|
Last Page
Thơ Mỗi Ngày
Faithful mother tongue,
I have been serving you.
Every night, I used to sit before you little bowls of colors
so you could have your birch, your cricket, your finch
as preserved in my memory.
This lasted many years.
You were my native land; I lacked any other.
I believed that you would also be a messenger
between me and some good people
even if they were few, twenty, ten
or not born, as yet.
Now, I confess my doubt.
There are moments when it seems to me I have squandered my life.
For you are a tongue of the debased,
of the unreasonable, hating themselves
even more than they hate other nations,
a tongue of informers,
a tongue of the confused,
ill with their own innocence.
But without you, who am I?
Only a scholar in a distant country,
a success, without fears and humiliations.
Yes, who am I without you?
Just a philosopher, like everyone else.
I understand, this is meant as my education:
the glory of individuality is taken away,
Fortune spreads a red carpet
before the sinner in a morality play
while on the linen backdrop a magic lantern throw
images of human and divine torture.
Faithful mother tongue,
perhaps after all it's I who must try to save you.
So I will continue to set before you little bowls of colors
bright and pure if possible,
for what is needed in misfortune is a little order and beauty
Berkeley, 1968
Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004
Tiếng mẹ đẻ của tôi mà tôi một lòng
một dạ
Tiếng mẹ đẻ của tôi mà tôi một lòng một dạ
Tôi đã phục vụ tiếng mẹ đẻ của tôi
Đêm nào cũng vậy, tôi để trước bà những cái chén màu sắc,
và như vậy bà có thể có cây roi, con dế, con chim sẻ của bà
(1)
Như tôi còn gìn giữ được, trong trí nhớ của mình
Điều này kéo dài trong nhiều năm
Bà là quê mẹ của tôi; tôi đâu có quê nào khác.
Tôi tin tưởng bà còn là vì thiên sứ
Giữa tôi và số thiện nhân
Ngay cả khi đám này đếm trên đầu ngón tay
Hoặc chưa có mống nào ra đời
Và bây giờ, tôi thú thực
Hình như là tôi có tí nghi ngờ
Có những lúc tôi cảm thấy mình hoang phí đời mình.
Bởi vì tiếng mẹ tôi là thứ tiếng của một đám người tệ hại
Của những kẻ không hề biết lẽ phải là gì
Của những kẻ thù hận lẫn nhau
Chúng thù chúng còn hơn cả thù những quốc gia khác
Thứ tiếng nói của bọn cớm, những tên chỉ điểm
Của bọn chuyên lầm lẫn
Một lũ bịnh vì sự ngây thơ của chính chúng
Nhưng không có bà, thì tôi là ai?
Chỉ là 1 tên học giả ở một xứ sở xa xôi
một sự thành công, không sợ hãi mà cũng không tủi nhục
Đúng rồi, tôi là ai nếu không có tiếng mẹ đẻ?
Chỉ là 1 triết gia
Như mọi người khác
Tôi biết, điều này có nghĩa như là học vấn của tôi:
Sự vinh quang cá nhân được lấy đi
Của cải trải ra tấm thảm đỏ
trước kẻ tội lỗi trong 1 vở kịch đạo đức,
trong khi trên tấm màn phông, cây đèn thần ném ra
những hình ảnh của sự tra tấn, con người và thần linh.
Tiếng mẹ đẻ mà tôi một lòng một dạ
Có lẽ, sau chót, chính tôi là người phải cố gắng cứu tiếng mẹ
đẻ của mình
Và tôi sẽ tiếp tục bày ra trước tiếng mẹ đẻ những cái chén mầu
sắc, sáng ngời, và trong sạch, nếu có thể
Bởi vì điều cần trong bất hạnh, là, một trật tự nho nhỏ và cái
đẹp
Czeslaw Milosz
Berkeley, 1968
(1)
Câu này, thú thực Gấu không hiểu tác giả muốn nói gì.
Trên net, có bài này, có cả nguyên văn tiếng Ba Lan, bạn nào
rành, chỉ giùm.
Cái đoạn Milosz phạng tiếng mẹ đẻ của ông, sao nghe thấm quá,
đã quá!
NQT
Birch là một loại cây giống cây lao của VN (từ điển Việt nam
gọi là cây bu-lô) , hoặc cây aspen của Mỹ, có thân màu trắng, đặc biệt
vỏ thân thường bị bóc ra . Lá trở vàng vào mùa thu, rất xinh đẹp .
