Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày/Sách & Báo Mới
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1



*

Déformer, c'est corriger la nature en fonction de la sensibilité de l'artiste
:
Vặn cái xịp 1 phát, là làm cái bướm hiện ra cái đẹp số 1 của nó!
[Dịch loạn!]

Trong khi chờ SN, ngắm cái tranh "mise à nu" mắc giá nhất nhì thế giới, của Modigliani,
Và cái xịp mà VP cực thèm khi đọc "Nhà có cửa khoá trái",
Thì cũng đủ lãng quên đời.

Trước khi đi xa, bạn thèm mang theo cái gì cùng với mình?
Cái xịp của 1 em hay là bầu sữa của bà mẹ?


Ui chao ngắm cái cổ cao, thì lại nhớ đến… thơ:
Nai cao, gót lẩn trong mù
Hay, cụ thể hơn:
Vuốt tóc em lưng dài
Tay vuốt tóc mà con heo lòng lại nghĩ đến ngả em – cái lưng dài này, cái cổ dài này…. -  xuống giường!

TTT 10 years Tribute

The saxophone
Has a vulgar tone.
I wish it would
Let me alone.

The saxophone
Is ordinary.
More than that,
It's mercenary!

The saxophone's
An instrument
By which I wish
I'd never been
Sent!

Langston Hughes: Conservatory Student Struggles with Higher Instrumentation [in“The Weary Blues”]

Helen Vendler: The Unweary Blues
The Collected Poems of Langston Hughes

Dạ khúc  

Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta

Bóp chết mọi hi vọng

Nên anh dìu em đi xa

Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối

Ôi môi em như mật đắng

Như móng sắc thương đau

Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris

Ðể anh được làm thi sĩ

Hay nửa đêm Hanoi
Anh là thằng điên khùng

Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới

Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng

Sao tuổi trẻ quá buồn

Như con mắt giận dữ

Sao tuổi trẻ quá buồn

Như bàn ghế không bầy

Thôi em hãy đứng dậy
Người bán hàng đã ngủ sau quầy

Anh đưa em đi trốn
Những giày vò ngày mai

TTT: Liên Đêm Mặt trời tìm thấy

*

The New Yorker April 7, 2014

Kẻ biến mất

Lúc này trời ấm áp, ngồi ở cổng, vào lúc đêm
Một người nào đó chợt nhớ tới một người hàng xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng và mấy đứa nhỏ.

Chẳng ai lúc này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà nở nụ cười, và nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và chẳng hiểu tại sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm trong lòng một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng thể nào có một.


*

Cuốn này, thấy lâu rồi, nhưng không dám đụng vô. Bìa cứng, xót tiền quá, và đọc, thì cũng cực quá.
Nhân Tết Mít, bèn bệ về, vì, cũng có ý, đi 1 đường tưởng niệm ông anh nhà thơ, bằng cái bài của bà nữ phê bình mũi lõ này, về Langston Hughes. 

Lần đầu GCC nghe cái tên ông nhà thơ da đen này, là qua thơ TTT.
Nghê thuật đen.
Đen, với ông anh là da đen, là Jazz...
Nhưng với GCC, là…  cơm đen!

Như cái note dưới đây

Suicide's Note:
The calm,
Cool face of the river
Asked me for a kiss

Thơ Mỗi Ngày
30.4.2016
Tuyet Nguyen liked this.

OBAMA NGU

Obama sang thăm VN được Trọng lú làm tiệc đãi toàn món cá. Thâm ý của Trọng là muốn cho nhân dân VN và thế giới thấy là cá VN rất an toàn. Nhưng suốt bữa tiệc Obama chỉ ngồi uống rượu suông chứ không đụng vào cá. Trọng sốt ruột nói với anh thông dịch viên:
"Mày nói với nó cá này được nhập cảng từ Mỹ chứ không phải cá ở VN nên cứ ăn vô tư để phóng viên quay phim chụp hình!"
Thông dịch viên dịch xong, Obama đáp:
"Anh làm ơn nói với ngài tổng bí thư là khi thấy ngài tbt gắp miếng cá cho vào mồm thì tôi biết đó không phải là cá của VN rồi. Tôi không ăn không phải vì tôi sợ ăn phải cá nhiễm độc của VN. Tôi không ăn chỉ vì không muốn nhân dân Mỹ nghĩ rằng tôi tiếp tay làm trò mèo cho đảng CS VN thôi!"
Sau khi thông dịch viên dịch xong, Trọng nói với giọng bực tức:
"Mày nói với nó, ngu vậy, sợ dân vậy hèn nào chỉ làm tổng thống được có 8 năm!"

Ngo Du Trung's photo.

Note: Không biết có cái cú, bữa tiệc toàn cá ?
Nếu có, thì bửn quá!
Y chang cái cú muợn cả người
chết để quảng cáo sách, của Ông Số 2, tức Thái Thượng Hoàng, của băng đảng Cờ Lăng

*
 
Nhìn cuốn sách thì lại nhớ đến Brodsky. Ông biểu, ai điếu là thuốc thử đạo hạnh của người còn sống đối với người đã khuất.
Băng đảng, bộ lạc Cờ Lăng này không bỏ qua 1 cơ hội để xeo phi và bán sách!
Người chết chúng cũng không tha!
NQT

Sinh Nhạt Bác
http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/sinh_nhat_bac.html


    bac_ho
Chào Mừng Sinh Nhạt Bác!
Đi tìm một cái nón cối đã mất
Hình: Uncle Ho, stand discarded.
Ông Hồ...  liệng cống [discarded], thay vì... lộng kiếng!

Viên gạch của Bác Hồ
http://tanvien.net/tap_ghi_5/gach_bac_ho.html

viengach
[BBC photo]

Nhân viết về ông Hồ thời kỳ đói rét ở Paris ngày nào, Gấu sực nghĩ đến huyền thoại về viên gạch đã từng mang lại chút ấm áp cho Bác.
Tình cờ , và thú vị làm sao, Gấu được đọc một mẩu chát trên một diễn đàn, liên quan với vụ việc này. Xin post lại, có bỏ đi một số chi tiết cá nhân.

