|
Déformer, c'est corriger la nature en fonction de la sensibilité
de l'artiste:
Vặn cái xịp 1 phát, là làm cái
bướm hiện ra cái đẹp số 1 của nó!
[Dịch loạn!]
Trong khi
chờ SN, ngắm cái tranh "mise à nu" mắc giá nhất nhì
thế giới, của Modigliani,
Và cái xịp mà VP cực thèm khi đọc "Nhà
có cửa khoá trái",
Thì cũng đủ lãng quên đời.
Trước khi đi xa, bạn thèm mang theo cái gì
cùng với mình?
Cái xịp của 1 em hay là bầu sữa của bà mẹ?
Ui chao ngắm
cái cổ cao, thì lại nhớ đến… thơ:
Nai cao, gót lẩn trong mù
Hay, cụ thể hơn:
Vuốt tóc em lưng dài
Tay vuốt tóc mà con heo lòng lại nghĩ đến ngả
em – cái lưng dài này, cái cổ dài này….
- xuống giường!
TTT 10 years Tribute
The
saxophone
Has a vulgar tone.
I wish it would
Let me alone.
The saxophone
Is ordinary.
More than that,
It's mercenary!
The saxophone's
An instrument
By which I wish
I'd never been
Sent!
Langston Hughes: Conservatory
Student Struggles with Higher Instrumentation [in“The
Weary Blues”]
Helen Vendler: The Unweary Blues
The Collected Poems of Langston
Hughes
Dạ khúc
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng
ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa
Ði đi chúng ta đến công
viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán
rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hanoi
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà
đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi
than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau
tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng dậy
Người bán hàng đã
ngủ sau quầy
Anh đưa em đi trốn
Những giày vò ngày
mai
TTT: Liên Đêm
Mặt trời tìm thấy
The
New Yorker April 7, 2014
Kẻ biến mất
Lúc này trời ấm
áp, ngồi ở cổng, vào lúc đêm
Một người nào đó chợt
nhớ tới một người hàng xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba
mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm
cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà
nữa
Với ông chồng và mấy đứa
nhỏ.
Chẳng ai lúc này
còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà
nở nụ cười, và nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và
chẳng hiểu tại sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm
trong lòng một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng
thể nào có một.
C uốn này, thấy lâu rồi,
nhưng không dám đụng vô. Bìa
cứng, xót tiền quá, và đọc, thì
cũng cực quá.
Nhân Tết
Mít, bèn bệ về, vì, cũng có
ý, đi 1 đường tưởng niệm ông anh nhà
thơ, bằng cái bài của bà nữ phê
bình mũi lõ này, về Langston Hughes.
Lần đầu GCC nghe
cái tên ông nhà thơ da đen
này, là qua thơ TTT.
Nghê thuật
đen.
Đen, với ông
anh là da đen, là Jazz...
Nhưng với GCC,
là… cơm đen!
Như cái note dưới đây
Suicide's Note:
The calm,
Cool face of
the river
Asked me for
a kiss
Thơ Mỗi Ngày
30.4.2016
OBAMA NGU
Obama sang thăm
VN được Trọng lú làm tiệc đãi toàn món
cá. Thâm ý của Trọng là muốn cho nhân
dân VN và thế giới thấy là cá VN rất an
toàn. Nhưng suốt bữa tiệc Obama chỉ ngồi uống rượu suông
chứ không đụng vào cá. Trọng sốt ruột nói
với anh thông dịch viên:
"Mày nói với nó cá này
được nhập cảng từ Mỹ chứ không phải cá ở VN nên
cứ ăn vô tư để phóng viên quay phim chụp hình!"
Thông dịch viên dịch xong, Obama đáp:
"Anh làm ơn nói với ngài tổng bí
thư là khi thấy ngài tbt gắp miếng cá cho vào
mồm thì tôi biết đó không phải là
cá của VN rồi. Tôi không ăn không phải vì
tôi sợ ăn phải cá nhiễm độc của VN. Tôi không
ăn chỉ vì không muốn nhân dân Mỹ nghĩ rằng
tôi tiếp tay làm trò mèo cho đảng CS VN
thôi!"
Sau khi thông dịch viên dịch xong, Trọng nói
với giọng bực tức:
"Mày nói với nó, ngu vậy, sợ dân
vậy hèn nào chỉ làm tổng thống được có
8 năm!"
Note:
Không biết có cái cú, bữa tiệc toàn
cá ?
Nếu có, thì bửn quá!
Y chang cái cú muợn cả người chết để quảng cáo sách,
của Ông Số 2, tức Thái Thượng Hoàng, của băng
đảng Cờ Lăng
Nhìn
cuốn sách thì lại nhớ đến Brodsky. Ông
biểu, ai điếu là thuốc thử đạo hạnh của người còn
sống đối với người đã khuất.
Băng đảng, bộ lạc Cờ Lăng
này không bỏ qua 1 cơ hội để xeo phi và bán
sách!
Người chết chúng cũng
không tha!
NQT
Sinh Nhạt Bác
http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/sinh_nhat_bac.html
Chào Mừng Sinh Nhạt Bác!
Đi tìm một cái
nón cối đã mất
Hình: Uncle Ho, stand
discarded.
Ông Hồ... liệng
cống [discarded], thay vì... lộng kiếng!
Nhân viết về ông Hồ
thời kỳ đói rét ở Paris ngày nào, Gấu
sực nghĩ đến huyền thoại về viên gạch đã từng mang lại
chút ấm áp cho Bác.
Tình cờ , và thú
vị làm sao, Gấu được đọc một mẩu chát trên một
diễn đàn, liên quan với vụ việc này. Xin post
lại, có bỏ đi một số chi tiết cá nhân.
Bạn...
ơi, bạn sang Pháp lâu chưa, hay bạn đang ở nước nào
thế? Mình chưa được đến thăm nhà Bác Hồ ở Paris,
nhưng cô giáo tiếng Pháp của mình bảo rằng
tên phố Bác ở ngày xưa là Compoint cơ,
thế có đúng không hả bạn.
-Thế
bạn TT có biết sự tích viên gạch sưởi ở ngõ
Công - Poăng không? Hay cực!
-Mình
chỉ biết Bác Hồ dùng gạch để sưởi ấm mùa đông
thôi, mình không biết sự tích hòn
gạch ấy thế nào bạn ạ. Bạn có thể kể cho mình
được không?
