng, giúi cho 10 ngày luơng thực [đám sĩ quan Ngụy sau đi trình diện
cải tạo,
phải mang theo 10 ngày lương thực, là do chuyện này mà ra], và chỉ
hướng trốn vô
rừng, không ngờ đúng hướng đó, có Ngụy quân đang nằm sẵn!
Và khi anh giáo làng
nhìn lại tấm bảng đen, thì đã có hàng chữ phấn trắng: Mi bán chiến sĩ
giải phóng
cho Ngụy, mi phải thường mạng!
Kẻ Xa Lạ
No
light but rather darkness visible."
[Tuy
nhiên từ những ngọn lửa đó, không phải ánh sáng, mà là bóng đen, hiển
hiện]
Milton, Paradis
perdu (I, 62)
Catherine Pappo-Musard dịch, ghi chú và viết tựa Trái Tim Của Bóng Đen, bản song ngữ.
L'expérience
congolaise a fait de lui un homme
pour qui désormais les ténèbres sont toujours visibles: les ténèbres,
c'est-à-dire le passé dans le présent, le primitif dans le civilisé, le
mensonge dans la vérité, la corruption dans l'idéal, et la mort dans la
vie.
Kinh nghiệm Congo biến ông thành một người bóng đen luôn hiển hiện:
Bóng đen, đó là quá khứ trong hiện tại, sơ khai man rợ trong văn minh
có học, dối trá trong sự thực, hư ruỗng trong lý tưởng, cái chết trong
sự sống.
Giữa lòng đen
Xa
Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu canh cánh trong lòng một
điều, giả
như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng Gấu ở lại, nó
sẽ như
thế nào.
The
other voice: Một tiếng nói
khác
Bài viết mà có thể gọi là
‘essay’ đầu tiên của Gấu, là về Sartre, về hiện sinh, “Thế nào là văn
chương
dấn thân?”, đăng trên tờ Nghệ Thuật. Mới đây, qua Cali, gặp anh Trần
Văn Nam,
anh nhắc tới bài viết, còn nhắc tới trang báo Nghệ Thuật đăng bài viết
nó ra
làm sao!
Một độc giả khác nữa, là
Thạch Chương, tức Cung Tiến. Ngay lần gặp đầu tiên, từ hồi còn Quán
Chùa, anh
đưa ra nhận xét, "cách viết, cách sử dụng tiếng Việt của anh khác của
tôi.
Cách viết của tôi có tính mô phạm, trường lớp, còn của anh là thứ tiếng
Việt
thật bình dị, không có vẻ lên lớp". Ý của anh là như vậy, nhưng lâu
quá,
không nhớ đúng y chang câu của anh.
Nhưng về 'không có
vẻ lên lớp’,
thì một độc giả khác nhận xét về Gấu thú hơn nhiều:
V.
bảo chú Trụ dịch và viết
thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả trong một thể loại đầy tính cãi
cọ. Có lẽ
văn chương phải thế, phải giống như một lời đi tìm tri kỷ, phải dạy
người ta
một diều gì đó nhưng không dạy đời.
*
Tiếng
Việt, do văn phạm ‘lỏng
lẻo’, do một từ có thể dùng thay nhiều cách, khi thì là động từ, danh
từ, trạng
từ… vẫn chỉ một chữ đó, trong khi tiếng Pháp, tiếng Anh, thí dụ, nhìn
một cái,
là đã biết nó là tiếng gì rồi. Mỗi từ là có cả một lô họ hàng của chúng.
Tình
cờ đọc bài viết của Paz,
có nhắc tới Satre, và văn chương dấn thân, post ra đây, trình độc giả
Tin Văn
*
Nhưng,
sắp đi rồi, còn giữ kẽ gì nữa, hàng họ cũng đâu còn nhiêu, mà
chẳng đem ra khoe!
Thạch Chương nói, viết tiếng Việt như… Gấu, ông không viết được.
NMG
cũng đã từng phán, cái kiểu
viết Tạp Ghi của anh, tôi không viết được, anh đã sáng tạo ra nó!
Một
đấng thi sĩ thì nói, mấy cuốn sách anh tặng tôi, tôi để ở trong cái xắc
tay, đi đâu cũng có nó. Rảnh được một tí là lôi ra đọc!
Về già Gấu nghiệm ra một điều,
những văn hữu dám khen Gấu, đều là những thứ có thực tài. Thành thử họ
dám
khen.
Còn ba thứ bạn quí của Gấu,
toàn đồ rởm, thành ra cứ cắn răng mà nuốt, như nuốt bồ hòn làm ngọt!
Có thứ, thì vờ đi, như đếch có
thằng cha Gấu ở trên đời.
Thứ này thì nhiều lắm. Giả như
Gấu có đụng đến họ, họ cũng vờ, coi Gấu như… Chí Phèo!
Du
danger de la
prophétie
Thế giới mang họa vì
lời tiên
tri của tay này.
Mít mang họa vì lời
tiên tri
của Bác: Thắng trận này, sẽ xây nhà Mít bảnh bằng 10, bằng 100 trước đó!
Có mấy Trần
Đăng Khoa? (1)
Chân dung Trần Đăng
Khoa
TTD
TDK by NQT
Lê
Lựu đại náo Huê Kỳ
Tố
Hữu:
Phịa như thiệt
"Balzac
mô tả cái nón,
là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa dậy đất, đèn
đuốc
đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một
miền đất
muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải
thích
được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Note: Gấu phán về trận đánh DBP bảnh hơn VC nhiều!
Văn chương
sám hối?
Cái
độc, cái ác trong văn chương.
Chân Dung
Nhà Văn & Lời
Bàn: Gấu, Nhà Văn
Thư
Nhà
Nơi người chết mỉm cười
Hiếp
dâm tiếng Việt
Ngay
cả những tiếng nói thật bình thường, những danh từ xưng hô như
Bác, Cháu,
Anh Hai, Anh Ba.... nhiều khi người được gọi nghe thấy gai trên mấy đầu
ngón
tay...
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
|