“Phê bình là
diễn ngôn về một diễn ngôn. Đó là ngôn ngữ thứ sinh hoặc siêu ngôn ngữ,
nó hành
nghề trên ngôn ngữ nguyên sinh (hay ngôn ngữ – đối tượng)” – Roland
Barthes
Nguồn: Phê
bình văn học
Gấu đọc Blog
NL, thấy giới thiệu trang “phê bình văn học”, tò mò vô đọc, thấy câu
trên, được
đặt trang trọng ngay trên đầu trang, như là tuyên ngôn của trang chủ.
Câu trên Gấu
dịch rồi, dịch toàn bài viết luôn, trên mục Lý thuyết phê bình của Tin Văn.
Nguyên văn
[bản tiếng Anh, dịch từ nguyên tác tiếng Tây]:
Criticism is
discourse upon a discourse; it is a second language, or a metalanguage
(as the
logicians would say), which operates on a first language (or language
object).
Theo Gấu Cà Chớn,
"second language" nên dịch là “ngôn ngữ bậc hai”. Bởi vì, ở 1 chỗ
khác, Barthes dùng từ "cover", phê bình là 1 ngôn ngữ "phủ"
lên 1 ngôn ngữ khác. Dùng "thứ sinh", sẽ bị lầm, là nó sinh ra từ 1
ngôn ngữ bậc nhất, tức ngôn ngữ đời sống.
"Operate" dịch là "thao tác", nghiêm cẩn hơn hơn, đối với 1
trang về phê bình văn học
Dùng từ “hành nghề” sợ lầm với con người.
NQT
Phê Bình Là
Gì?
Phê bình là
bài viết/nói về một bài viết/nói;
nó là một ngôn ngữ bậc hai, hay, một siêu ngôn ngữ (như những nhà lý
luận gọi).
Cái ngôn ngữ bậc hai này thao tác (operate) trên ngôn ngữ bậc nhất
(hay, ngôn
ngữ sự vật, language object).
“Language
object” không thể dịch là “ngôn ngữ đối tượng” được, mà phải dịch là
"ngôn ngữ sự
vật". Người nào dịch không nắm được tinh thần & nội dung bài viết
của Barthes.
Ông
phân biệt hai ngôn ngữ.
Một, của văn chương, đối tượng của nó là đời sống, sự vật, object. Bởi
vậy Gấu
mới đề nghị
dịch là ngôn ngữ bậc 1.
Một, của phê bình, đối tượng của nó không phải là đời sống, sự vật, mà
là ngôn ngữ.
Nó là
"ngôn ngữ của ngôn ngữ", thành ra mới có cụm từ "diễn ngôn về diễn
ngôn",
nghe lôi
thôi quá, thành ra lòi ra từ "siêu ngôn ngữ".
Và
Gấu mới phịa ra từ “ngôn ngữ bậc hai”.
Bậc 1, bậc 2, thú thực là
chôm từ toán
học, phương trình bậc 1, phương trình bậc 2.
Roland Barthes
Trong
bài viết về Bếp Lửa của
TTT, từ những năm 1970, Gấu nhận ra, số phận [sự thất bại] của cuốn
này, BL, 'y hệt'
cuốn La Nausée.
Susan Sontag cũng nhận ra điều
này, mắc mớ giữa Sartre và Barthes:
… Although Barthes agrees
with Sartre that the writer's vocation has an ethical imperative, he
insists on
its complexity and ambiguity. Sartre appeals to the morality of ends.
Barthes
invokes "the morality of form"- what makes literature a problem
rather than a solution; what makes literature.
Phê Bình Là Gì?