Bạn... ơi, bạn sang Pháp lâu chưa, hay bạn đang ở nước nào thế? Mình chưa được đến thăm nhà Bác Hồ ở Paris, nhưng cô giáo tiếng Pháp của mình bảo rằng tên phố Bác ở ngày xưa là Compoint cơ, thế có đúng không hả bạn. 

-Thế bạn TT có biết sự tích viên gạch sưởi ở ngõ Công - Poăng không? Hay cực! 

-Mình chỉ biết Bác Hồ dùng gạch để sưởi ấm mùa đông thôi, mình không biết sự tích hòn gạch ấy thế nào bạn ạ. Bạn có thể kể cho mình được không? 

 -Khéo bác...  lại kể chuyện bác mang hòn gạch lấy từ cái lò gạch sinh ra Chí Phèo sang Pháp cũng nên 

-Ừ, vậy tớ kể chuyện viên gạch ngõ Công Poăng cho  các bạn nghe nhá. 

Đầu những năm 70' của thế kỷ XX, sau khi Người đã qua đời được vài năm, một tổ công tác chính trị được thành lập. Đa số các thành viên của tổ là các khoa học gia về bảo tồn, bảo tàng, lịch sử và khảo cổ học. Đó là tiền thân của Bảo tàng HCM sau này. 

Nhiệm vụ của tổ công tác là đi khắp đất nước, và một số địa điểm ngoại quốc để sưu tầm tư liệu, vật dụng hàng ngày... của Người trong thời gian Người bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước. Một nhóm công tác đặc biệt được cử sang Pháp cũng không ngoài mục đích đó. 

Một nhiệm vụ cụ thể của nhóm công tác là tìm hiểu về sự thực chuyện viên gạch Người dùng để sưởi ấm mùa đông khi Người đang là anh thanh niên 25 tuổi đẹp trai nhưng nghèo khổ ở Paris, sống ở nhà số 9 ngõ Công Poăng. Nhà số 9 Công Poăng tầng dưới là quán cà phê, tầng trên Người thuê ở, người làm nghề rửa ảnh. Phòng kê vừa một cái giường, hai cái ghế một cái bàn con. 

Nhóm công tác đã phỏng vấn nhiều người dân sống trong khu vực này cùng thời với sự kiện viên gạch, và kết quả là không có người dân nào biết về sự kiện này.

Đến ngày cuối cùng trong thời gian làm việc. Nhóm công tác tình cờ gặp một bà cụ già 70-80 tuổi nhăn nheo móm mém nhưng vẫn còn giữ lại một chút nhan sắc thời trẻ sống tại nhà số 11 ngõ Công Poăng. Khi được hỏi về sự kiện viên gạch Người dùng sưởi ấm trong mùa đông giá rét ở Paris, bà cụ già công nhận là có biết chuyện này. Nhóm công tác mừng rỡ và đề nghị bà cụ giúp đỡ để tìm lại viên gạch để mang về Việt Nam, bà cụ gật đầu mỉm cười duyên dáng và nói:

- "Viên gạch đó chính là tôi đây!"

Đỉnh cao chói lọi

*

https://www.thestar.com/entertainment/books/2012/09/01/the_zenith_by_duong_thu_huong_review.html

By Jason Beerman
Wed., Dec. 26, 2012

Think of literature written in or translated into English about Vietnam and a handful of writers come to mind: Marguerite Duras, Graham Greene, and Tim O’Brien. Giller Prize-winning author Vincent Lam also based his recently published first novel, The Headmaster’s Wager, in Vietnam, from where his Chinese parents emigrated.
While these authors each evoke a Vietnam of their choosing — a Vietnam steeped in war, a Vietnam seen through the lens of colonialism or the eyes of American soldiers — none can claim the unique perspective of Duong Thu Huong, a former Vietnamese Communist cadre who was kicked out of the Party and jailed in 1991 after writing two novels — both bestsellers in Vietnam — that depicted the Vietnamese government as corrupt and abusive. Since then, her work has been banned in Vietnam, but has appeared in translation in several languages abroad, likely making her the most widely read Vietnamese novelist in the world.
Huong currently lives in exile in Paris, where she wrote The Zenith, her sixth novel to be translated into English. Like her previous work, this is an overtly political novel — it traces, through several tangentially related narrative threads, Ho Chi Minh’s final days spent in an isolated mountaintop temple, where he languishes under the watchful gaze of a coterie of guards, cooks and a doctor.
To this day, the Vietnamese government cultivates a carefully constructed image of “Uncle Ho” as a celibate saint-like figure who is a revolutionary father to all of Vietnam. Writing about him in a way that does not conform to Party mythology is not permitted, which makes Huong’s version of Ho inherently blasphemous.
When the book begins, it is 1969, and Ho lives an imprisoned and monastic life timed to the temple bells, the chanting of Buddhist prayers and the whims of his guards. He ponders the past in a series of conversations with himself, moments of reflection, and hallucinations, one of which includes a cameo by Chairman Mao, who tells him, “Power cannot be harmonized with ordinary feelings of conscience.”
This idea of power clashing with conscience forms the core of the novel. Surprisingly, it is Huong’s fictionalized Ho Chi Minh for whom conscience overrides the desire for power, to the point where he is powerless to do anything while his erstwhile comrades plunder.
In the novel, Ho is haunted by memories of a love affair he had in the 1950s with a woman forty years younger. The relationship, which resulted in a son and a daughter, was kept out of sight, and when Ho wanted to make it public, the Politburo voted against it and eventually set into motion the woman’s brutal torture, rape and murder.

Ho is tormented by his inaction, but realizes that he is fated to become “a hand-carved wooden puppet to these murderers.” Indeed, he had already ceded power long before. His conscience — his idealism rooted in socialist doctrine — gave rise to a liberated Vietnam, but in the subsequent grab for power, he is turned into a figurehead, “his authority no more than the fleeting enchantment thrown by an opera-house lantern.” As a result, those who are really in power remain huddled in the shadows, pulling tautly on the marionette strings.