-Khéo bác...
lại kể chuyện bác mang hòn gạch lấy từ cái
lò gạch sinh ra Chí Phèo sang Pháp
cũng nên
-Ừ,
vậy tớ kể chuyện viên gạch ngõ Công Poăng cho các bạn nghe nhá.
Đầu những
năm 70' của thế kỷ XX, sau khi Người đã qua đời được vài năm,
một tổ công tác chính trị được thành lập. Đa số
các thành viên của tổ là các khoa học gia
về bảo tồn, bảo tàng, lịch sử và khảo cổ học. Đó là
tiền thân của Bảo tàng HCM sau này.
Nhiệm
vụ của tổ công tác là đi khắp đất nước, và
một số địa điểm ngoại quốc để sưu tầm tư liệu, vật dụng hàng
ngày... của Người trong thời gian Người bôn ba hải ngoại
để tìm đường cứu nước. Một nhóm công tác
đặc biệt được cử sang Pháp cũng không ngoài mục
đích đó.
Một nhiệm
vụ cụ thể của nhóm công tác là tìm hiểu
về sự thực chuyện viên gạch Người dùng để sưởi ấm mùa
đông khi Người đang là anh thanh niên 25 tuổi
đẹp trai nhưng nghèo khổ ở Paris, sống ở nhà số 9
ngõ Công Poăng. Nhà số 9 Công Poăng tầng
dưới là quán cà phê, tầng trên
Người thuê ở, người làm nghề rửa ảnh. Phòng kê
vừa một cái giường, hai cái ghế một cái bàn
con.
Nhóm
công tác đã phỏng vấn nhiều người dân
sống trong khu vực này cùng thời với sự kiện viên
gạch, và kết quả là không có người dân
nào biết về sự kiện này.
Đến ngày
cuối cùng trong thời gian làm việc. Nhóm công
tác tình cờ gặp một bà cụ già 70-80 tuổi nhăn
nheo móm mém nhưng vẫn còn giữ lại một chút nhan
sắc thời trẻ sống tại nhà số 11 ngõ Công Poăng. Khi được
hỏi về sự kiện viên gạch Người dùng sưởi ấm trong mùa
đông giá rét ở Paris, bà cụ già công
nhận là có biết chuyện này. Nhóm công
tác mừng rỡ và đề nghị bà cụ giúp đỡ
để tìm lại viên gạch để mang về Việt Nam, bà
cụ gật đầu mỉm cười duyên dáng và nói:
- "Viên
gạch đó chính là tôi đây!"
Đỉnh
cao chói lọi
https://www.thestar.com/entertainment/books/2012/09/01/the_zenith_by_duong_thu_huong_review.html
By
Jason Beerman
Wed., Dec. 26, 2012
Think of literature written in or translated into English about
Vietnam and a handful of writers come to mind: Marguerite Duras, Graham
Greene, and Tim O’Brien. Giller Prize-winning author Vincent Lam also
based his recently published first novel, The Headmaster’s Wager, in Vietnam,
from where his Chinese parents emigrated.
While these authors each evoke a Vietnam of their choosing —
a Vietnam steeped in war, a Vietnam seen through the lens of colonialism
or the eyes of American soldiers — none can claim the unique perspective
of Duong Thu Huong, a former Vietnamese Communist cadre who was kicked
out of the Party and jailed in 1991 after writing two novels — both bestsellers
in Vietnam — that depicted the Vietnamese government as corrupt and abusive.
Since then, her work has been banned in Vietnam, but has appeared in translation
in several languages abroad, likely making her the most widely read Vietnamese
novelist in the world.
Huong currently lives in exile in Paris, where she wrote The
Zenith, her sixth novel to be translated into English. Like her previous
work, this is an overtly political novel — it traces, through several
tangentially related narrative threads, Ho Chi Minh’s final days spent
in an isolated mountaintop temple, where he languishes under the watchful
gaze of a coterie of guards, cooks and a doctor.
To this day, the Vietnamese government cultivates a carefully
constructed image of “Uncle Ho” as a celibate saint-like figure who is
a revolutionary father to all of Vietnam. Writing about him in a way
that does not conform to Party mythology is not permitted, which makes
Huong’s version of Ho inherently blasphemous.
When the book begins, it is 1969, and Ho lives an imprisoned
and monastic life timed to the temple bells, the chanting of Buddhist
prayers and the whims of his guards. He ponders the past in a series
of conversations with himself, moments of reflection, and hallucinations,
one of which includes a cameo by Chairman Mao, who tells him, “Power
cannot be harmonized with ordinary feelings of conscience.”
This idea of power clashing with conscience forms the core of
the novel. Surprisingly, it is Huong’s fictionalized Ho Chi Minh for
whom conscience overrides the desire for power, to the point where he
is powerless to do anything while his erstwhile comrades plunder.
In the novel, Ho is haunted by memories of a love affair he had
in the 1950s with a woman forty years younger. The relationship, which
resulted in a son and a daughter, was kept out of sight, and when Ho
wanted to make it public, the Politburo voted against it and eventually
set into motion the woman’s brutal torture, rape and murder.
Ho is tormented by his inaction, but realizes that he is fated
to become “a hand-carved wooden puppet to these murderers.” Indeed,
he had already ceded power long before. His conscience — his idealism
rooted in socialist doctrine — gave rise to a liberated Vietnam, but
in the subsequent grab for power, he is turned into a figurehead, “his
authority no more than the fleeting enchantment thrown by an opera-house
lantern.” As a result, those who are really in power remain huddled in
the shadows, pulling tautly on the marionette strings.
The Zenith, lyrically translated by husband-wife translators
Stephen B. Young and Hoa Pham Young, is part modern Vietnamese fable,
part tragedy. Huong, who says she spent 15 years researching the novel,
has written what amounts to a eulogy for Uncle Ho. Amidst the simmering
anger directed toward “the state machine,” there is a modicum of sympathy
for Ho, who dances under strings manipulated by men without conscience.
Jason Beerman lives and writes in Hong Kong.
“The politics of a
country can only be an extension of its idea about human relationships”
Naipaul. Pankaj Mishra trích dẫn trong The Writer and the World. Introduction.
