|
Mom & Richie by Richie
2010 Mom's
Day
Happy
Birthday To U, Mom
Richie & Jennifer
13.4.2011
Xì Lô
thân thương,
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1/posts/10201739796613110
Xì Lô,
cô Út sinh ngày 13 tháng 4 năm 1975. Sau
này những lúc gia đình quá khổ sở, bố mẹ cô
vẫn thường than thở, phải chi không có cô chắc là
gia đình đã đi Mỹ từ những ngày tháng Tư
năm đó rồi. Bữa nay sinh nhật thứ 21, bố mẹ chỉ có cô
ở bên. Mấy anh chị của cô ở quá xa, biết ngày
nào gặp lại. Bố mẹ chỉ còn biết cầu nguyện tất cả đều khỏe
mạnh, an lành. Bố mẹ chỉ mong Xì Lô được hạnh phúc.
Người ta nói, những đứa trẻ sinh ra từ một gia đình
vợ chồng không hòa hợp, nói rõ hơn, những
đứa trẻ bất hạnh thường dễ thành công trên đường đời
nếu chúng vượt qua được những mặc cảm tuổi thơ. Có lần cô
nói, từ khi con qua đây, mới đó mà đã
gần nửa năm, gạt nỗi nhớ anh chị qua một phần trái tim, mỗi lần
thấy bố mẹ vui đùa con ứa nước mắt vì sung sướng. Suốt tuổi
thơ chúng con chưa hề biết đến những giọt nước mắt hân hoan
hạnh phúc đó.
Thật cũng may, cuối cùng bố mẹ lại tìm thấy nhau,
cho dù bố mẹ biết rất rõ, nếu cuộc đời được làm
lại từ đầu, thì mọi chuyện vẫn y nguyên như vậy. Chắc là
bố sẽ lo cho mẹ thêm một chút xíu, nhờ vậy mẹ sẽ
bớt đi một chút, niềm tủi thân.
Như con biết
đấy, gia đình mình, ngoài chú Sĩ đã tử
trận, bố còn một người chị và một đứa em trai út ở
miền Bắc. Trong những năm chống Mỹ cứu nước, chú Bảo bị qui thành
phần có mẹ và anh di cư nên không được quyền đi
bộ đội, sau đó chú làm công nhân cho nhà
máy đường Việt Trì, nhờ vậy mà còn sống.
Bá Hiền lấy chồng có được một đứa con gái. Chồng
vào Nam chiến đấu mất tích. Qua đây gần một nửa thế
kỷ, bố mới nhận được tin tức của chị và em. Đúng là
nửa thế kỷ, bởi vì khi ông Nội mất tích ngay từ năm
1945 vì tai họa đảng phái, bà Nội phải đem mấy đứa
con gửi mỗi đứa một nơi, bố không gặp bá Hiền, chú Bảo
kể từ ngày đó.
Con đã đọc
thư chú Bảo thì biết gia đình mình ở ngoài
Bắc. Đó là quê hương mà bố phải từ bỏ, theo
bà Nội vào Nam, và khi chú Sĩ chết, bố tự
nhủ sẽ chẳng khi nào trở về. Đấy là một phần lý do
tại sao bố lấy mẹ. Bố muốn các con có một quê hương
Miền Nam, các con sẽ cần tới nó như bố cần tới mẹ vậy.
Trước tháng
tư năm 75, ngoài công việc của một công chức, bố còn
làm thêm cho một hãng thông tấn nước ngoài.