Tiếng mẹ thủy chung
Tôi đã phục vụ bà
Hằng đêm tôi thường đặt trước mặt bà những chén sắc màu nho
nhỏ
để bà có thể có những cây birch, những chú dế, và những con chim
sẻ
như chúng đã được gìn giữ (bảo tồn) trong trí nhớ của tôi
ps. Vì anh nghĩ birch là cái roi cho nên mới khó hiểu . Chứ khi
biết đó là một loại cây mọc rất nhiều ở âu mỹ (cũng như tre trúc ở VN ),
thì những thứ thân quen từng nhìn thấy hàng ngày như cây tre, như dế,
như chim sẻ bỗng trở nên thân thiết ăn sâu trong trí nhớ của những kẻ
xa quê .
K.
Tks. NQT
Rain hisses onto stones as old men and women
drive donkeys to cover.
We stand in rain, more foolish than donkeys,
and shout, walk up and down in rain and accuse.
•
When rain stops the old men and women
who have waited quietly in doorways, smoking,
lead their donkeys out once more and up the hill.
•
Behind, always behind, I climb through the narrow
streets.
I roll my eyes. I clatter against stones.
PLUIE SOUDAINE
Une pluie sifflante s'abat sur les pavés tandis que
[vieux
et vieilles
mènent des ânes a l'abri.
Debout sous la pluie, plus ânes que les ânes,
nous hurlons, marchons de long en large sous la
[pluie et
accusons.
*
Quand la pluie cesse les vieux et les vieilles
qui attendaient tranquillement sous des porches en
[fumant,
repartent avec leurs ânes à l'assaut de la côte.
*
Derrière, toujours derrière, j'escalade les rues étroites.
Je roule des yeux. Je claque sur les pavés.
Mưa bất thần
Quất lên hè đá,
Ông bà bà già bèn dắt lừa vào mái hiên trú mưa
Chúng tôi,
Đứng dưới mưa, khùng hơn cả lừa khùng
Sủa như giặc, hầm hà hầm hừ đi đi lại lại
Buộc tội nhau
Mưa tạnh,
Ông già bà già
Lặng thinh chờ, hút thuốc
Bèn dắt lừa lên đồi
Sau chót, thi luôn luôn là sau chót
Tôi leo con phố hẹp
Đảo con mắt lé liên miên
Lách cách, lách cách
Nện giầy lên hè đá.
WINTER INSOMNIA
The mind can't sleep, can only lie awake and
gorge, listening to the snow gather as
for some final assault.
It wishes Chekov were here to minister
something-three drops of valerian, a glass
of rose water-anything, it wouldn't matter.
The mind would like to get out of here
onto the snow. It would like to run
with a pack of shaggy animals, all teeth,
under the moon, across the snow, leaving
no prints or spoor, nothing behind.
The mind is sick tonight.
INSOMNIE D'HIVER
L'esprit ne peut pas dormir, ne peut que rester éveillé
à se goinfrer, écoutant la neige se rassembler
comme pour un ultime assaut.
Il voudrait que Tchekhov soit là pour lui administrer
quelque chose - trois gouttes de valériane, un verre
d'eau de rose - n'irnporte quoi, ca lui serait égal.
L'esprit voudrait sortir d'ici,
s'en aller dans la neige. Il voudrait galoper
avec une meute de betes hirsutes, tous crocs dehors,
sous la lune, à travers la neige, ne laissant
ni traces ni fumées, ne laissant rien.
Il est malade cette nuit, l'esprit.
Đông Mất Ngủ
Cái đầu không thể ngủ, cứ trong mắt lên thức
Tọng đầy họng, lắng nghe tuyết quần tụ
Cho cú đánh chót
Giá mà có Chekhov ở đây, nhỉ
Làm 1 cái gì đó – ba giọt valerian, một ly nước hồng-
Bất cứ cái gì – ông ta vốn dễ tính, cái gì mà chẳng được
Cái đầu muốn ra bên ngoài
Đi trong tuyết
[Nè, không có cái vụ, nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay]
Nó muốn phóng, cùng một lũ thú,
Lông bờm xờm, răng nhe hết cả ra
Dưới trăng, băng trên tuyết
Không để lại dấu, khói,
Chẳng để lại cái đéo gì hết
Cái đầu bịnh
Đêm nay.
Paul Celan
[Without title. Fragment
of an
unfinished poem]
The grass of your eyes, bitter grass.