Roland Barthes
Thật dễ dàng miêu tả những nguyên lý
phê bình lớn, xứng hợp
với hoàn cảnh ý thức hệ của một con người, nhất là ở Pháp, nơi những
khung lý
thuyết rất được nể nang, chẳng chút nghi ngờ, ấy là vì, chúng, những
khung lý
thuyết đó đem đến cho người thực hành một bảo đảm, rằng, như vậy là,
liền lập
tức, người đó được tham dự vào một cuộc chiến đấu, một lịch sử, và, một
toàn
thể. Phê bình Pháp đã phát triển theo đường hướng đó trong chừng mười
lăm năm,
với những vận hội của nó, gói trong bốn “triết thuyết” lớn. Trước tiên,
là cái
thường được gọi, và còn phải tra hỏi, là triết học Hiện sinh, triết
thuyết này
đẻ ra những tác phẩm phê bình của Sartre, Baudelaire, Flaubert, những
bài viết
ngắn hơn về Proust, Mauriac, Giraudoux, và Ponge, và, trên tất cả, cuốn
Genet tuyệt vời của ông.
Rồi tới Mác xít. Với nó, là câu "Biết
rồi khổ lắm nói
mãi", như thế nào, tại ra làm sao, thứ triết học này lại tuyệt tự [how
sterile], khi đưa ra một giải thích rất ư là máy móc, và hoàn toàn có
tính
tuyên truyền, về những tác phẩm, thay vì 'tiêu chí’ những giá trị
[criteria of
values]. Lạ một điều, và cũng thật thú vị, ở miền Tây Vực, tức "biên
cương" của Mác Xít, [không phải ở cái tâm được thừa nhận của nó], chính
tại nơi đây chúng ta tìm thấy một phê bình xum xuê nhất: tác phẩm của
Lucien
Goldmann, rõ ràng là được thừa hưởng rất nhiều từ Lukacs; đây là một
trong
những phê bình linh động nhất, tài tình nhất, coi lịch sử xã hội và
chính trị
là khởi điểm của nó.
Rồi tới Phân tâm học; tại Pháp, lúc
này, người đại diện số
một của phê bình theo kiểu của Freud là Charles Mauron, nhưng cũng
giống như
trong trường hợp Mác xít, chính là ở biên cương của phân tâm học mà
chúng ta có
được những nghiên cứu, phân tích phê bình xum xuê [fruitful] nhất; khởi
từ một
phân tích những chất, những phần, an analysis of subtances (1) [thay vì
những
tác phẩm], tiếp theo đó là những nhào nặn thật năng động, hình ảnh một
số đông
những thi sĩ, Bachelard đã tạo dựng một điều có thể được coi như là nền
móng
cho một trường phái phê bình, rất có ảnh hưởng, đến nỗi người ta có thể
gọi nó
là nền phê bình Pháp hiện nay, ở một hình thức phát triển nhất của nó,
một nền
phê bình Pháp lấy hứng từ Bachelard, [a criticism of Bachelardian
inspiration],
với những phê bình gia như Poulet, Starobinski, Richard.
(1) Chất, như lửa, trong Phân Tâm Học
Về Lửa, của Bachelard.
CTND.
Sau cùng là cơ cấu luận (hay đẩy tới
cực điểm của sự giản
đơn, và như thế, tất nhiên, có sự lạm dụng, khi gọi bằng cái tên, chủ
nghĩa
hình thức, formalism]: chúng ta biết sự quan trọng, ngay cả tính thời
thượng
của chuyển động này, ở Pháp, kể từ khi Levi-Strauss mở ra cho nó, những
phương
pháp khoa học xã hội, và một phản ảnh có tính triết học, tuy nhiên, ít
có những
tác phẩm phê bình thực sự được coi như là những hệ luận, nhờ cơ cấu
luận mà có
được, nhưng rõ ràng là, chúng đang trên đường sửa soạn, và trong số đó,
chúng
ta có thể tìm thấy, chẳng nghi ngờ chi, ảnh hưởng của những mẫu mã ngôn
ngữ học
được xây dựng bởi Saussure, và được mở rộng ra bởi Jakobson, [chính ông
này,
vào cái thời chập chững bước vào nghề, đã có mặt ở trong một chuyển
động phê
bình văn học, đó là trường phái phê bình hình thức của Nga): Có vẻ như,
thí dụ,
người ta có thể phát triển, mở ra cả một nền phê bình văn học, khởi đi
chỉ bằng
hai phạm trù tu từ được Jakobson thành lập, đó là ẩn dụ và hoán dụ
[metaphor
and metonymy].