Nền chính trị của một xứ sở chỉ có thể là
sự mở rộng ra, ý nghĩ của xứ sở đó, về những liên
hệ, giao tiếp giữa con người với con người.
Muốn hay không, thì Hồ Chí Minh cũng là
người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng
8 và đã xoá bỏ chuỗi ngày dài nô
lệ. Còn những người bảo
vệ Hồ Chí Minh thì cũng không phải vì Hồ Chí
Minh mà vì họ bảo vệ quyền lợi của họ. Bởi vì dù
sao ông Hồ trong lịch sử vẫn còn để lại một hình
ảnh tốt đẹp trong dân chúng.
Dương Thu
Hương BBC
*
“The politics of a country can only be an extension of its idea
about human relationships”.
Câu này, của Naipaul, thật tuyệt, và sử
dụng nó, vào xứ Mít, thì lại càng
tuyệt.
Xứ Mít - ở vào cái thời chỉ có giống
dân Yankee mũi tẹt – cái gọi là chính trị
của nó, chỉ là cách đối xử, ý nghĩ của nó,
đối với cõi bên ngoài luỹ tre làng, tức cõi
mà Tô Hoài gọi là Quê Người.
Gần gụi nhất, là Làng Kế Bên, và
xa hơn, Nam Kỳ, tức Đàng Trong, về phía Nam, và
Trung Quốc, ở phía Bắc.
Đối xử với làng kế bên thì sao? Thì
đánh cho nó bỏ mẹ, nếu chàng màng đến gái
làng ta.
Đàng Trong? Phải cướp cho bằng được.
Trung Quốc ? Xứ này đúng là cái
họa muôn đời của Yankee mũi tẹt. Chính vì đánh
không được nó, nên phải lấn về phía Nam.
Cái politics của xứ Mít thật rõ như ban
ngày, ngay cả cái vụ đánh Tây, thì
cũng phải được nhìn qua tổng thể trên.
Thành thử khó mà nói như DTH nói
được: Muốn hay không,
thì Hồ Chí Minh cũng là người lãnh đạo thành
công Cách mạng Tháng 8 và đã xoá
bỏ chuỗi ngày dài nô lệ.
Bởi vì bạn không thể nào tách nó
ra khỏi tổng thể được. Cuộc đánh Tây, phải được nhìn
như là một “tổng diễn tập” cho cuộc đánh Mỹ cướp Miền
Nam
sau này. Cuộc đánh Tây xẩy ra, khi ông Hồ đã
được Đảng Mác Xít Liên Xô rửa tội, bởi thế mà
khi điệp viên OSS nhẩy dù xuống Miền Bắc gặp ông Hồ,
nhìn rõ "chân lý" [chữ của DTH] về Người, đã
rút dù bỏ chạy. Điều này được kể ra trong Tạp Chí
CS của Đảng, như là một bằng chứng cho thấy, VC không hề muốn
theo Liên Xô, mà thực tâm muốn theo Mẽo, nhằm xóa
tội gây cuộc chiến lần thứ nhì, và nhằm xoa dịu Mẽo,
mời Mẽo trở lại VN.
Có lần Gấu phán ẩu, nếu không có
thằng Tây, thì Đàng Trong bị Đàng Ngoài
nuốt chửng từ lâu rồi, là cũng theo "tầm nhìn" này.
Thằng Tây, không phải tự nhiên mà cho Nam Kỳ
tự trị. Không phải đây là chính sách
chia để trị của tụi Tây mũi lõ. Thằng Tây cố bảo vệ
Miền Nam, đối với Miền Bắc, bởi vì theo thằng Tây, cái
gọi là liên hệ người với người của miền đất này, dù
sao cũng gần gụi với của Tây mũi lõ hơn, hẳn thế?
Nhìn theo "tổng thể" như thế, thì còn giải
thích được cái gọi là politics của VC trong vụ
Bô Xịt [Bullshit] hiện đang xẩy ra tại Tây Nguyên.
Nhưng khi Tô Hoài sử dụng cái tít
Quê Người, viết về một cái làng quê Bắc Kít,
làng Nghĩa Đô, trong thâm tâm ông, là
để chỉ điều Conrad gọi là Trái Tim Của Bóng Đen,
tức chính cái xứ Đàng Ngoài khốn nạn.
Chính Làng Ta là Quê Người!
Thảm thế!
Note: Quê Người!
Thần sầu!
Đúng là số 1 trong cõi Bắc Kít!
NQT
Cái công ơn đánh Tây, xóa nô
lệ của ông Hồ và Vẹm, như bà DTH phán, theo
GCC, sai.
Tất cả tội ác của Vẹm, tức VC, là do đánh Tây
mà ra.
Vẹm mượn cớ đánh Tây, nhân đó làm
thịt sạch những người không theo Vẹm.
Trần Trọng Kim
trong thư gửi Hoàng Xuân Hãn, nhận xét, công
đầu, mà tội cũng đầu, đúng, chỉ có 1 nửa, là
vì ông chết sớm, khác GCC, do sống sau ông, nên
giải ra được 1 nửa còn lại.
Giá đừng đánh Tây, thì xứ Mít
thoát
mọi tai ương.
Phạm Quỳnh, trước khi bị Vẹm dùng đá đập chết, để
tiết kiệm 1 viên đạn, đã nói ra điều này.
Không có thằng Tây, là thằng Mít chết
[vì thằng Tầu, GCC thêm vô]
Nhưng người phán bảnh nhất, là Hannah Arendt. Không
có lũ tư bản, chủ nghĩa thực dân, là không
thể nào hiểu nổi bộ mặt thế giới bây giờ ra sao.
Cái
gì làm cho Cựu Lục Địa không bị nhuộm đỏ?
Bà Applebaum cho rằng, nhờ, chỉ, hai cuốn Bóng Đen Giữa
Ban Ngày, của Koestler, và Trại Loài Vật &
1984 của Orwell.
Không hẳn như thế, theo GCC.
Nhờ vắc xin Lò Thiêu.
Chính tội ác Lò Thiêu làm Âu
Châu thoát nhuộm đỏ.
Bởi vậy thằng Tây vẫn tự hào, gốc CS của xứ Mít,
là từ Tẩy, không phải từ Moscow.
Chỉ 1 khi ông Hồ thoát Paris, qua Moscow, là
xứ Mít... chết!