Wind, billow above it, eyelid of
tallow.
The water of your eyes, forgiven
water.
[Vô đề. Mẩu bài thơ chưa hoàn tất]
Cỏ trong mắt em, cỏ cay đắng
Gió, biển ở trên, mí mỡ
Nước trong mắt em, nước tha thứ.
Night of the New
Year
During the night of the New Year, season without
hours,
you dispatched the young catafalque
to petition your lover;
towards her the incendiary tears
marched out of the
mirrors
in the torch snowed over with sorrow,
sprouting out of her
head.
The ring extinguished in a cup perched
up on the window
to spy her traipsing through snow
with slumbering tresses;
the unbraided hands rushed to the
gate to await her,
while above in the chambers the
poets stepped to the
waltz.
But she strolled through the threshold
to fight back an
eyelid,
to witness the quick of her wakening
breast drift off to
sleep.
A die tumbled between the slabs,
with eyes of a nectarine
hue,
and the wooden citadel's steeple
left with a shadow.
Encounter
Tonight it'll rain on the green
dunes of limestone,
The wine preserved til today in
the mouth of a dead man
will awaken the land of foot-bridges,
displaced in a bell.
A human tongue will trumpet audacity
in a helmet.
And thus the trees will arrive in
a fury
to wait for the leaf that speaks,
delivered in an urn,
the heralds of the coast of sleep
sent off to the tide of
banners.
Let it douse in your eyes, so I'll
think that we'll die
together.
Your hair dripping out of the mirrors
will blanket the
regions of air,
where, with a hand of frost, I'll
set an autumn on fire.
From the waters imbibed by the blind
my short laurel will
scurry
up on a belated ladder, to take
a bite from your forehead.
Gặp Gỡ
Đêm nay mưa sẽ rơi trên những đụn đá vôi xanh
Rượu được gìn giữ cho đến bữa nay, trong miệng người chết
Sẽ đánh thức miền đất của những chiếc cầu chân đất, lạc lõng trong
tiếng chuông
Một giọng người sẽ thổi sự hung hãn trong cái nón sắt
Và như thế đó, cây sẽ tới trong vội vã
Đợi lá, được giải thoát khỏi cái bình, cất tiếng
Những viên sứ truyền lệnh của bờ biển của giấc ngủ
Sẽ được phái đi tới ngọn triều của những biểu ngữ
Hãy để nó tắt ngấm trong mắt em, như thế, anh sẽ nghĩ, chúng mình
sẽ cùng chết bên nhau
Tóc em trườn ra khỏi những chiếc gương sẽ phủ bầu trời
Ở đó, bằng bàn tay của sương giá, anh sẽ để mùa thu lên giàn lửa
Từ nước hút bởi 1 người mù, vòng nguyệt quế ngắn ngủi của anh sẽ leo
Cái thang muộn, để cắn vào trán em
To confront his executioners in the name of
the language they share with him, and to force them to their knees.
That was the major bet, held.
Have I ever read Paul Celan? I have listened to him for
a long time. I listen to him. Each time his books renew a dialogue
the beginning of which I can't remember, though nothing has come to
interrupt it since then.
Silent dialogue through words as light as free and adventurous
birds; all the world's gravity being in the sky; like stones laid
by nostalgic ghosts on the marble of nonexistent tombs; all the world's
pain being in the earth; and like ashes of an interminable day of horror
of which there remains but the unbearable image of pink smoke above
millions of burned bodies.
A nothing rose
a Noone's Rose
A nothing
were we, are we, will we remain, blossoming:
the nothing - , the
noonesrose.
Edmond Jabès: The Memory of Words
Để đối chất với lũ đao phủ Bắc Kít, những kẻ cùng chia sẻ tiếng nói
với mi
Để bắt chúng quỳ gối
Quả đúng 1à 1 cú đánh quả lớn.
Tôi đã từng đọc Paul Celan? Tôi đã nghe ông nói một thời gian dài.
Tôi lắng nghe ông. Mỗi lần sách của ông làm mới lại 1 cuộc thoại, bắt đầu
ra sao, tôi chẳng thể nhớ, nhưng kể đó, chưa lần đứt đoạn bởi bất sự điều
gì.