Khi hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam được ký kết,
bố thôi làm cho họ, tính bỏ Sài-gòn
đưa gia đình về một tỉnh lỵ. Nhưng biến cố 30 tháng 4 năm
75 đã xóa sạch mọi dự tính. Ngày 28 hay 29
tháng 4 bố không còn nhớ rõ, thành phố
đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại người sếp cũ, lúc này
làm cho tờ báo Time, tới Sài-gòn làm
phóng sự về cuộc di tản. Lúc đó cơ quan DAO của Mỹ
đã đóng cửa, không còn máy bay C.130,
anh ta bảo chỉ có thể đi bằng trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội, và
như vậy chỉ một mình bố đi được thôi. Bố không thể bỏ
mẹ và các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng
Sản Bắc Việt đang chờ sẵn ở ngoại ô thành phố và viễn
tượng biển máu đang chờ đợi người dân Sài-gòn.
Chết một đống còn hơn sống một người, Bá Hiền viết thư qua
cho biết, ngày xưa bà Nội đã nói với Bá
như vậy, lần về đón Bá cùng đi vào Nam, nhưng
Bá không đi vì còn mê phong trào.
Bố đã ở lại. Phải chi ngày đó bố chạy theo người Mỹ,
gia đình mình đã không gặp những cảnh ngộ đói
khổ, tủi nhục như hầu hết những gia đình Miền Nam khi Cộng Sản Bắc
Việt thắng trận. Nhưng chính những ngày tháng sống dưới
chế độ Cộng sản, những ngày tù đầy, những nỗi đói khổ
mà gia đình mình đã trải qua khiến bố mẹ hiểu
nhau hơn. Vả lại, sự thành đạt ở nước người nhiều khi phải trả một
giá quá đắt. Chắc chắn một điều, con không thể quên
tiếng Việt. Đó là khí giới hữu hiệu nhất để chống lại
sự tha hóa mà đôi khi người ta lầm lẫn là hội
nhập. Và để chống lại sự cô đơn, niềm lãng quên,
và tuyệt vọng.
Hôm nay là
sinh nhật của con, đúng ra chẳng nên nhắc chuyện đau buồn nhưng
tháng Tư vẫn luôn luôn làm những ngưòi
như bố mẹ cảm thấy bứt rứt. Có lẽ đã đến lúc bố mẹ đem
cất kỹ lá cờ phủ trên quan tài chú Sĩ vào
một nơi thật yên ổn, thật thiêng liêng là trái
tim của mình...
Nguyễn Quốc Trụ
Note: Bài
viết này, viết liền ngay khi tới được Xứ Lạnh, ký Quách
Tường, nick của Gấu Cái, đăng trên 1 tờ báo địa
phương. NTV mastermind của tờ Trăm Con, đọc, phán, ngu quá,
hồi đó, tao chủ trương vứt lá cờ vàng vô thùng rác,
trăm con, hợp lưu, nên bị chúng đánh sập tiệm.
Giá như viết như mi, thì đâu đến nỗi.
NMG thì biểu, mi ra muộn, viết như thế, không bị chúng
hỏi thăm cũng còn may.
Bây giờ, trong nước hô hào ném lá cờ máu vô thùng
rác, DMCS, tình hình có thay đổi, nhưng đường
còn dài
70th Happy Birthday to U, Quach Tuong
TCDT
Memoriam
Cuốn
này, theo GCC, phản động nhất, đối với VC, và tuyệt nhất
với riêng Gấu, ở cái văn trong cái sử.
TCDT cho biết, cách gọi anh Ba, anh Tư mà chúng
ta tưởng là do tính cách Miền Nam, đúng ra là
bắt chước Thiên Địa Hội.
"Gọi cô Xuân là "bà hoàng hậu" của
thời mới cũng không đúng, bởi vì trước mắt mọi người,
cô chỉ là "gái" - nhất là đối với "người dắt
gái". (Nguyễn Tất Trung là con của Hồ Chí Mính
hay của Trần Quốc Hoàn?" - NBVS trang 166
Cuốn
này tuyệt lắm. Mới ra lò!
33
Kalka Writes a Poem and loves It
Although Kafka occasionally tried his hand at poetry, only a
few of his attempts survive, most of them just a few lines jotted down
without a title. There is no indication in his own autobiographical writings
or in Max Brod's memoirs that Kafka ever considered publishing them.