Thấy, lâu
rồi, ở tiệm, mới bệ về. Đọc loáng thoáng lúc ở quầy,
phần afterlife,OK.
Sau cùng,
có thể nói, Anne Frank biểu tượng hóa quyền uy, của
chỉ một cuốn sách. Do cuốn nhật ký mà cô giữ và
viết, từ 1942 đến 1944, cô trở thành một hình tượng đáng
nhớ nhất, bật ra từ cuộc thế chiến thứ hai – ngoài Hitler ra, tất
nhiên, người lèm bèm [proclaimed] về cuộc đời, và
những niềm tin của mình, ở trong một cuốn sách.
Một cách nào đó, có thể coi Lò
Thiêu bắt đầu bằng cuốn sách và chấm dứt bằng một
cuốn sách khác. Tuy nhiên, chính là
cuốn của Anne Frank, sau cùng đã vượt lên - một tác
phẩm của sự từ tâm, rắc rối, đa đoan sống dai hơn một tác
phẩm đơn giản và độc ác - và đưa được đứa bé
thứ nhì (1) nổi tiếng nhất trong lịch sử, vào vòng
tay của thế giới.
*
(1) Đứa bé thứ nhất,
là Chúa Giê Su
From:
To:
CC:
Subject: Re: Help
Date: Sat, 05 Jan 2008 16:50:15 -0500
Dung roi,
Chua Giesu Hai Dong, l'enfant Jesus.
----- Original Message -----
From:
To:
Cc:
Sent: Saturday, January 05, 2008 4:21 PM
Subject: Help
Nếu Anne Frank
là Lần Tới Thứ Nhì của Chúa, thì thông
điệp của Người là
gì?
Thuốc chủng ngừa độc Lò Thiêu, theo GCC.
Trong
1 bài viết về Anne Frank, "Ai sở hữu Anne Frank", Cynthia Ozick,
phán, đúng ra cái bà kiếm thấy cuốn Nhật Ký
của Anne Frank, nên đốt bỏ, vì theo bà, cái thế
giới độc ác là loài người, không xứng đáng
đọc nó.
Nếu như thế, thì nó không xứng đáng để Anne
Frank, sống. Cô
bé tới, chịu chung với Âu Châu tai ương Lò Thiêu
rồi bỏ đi. Âu Châu sau khi chịu đựng tai ương Lò
Thiêu, sống sót, thì bèn có ở trong nó,
cái chất đề kháng, và có thể nói, đây
mới là thông điệp của Anne Frank. Nhờ nó, Âu Châu
không bị nhuộm đỏ.
Yet any projection
of Anne Frank as a contemporary figure is an unholy speculation: it tampers
with history, with reality, with deadly truth.
Cynthia Ozick: Who Owns Anne Frank? [Ai sở hữu Anne Frank?]
Mọi phóng chiếu Anne Frank, như một hình tượng đương thời
đều là trò đầu cơ khốn nạn của đám tà ma ác
quỉ. Bởi làm thế là đụng chạm tới lịch sử, tới thực tại, tới
chân lý chết người.
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/anne_frank_1.html
Thông Điệp Của Anne Frank
Trong chương
9, và cũng là chương chót Những Di chúc bị
Phản bội, Kundera bàn về một sự thô bạo trong thế giới văn
chương: vấn đề cắt xén, vặn vẹo tác phẩm, ngay từ khi tác
giả còn sống, và lẽ dĩ nhiên, càng trở nên
thô bạo hơn, khi họ đã chết rồi.
Ông kể chuyện, vào cuối đời, Stravinsky quyết định tự trình
diễn, như một tay dương cầm, hay một nhạc trưởng, toàn bộ âm
nhạc của ông. Và bị chế diễu thậm tệ: khi Stravinsky trình
diễn qua vai nhạc trưởng, ông ta khiếp đảm đến độ, mắt dán
vào nốt nhạc, tuy đã thuộc lòng. Và tính
giờ. Mọi nguồn vui rời bỏ ông!
Kundera tự hỏi tại sao, và ông tìm được câu
trả lời, khi nghiên cứu 146 bức thư, của Stravinsky gửi cho Ernest
Ansermet (người chế diễu), khởi sự năm 1914: My dear Ansernet, My dear
fellow, My dear friend, Very dear, My dear Ernest, rồi bất thình
lình: "Paris Oct 14, 1937, Rất vội, bạn thân của tôi.
Tuyệt đối không có bất cứ một lý do gì cắt xén
Chơi Bài (Jeu de cartes) khi trình diễn... Cá nhân
bạn cảm thấy một vài động tác hơi ngán ngẩm (boring).
Về chuyện đó, tôi chịu thua. Nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng
khi bạn cố thuyết phục tôi về vụ "cắt xén"; tôi, người
đã trình diễn nó tại Venice, và cũng đã
cho bạn biết về sự hứng khởi của khán thính giả... Tôi
thực sự không tin khán thính giả của bạn kém thông
minh, so với ở Venice. Nghĩ rằng bạn có thiện ý, khi muốn co
dãn để công chúng dễ hiểu hơn: Bạn, người đã từng
can đảm chơi một danh tác đầy rủi ro như Giao hưởng Đàn Gió
(Symphonies of Wind Instruments); khi khăng khăng cho rằng nó phải
thành công, và công chúng thừa sức để thông
cảm! Bởi vậy tôi không để cho bạn cắn xén "Jeu de cartes".
Tôi nghĩ, tốt nhất đừng chơi nó gì hết, còn hơn
là với sự dè dặt! Tôi không còn gì
để thêm. Chấm hết!
Ngày 15, tháng Mười, bạn trả lời: "Tôi chỉ xin bạn
tha lỗi cho tôi, về một cắt xén nho nhỏ..." "I am sorry, nhưng
không cho phép bạn về bất cứ một cắt xén nào
trong Jeu de cartes... Bạn ơi, đây đâu phải nhà của bạn."
Samuel Beckett có lẽ vô địch, trong nỗ lực bảo vệ nghệ
phẩm: ông theo dõi từng chi tiết, ngay cả khi tập dượt, và
nhiều lần nhẩy lên sàn tập, để tự tay điều khiển diễn viên.