Thoại lặng câm qua những con chữ, thì nhẹ như chim trời tự do rong
ruổi trong những chuyến ngao du; cái trọng lực của thế giới thì ở trên trời,
trong không khí; như những hòn đá được bầy ra bởi những hồn ma của hoài nhớ
trên những phiến cẩm thạch của những nấm mồ không hiện hữu, tất cả nỗi đau
của kiếp người thì ở trong đất; và như tro than của một ngày triền miên
của nỗi ghê rợn mà với nó, chẳng có gì còn lại, ngoại trừ một hình ảnh
không làm sao chịu đựng nổi của một BHD, giống như sương khói mầu hồng ở
bên trên hàng triệu triệu những thân xác bị thiêu đốt
Một bông hồng hư vô
Một BHD của Không Ai
All poets are Jews
Marina Tsvetayeva
[Paul Celan trích dẫn làm tiêu đề cho 1 bài thơ của ông]
Mọi thi sĩ là... Ngụy!
Đúng ý Vương Đại Gia, Vương Trí Nhàn, "May mà có Ngụy"!
Note:
Đây là hình ảnh những nấm mồ ở trên không, cực kỳ thần sầu, do quá thê
luơng, trong Tẩu Khúc Của Thần Chết.
Kertesz, Nobel văn chương, chôm, mà không biết (1)
Alexandre Gefen:
Trở lại với Kaddish, và cú rụng rời chân tay, lỡ chuyến tàu, tôi
nghĩ, nguồn của nó, đúng là “Tẩu Khúc của Thần Chết”,
“Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Kertesz:
Khi tôi bắt đầu viết Kaddish, tôi bị ám ảnh bởi ẩn dụ “mồ
đi trên mây” [“la tombe au-dessus des nuages”], chẳng hề biết là tôi trích
dẫn thơ Celan.
Sau này, biết, tôi lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté en
exergue]….
Ông cảm thấy ra sao, lần đầu đọc bài thơ?
Tôi đọc nó, lần đầu tiên, qua Tây Đức, như là 1 dịch
giả, năm 1983. Có một phụ nữ trẻ, trốn từ Đông Đức qua, trao tay cho tôi
bài thơ, tại nhà xb của những dịch giả, Straelen. Không phải 1 bài thơ được
in, nhưng 1 băng audio cassette.
Ghi âm bài thơ của Celan?
Đúng thế. Thực ra là tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi
biết tiếng Đức, nhưng thứ tiếng Đức văn học, một thứ tiếng Đức khác, ông
biết đấy.
Lần đó, đúng là âm nhạc của ngôn ngữ Đức mà tôi được nghe, thật là đẹp…
Lướt Tin Văn
INTERVIEWER
Liệu
có phẩm chất cứu chuộc trong “viết”, chính nó?
Is there perhaps a redemptive quality to writing itself?
Kertesz: Có đấy, nhưng không
phải cho mọi người
Not for everybody.
VHNT Số 555 February
14, 2003
Tin
Văn
1.
Mỗi trường hợp mỗi khác.
Thus it is
enough for the poet to be the bad conscience of his age.
Saint-John Perse. Diễn văn Nobel (1960).
(Là ý thức tự phán của thời mình, vậy là
quá đủ cho nhà thơ).
Sách &
Báo
FPT $21.95
$27.95 in Canada
Dream of Fair to middling Women was the chest into which I threw
my wild thoughts."
-Samuel Beckett
“Opened at last, [the chest] brims with treasures”
-Anthony Lane, The New Yorker
Here, more than sixty years after it was written, is Nobel laureate
Samuel Beckett's first novel. Written in a "white heat" in the summer
of 1932 at the Hotel Trianon in Paris, when the author was poor and struggling,
Dream of Fair to middling Women offers us a rare and revealing portrait
of the artist as a young man. Beckett, just twenty-six at the time, to
date had published a few poems, including the prize-winning "Whoroscope,"
a penetrating essay on Proust, and a contribution to the collective study
of James Joyce's then Work in Progress, later to become Finnegans Wake.
Beckett submitted the novel to several English publishers, all
of whom found it too scandalous, too risky (or, said some, too risqué),
or too literary. Subsequently Beckett put the work aside, although he
pilfered from it from time to time. After fame had overtaken him, he
was still reluctant to publish it, partly because it contained thinly
disguised and not always flattering portraits some of the author's friends
and acquaintances in Dublin, and partly because he was always his own harshest
critic.