He also never attempted to put his lyric talents to the test by undertaking
a more extensive work (as he did for drama with "The Warden of the Tomb").
However, Kafka did treasure a few of his
verses and consider them worth preserving. For instance, a calendar
page from September 17, 1909 contains the following untitled poem:
Little soul
you spring up dancing
lay your head in the warm air
raise your feet from the glistening grass
blown in gentle movements by the wind
Kafka committed this poem to memory; about two years later,
at a coffeehouse, he spontaneously wrote these lines in the autograph
book of the collector Anton Max Pachinger (see Find 19).
Kafka also carefully preserved the calendar
page on which this poem was written. It was kept between the leaves of
one of the octavo notebooks he used from 1917-18 in Zurau [Siiem], where
he spent eight months on a farm with his sister Ottla. Kafka may have
placed the page there while he was using the notebook, perhaps during a
brief visit to Prague. Or it may have accidentally been placed in the Zurau
notebook while Max Brod wall working on Kafka's papers after his death.
But in any case, Kafka must have held onto the poem until he died, since
it was only after his death that Max Brod had access to the octavo notebooks.
Chúng ta đã biết tài vẽ của đảo xa. Trong
1 bức thư gửi từ Đà Lạt, TTT khen tài vẽ của đx, và
thú thực, ông
mù tịt trò chơi này.
Kafka, ở đây, làm thơ, và thích Nó!
Câu
thứ 99, là bài ai điếu Kafka, của Milena - một thứ
đảo xa của ông - thì cứ phán đại như thế, đã
có trên Tin Văn, lấy từ "Thư Gửi đảo xa/milena" của Kafka.
Coi lại, thiếu phần tiếng Anh, sẽ bổ túc sau, thêm
cái còm của Stach
Dr Franz Kafka, một nhà văn Đức, sống ở Prague, và
chết ngày hôm kia, ở Viện điều dưỡng Kierling, gần Klosterneuburg
bei Wien. Ở đây ít người biết ông, bởi vì
ông là một người sống ẩn dật, một hiền nhân luôn
mang nỗi sợ cuộc đời. Trong nhiều năm, ông đau khổ với căn bệnh
phổi, và tuy loay hoay tìm cách chữa trị, ông
lại như muốn nuôi căn bệnh đó, cưu mang nó trong tư
tưởng của ông. Có lần ông viết trong một lá
thư: khi trái tim và linh hồn không thể chịu đựng
nó được nữa, buồng phổi sẽ chịu giùm nửa gánh nặng,
như vậy là nó được chia khá đồng đều - căn bệnh của
ông là vậy. Nó cho ông một sự dịu dàng kỳ
diệu, và một sự tinh khiết trí thức không đắn đo, câu
thúc. Tuy nhiên, chỉ riêng về mặt hình hài
thể chất, Franz Kafka dồn lên hai vai của căn bệnh, toàn thể
nỗi kinh hãi cuộc đời. Ông là một người cả thẹn, luôn
khắc khoải, nhẫn nại, dịu dàng, tuy những cuốn sách ông
viết ra thì thật ghê sợ, và đau đớn. Ông đã
nhìn thế giới như đầy những quỷ dữ vô hình, vò
xé, và tiêu huỷ những con người vô phương chống
đỡ. Ông quá tiên tri, quá thông minh để
có thể sống, và quá yếu ớt, để chiến đấu. Ông
yếu ớt như những con người cao đẹp yếu ớt, những con người không
thể chiến đấu chống lại nỗi sợ bị ngộ nhận, chống lại trò ma muội,
hay tính toán chi ly, bởi vì họ thừa nhận ngay từ đầu,
cái điều của riêng họ, đó là đừng mong chi một
sự trợ giúp; sự nhẫn nhục cam chịu này chỉ làm cho
kẻ thắng thế hổ thẹn. Ông hiểu thế nhân, một sự hiểu biết mà
chỉ một ai cao cả, có một sự mẫn cảm hoài hoài mới
có thể có được. Chỉ một ai cô đơn. Chỉ một ai, trong