Và chúng ta thấy, Phê bình Pháp này,
ngay lập tức,
bèn trở thành "đồ lô, đồ nhà" [national, mang tính quốc gia], (nó
chẳng nợ nần gì, hoặc nếu có, chỉ tí ti, phê bình Ănglô-Xắc-xông,
Spitzer và
các đệ tử, những đệ tử của Croce), và mang tính đương thời (người ta có
thể
gọi, không có niềm tin, "faithless"): hoàn toàn bị cuốn hút vô một
hiện tại mang tính ý thức hệ, và thật ngần ngại, nếu phải xác nhận, có
một tí
truyền thống, tức là một tí Sainte-Beuve, Taine, hay Lanson, ở trong
phê bình
đương thời, không có niềm tin này. Tuy nhiên, khuôn mặt sau cùng này,
phê bình
gia Lanson, làm dấy lên một vấn đề đặc biệt cho phê bình đương thời của
chúng
ta. Tác phẩm, phương pháp, và tinh thần Lanson - bản thân ông ta là một
giáo sư
Tây chính cống - đã cầm cân nẩy mực qua bao
nhiêu thế hệ, trọn cả một nền phê bình khoa
bảng, trong suốt năm
mươi năm. Kể từ khi những nguyên lý (được thừa nhận) của nền phê bình
này, là,
sự khắt khe, tính khách quan, trong công việc xác định, thành lập những
sự
kiện, nguời ta có thể nói, chẳng có gì là chỏi, giữa chủ nghĩa Lanson
và phê
bình ý thức hệ. Tất cả đều là những phê bình dẫn giải, interpretation.
Tuy
nhiên, mặc dù đa số những nhà phê bình Pháp hiện nay, chính họ là những
giáo sư,
vẫn có một sự căng thẳng, giữa phê bình dẫn giải và phê bình thực chứng
(khoa
bảng). Đó là vì, chủ nghĩa Lanson, bản thân nó, là một ý thức hệ. Chính
vì thế,
nó đã không chỉ hài lòng với việc đòi hỏi áp dụng những qui luật khách
quan
trong tìm tòi khoa học, mà còn muốn hàm ngụ những niềm tin
[convictions] tổng
quát nào đó về con người, lịch sử, văn học và những liên hệ giữa tác
giả và tác
phẩm, thí dụ vậy, và tâm lý học của Lanson thì đã được xác định quá rõ
ràng, nó
chủ yếu là một thứ định mệnh thuyết mang tính loại suy, theo đó, những
chi tiết
của một tác phẩm phải giống như [must
resemble] những chi tiết trong đời sống,
linh hồn của một nhân vật phải giống như linh hồn của tác giả, vân vân
và vân
vân - một thứ ý thức hệ rất ư đặc biệt, đến nỗi, kể từ khi ra đời,
những năm
tiếp theo sau, nó đưa ra những lập luận, thí dụ, tâm lý học đã thừa
nhận những
liên hệ trái nghịch, những liên hệ chối từ, giữa tác phẩm và tác giả
của nó.
Thực ra, những tiền đề triết học là
không thể tránh được;
chủ nghĩa phê bình Lanson không thể bị trách cứ do những định kiến của
nó,
nhưng mà do, nó che giấu chúng, khoác cho chúng những mặt nạ, theo đó,
tính
khắt khe đòi hỏi như thế, khách quan muốn như vậy. Ý thức hệ được giấu
trong
hành trang khoa học, giống như hàng lậu.