The "hero" of Dream is one Belacqua-a youthful precursor of Molloy-who
"wrestles” with his lusts and learning across vocabularies and continents,
before a final 'relapse into Dublin’”(The New Yorker). His love is divided
between two women, Smeraldina-Rima and the Alba. Youthfully exuberant
and visibly influenced by Joyce, Dream of Fair into middling Women is
a work of extraordinary virtuosity in its own right. The authors delights
in wordplay and the sheer language-indeed, of several language. This is,
too, one of Beckett's most Irish works, yet there is about it as well the
sense of timelessness and universality that mark his later writing. Above
all, it is filled with the unique Beckettian humor that, like brief stabs
sunlight, pierces the darkness of the vision.
In his later years, Beckett agreed Dream should eventually be publish,
but only "some little time" after his death. Now, more than six decades
after it was written, this chest into which Beckett threw his wild thoughts
can at last be opened, and its contents savored and enjoyed.
Samuel Beckett was born in Ireland in 1906. He spent most of his
life, including the war years, in France. His most famous dramatic works,
Waiting for Godot and Endgame, revolutionized modern theater. His trilogy,
Molloy, Malone Dies, and The Unnamable ranks among the major works of
fiction in any language in this century. He died on December 22,1989.
Jacket design by Robert Reed
Back jacket photograph © John Minihan
Arcade Publishing • New York
Distributed by Little, Brown and Company
Printed in the USA
“Mộng Phù Hoa về Đờn Bà làm xàm đại khái”, là cái lồng ngực
mà tôi ném vào đó những tư tưởng man dại của mình, viết cách đây hơn
sáu chục niên, chẳng ma nào chịu in.
Viết khi nghèo khó, khốn khổ, và khi nổi tiếng, lâu lâu, tác
giả lôi ra mân mê, rồi lại bỏ lại vào trong ngăn kéo, và sau cùng nhắn
với hậu thế, chỉ in nó, sau khi tôi chết rồi.
Mấy cuốn mới lôi ra khoe, sách xôn không
à, mua lâu rồi, rồi cũng không kịp đọc, vì, khó nhá quá. Cuối năm bèn
lôi ra.
Toàn những cuốn thần sầu. Thơ Celan, ẩn ngữ Kafka.
Chỉ 1 câu, “con chim đi tìm cái lồng”, Simic đi được
1 đường tuyệt vời trong “Cuộc sống của hình ảnh”
THE TRUE ADVENTURES OF FRANZ KAFKA'S CAGE
A cage went in search of a bird.
-KAFKA
Cái lồng bèn lên đường
làm cách mạng, để tìm con chim.
It occurred to Chairman Mao one
day to find out from his chief of secret police how many empty cages there
were in China and whether they were being carried about at night by suspicious
individuals he was not aware of or were they ghosts of some of his old party
comrades whom he had imprisoned and tortured over the years?
Những cuộc phiêu lưu thực của cái lồng
chim của Kafka
Khác với "Bác Hồ có 1 con chim, hỏi thăm chị Định,
để xìn[xin] cái lông", Bác Mao, một bữa, qua Cớm Tẫu báo cáo, biết được, con
số lồng trống rỗng, bèn ra lệnh điều tra, liệu chúng đã được những phần
tử nghi ngờ làm chuyện hồ nghi trong đêm khuya, hay, đó là hồn ma của những
cựu đảng viên bị Bác cầm tù, tra tấn dòng dã qua bao năm tháng.
"Birdcages of the world, free
yourself from filthy birds," shouted the young Peruvian revolutionary
as he was being led blindfolded before the firing squad.
"Vùng lên, hỡi những cái
lồng chim trầm luân ở trên thế gian này,"
Anh Trỗi la lớn, trước khi bị Ngụy làm thịt.
Our art is an art that is dazzled by truth: the light shed
on the rapidly fleeing grimace is true-nothing else is.
Dịch nhảm:
Nghệ thuật của Tin Văn là nghệ thuật bị chói lòa đến mù
con mắt, bởi sự thực, của Lò Thiêu, Lò Cải Tạo, Cái Ác Bắc Kít.
Cái ánh sáng chiếu lên cái nhăn nhó bỏ chạy thật nhanh,
của GCC - là sự thực - ngoài ra, chẳng cái gì, ngoài cái đó.
The Expulsion from Paradise is eternal in its principal aspect:
this makes it irrevocable, and our living in this world inevitable,
but the eternal nature of the process has the effect that not only could
we remain forever in Paradise, but that we are currently there, whether
we know it or not.
Kafka
Trong tập này, Tin Văn đã giới thiệu
1 số bài.