The Zenith, lyrically translated by husband-wife translators Stephen B. Young and Hoa Pham Young, is part modern Vietnamese fable, part tragedy. Huong, who says she spent 15 years researching the novel, has written what amounts to a eulogy for Uncle Ho. Amidst the simmering anger directed toward “the state machine,” there is a modicum of sympathy for Ho, who dances under strings manipulated by men without conscience.
Jason Beerman lives and writes in Hong Kong.

“The politics of a country can only be an extension of its idea about human relationships”
Naipaul. Pankaj Mishra trích dẫn trong The Writer and the World. Introduction.
Nền chính trị của một xứ sở chỉ có thể là sự mở rộng ra, ý nghĩ của xứ sở đó, về những liên hệ, giao tiếp giữa con người với con người.
Muốn hay không, thì Hồ Chí Minh cũng là người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng 8 và đã xoá bỏ chuỗi ngày dài nô lệ.
Còn những người bảo vệ Hồ Chí Minh thì cũng không phải vì Hồ Chí Minh mà vì họ bảo vệ quyền lợi của họ. Bởi vì dù sao ông Hồ trong lịch sử vẫn còn để lại một hình ảnh tốt đẹp trong dân chúng.
Dương Thu Hương BBC
*
“The politics of a country can only be an extension of its idea about human relationships”.
Câu này, của Naipaul, thật tuyệt, và sử dụng nó, vào xứ Mít, thì lại càng tuyệt.
Xứ Mít - ở vào cái thời chỉ có giống dân Yankee mũi tẹt – cái gọi là chính trị của nó, chỉ là cách đối xử, ý nghĩ của nó, đối với cõi bên ngoài luỹ tre làng, tức cõi mà Tô Hoài gọi là Quê Người.
Gần gụi nhất, là Làng Kế Bên, và xa hơn, Nam Kỳ, tức Đàng Trong, về phía Nam, và Trung Quốc, ở phía Bắc.
Đối xử với làng kế bên thì sao? Thì đánh cho nó bỏ mẹ, nếu chàng màng đến gái làng ta.
Đàng Trong? Phải cướp cho bằng được.
Trung Quốc ? Xứ này đúng là cái họa muôn đời của Yankee mũi tẹt. Chính vì đánh không được nó, nên phải lấn về phía Nam.
Cái politics của xứ Mít thật rõ như ban ngày, ngay cả cái vụ đánh Tây, thì cũng phải được nhìn qua tổng thể trên.

Thành thử khó mà nói như DTH nói được: Muốn hay không, thì Hồ Chí Minh cũng là người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng 8 và đã xoá bỏ chuỗi ngày dài nô lệ.

Bởi vì bạn không thể nào tách nó ra khỏi tổng thể được. Cuộc đánh Tây, phải được nhìn như là một “tổng diễn tập” cho cuộc đánh Mỹ cướp Miền Nam sau này. Cuộc đánh Tây xẩy ra, khi ông Hồ đã được Đảng Mác Xít Liên Xô rửa tội, bởi thế mà khi điệp viên OSS nhẩy dù xuống Miền Bắc gặp ông Hồ, nhìn rõ "chân lý" [chữ của DTH] về Người, đã rút dù bỏ chạy. Điều này được kể ra trong Tạp Chí CS của Đảng, như là một bằng chứng cho thấy, VC không hề muốn theo Liên Xô, mà thực tâm muốn theo Mẽo, nhằm xóa tội gây cuộc chiến lần thứ nhì, và nhằm xoa dịu Mẽo, mời Mẽo trở lại VN.
Có lần Gấu phán ẩu, nếu không có thằng Tây, thì Đàng Trong bị Đàng Ngoài nuốt chửng từ lâu rồi, là cũng theo "tầm nhìn" này. Thằng Tây, không phải tự nhiên mà cho Nam Kỳ tự trị. Không phải đây là chính sách chia để trị của tụi Tây mũi lõ. Thằng Tây cố bảo vệ Miền Nam, đối với Miền Bắc, bởi vì theo thằng Tây, cái gọi là liên hệ người với người của miền đất này, dù sao cũng gần gụi với của Tây mũi lõ hơn, hẳn thế?
Nhìn theo "tổng thể" như thế, thì còn giải thích được cái gọi là politics của VC trong vụ Bô Xịt [Bullshit] hiện đang xẩy ra tại Tây Nguyên.

Nhưng khi Tô Hoài sử dụng cái tít Quê Người, viết về một cái làng quê Bắc Kít, làng Nghĩa Đô, trong thâm tâm ông, là để chỉ điều Conrad gọi là Trái Tim Của Bóng Đen, tức chính cái xứ Đàng Ngoài khốn nạn.
Chính Làng Ta là Quê Người!
Thảm thế!

Note: Qu
ê Người!
Thần sầu!
Đúng là số 1 trong cõi Bắc Kít!

NQT

Cái công ơn đánh Tây, xóa nô lệ của ông Hồ và Vẹm, như bà DTH phán, theo GCC, sai.
Tất cả tội ác của Vẹm
, tức VC, là do đánh Tây mà ra.
Vẹm mượn cớ đánh Tây, nhân đó làm thịt sạch những người không theo Vẹm.
Trần Trọn
g Kim trong thư gửi Hoàng Xuân Hãn, nhận xét, công đầu, mà tội cũng đầu, đúng, chỉ có 1 nửa, là vì ông chết sớm, khác GCC, do sống sau ông, nên giải ra được 1 nửa còn lại.
Giá đừng đánh Tây, thì xứ Mít
thoát mọi tai ương.
Phạm Quỳnh, trước khi bị Vẹ
m dùng đá đập chết, để tiết kiệm 1 viên đạn, đã nói ra điều này. Không có thằng Tây, là thằng Mít chết [vì thằng Tầu, GCC thêm vô]
Nhưng người phán bảnh nhất, là Hannah Arendt. Không có lũ tư bản, chủ nghĩ
a thực dân, là không thể nào hiểu nổi bộ mặt thế giới bây giờ ra sao.