Nếu những nguyên lý mang tính ý thức hệ này nọ này khả hữu
cùng một lúc [về phần tôi, theo một nghĩa nào đó, tôi chịu một trong số
đó,
cùng một lúc], chẳng hồ nghi, một chọn lựa mang tính ý thức hệ không
làm nên
cái gọi là HữuThể, Being, của phê bình và chân lý không phải là Đất
Thánh,
[Sanction: phê chuẩn, thừa nhận], của nó. Phê bình, như thế, còn là một
cái gì
vượt lên bài viết/nói nhân danh những nguyên lý "thực" ['true'
principles]. Từ đó, suy ra một điều, trọng tội của phê bình, không phải
là ý
thức hệ, mà là sự câm lặng che giấu nó. Sự câm lặng tội lỗi này có một
cái tên
là lương tâm tốt, ý thức tốt, good conscience, hay, một lần nữa, niềm
tin xấu,
bad faith.
Thực sự mà nói, làm sao chúng ta có
thể tin tưởng, tác phẩm
là một món đồ lạ hoắc đối với tâm tính và lịch sử của con người tra hỏi
nó, một
món đồ, qua đó, nhà phê bình sẽ hành sử một thứ quyền ngoại địa, a kind
of
extraterritorial right? Bằng phép lạ nào hầu hết những nhà phê bình hô
hoán lên
rằng, sự tương thông thăm thẳm giữa tác phẩm và tác giả của nó, sẽ
ngưng lại,
ấy là vì nó liên quan tới, in relation to, sự nghiệp phê bình, và thời
đại, của
riêng những phê bình gia? Liệu có chăng những lề luật sáng tạo có giá
trị với
nhà văn, nhưng chẳng là cái gì, đối với nhà phê bình? Tất cả những nhà
phê bình
phải đưa vào trong bài viết/nói của mình, bằng bất cứ cách nào, cho dù
rất ư
gián tiếp, hay rất ư là khiêm tốn - mà họ có thể tưởng tượng ra được:
Phải bao
gồm ở trong bài viết/nói của họ, một suy tưởng ngấm ngầm về chính nó;
mọi phê
bình đều là một phê bình về tác phẩm và một phê bình về chính nó. Nói
một cách
khác, phê bình chẳng hề là một bảng những kết quả hay một khối, a body,
những
phán đoán, nó thiết yếu phải là một hoạt động, an activity, nghĩa là,
một chuỗi
những hành động trí thức, một lòng một dạ, [dấn thân hết mình với con
người
trình diễn chúng; một con người với một hiện hữu mang tính lịch sử, với
một cái
tôi của riêng người đó, nghĩa là hoàn toàn chủ quan. Liệu một hoạt động
có thể
"thực"? Nó trả lời cho những đòi hỏi hoàn toàn khác hẳn.
Mọi tiểu thuyết gia, mọi thi sĩ, múa
may quay cuồng với
những đường đao thế kiếm dựa trên bất cứ một lý thuyết văn học gì thì
gì, tựu
chung cũng là để nói về tuồng ảo hóa đã bầy ra đấy [nguyên văn: để nói
về những
sự vật, và hiện tượng, to speak of the objects and phenomena], cho dù
những thứ
này là do tưởng tượng, ở bên ngoài hoặc là có trước ngôn ngữ: thế giới
hiện hữu
và nhà văn nói: đó là văn chương. Sự vật, hay đối vật, the object, của
phê bình
khác hẳn: Đối vật của phê bình không phải là "thế giới" nhưng mà là
một bài viết/nói, a discourse, bài viết nói đó, là của một người nào
đó: phê
bình là một bài viết/nói về một bài viết/nói; nó là một ngôn ngữ bậc
hai, hay,
một siêu ngôn ngữ (như những nhà lý luận gọi). Cái ngôn ngữ bậc hai này
thao
tác (operate) trên ngôn ngữ bậc nhất (hay, ngôn ngữ sự vật, language
object).