một thoáng nhận ra kẻ khác, hầu như một nhà tiên
tri. Sự hiểu biết thế giới của ông thật phi thường, và sâu
thẳm; chính ông là một thế giới phi thường và
sâu thẳm. Ông đã viết những cuốn sách có
ý nghĩa nhất của nền văn chương Đức hiện đại, những cuốn sách
cưu mang trong nó sự chiến đấu của thế hệ hôm nay xuyên
suốt thế giới - trong khi kìm giữ mọi thiên vi. Chúng
thực, trần trụi, và đau thương nên hết đỗi tự nhiên ngay
cả khi có tính biểu tượng. Chúng đầy sự khinh miệt khô
cằn và là cảm quan của một người nhìn thế giới một cách
rõ ràng đến không thể chịu đựng được nó, một người
mà nỗi chết không rời, kể từ khi người đó chối từ mọi
bon chen hay tìm nơi ẩn trú, như những người khác thường
làm, trong những ảo tưởng này nọ, của lý trí,
hay của vô thức - kể luôn cả những con người cao cả. Dr Franz
Kafka đã viết "The Stoker", chương thứ nhất của một cuốn tiểu thuyết
tuyệt vời, vẫn chưa được xuất bản (đã xuất hiện bằng tiếng Czech trên
Neumann's Cerven (1), "the Judgment", sự xung đột của hai thế hệ; "The Metamorphisis",
cuốn sách mãnh liệt nhất của văn chương Đức hiện đại; "In
the Penal Colony"; những tuyển tập Meditation và A Country Doctor.
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Before the Law (2), còn trong dạng
bản thảo, sẵn sàng để in ấn, từ nhiều năm. Nó là một
trong những cuốn sách, một khi đọc, cho (ta) cảm nghĩ về một thế giới
được miêu tả hoàn hảo đến nỗi mọi phê phán sau
đó đều chỉ là phù phiếm. Tất cả những cuốn sách
của ông vẽ nên sự ghê rợn của những ngộ nhận thầm kín,
của niềm ngây thơ tội lỗi giữa những con người. Ông là
một nghệ sĩ và là một người với một lương tâm khắc khoải,
đến nỗi ông có thể nghe, trong khi những người khác, điếc,
cảm thấy, chính họ đang yên ổn.
(Národni Listy, June 6, 1924)
(1) Milena muốn nói tới
tuần báo Kmen, cũng của S. K. Neuman.
(2) Đây là muốn nói tới cuốn Vụ
Án. Milena chỉ biết có truyện ngắn Before the Law. Hiển
nhiên, bà không biết cuốn tiểu thuyết chót
của Kafka, Lâu Đài. (Ghi chú của nhà xb
Kafka Library).
Nguyễn Quốc Trụ chuyển ngữ
Immediately
after Kafka's death on June 3, 1924, the journalist and translator Milena
Jesenská was asked to write an obituary for the Prague-based Czech
daily Natodni Listy-apparently they were aware of her special
relationship to Kafka. Her text appeared there on June 6 as a "Daily
Notice." German-speaking readers did not become aware of this obituary
until 1962, when the Vienna magazine Forum published a German
translation.
Since Jesenska only had a few hours to write the
obituary, the text reflects what she knew of Kafka's works at the time.
For instance, "The Stoker," which she had translated into Czech herself,
is the first chapter of the novel Der Verschollene (known
in English as Amerika, The Man Who Disappeared).
The novel that she refers to as Before the Law is The Trial;
she was clearly thinking of the parable "Before the Law," contained within
the novel. She knew this parable, which had already been published in
a Czech translation, but probably had not seen the manuscript of The
Trial, which had been in Max Brod's desk drawer for years.
Jesenska also had to cite the statements from
Kafka's letters about the psychic origins of his lung disease from memory.