Cái gì làm cho Cựu Lục Địa không bị nhuộm đỏ?
Bà Applebaum cho rằng, nhờ
, chỉ, hai cuốn Bóng Đen Giữa Ban Ngày, của Koestler, và Trại Loài Vật & 1984 của Orwell.
Không hẳn như thế, theo GCC.
Nhờ vắc xin Lò Thiêu.
Chính tội ác Lò Thiêu làm Âu Châu thoát nhuộm đỏ.
Bởi vậy thằng Tây vẫn tự hào, gốc CS của xứ Mít, là từ Tẩy, không phải từ Moscow.
Chỉ 1 khi ông Hồ thoát Paris, qua Moscow, là xứ Mít... chết!

*

Thấy, lâu rồi, ở tiệm, mới bệ về. Đọc loáng thoáng lúc ở quầy, phần afterlife,OK.

Sau cùng, có thể nói, Anne Frank biểu tượng hóa quyền uy, của chỉ một cuốn sách. Do cuốn nhật ký mà cô giữ và viết, từ 1942 đến 1944, cô trở thành một hình tượng đáng nhớ nhất, bật ra từ cuộc thế chiến thứ hai – ngoài Hitler ra, tất nhiên, người lèm bèm [proclaimed] về cuộc đời, và những niềm tin của mình, ở trong một cuốn sách.
Một cách nào đó, có thể coi Lò Thiêu bắt đầu bằng cuốn sách và chấm dứt bằng một cuốn sách khác. Tuy nhiên, chính là cuốn của Anne Frank, sau cùng đã vượt lên - một tác phẩm của sự từ tâm, rắc rối, đa đoan sống dai hơn một tác phẩm đơn giản và độc ác - và đưa được đứa bé thứ nhì (1) nổi tiếng nhất trong lịch sử, vào vòng tay của thế giới.
*

(1) Đứa bé thứ nhất, là Chúa Giê Su

From:
To:
CC:
Subject: Re: Help
Date: Sat, 05 Jan 2008 16:50:15 -0500
Dung roi,
Chua Giesu Hai Dong, l'enfant Jesus.
----- Original Message -----
From:
To:
Cc:
Sent: Saturday, January 05, 2008 4:21 PM
Subject: Help 


*

Nếu Anne Frank là Lần Tới Thứ Nhì của Chúa, thì thông điệp của Người là gì?
Thuốc chủng ngừa độc Lò Thiêu, theo GCC.

Trong 1 bài viết về Anne Frank, "Ai sở hữu Anne Frank", Cynthia Ozick, phán, đúng ra cái bà kiếm thấy cuốn Nhật Ký của Anne Frank, nên đốt bỏ, vì theo bà, cái thế giới độc ác là loài người, không xứng đáng đọc nó.
Nếu như thế, thì nó không xứng đáng để Anne Frank, sống
. Cô bé tới, chịu chung với Âu Châu tai ương Lò Thiêu rồi bỏ đi. Âu Châu sau khi chịu đựng tai ương Lò Thiêu, sống sót, thì bèn có ở trong nó, cái chất đề kháng, và có thể nói, đây mới là thông điệp của Anne Frank. Nhờ nó, Âu Châu không bị nhuộm đỏ.

Yet any projection of Anne Frank as a contemporary figure is an unholy speculation: it tampers with history, with reality, with deadly truth.
Cynthia Ozick: Who Owns Anne Frank? [Ai sở hữu Anne Frank?]
Mọi phóng chiếu Anne Frank, như một hình tượng đương thời đều là trò đầu cơ khốn nạn của đám tà ma ác quỉ. Bởi làm thế là đụng chạm tới lịch sử, tới thực tại, tới chân lý chết người.

http://www.tanvien.net/Tuong_niem/anne_frank_1.html

Thông Điệp Của Anne Frank


Trong chương 9, và cũng là chương chót Những Di chúc bị Phản bội, Kundera bàn về một sự thô bạo trong thế giới văn chương: vấn đề cắt xén, vặn vẹo tác phẩm, ngay từ khi tác giả còn sống, và lẽ dĩ nhiên, càng trở nên thô bạo hơn, khi họ đã chết rồi.
Ông kể chuyện, vào cuối đời, Stravinsky quyết định tự trình diễn, như một tay dương cầm, hay một nhạc trưởng, toàn bộ âm nhạc của ông. Và bị chế diễu thậm tệ: khi Stravinsky trình diễn qua vai nhạc trưởng, ông ta khiếp đảm đến độ, mắt dán vào nốt nhạc, tuy đã thuộc lòng. Và tính giờ. Mọi nguồn vui rời bỏ ông!

Kundera tự hỏi tại sao, và ông tìm được câu trả lời, khi nghiên cứu 146 bức thư, của Stravinsky gửi cho Ernest Ansermet (người chế diễu), khởi sự năm 1914: My dear Ansernet, My dear fellow, My dear friend, Very dear, My dear Ernest, rồi bất thình lình: "Paris Oct 14, 1937, Rất vội, bạn thân của tôi. Tuyệt đối không có bất cứ một lý do gì cắt xén Chơi Bài (Jeu de cartes) khi trình diễn... Cá nhân bạn cảm thấy một vài động tác hơi ngán ngẩm (boring). Về chuyện đó, tôi chịu thua. Nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng khi bạn cố thuyết phục tôi về vụ "cắt xén"; tôi, người đã trình diễn nó tại Venice, và cũng đã cho bạn biết về sự hứng khởi của khán thính giả... Tôi thực sự không tin khán thính giả của bạn kém thông minh, so với ở Venice. Nghĩ rằng bạn có thiện ý, khi muốn co dãn để công chúng dễ hiểu hơn: Bạn, người đã từng can đảm chơi một danh tác đầy rủi ro như Giao hưởng Đàn Gió (Symphonies of Wind Instruments); khi khăng khăng cho rằng nó phải thành công, và công chúng thừa sức để thông cảm! Bởi vậy tôi không để cho bạn cắn xén "Jeu de cartes". Tôi nghĩ, tốt nhất đừng chơi nó gì hết, còn hơn là với sự dè dặt! Tôi không còn gì để thêm. Chấm hết!

Ngày 15, tháng Mười, bạn trả lời: "Tôi chỉ xin bạn tha lỗi cho tôi, về một cắt xén nho nhỏ..." "I am sorry, nhưng không cho phép bạn về bất cứ một cắt xén nào trong Jeu de cartes... Bạn ơi, đây đâu phải nhà của bạn."