Rồi in cả một cuốn sách, những ghi chú trình diễn Tàn
Cưộc (Endgame). Bạn ông, và là nhà xuất bản đứng
coi thiên hạ trình diễn, nếu cần đưa ra tòa, để bảo
vệ tác phẩm, sau khi ông đã chết.
Kafka gửi bản thảo Hoá Thân tới một tờ báo. Ông
chủ, nhà văn Robert Musil, bằng lòng in, với điều kiện tác
giả rút ngắn lại. (Buồn thật, hai thiên tài văn chương
bàn chuyện in ấn, xuất bản tác phẩm văn học!). Trả lời của
Kafka, cũng nguyên tắc, và cũng lạnh lùng như Stravinsky:
Tôi chịu được chuyện bỏ vô thùng rác, nhưng không
thể chịu nổi việc in, mà cắt xén, xẻ thịt nó! Ông
không được may mắn như Stravinsky, hay Beckett. Và điều này
một phần lớn, là do Max Brod, người theo truyền thuyết, vì
nhân loại, đã phản bội di chúc của Kafka. Theo Kundera,
Max Brod tuy yêu bạn, cố gắng hiểu bạn, đưa bạn ra ánh sáng,
tạo nên cả một môn học "Kafkology", nhưng chính ông
là người xa lạ nhất với nghệ thuật của Kafka.
Thật dễ dàng khi không vâng lời một người đã
chết. Càng dễ dàng hơn, khi người chết là một nạn nhân
của Lò Thiêu Người, một cô bé, lại là
con gái của một ông bố: trường hợp Anne Frank.
Nếu Anne Frank không mất tại trại tập trung vào năm 1945,
cô ăn mừng lễ sinh nhật 68 tuổi vào tháng Sáu
vừa qua (1997). Và nếu cô không giữ tập nhật ký
khác thường, qua đó, chúng ta có thể coi cô
là một trong những nhà văn nổi tiếng của thế kỷ - cho dù
vậy, số phận của cô cũng không quá sức bi đát,
như là bây giờ, sau những khám phá mới nhất về
cô.
Cô sinh ra để là một nhà văn. Vào năm 13
tuổi, cô đã cảm thấy quyền năng này; tới 15, cô
điều khiển được nó. Nếu cô được phép sống, thật dễ dàng
khi tưởng tượng, biết bao nhiêu tiểu thuyết, khảo luận, từ cái
nguồn giầu sang, từ ngòi bút lưu loát, chín mùi
chữ nghĩa đó. Người ta cũng thấy được những tác phẩm chẳng
bao giờ có được đó, sẽ gần gụi với Nadine Gordimer, Nobel
văn chương, hơn là Francois Sagan. Cô bé la lên,
vào mùa xuân năm 1944: "Ta muốn tiếp tục sống, ngay
cả sau cái chết của ta!" (I want to go on living even after my death!)
Ở đây không phải là tình trạng hưng phấn thái
quá của tuổi trẻ. Bằng trực giác cô đã nhận ra,
sự lớn lao của nghệ thuật nghĩa là gì. Và cũng đã
nhận ra sức mạnh văn chương nằm bên dưới bàn tay của cô,
trong những trang nhật ký: một ghi nhận văn học về những cuộc sống
hãi hùng trong hiểm họa thường nhật; một tài liệu
nóng bỏng nhắm thẳng tới tương lai. Vào những tháng
cuối cùng, cô miệt mài rũa gọt, thêm thắt, cắt
xén một số đoạn, với hy vọng in nó sau chiến tranh. Cô
gọi bản thảo của cô là Het Achterhuis, tiếng Đức, "căn nhà
phía sau", nhưng thường được dịch là "căn nhà phụ bí
mật", và không đúng như ý của cô, qua tác
phẩm. Nó liên can đến lịch sử, tới thực tại, tới sự thực chết
người. "Khi tôi viết", cô tâm sự, "tôi có
thể rũ sạch mọi lo toan. Sự phiền muộn biến mất, tinh anh tôi sống
lại!" Nhưng cô không thể rũ bỏ sự tù tội, sự huỷ diệt,
của mình.
Anne Frank bị bắt và đưa vào trại tập trung cùng
với chị và mẹ như hàng triệu con người. Tất cả bị huỷ diệt,
qua một chương trình đã được tính toán để bảo
đảm sự thoái hóa độc ác nhất, mới mẻ nhất, quỷ ma
nhất của con người. Cô thuộc trong số được chỉ định để bị huỷ diệt,
xóa sạch khỏi cuộc đời, không để lại mộ chí, không
một ký hiệu, không một dấu vết, bất kể loại gì. Lỗi
của cô - tội ác của cô, là người Do thái,
và như vậy cô bị xếp vào trong những kẻ không
có quyền được hiện hữu, không còn là một vấn
đề người, không được như một giống dân hạ cấp, ngay cả làm
nô lệ cũng không luôn. Thoát bị đưa vô phòng
hơi ngạt, cô chết vì bệnh ban đỏ (bệnh chấy rận), một tháng
trước khi giải phóng.
Nhật ký, cho dù thế nào cũng không thể coi
là câu chuyện của Anne Frank. Không nên gọi, một
câu chuyện là một câu chuyện, nếu phần cuối bị mất.
Và bởi vì phần cuối bị mất cho nên câu chuyện
của Anne Frank trong vòng 50 năm, kể từ khi "Nhật Ký của một
Cô Gái Trẻ" lần đầu tiên được in ra, đã bị vặn
vẹo, cắt xén, chuyển hoá, dịch thuật, gia giảm, giả mạo,
trẻ con hóa, ngây thơ hóa, Mỹ hoá, đồng nhất
hóa, cảm tính hoá... và sự thực, đã
bị chối bỏ, một cách thật thô lỗ. Trong số những người làm
giả gồm có những nhà bi kịch, những ông giám
đốc, những nhà dịch thuật, ông bố của Anne Frank, và
ngay cả, công chúng, kể luôn cả những độc giả, những
khán giả phim ảnh, kịch nghệ, trên toàn cõi địa
cầu. Một tác- phẩm-kể-sự-thực thật sâu xa đã biến thành
một dụng cụ để nói lên một phần sự thực, một phản sự thực.
Gần như mọi bàn tay đụng vào tập nhật ký, với một thiện
ý in nó ra, đều đã góp phần làm chuyện
bậy, đảo ngược lịch sử.