In fact, Kafka had written to her four years earlier: "[I] am only thinking
of the explanation that I concocted for my own illness at the time, and
which applies to many cases. It was that the brain could no longer bear
the sorrows and pains it was subjected to. It said: 'I give up; but if
there's anyone else here who has a stake in holding it all together, let
him shoulder part of my burden, and then it can go on a little while longer.'
The lungs answered this call; after all, they didn't have much to lose.
These negotiations between brain and lungs, which took place without my
knowledge, may have been terrible."
Reiner Stach
KAFKA
IN PRAGUE, Summer 1996
by Peter Haigh
http://www.tanvien.net/ngoai_gia/Milena.html
Kafka,
hàng độc
http://tanvien.net/Day_Notes/Kafka_Coupable.html
Sài Gòn là
Gấu, và Gấu là Sài Gòn. Sài Gòn
sẽ chẳng bao giờ hoàn tất đến như thế, đặc biệt Sài Gòn
đến như vậy, và nó sẽ chẳng bao giờ lại như vậy, như trong
đời của Gấu, khi ở Sài Gòn!
Gấu “dịch loạn” câu, "Kafka was Prague and Prague was Kafka. It
had never been so completely and so typically Prague, nor would it ever again
be so as it was during Kafka's lifetime.
Cái “Sài Gòn
là Gấu và Gấu là Sài Gòn”, áp
dụng chung cho tất cả chúng ta, Miền Nam, và nó là
1 chân lý, bị cố tình hiểu lầm ra là, toan tính
phục hồi cái xác chết VNCH.
Cái "gì gì"
lịch sử có thể viết lại nhưng không thể làm lại! [Châm
ngôn lừng danh của SCN] (1)
MEMORIAL EULOGY
The text of my eulogy delivered at the
memorial service for Kafka in Prague was slightly longer than the version
subsequently published in the Berlin Kunstblatt. I can no longer recall exactly
what the editor deleted. The suggestion of Kafka's future greatness and
effectiveness, so self-evident today, may at that time not have sounded so
convincing to many people.
There Goes Kafka
IN MEMORIAM FRANZ KAFKA
"I see gathered together here the friends
and admirers of a man and a literary artist whose highest human quality simultaneously
produced his most powerful poetic magic. In any case, if ever there was
a perfect instance of the congruence of life and artistry, it applies to
Franz Kafka. This extraordinary man created as he lived, in the self-chosen
hardships of a heartfelt prose made possible by the involuntary modesty
of genuine discernment. The life of such men is fully appreciated only by
those closest to them. Their death, however, unites dispersed people, their
death in no wise represents something negative but rather a great fact of
the spirit-intellect, a nucleus of mysterious and ever cumulative solidarity.
"How could we better do obeisance in the presence of a phenomenon, which
knew from truth, purity, and ingenuousness how to build throughout its life,
except we ourselves become aware of our own conscience through the instumentality
of this presence? How can we, a generation of very unstable values, carry
away with us more viably and lastingly this model thrusting itself so powerfully
upon us except by making it an effective part of ourselves? At the very moment
the remains are being removed from us and entrusted to inscrutable depositories
a new and better heart seems to be growing for us in our attachment to this
dead man. This fact perhaps represents some of the sense, wisdom, and comfort
acquired from this departure. "The truth, revered friends, is at home only
where spirit-intellect and life are unable to operate without each other.
They fail almost completely to correlate as regards most of us though they
may do so partially in the case of a few. But only where the qualities of
human nature are intimately related to the qualities of style, only there
is it possible to lend credence to that style. . . . A human being should
not include within himself an artist, nor should an artist include within
himself a human being. Only when the two contours cohere does the word become
flesh. "Franz Kafka was a fanatic of the truth within himself. We know,
there is not a single decorative line in his entire works, no forced smiling
about his precious prose in its totality, no calculated pomp. The recurring
fragmentariness of his creativity bears witness to us of his compulsion
to the truth. Because he wrestled with his projections for truth's sake,
he destroyed them; he destroyed them because he wanted to reveal their innermost
being, their inner truth. . . . And so it seems to me, he had only a single
brother: Kierkegaard - and only a single guideline, namely, that only he
who persists till the end can become blessed.