Samuel Beckett có lẽ vô địch, trong nỗ lực bảo vệ nghệ phẩm: ông theo dõi từng chi tiết, ngay cả khi tập dượt, và nhiều lần nhẩy lên sàn tập, để tự tay điều khiển diễn viên. Rồi in cả một cuốn sách, những ghi chú trình diễn Tàn Cưộc (Endgame). Bạn ông, và là nhà xuất bản đứng coi thiên hạ trình diễn, nếu cần đưa ra tòa, để bảo vệ tác phẩm, sau khi ông đã chết.
Kafka gửi bản thảo Hoá Thân tới một tờ báo. Ông chủ, nhà văn Robert Musil, bằng lòng in, với điều kiện tác giả rút ngắn lại. (Buồn thật, hai thiên tài văn chương bàn chuyện in ấn, xuất bản tác phẩm văn học!). Trả lời của Kafka, cũng nguyên tắc, và cũng lạnh lùng như Stravinsky: Tôi chịu được chuyện bỏ vô thùng rác, nhưng không thể chịu nổi việc in, mà cắt xén, xẻ thịt nó! Ông không được may mắn như Stravinsky, hay Beckett. Và điều này một phần lớn, là do Max Brod, người theo truyền thuyết, vì nhân loại, đã phản bội di chúc của Kafka. Theo Kundera, Max Brod tuy yêu bạn, cố gắng hiểu bạn, đưa bạn ra ánh sáng, tạo nên cả một môn học "Kafkology", nhưng chính ông là người xa lạ nhất với nghệ thuật của Kafka.

Thật dễ dàng khi không vâng lời một người đã chết. Càng dễ dàng hơn, khi người chết là một nạn nhân của Lò Thiêu Người, một cô bé, lại là con gái của một ông bố: trường hợp Anne Frank.

Nếu Anne Frank không mất tại trại tập trung vào năm 1945, cô ăn mừng lễ sinh nhật 68 tuổi vào tháng Sáu vừa qua (1997). Và nếu cô không giữ tập nhật ký khác thường, qua đó, chúng ta có thể coi cô là một trong những nhà văn nổi tiếng của thế kỷ - cho dù vậy, số phận của cô cũng không quá sức bi đát, như là bây giờ, sau những khám phá mới nhất về cô.

Cô sinh ra để là một nhà văn. Vào năm 13 tuổi, cô đã cảm thấy quyền năng này; tới 15, cô điều khiển được nó. Nếu cô được phép sống, thật dễ dàng khi tưởng tượng, biết bao nhiêu tiểu thuyết, khảo luận, từ cái nguồn giầu sang, từ ngòi bút lưu loát, chín mùi chữ nghĩa đó. Người ta cũng thấy được những tác phẩm chẳng bao giờ có được đó, sẽ gần gụi với Nadine Gordimer, Nobel văn chương, hơn là Francois Sagan. Cô bé la lên, vào mùa xuân năm 1944: "Ta muốn tiếp tục sống, ngay cả sau cái chết của ta!" (I want to go on living even after my death!)

Ở đây không phải là tình trạng hưng phấn thái quá của tuổi trẻ. Bằng trực giác cô đã nhận ra, sự lớn lao của nghệ thuật nghĩa là gì. Và cũng đã nhận ra sức mạnh văn chương nằm bên dưới bàn tay của cô, trong những trang nhật ký: một ghi nhận văn học về những cuộc sống hãi hùng trong hiểm họa thường nhật; một tài liệu nóng bỏng nhắm thẳng tới tương lai. Vào những tháng cuối cùng, cô miệt mài rũa gọt, thêm thắt, cắt xén một số đoạn, với hy vọng in nó sau chiến tranh. Cô gọi bản thảo của cô là Het Achterhuis, tiếng Đức, "căn nhà phía sau", nhưng thường được dịch là "căn nhà phụ bí mật", và không đúng như ý của cô, qua tác phẩm. Nó liên can đến lịch sử, tới thực tại, tới sự thực chết người. "Khi tôi viết", cô tâm sự, "tôi có thể rũ sạch mọi lo toan. Sự phiền muộn biến mất, tinh anh tôi sống lại!" Nhưng cô không thể rũ bỏ sự tù tội, sự huỷ diệt, của mình.

Anne Frank bị bắt và đưa vào trại tập trung cùng với chị và mẹ như hàng triệu con người. Tất cả bị huỷ diệt, qua một chương trình đã được tính toán để bảo đảm sự thoái hóa độc ác nhất, mới mẻ nhất, quỷ ma nhất của con người. Cô thuộc trong số được chỉ định để bị huỷ diệt, xóa sạch khỏi cuộc đời, không để lại mộ chí, không một ký hiệu, không một dấu vết, bất kể loại gì. Lỗi của cô - tội ác của cô, là người Do thái, và như vậy cô bị xếp vào trong những kẻ không có quyền được hiện hữu, không còn là một vấn đề người, không được như một giống dân hạ cấp, ngay cả làm nô lệ cũng không luôn. Thoát bị đưa vô phòng hơi ngạt, cô chết vì bệnh ban đỏ (bệnh chấy rận), một tháng trước khi giải phóng.

Nhật ký, cho dù thế nào cũng không thể coi là câu chuyện của Anne Frank. Không nên gọi, một câu chuyện là một câu chuyện, nếu phần cuối bị mất. Và bởi vì phần cuối bị mất cho nên câu chuyện của Anne Frank trong vòng 50 năm, kể từ khi "Nhật Ký của một Cô Gái Trẻ" lần đầu tiên được in ra, đã bị vặn vẹo, cắt xén, chuyển hoá, dịch thuật, gia giảm, giả mạo, trẻ con hóa, ngây thơ hóa, Mỹ hoá, đồng nhất hóa, cảm tính hoá... và sự thực, đã bị chối bỏ, một cách thật thô lỗ. Trong số những người làm giả gồm có những nhà bi kịch, những ông giám đốc, những nhà dịch thuật, ông bố của Anne Frank, và ngay cả, công chúng, kể luôn cả những độc giả, những khán giả phim ảnh, kịch nghệ, trên toàn cõi địa cầu. Một tác- phẩm-kể-sự-thực thật sâu xa đã biến thành một dụng cụ để nói lên một phần sự thực, một phản sự thực. Gần như mọi bàn tay đụng vào tập nhật ký, với một thiện ý in nó ra, đều đã góp phần làm chuyện bậy, đảo ngược lịch sử.