Nhật ký được coi như một tài liệu về Lò Thiêu.
Điều quan trọng cần nói, là nó không phải như
vậy. Gần như bản in nào cũng choàng cho nó những vòng
hoa, đại khái "ca khúc của đời sống", "sự vui thích
buốt nhói ở nơi tinh thần vô tận của con người". Có một
sự chế diễu, trò hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật
ký chưa hoàn tất, hoặc đã được hoàn tất bởi những
nơi chốn khủng khiếp: Westerbork, địa ngục chuyển tiếp ở Hòa Lan,
nơi những người Do thái Hòa-lan bị tống xuất từ đó; Auschwitz;
hay bởi những ngọn gió tàn khốc của Bergen-Belsen. Chính
tại đây, không phải tại "căn nhà phụ bí mật", những
tội ác mà chúng ta gọi là Holocaust đã
xẩy ra. Ghi nhận của chúng ta là những cột con số, những danh
sách tỉ mỉ những chuyến tống xuất trong những dòng chữ viết
tay của những thủ thư đẹp trai; những cuốn sách chuyển hàng.
Có thể Anne Frank đã được chuyển tới Auschwitz vào
đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín
"sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng
hơi, có một người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em
dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát, có lẽ để lao
động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi
ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ trong vòng hai giờ, khi họ mới
tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang hướng về Auschwitz, và vào
tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng
ngạt, và phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn
tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần.
Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười,
hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay
hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống
rẻ rách.
Đến với nhật ký mà bỏ qua những Đêm, của Elie Wiesel,
hay Những Kẻ Chết Đuối và Những Người Được Cứu Vớt, của Primo Levi
(chỉ nhắc tới hai chứng nhân), hay những cột con số, những chuyến
hàng, những thuật ngữ như "mẩu"... thì đúng là
tự cho phép mình được quyền ngây thơ một cách
xấu xa, không thể tin được! Những ngợi ca theo kiểu "bản chúc
thư hoài hoài về tính cao cả không thể bị huỷ
diệt của tinh thần nhân loại", "một nguồn không bao giờ cạn của
can đảm và hứng khởi"... sự thực chỉ là những trò ru
ngủ. Sự thành công, chiến thắng, của Bergen-Belsen, chính
là nó đã thổi sạch, cái gọi là khả tính
can đảm, nó cho thấy sự huỷ diệt dễ dàng của tinh thần nhân
loại, và đây là bản di chúc lâu dài
của nó.
"Hier ist kein Warum", một lính gác ở Auschwitz đã
cảnh cáo: ở đây không có "tại sao", không
câu hỏi, không câu trả lời, chỉ là một mầu u tối
của không-lý lẽ (unreason). Câu chuyện của Anne Frank,
được kể lại, rất thực, là không cứu chuộc, không thể
cứu chuộc. Và đó là thông điệp của Anne Frank.
NQT
Rất ư là tình cờ, tờ Guardian, số cuối tuần, 20
& 26 May, 2016, phán, đúng như GCC: Á Châu
chưa xong đâu, với quá khứ của nó, khác hẳn Âu
Châu.
Xứ Mít chết, khi Hồ bỏ.... Lò Thiêu, chọn Cái
Ác Ác Châu, Cái Ác Tẫu, Cái Ác
Bắc Kít, mà, cho đến lúc này, chưa có
thuốc chủng!
Chưa xong đâu,
với quá khứ 1 ngàn năm nô lệ thằng Tầu
Sinh
nhạt Bác
Viên gạch Bác
Ha ha ha
Nghe tin tức nóng hổi nhé các
bạn ơi
Đi tìm phê bình gia Mít
Trong
số bạn bè, Gấu là tên học xong sớm nhất, ra trường,
đi làm, trong khi chúng bạn thì còn đang mài
đũng quần, trên ghế nhà trường.
Lần qua Cali, 1998, nhân dịp phát hành cuốn Lần Cuối
Sài Gòn, Gấu tình cờ gặp Thầy Đạo ở nhà sách
VK. Ông có vẻ bực, khi Gấu không biết ông là
ai, mà làm sao biết được, cho dù sau đó, ông
cho biết, đã từng tới nhà Gấu, khi còn ở hẻm Đội Có,
Phú Nhuận, với ông anh của BHD. Khi đó, Gấu đang học
Toán Đại Cương, MG. Như thế, ông đang học thi tú tài.
Bởi là vì chính là qua lần gặp đó, Gấu
biết ông anh BHD. Cả hai vô hẻm, để gặp ông bạn của họ,
là bạn Uyển, cũng đang học thi tú tài, sau khi rớt.
Gấu học MG mất 1 năm. Đến ngày, không hiểu bài toán
nói gì, do chỉ có cái cours quay ronéo
của Thầy Monavon, bèn bỏ MG, năm sau học MPC, Toán Lý
Hoá, cùng với ông anh BHD, khi đó vừa vô
Đại Học. Ông cũng bỏ phòng thi liền, vì không
làm sao giải nổi bài toán, còn Gấu làm
như máy, vì đã từng học MG. Đó là sự
thực, vì chính ông Thầy, khi đứng coi thi, phải đứng
ngay kế bên Gấu, nhìn Gấu, không them làm nháp,
cứ thế, cứ thế, giải thẳng 1 lèo, 10 bài toán. Ông
thầy lắc đầu, nói, ký sau, tôi ra bài khó
hơn!
Gấu rớt kỳ 1, khi không làm nổi bài thực tập, không
phải bài viết, khi cứ đến giờ thực tập, là ký tên
1 phát, rồi nhảy ra hành lang đọc… Camus, Kẻ Xa Lạ. Gấu biết
Camus, đúng thời gian này.
Sách
Báo
Kẻ
Phản Thùng
Ghost Hunter
by Eleanor Wachtel
ELEANOR
WACHTEL: Sebald writes a requiem for a generation in The Emigrants,
an extraordinary book about memory, exile, and death. The writing
is lyrical, the mood elegiac. These are stories of absence and displacement,
loss and suicide, Germans and Jews, written in the most evocative, haunting,
and understated way. The Emigrants is variously called a novel, a narrative
quartet, or simply unclassifiable. How would you describe it?