Phê
bình là gì?
Kafka's
Answer
Literature
and Metalanguage
Nay đi thêm bài, Authors & Writers, qua đó,
Barthes phân biệt giữa Tác Giả & Nhà Văn, từ đó, chúng ta có
hai từ, kẻ dùng văn, écrivant, và nhà văn, écrivain. Một, sử dụng
từ cho 1 mục đích nào đó, và một, kẻ phịa ra từ, kẻ viết để hiểu tại
sao viết, viết như thế nào...
Trang R. Barthes
Phê bình là gì?
Trong cuốn này, Critical
Essays, có mấy bài Gấu thú lắm, đọc bản tiếng Tẩy, từ thời còn niên
thiếu, về già nhớ lại, bèn có tham vọng dịch qua tiếng Mít!
Hà, hà!
“Phê bình là diễn ngôn về một diễn
ngôn. Đó là ngôn ngữ thứ sinh hoặc siêu ngôn ngữ, nó hành nghề trên ngôn
ngữ nguyên sinh (hay ngôn ngữ – đối tượng)” – Roland Barthes
Nguồn: Phê bình văn học
Gấu đọc Blog NL, thấy giới thiệu trang “phê bình văn học”,
tò mò vô đọc, thấy câu trên, được đặt trang trọng ngay trên đầu trang,
như là tuyên ngôn của trang chủ.
Câu trên Gấu dịch rồi, dịch toàn bài viết luôn, trên mục
Lý thuyết phê bình của Tin Văn.
Nguyên văn [bản tiếng Anh, dịch từ nguyên tác tiếng Tây]:
Criticism is discourse upon a discourse;
it is a second language, or a metalanguage (as the logicians would say),
which operates on a first language (or language object).
Theo Gấu Cà Chớn, "second language"
nên dịch là “ngôn ngữ bậc hai”. Bởi vì, ở 1 chỗ khác, Barthes dùng từ
"cover", phê bình là 1 ngôn ngữ "phủ" lên 1 ngôn ngữ khác. Dùng "thứ
sinh", sẽ bị lầm, là nó sinh ra từ 1 ngôn ngữ bậc nhất, tức ngôn ngữ
đời sống.
"Operate" dịch là "thao tác", nghiêm cẩn hơn hơn, đối với
1 trang về phê bình văn học
Dùng từ “hành nghề” sợ lầm với con người.
NQT
Phê Bình Là Gì?
Phê bình là
bài viết/nói về một bài viết/nói; nó là một ngôn ngữ bậc hai, hay, một
siêu ngôn ngữ (như những nhà lý luận gọi). Cái ngôn ngữ bậc hai này
thao tác (operate) trên ngôn ngữ bậc nhất (hay, ngôn ngữ sự vật, language
object).
“Language object”
không thể dịch là “ngôn ngữ đối tượng” được, mà phải dịch là "ngôn
ngữ sự vật". Người nào dịch không nắm được tinh thần & nội dung bài
viết của Barthes.
Ông phân biệt
hai ngôn ngữ.
Một, của văn chương, đối tượng của nó là đời sống, sự vật,
object. Bởi vậy Gấu mới đề nghị dịch là ngôn ngữ bậc 1.
Một, của phê bình, đối tượng của nó không phải là đời sống,
sự vật, mà là ngôn ngữ. Nó là "ngôn ngữ của ngôn ngữ", thành ra mới có
cụm từ "diễn ngôn về diễn ngôn", nghe lôi thôi quá, thành ra lòi ra
từ "siêu ngôn ngữ".
Và Gấu mới phịa ra từ “ngôn ngữ bậc hai”.
Bậc 1, bậc 2, thú thực là chôm từ toán học, phương trình
bậc 1, phương trình bậc 2.
Dịch Barthes, rất khó, là vì “từ”
ông dùng, thường là từ bên kỹ thuật, khoa học, qua, phải là 1 tên thợ
máy Bưu Điện, hay có biết về toán như GCC, mới dịch được. Bởi thế,
thời Gấu mới lớn, ở Sài Gòn, chỉ 1 mình Gấu dám đọc Barthes, mấy Thầy
Triết, đếch Thầy nào dám đụng vô. Mấy Thầy chỉ quen những từ như hư vô,
bản thể học, hữu thể. Ngay từ tha hóa, phóng thể, alienation, là của…
Marx, mấy Thầy sợ cũng đếch biết!
|
|