Nhật ký được coi như một tài liệu về Lò Thiêu. Điều quan trọng cần nói, là nó không phải như vậy. Gần như bản in nào cũng choàng cho nó những vòng hoa, đại khái "ca khúc của đời sống", "sự vui thích buốt nhói ở nơi tinh thần vô tận của con người". Có một sự chế diễu, trò hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật ký chưa hoàn tất, hoặc đã được hoàn tất bởi những nơi chốn khủng khiếp: Westerbork, địa ngục chuyển tiếp ở Hòa Lan, nơi những người Do thái Hòa-lan bị tống xuất từ đó; Auschwitz; hay bởi những ngọn gió tàn khốc của Bergen-Belsen. Chính tại đây, không phải tại "căn nhà phụ bí mật", những tội ác mà chúng ta gọi là Holocaust đã xẩy ra. Ghi nhận của chúng ta là những cột con số, những danh sách tỉ mỉ những chuyến tống xuất trong những dòng chữ viết tay của những thủ thư đẹp trai; những cuốn sách chuyển hàng. Có thể Anne Frank đã được chuyển tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín "sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát, có lẽ để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ trong vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang hướng về Auschwitz, và vào tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng ngạt, và phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười, hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách.

Đến với nhật ký mà bỏ qua những Đêm, của Elie Wiesel, hay Những Kẻ Chết Đuối và Những Người Được Cứu Vớt, của Primo Levi (chỉ nhắc tới hai chứng nhân), hay những cột con số, những chuyến hàng, những thuật ngữ như "mẩu"... thì đúng là tự cho phép mình được quyền ngây thơ một cách xấu xa, không thể tin được! Những ngợi ca theo kiểu "bản chúc thư hoài hoài về tính cao cả không thể bị huỷ diệt của tinh thần nhân loại", "một nguồn không bao giờ cạn của can đảm và hứng khởi"... sự thực chỉ là những trò ru ngủ. Sự thành công, chiến thắng, của Bergen-Belsen, chính là nó đã thổi sạch, cái gọi là khả tính can đảm, nó cho thấy sự huỷ diệt dễ dàng của tinh thần nhân loại, và đây là bản di chúc lâu dài của nó.

"Hier ist kein Warum", một lính gác ở Auschwitz đã cảnh cáo: ở đây không có "tại sao", không câu hỏi, không câu trả lời, chỉ là một mầu u tối của không-lý lẽ (unreason). Câu chuyện của Anne Frank, được kể lại, rất thực, là không cứu chuộc, không thể cứu chuộc. Và đó là thông điệp của Anne Frank.
NQT

Rất ư là tình cờ, tờ Guardian, số cuối tuần, 20 & 26 May, 2016, phán, đúng như GCC: Á Châu chưa xong đâu, với quá khứ của nó, khác hẳn Âu Châu.
Xứ Mít chết, khi Hồ bỏ....  Lò Thiêu, chọn Cái Ác Ác Châu, Cái Ác Tẫu, Cái Ác Bắc Kít, mà, cho đến lúc này, chưa có thuốc chủng!

*

Chưa xong đâu, với quá khứ 1 ngàn năm nô lệ thằng Tầu

Sinh nhạt Bác

Viên gạch Bác


Ha ha ha
Nghe tin tức nóng hổi nhé các bạn ơi


Đi tìm phê bình gia Mít

Trong số bạn bè, Gấu là tên học xong sớm nhất, ra trường, đi làm, trong khi chúng bạn thì còn đang mài đũng quần, trên ghế nhà trường.
Lần qua Cali, 1998, nhân dịp phát hành cuốn Lần Cuối Sài Gòn, Gấu tình cờ gặp Thầy Đạo ở nhà sách VK. Ông có vẻ bực, khi Gấu không biết ông là ai, mà làm sao biết được, cho dù sau đó, ông cho biết, đã từng tới nhà Gấu, khi còn ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận, với ông anh của BHD. Khi đó, Gấu đang học Toán Đại Cương, MG. Như thế, ông đang học thi tú tài. Bởi là vì chính là qua lần gặp đó, Gấu biết ông anh BHD. Cả hai vô hẻm, để gặp ông bạn của họ, là bạn Uyển, cũng đang học thi tú tài, sau khi rớt.
Gấu học MG mất 1 năm. Đến ngày, không hiểu bài toán nói gì, do chỉ có cái cours quay ronéo của Thầy Monavon, bèn bỏ MG, năm sau học MPC, Toán Lý Hoá, cùng với ông anh BHD, khi đó vừa vô Đại Học. Ông cũng bỏ phòng thi liền, vì không làm sao giải nổi bài toán, còn Gấu làm như máy, vì đã từng học MG. Đó là sự thực, vì chính ông Thầy, khi đứng coi thi, phải đứng ngay kế bên Gấu, nhìn Gấu, không them làm nháp, cứ thế, cứ thế, giải thẳng 1 lèo, 10 bài toán. Ông thầy lắc đầu, nói, ký sau, tôi ra bài khó hơn!
Gấu rớt kỳ 1, khi không làm nổi bài thực tập, không phải bài viết, khi cứ đến giờ thực tập, là ký tên 1 phát, rồi nhảy ra hành lang đọc… Camus, Kẻ Xa Lạ. Gấu biết Camus, đúng thời gian này.

Sách Báo

 Kẻ Phản Thùng

*

Ghost Hunter
by Eleanor Wachtel

ELEANOR WACHTEL: Sebald writes a requiem for a generation in The Emigrants, an extraordinary book about memory, exile, and death. The writing is lyrical, the mood elegiac. These are stories of absence and displacement, loss and suicide, Germans and Jews, written in the most evocative, haunting, and understated way. The Emigrants is variously called a novel, a narrative quartet, or simply unclassifiable. How would you describe it?