Sebald viết kinh cầu cho 1 thế hệ trong Di Dân, một
cuốn sách khác thường về hồi ức, lưu vong, và
chết chóc. Cách viết thì trữ tình, giọng
điệu thì bi ai. Đây là những câu chuyện về
trống vắng và đổi dời, trôi lạc, “xểnh nhà ra thất
thổ” - displacement, mất mát, và tự tử, Đức và
Do Thái, viết bằng một cách nức nở, gợi nhớ, ám
ảnh, và kìm giữ, cố làm cho nó chìm
xuống - không 1 tí cường điệu - Di dân có
nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ tấu khúc
mang tính tự sự -chắc là giống Tứ Tấu Khúc của GCC?
- hay giản dị mà phán, đếch làm sao gọi bằng 1 cái
tên nào, không thể xếp loại. Ông nghĩ sao?
W.
G. SEBALD: It's a form of prose fiction. I imagine it exists more
frequently on the European continent than in the Anglo-Saxon world,
i.e., dialogue plays hardly any part in it at all. Everything is related
round various corners in a periscopic sort of way. In that sense it doesn't
conform to the patterns that standard fiction has established. There
isn't an authorial narrator. And there are various limitations of this
kind that seem to push the book into a special category. But what exactly
to call it, I don't know.
GCC tính đọc Kẻ Phản Thùng, nhưng THNM, hay,
chắc là do sự kiện, tác giả của nó coi Sebald
là hero, thế là, thay vì đọc Kẻ Phản Thùng,
thì giới thiệu Sebald, qua bài phỏng vấn ông, do
Wachtel thực hiện, và bài essay của Dyer, về ông.
Viết/Đọc
http://www.nybooks.com/articles/2016/05/26/surrounded-by-jew-haters/
Surrounded by Jew-Haters
John Banville
May 26, 2016 Issue
For Two Thousand Years
by Mihail Sebastian, translated from the
Romanian by Philip Ó Ceallaigh
London: Penguin, 231 pp., £9.99 (paper)
Nhật Ký Thời Chiến
Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature).
Khi nhà văn Ba lan gốc Do Thái Mihail Sebastian
quyết định viết nhật ký, vào năm 1935, ông 28 tuổi, và
đã nổi tiếng như là một ký giả, kịch tác
gia, và tiểu thuyết gia. Là một Do thái “hội
nhập”, ông cảm thấy quá chán chủ nghĩa bộ lạc,
và tỏ ra hoài nghi những khẩu hiệu, theo kiểu “yêu
nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa”, hay rõ
hơn, “những sự nghiệp lớn lao mang tính ý thức hệ”.
“Tôi có niềm tin ở con người cá nhân (the
individual man), nhưng niềm tin ở đây cũng chỉ là một
thoả thuận giữa hai con người”, ông viết vào năm đó
(1935).
Là một thành viên trong một nhóm gồm
toàn thứ dữ: Mircea Eliade, Eugène Ionesco, Camil Petrescu,
E. M. Cioran, nhưng đến khi, nhiều bạn bè của ông ăn
phải thuốc lú, cập kè với một nhóm cực tả có
tên là Vệ Binh Sắt, ông bèn giãn ra.
(Eugène Ionesco, “giáo chủ” trường phái Kịch Phi
Lý, là người độc nhất “không thèm chơi
với hủi” (the only one who refused to embrace totalitarianism: người
độc nhất từ chối ôm ấp chủ nghĩa toàn trị).
Trong thời kỳ khủng hoảng chính trị-xã hội của thập
niên 1930, chủ nghĩa bài Do Thái nở rộ, ở đám
đông cũng như trong số những thành phần được coi là
tinh hoa của xã hội. Ngay đầu năm 1938, chính quyền
Octavian Goga (một nhà thơ có tài), đã
ra lệnh thu hồi thẻ công dân của hàng trăm ngàn
người Do Thái. Vào tháng Chín, 1940, nhóm
cực tả Vệ Binh Sắt, có khuynh hướng
phò Nazi, bài Do Thái, lên
cầm quyền. Tướng Ion Antonescu, một trong những đồng minh của nhóm,
trở thành nhà “dìu dắt” đất nước. Tuy nhiên,
chỉ mấy tháng sau, ông đập tan cú đảo chánh
của Vệ Binh Sắt, và ban hành chế độ độc tài riêng
của ông ta.
Chiến thuật bài Do Thái của chế độ Antonescu rất
“uyển chuyển”: thật cứng rắn trong những năm đầu, thận trọng hơn
khi chiến thắng của Đức không còn “chắc ăn”; cực kỳ
dã man tại những vùng biên giới phía đông
với Bessarabia và Bukovina, nơi người Do Thái bị tống
xuất hàng loạt tới những trại tập trung ở Transnistria, bị
Romania chiếm đóng. Phần đất nước còn lại, là
một chính sách đỡ hiểm độc đi một chút. Tuy nhiên,
ngay ở Bucharest, nơi Sebastian trải qua những năm tháng chiến
tranh với bà mẹ và em trai, thường xuyên xẩy ra
những đợt hung hăng xuống đường bài Do Thái, làm
nhục họ, chơi trò blackmail, và những đợt cưỡng bức lao
động.
Nhật ký của Sebastian cho thấy: đây là một
trong những chứng liệu quan trọng nhất về
thảm kịch Do Thái trong giai đoạn trên, có thể
so sánh với “Sống sót tại Auschwitz” của Primo Levi,
hay nhật ký của Anne Frank. Không như Levi và Frank,
là những người viết từ bên ngoài Địa Ngục, miêu
tả cuộc sống ở những trại tập trung hay trong khi ẩn trốn, Sebastian viết,
với một sự chân thành và một cái nhìn
sắc bén, từ lò luyện ngục, là chính căn phòng
riêng của mình ở Bucharest, nơi ông “sống với nỗi
chết không rời”, trong sợ hãi có thể bị gõ
cửa mời đi bất cứ lúc nào, tới một nơi là trại tập
trung, hay tử thần. Trong những lúc tạm cho mình thoải mái,
ông tra hỏi đời mình: thú nghe nhạc, những cuộc tình,
đọc, viết, hay học tiếng Anh.