"Today a few still realize what a master departed from us in Franz Kafka,
and there is scarcely anyone in the realm of our contemporary German literature
sufficiently neighborly to thank Kafka for his gift to her-indeed, it is
questionable whether she is even aware of his gift to her. . . . And so we
must continue to wait till those delicate organs sprout again which are necessary
for apperceiving profundities and excellencies. . . . In our day Knut Hamsun
might possibly be able to render thanks to this noble but unpretentious and
modest but great literary artist who in a modern sense aroused our pleasure
in antiquity. I can think of no one else. "Of this I am sure, however, that
about and around the work of the wondrous genius of Franz Kafka acclaims of
veneration and love will accumulate more and more and that this legacy will
with unifying power continue to, attract all men of goodwill."
Johannes Urzidil: There Goes Kafka
Kết cục thì nó phải như thế đó:
Đếch làm sao giải thích được!
http://www.tanvien.net/TG_TP/Kafka_File.html
Trên TLS, số 7 Sept 2012,
GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka -
vị thầy gối đầu giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái
ngày 23 Tháng Chín này, thì kể như
là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện
ngắn khủng ơi là khủng, “Sự Xét Xử”. Và có
thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng
chẳng hiểu ông nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của
ông, và có lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa
là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch làm sao
hiểu được Kafka!
Ở đây, cũng phải đi 1
đường ghi chú ngoài lề!
1. Cuốn Bếp Lửa
của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là
Tâm, bỏ đất mẹ ra đi, đếch thèm trở về, viết cho cô
em bà con, buộc vào quê hương thì phải là
ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét
của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con quái vật, con
bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó
chỉ trở thành bọ, vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy,
ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự kiện, Nobel Toán
Mít phải nhận cái nhà cho bố mẹ xong xuôi,
rồi mới bỏ đi được!
2. Cuốn Sinh Nhật
của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên
đổi tít, là Sinh Nhạt, và còn
đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi
tìm 1 cái mũ đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác
phẩm của Kafka, theo bài điểm trên như đoạn sau đây
cho thấy:
Truyện ngắn mà Brod gọi
là "Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks,
của Kafka, đã được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc
của truyện: “Giai thoại thường toan tính giải thích cái
không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi
lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát Lầy], nó phải lại
chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable,
because it arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]
Nói rõ hơn, nhân
loại không làm sao đọc được Kafka, vì có
1 thằng cà chớn Gấu "nào đó", nẫng mẹ mất cái
nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt
mẹ mất chim của Kafka, để biến ông thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!
(1)
Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không
còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân
hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc
nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi
quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời
nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát
thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết
cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên
anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc
Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có
người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại
là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh
vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh
lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh
anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình
suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình
suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì
ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh
hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ
còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có
dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc,
ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải
là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để
cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng
ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng.
Tâm
Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956
Đọc cái thư thấy sến
ơi là sến.
Nhưng
phải như thế, thì mới cân bằng được với cái nội
dung của 1 cuốn sách, viết về anh Bắc Kít, Hà Lội,
chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong
Bếp Lửa.
Hiền trong MCNK, có gì
giống nhân vật Khúc Phi Yến trong Tiếu Ngạo Giang Hồ,
của Kim Dung, xuất hiện rồi biến mất. Duy, bạn Kiệt, đã từng
tính hỏi bạn mình, Hiền đâu rồi? Còn Kiệt,
thì thú thực với bà vợ Thuỳ, anh đưa cô ta
tới… đó, rồi trở về với em, với con.