Sebald viết kinh cầu cho 1 thế hệ trong Di Dân, một cuốn sách khác thường về hồi ức, lưu vong, và chết chóc. Cách viết thì trữ tình, giọng điệu thì bi ai. Đây là những câu chuyện về trống vắng và đổi dời, trôi lạc, “xểnh nhà ra thất thổ” - displacement, mất mát, và tự tử, Đức và Do Thái, viết bằng một cách nức nở, gợi nhớ, ám ảnh, và kìm giữ, cố làm cho nó chìm xuống - không 1 tí cường điệu - Di dân có nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ tấu khúc mang tính tự sự -chắc là giống Tứ Tấu Khúc của GCC? - hay giản dị mà phán, đếch làm sao gọi bằng 1 cái tên nào, không thể xếp loại. Ông nghĩ sao?


W. G. SEBALD: It's a form of prose fiction. I imagine it exists more frequently on the European continent than in the Anglo-Saxon world, i.e., dialogue plays hardly any part in it at all. Everything is related round various corners in a periscopic sort of way. In that sense it doesn't conform to the patterns that standard fiction has established. There isn't an authorial narrator. And there are various limitations of this kind that seem to push the book into a special category. But what exactly to call it, I don't know.


GCC tính đọc Kẻ Phản Thùng, nhưng THNM, hay, chắc là do sự kiện, tác giả của nó coi Sebald là hero, thế là, thay vì đọc Kẻ Phản Thùng, thì giới thiệu Sebald, qua bài phỏng vấn ông, do Wachtel thực hiện, và bài essay của Dyer, về ông.

Viết/Đọc

http://www.nybooks.com/articles/2016/05/26/surrounded-by-jew-haters/

Surrounded by Jew-Haters
John Banville   
May 26, 2016 Issue

For Two Thousand Years   
by Mihail Sebastian, translated from the Romanian by Philip Ó Ceallaigh
London: Penguin, 231 pp., £9.99 (paper)

Nhật Ký Thời Chiến

Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature).

Khi nhà văn Ba lan gốc Do Thái Mihail Sebastian quyết định viết nhật ký, vào năm 1935, ông 28 tuổi, và đã nổi tiếng như là một ký giả, kịch tác gia, và tiểu thuyết gia. Là một Do thái “hội nhập”, ông cảm thấy quá chán chủ nghĩa bộ lạc, và tỏ ra hoài nghi những khẩu hiệu, theo kiểu “yêu nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa”, hay rõ hơn, “những sự nghiệp lớn lao mang tính ý thức hệ”. “Tôi có niềm tin ở con người cá nhân (the individual man), nhưng niềm tin ở đây cũng chỉ là một thoả thuận giữa hai con người”, ông viết vào năm đó (1935). 

Là một thành viên trong một nhóm gồm toàn thứ dữ: Mircea Eliade, Eugène Ionesco, Camil Petrescu, E. M. Cioran, nhưng đến khi, nhiều bạn bè của ông ăn phải thuốc lú, cập kè với một nhóm cực tả có tên là Vệ Binh Sắt, ông bèn giãn ra. (Eugène Ionesco, “giáo chủ” trường phái Kịch Phi Lý, là người độc nhất “không thèm chơi với hủi” (the only one who refused to embrace totalitarianism: người độc nhất từ chối ôm ấp chủ nghĩa toàn trị).

Trong thời kỳ khủng hoảng chính trị-xã hội của thập niên 1930, chủ nghĩa bài Do Thái nở rộ, ở đám đông cũng như trong số những thành phần được coi là tinh hoa của xã hội. Ngay đầu năm 1938, chính quyền Octavian Goga (một nhà thơ có tài), đã ra lệnh thu hồi thẻ công dân của hàng trăm ngàn người Do Thái. Vào tháng Chín, 1940, nhóm cực tả Vệ Binh Sắt, có khuynh hướng  phò Nazi, bài Do Thái, lên cầm quyền. Tướng Ion Antonescu, một trong những đồng minh của nhóm, trở thành nhà “dìu dắt” đất nước. Tuy nhiên, chỉ mấy tháng sau, ông đập tan cú đảo chánh của Vệ Binh Sắt, và ban hành chế độ độc tài riêng của ông ta.

Chiến thuật bài Do Thái của chế độ Antonescu rất “uyển chuyển”: thật cứng rắn trong những năm đầu, thận trọng hơn khi chiến thắng của Đức không còn “chắc ăn”; cực kỳ dã man tại những vùng biên giới phía đông với Bessarabia và Bukovina, nơi người Do Thái bị tống xuất hàng loạt tới những trại tập trung ở Transnistria, bị Romania chiếm đóng. Phần đất nước còn lại, là một chính sách đỡ hiểm độc đi một chút. Tuy nhiên, ngay ở Bucharest, nơi Sebastian trải qua những năm tháng chiến tranh với bà mẹ và em trai, thường xuyên xẩy ra những đợt hung hăng xuống đường bài Do Thái, làm nhục họ, chơi trò blackmail, và những đợt cưỡng bức lao động.

Nhật ký của Sebastian cho thấy: đây là một trong những chứng liệu quan trọng nhất  về thảm kịch Do Thái trong giai đoạn trên, có thể so sánh với “Sống sót tại Auschwitz” của Primo Levi, hay nhật ký của Anne Frank. Không như Levi và Frank, là những người viết từ bên ngoài Địa Ngục, miêu tả cuộc sống ở những trại tập trung hay trong khi ẩn trốn, Sebastian viết, với một sự chân thành và một cái nhìn sắc bén, từ lò luyện ngục, là chính căn phòng riêng của mình ở Bucharest, nơi ông “sống với nỗi chết không rời”, trong sợ hãi có thể bị gõ cửa mời đi bất cứ lúc nào, tới một nơi là trại tập trung, hay tử thần. Trong những lúc tạm cho mình thoải mái, ông tra hỏi đời mình: thú nghe nhạc, những cuộc tình, đọc, viết, hay học tiếng Anh.