Khi ông mất vào năm 1945, một trong những anh em
của ông đã giấu nhật ký, gồm 9 cuốn sổ tay, sợ chính
quyền theo Stalin tịch thu. Nhật ký được lén đưa
qua Israel, rồi đưa lại cho một người anh/em ông, đã
dời đi Paris sau thời kỳ trên. Mãi tới năm 1997 gia đình
ông mới đồng ý cho xuất bản.
(Sebastian bị xe tải cán, mất vào ngày
29 tháng Năm, 1945).
Trên đây là tóm tắt bài giới
thiệu nhật ký của Sebastian, đăng trên tờ The New Yorker (Người Nữu Ước, số Oct
2, 2000). Tác giả bài giới giới thiệu là Norman
Manea, nhà văn Romania đào thoát qua Tây
Phương; Jennifer tôi đã giới thiệu ông với độc
giả Tin Văn, qua bài “Số phận một nhà văn lưu vong”.
Dưới đây là một vài trích
đoạn, từ nhật ký của Sebastian, dưới nhan đề “Bạn và
Phát xít” (Friends and Fascists) trên tờ The New Yorker số đã
dẫn.
1936
Ngày 3 tháng Năm:
Đại hội của Hội Nhà Văn. Làm sao họ có
thể tỏ ra trịnh trọng, với những trò hề lố bịch như vậy,
nhỉ?…
Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature).
Tại sao mình không làm một nghề bình
thường – luật sư, công chức? Tại sao không chọn phần số,
một con người được sinh ra là để có một căn nhà
của riêng mình, một đời của riêng mình,
một tình yêu của riêng mình – mà
chẳng có một tí rắc rối nào hết?
Ngày 25 tháng Sáu:
Tôi gặp Camil Petrescu sáng nay. Ông
lập lại những gì ông nghĩ, về những vụ tấn công
người Do Thái mới xẩy ra.
-Thật đáng tiếc, bạn già ơi. Nhưng tất
cả những người Do Thái đều có trách nhiệm về
chuyện xẩy ra.
-Thế là thế nào, Camil?
-Bởi vì có quá nhiều Do Thái.
-Nhưng cũng có quá nhiều người Hung Gia
Lợi vậy?
-Có thể, nhưng ít ra họ cũng ở cùng
một chỗ, một vùng.
Ông cứ thế tiếp tục, “Bạn thân ơi, những
người Do Thái gây ra hết. Không thể tin họ được,
đã vậy lại hay xía vô chuyện chẳng liên
quan tới họ.
Đó là Camil Petrescu nói. Ông
là một trong những bộ óc tuyệt vời nhất ở Romania.
Một trong những con người
đa cảm nhất ở Romania.
Ngày 25 tháng Chín.
Chiều hôm qua, đang trò chuyện êm ả với Mircea
[Eliade] về chính sách ngoại, ông bất thình
lình trở giọng hung hãn.
-Titulescu? [Một vị bộ trưởng ngoại giao bài
Đức]. Ông ta đáng bị xử tử. Kéo ông ta
ra trước đội hành quyết.
Chẳng lẽ tôi mất một người bạn chỉ vì những
chuyện không đâu như vậy? Làm sao tôi quên
nổi mọi điều tuyệt vời ở ông: ngây thơ, trẻ con, thành
thật…
Ông bạn của tôi có thể làm
việc thoải mái cho nhật báo bài Do thái
Vremea. Chuyện bình thường, chẳng có chi là ghê
gớm.
Dù sao tôi cũng cố giữ cho được người bạn
của mình.
1937
Ngày
8 tháng Giêng. Sinaia.
Trong cỡ chừng 4 tiếng đồng hồ, tôi nặn ra được
ba trang, nhưng vẫn còn cả lố phải sửa chữa.
Hôm qua, trong lúc đi dạo núi, tôi
cứ suy nghĩ hoài. Tôi thiếu tính tự phát
(spontaneity), mà thiếu nó gần như thiếu tất cả, Thành
thử, tôi chỉ có thể viết những câu chuyện chừng
hai trăm trang, với giọng điệu nhật ký riêng, chẳng ra
vẻ tiểu thuyết. Tôi cũng nghĩ, mình có thể viết
kịch, mà món này sẽ khá hơn nhiều….
Ngày 15 tháng Giêng.
Bucharest.
Đã hơn nửa tháng, tôi chưa đi coi
Marietta
[một nữ nghệ sĩ]. Bà vừa mới giáng một đòn
cho đám Do Thái:
“Tụi
khốn giật bánh mì khỏi miệng chúng ta; chúng
bóc lột chúng ta, làm chúng ta nghẹt
thở. Đuổi chúng ta khỏi đây. Xứ sở này là
của chúng ta. Không phải của họ. Romania là của người Romania.”
Ngày 25 tháng Hai.
Chiều qua, có một bữa xum họp bè bạn tại
chỗ tôi ở. Có vợ chồng Mircea, Marietta và chồng… Tôi tự
hỏi không biết có phải đây là lần họp bạn cuối
cùng. Thật khó mà kéo dài sự giả dối,
kể từ khi họ chơi với đám Vệ Binh Sắt. Liệu có thể có
tình bạn với những người mà những ý nghĩ, tư tưởng
thật xa lạ với mình? Xa lạ đến nỗi, vừa thoáng thấy bóng
tôi, là họ ngưng câu chuyện, trong dáng điệu
tủi hổ và bối rối?…
Nếu tôi không phải là một tên
Do Thái, những vở kịch của tôi có thể được trình
diễn, và tôi sẽ là một “kịch tác gia”,
được như vậy là hết xẩy, tôi đâu còn muốn
gì hơn thế nữa cơ chứ!…
Lương tâm nhà nước (The
national conscience) không cho phép một vở kịch của
Mihail Sebastian được trình diễn tại nhà hát
Bucharest…
Tôi phải thú nhận, tôi chẳng thèm
đặc biệt lo lắng cho những bản thảo của tôi. Chuyện tôi
lo, là những cuốn sách không thể viết ra được
nữa, nhất là cuộc đời này, cho tới nay, tôi vẫn
chẳng làm được một chuyện gì cho ra hồn…
Jennifer Tran chuyển ngữ
Đại hội của Hội Nhà Văn. Làm sao họ có
thể tỏ ra trịnh trọng, với những trò hề lố bịch như vậy, nhỉ?…
My Old Saigon
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/
Bảo vệ Đàng Trong
Giải Phóng Đàng Ngoài
|
|