Đó, là
chỗ nào?
TTT không thể ngờ được, chỗ đó, là… internet!
Bởi là vì với ông,
chỗ đó, là ở trong bài thơ Dickinson, mà
ông đã từng dịch, để tạ lòng tri kỷ, trong đó
có Duy, và những độc giả của ông.
Chỗ đó, là… nấm mồ! Trước, Gấu cứ nghĩ, đó
là 1 lost domain, như trong anh Môn, thí dụ,
hóa ra không phải.
http://www.tanvien.net/Roman/as_22.html
Duy muốn hỏi Kiệt: Hiền đâu?
Hiền ra sao?
[Milena letters to Max Brod]
[Bạn có thể tưởng tượng, đây là thư của
"đảo xa", gửi cho MT, viết về TTT!]
Dear Herr Doktor:
[beginning of August 1920]
... Obviously, we are all capable of living, because at one
time or another we have all taken refuge in a lie, in blindness, enthusiasm,
optimism, a conviction, pessimism, or something else. But he has never
fled to any refuge, not one. He [Kafka] is absolutely incapable of
lying, just as he is incapable of getting drunk. He lacks even the
smallest refuge; he has no shelter. That is why he is exposed to everything
we are protected from. He is like a naked man among the dressed ...
Everything he is, says, and lives cannot even be called truth; actually,
it is predetermined being, being in and of itself, being with nothing
added that might allow him to distort his picture of the world- whether
into beauty or distress. And his asceticism is completely unheroic-hence
all the greater and loftier. All "heroism" is lying and cowardice. This
is not someone who chooses asceticism as a means to an end; here is a
man who is forced to be ascetic because of his terrible clairvoyance, his
purity and inability to compromise.
There are very intelligent people who
also refuse to make compromises. But they don magic glasses and see
everything in a different light. That's why they don't need any compromises.
That's why they are able to type quickly and have their women. He stands
beside them and gazes at them in wonder, at everything, even this typewriter
and these women. He will never understand.
His books are amazing. He himself is far
more amazing. Many thanks for everything. I wish you all the best. I'm
allowed to visit you when I come to Prague, am I not? I send you my
most heartfelt greetings.
Hiển
nhiên tất cả chúng ta đều có thể sống, bởi là
vì lúc này lúc khác, chúng
ta đều có thể kiếm ra nơi ẩn náu, trong 1 lời dối trá,
trong sự mù lòa, hưng phấn, lạc quan, tin tưởng, biếm thế,
hay một điều gì khác. Nhưng anh ta [Kafka] không
làm được như thế, anh ta chẳng bao giờ chạy tới bất cứ 1 nơi ẩn
náu, không một nơi ẩn náu. Anh ta tuyệt đối không
thể nói dối, như anh ta không thể say rượu. Anh ta không
có lấy 1 chốn ẩn náu cho dù nhỏ bé nhất. Anh
ta không có 1 nơi trú ẩn. Chính vì thế
mà anh ta cứ thế phơi ra trước mọi thứ, mọi điều mà chúng
ta được che chở, từ chúng. Anh ta như thể 1 kẻ trần truồng, giữa
đám người ăn vận quần áo. Mọi thứ, mọi điều anh ta là,
nói, và sống, không thể, ngay cả, được gọi là
sự thực; sau cùng, đây là một sinh vật được tiền định,
tính toán từ trước, một sinh vật ở trong nó, và
của chính nó, có mà chẳng cần hư vô thêm
vào, cái hư vô có thể cho phép anh vặn
vẹo hình ảnh của anh ta về thế giới - trở thành cái
đẹp, hay sự chán chường, kiệt quệ. Và chủ nghĩa khổ hạnh
của anh ta thì hoàn toàn không-anh hùng
- từ đó, tất cả lớn lao, cao vời vợi. Mọi “chủ nghĩa anh hùng”
thì là dối trá, hèn nhát. Đây
không phải là 1 kẻ chọn khổ hạnh, như là một phương
tiện đưa tới cứu cánh; dây là 1 người đàn
ông bắt buộc khổ hạnh bởi là vì cái tiên
tri khủng khiếp của anh ta, sự trong trắng của anh ta, và cái
không thể thoả hiệp của anh ta.