Khi ông mất vào năm 1945, một trong những anh em của ông đã giấu nhật ký, gồm 9 cuốn sổ tay, sợ chính quyền theo Stalin tịch thu. Nhật ký được lén đưa qua Israel, rồi đưa lại cho một người anh/em ông, đã dời đi Paris sau thời kỳ trên. Mãi tới năm 1997 gia đình ông mới đồng ý cho xuất bản.
(Sebastian bị xe tải cán, mất vào ngày 29 tháng Năm, 1945). 

Trên đây là tóm tắt bài giới thiệu nhật ký của Sebastian, đăng trên tờ The New Yorker (Người Nữu Ước, số Oct 2, 2000). Tác giả bài giới giới thiệu là Norman Manea, nhà văn Romania đào thoát qua Tây Phương; Jennifer tôi đã giới thiệu ông với độc giả Tin Văn, qua bài “Số phận một nhà văn lưu vong”.
Dưới đây là một vài trích đoạn, từ nhật ký của Sebastian, dưới nhan đề “Bạn và Phát xít” (Friends and Fascists) trên tờ The New Yorker số đã dẫn.

1936

Ngày 3 tháng Năm:
Đại hội của Hội Nhà Văn. Làm sao họ có thể tỏ ra trịnh trọng, với những trò hề lố bịch như vậy, nhỉ?…

Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature). Tại sao mình không làm một nghề bình thường – luật sư, công chức? Tại sao không chọn phần số, một con người được sinh ra là để có một căn nhà của riêng mình, một đời của riêng mình, một tình yêu của riêng mình – mà chẳng có một tí rắc rối nào hết?

Ngày 25 tháng Sáu:
Tôi gặp Camil Petrescu sáng nay. Ông lập lại những gì ông nghĩ, về những vụ tấn công người Do Thái mới xẩy ra.
-Thật đáng tiếc, bạn già ơi. Nhưng tất cả những người Do Thái đều có trách nhiệm về chuyện xẩy ra.
-Thế là thế nào, Camil?
-Bởi vì có quá nhiều Do Thái.
-Nhưng cũng có quá nhiều người Hung Gia Lợi vậy?
-Có thể, nhưng ít ra họ cũng ở cùng một chỗ, một vùng.
Ông cứ thế tiếp tục, “Bạn thân ơi, những người Do Thái gây ra hết. Không thể tin họ được, đã vậy lại hay xía vô chuyện chẳng liên quan tới họ.
Đó là Camil Petrescu nói. Ông là một trong những bộ óc tuyệt vời nhất ở Romania.
Một trong những con người đa cảm nhất ở Romania.

Ngày 25 tháng Chín. Chiều hôm qua, đang trò chuyện êm ả với Mircea [Eliade] về chính sách ngoại, ông bất thình lình trở giọng hung hãn.
-Titulescu? [Một vị bộ trưởng ngoại giao bài Đức]. Ông ta đáng bị xử tử. Kéo ông ta ra trước đội hành quyết.
Chẳng lẽ tôi mất một người bạn chỉ vì những chuyện không đâu như vậy? Làm sao tôi quên nổi mọi điều tuyệt vời ở ông: ngây thơ, trẻ con, thành thật…
Ông bạn của tôi có thể làm việc thoải mái cho nhật báo bài Do thái Vremea. Chuyện bình thường, chẳng có chi là ghê gớm.
Dù sao tôi cũng cố giữ cho được người bạn của mình.

1937

Ngày 8 tháng Giêng. Sinaia.
Trong cỡ chừng 4 tiếng đồng hồ, tôi nặn ra được ba trang, nhưng vẫn còn cả lố phải sửa chữa.
Hôm qua, trong lúc đi dạo núi, tôi cứ suy nghĩ hoài. Tôi thiếu tính tự phát (spontaneity), mà thiếu nó gần như thiếu tất cả, Thành thử, tôi chỉ có thể viết những câu chuyện chừng hai trăm trang, với giọng điệu nhật ký riêng, chẳng ra vẻ tiểu thuyết. Tôi cũng nghĩ, mình có thể viết kịch, mà món này sẽ khá hơn nhiều….

Ngày 15 tháng Giêng. Bucharest.
Đã hơn nửa tháng, tôi chưa đi coi Marietta [một nữ nghệ sĩ]. Bà vừa mới giáng một đòn cho đám Do Thái:

“Tụi khốn giật bánh mì khỏi miệng chúng ta; chúng bóc lột chúng ta, làm chúng ta nghẹt thở. Đuổi chúng ta khỏi đây. Xứ sở này là của chúng ta. Không phải của họ. Romania là của người Romania.”

Ngày 25 tháng Hai.
Chiều qua, có một bữa xum họp bè bạn tại chỗ tôi ở. Có vợ chồng Mircea, Marietta và chồng… Tôi tự hỏi không biết có phải đây là lần họp bạn cuối cùng. Thật khó mà kéo dài sự giả dối, kể từ khi họ chơi với đám Vệ Binh Sắt. Liệu có thể có tình bạn với những người mà những ý nghĩ, tư tưởng thật xa lạ với mình? Xa lạ đến nỗi, vừa thoáng thấy bóng tôi, là họ ngưng câu chuyện, trong dáng điệu tủi hổ và bối rối?…
Nếu tôi không phải là một tên Do Thái, những vở kịch của tôi có thể được trình diễn, và tôi sẽ là một “kịch tác gia”, được như vậy là hết xẩy, tôi đâu còn muốn gì hơn thế nữa cơ chứ!…

Lương tâm nhà nước (The national conscience) không cho phép một vở kịch của Mihail Sebastian được trình diễn tại nhà hát Bucharest
Tôi phải thú nhận, tôi chẳng thèm đặc biệt lo lắng cho những bản thảo của tôi. Chuyện tôi lo, là những cuốn sách không thể viết ra được nữa, nhất là cuộc đời này, cho tới nay, tôi vẫn chẳng làm được một chuyện gì cho ra hồn…

Jennifer Tran chuyển ngữ

Đại hội của Hội Nhà Văn. Làm sao họ có thể tỏ ra trịnh trọng, với những trò hề lố bịch như vậy, nhỉ?…

My Old Saigon

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/
 
*

Bảo vệ Đàng Trong
Giải Phóng Đàng Ngoài