Letter in the Sofa
1957
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
Thơ Mỗi Ngày
Marina
Tsvetaeva
Penguin
Russian Poetry
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/strong_wods_A_A.html
Strong
Words
O, some spoken words need stay unspoken!
Some writers should bite their tongues;
Only the blue dome of the sky and God
In His infinite mercy are inexhaustible.
Từ Dữ Dằn
Ôi, vài từ nói cần đừng nói
Vài nhà văn nên cắn lưỡi của họ
Chỉ vòm trời xanh
Và Chúa
Trong cái rộng lượng vô cùng của Người
Là chẳng bao giờ cạn láng
https://ninablog2008.wordpress.com/category/van-hoa/thi-ca-nga/akhmatova-anna/
* * *
Анна Ахматова
Отодвинув
мечты и устав от идей,
Жду зимы как другие не ждут.
Помнишь, ты обещал, что не будет дождей?
А они всё идут и идут…
Удивлённо
смотрю из квартирных окон-
Я во сне или всё ж наяву?
Помнишь, ты говорил, что вся жизнь – это сон?
Я проснулась, и странно, живу…
А назавтра
опять мне играть свою роль,
И смеяться опять в невпопад.
Помнишь, ты говорил, что любовь – это боль?!
Ты ошибся, любовь – это ад…
|
* * *
Anna Akhmatova
Mệt vì
ý tưởng, gạt ước mơ qua,
Em đợi mùa đông, như người ta không đợi.
Anh có nhớ, anh hứa, mưa không tới?
Nhưng bây giờ mưa vẫn tuôn rơi…
Em ngạc nhiên
nhìn từ khung cửa sổ –
Em đang mơ, hay thực tại là đây?
Anh có nhớ, anh nói, đời là mộng?
Em tỉnh giấc rồi, mà vẫn sống, lạ thay…
Rồi ngày
mai em tiếp tục diễn vai,
Và sẽ lại cười không phải lúc.
Anh từng nói, tình yêu là nỗi đau?
Anh nhầm rồi, tình yêu là địa ngục.
|
Hôm nay là
kỷ niệm ngày Anna Akhmatova qua đời – tròn 50 năm trước…
Worse
Are we worse than
they were in their years?
Writhing with anxiety, and in tears,
Hands laid on a wound so congealed,
So black, it cannot be healed.
Why such sun
showers in the West?
Such a play of light across city roofs?
A scythe scores our doors with a cross
Calling for crows. And they are flying.
1919
Anna Akhmatova
Thế kỷ này
tệ hại gì hơn trước?
- Trong khói mù lo lắng với đau buồn
Nó chạm đến vết loét đen tối nhất,
Nhưng không thể nào chữa được vết thương.
Phía tây
mặt trời còn đang chiếu sáng
Những mái nhà lấp lánh dưới nắng vàng,
Cái chết trắng nơi đây phá tung nhà cửa
Hú gọi quạ bầy, và đàn quạ bay sang.
Dịch từ nguyên
tác
https://www.facebook.com/luusanina?fref=nf
Tks
Bản tiếng Anh có
tí khác. Dịch "thoáng":
Tệ
Hại
Thời của tụi mình
tệ hơn của tụi nó?
Quằn quại với âu lo, với nước mắt
Tay dặt lên vết
thương đóng khằn
Đen thui, không làm sao lành nổi!
Tại sao mặt trời
rực rỡ như thế đó, ở phía Tây?
Ánh sáng chói chang trên những mái nhà
Một cái liềm đi 1 đường chữ thập lên những cánh cửa
Hú gọi quạ
Và chúng bèn bay tới
|
|