Từ đó suy ra, ngôn ngữ phê bình phải đụng (deal) với hai thứ liên hệ:
liên hệ
giữa ngôn ngữ phê bình với ngôn ngữ của tác giả được tìm hiểu, và liên
hệ giữa
ngôn ngữ sự vật này với thế giới. Chính sự "đụng độ, tranh chấp",
giữa hai ngôn ngữ này định nghĩa, cái gọi là phê bình. Và, có lẽ, sự
đụng độ
này làm cho phê bình thật giống với một hoạt động tâm thần khác, lý
luận học, môn
này cũng đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa ngôn ngữ sự vật và siêu
ngôn ngữ.
Và
bởi vì
phê bình, như thế, chỉ là
một siêu ngôn ngữ, cho
nên, nhiệm vụ của nó, chẳng hề là khám phá ra, "những sự thực", nhưng
mà là "những cái có giá trị" ["the validities"]. Tự thân,
ngôn ngữ không thực, mà cũng chẳng giả; nó có giá trị, hoặc không: giá
trị,
valid, có nghĩa, tạo một hệ thống hài hòa những ký hiệu. Những lề luật
của ngôn
ngữ văn chương chẳng màng đến sự ăn ý, giữa nó với thực tại [cho dù mấy
trường
phái hiện thực lải nhải cỡ nào thì cũng… dẹp!], nhưng mà là sự
cúi
mình chịu vô
khuôn khép với hệ thống
ký hiệu tác giả tạo ra (và chúng ta, lẽ dĩ nhiên, phải đem đến
cho cái từ
‘hệ thống’ này một cái nghĩa rất ư là mạnh, ở đây] (1). Phê bình chẳng
có tí
trách nhiệm nào, về cái việc phải tuyên bố, liệu Proust nói lên “sự
thực”, Ngài
Baron de Charlus là Count de Montesquiou, Francoise là Céleste, hay
tổng quát
hơn, liệu xã hội mà Proust miêu tả đó, có y chang những
điều kiện lịch
sử liên quan tới vụ biến mất tầng lớp quí tộc vào cuối thế kỷ 19; vai
trò của nó chỉ nhắm có mỗi một việc, là làm sao tạo ra được một ngôn
ngữ mà sự hài hòa, tính lô gíc, hay nói ngắn gọn, tính hệ thống của nó,
its
systematics, có thể thu gom, hay tốt hơn nữa, có thể “hoà nhập”
[“integrate”,
theo nghĩa toán học của từ này], càng được nhiêu càng tốt nhiêu,
số lượng ngôn ngữ của Proust, y hệt như một phương trình luận lý xét
nghiệm giá trị suy luận chẳng cần để ý tới “sự thực” của những luận cứ
mà
phương trình đó điều động. Người ta có thể nói, nhiệm vụ của phê bình -
đây là bảo đảm độc nhất, để cho nó trở thành phổ cập, this is the sole
guarantee of its universality - hoàn
toàn có tính hình thức [“formal”]: không “khám phá”, ở trong tác phẩm
của tác
giả, một điều gì được giấu kín, một điều gì thâm sâu, một điều gì bí
ẩn, trước đó
đã bị bỏ qua, không được để ý tới, [bằng phép lạ như thế nào, mà đám
hậu duệ, là
chúng ta, lại bảnh hơn lớp đi trước?], nhưng chỉ là điều chỉnh, ngôn
ngữ mà thời đại nhà phê bình ban cho anh ta [Hiện
Sinh, Mác Xít,
Phân Tâm Học], so với ngôn ngữ, hay hệ thống “formal” những câu thúc
luận lý được
tác giả chi ly ra, theo ngôn ngữ thời đại, của riêng người đó. "Bằng
chứng" của phê bình không do lệnh lạc của Thần Sự Thực [nó không diễn
tiến theo những cung bậc của sự thực, theo kiểu, cứ theo như sự thực mà
thi hành], bởi vì một bài viết/nói mang tính phê bình - như một bài
viết/nói mang tính lý luận - chẳng là gì cả, ngoại trừ điều này: nó là
[một lối nói/viết] quẩn, quanh, dằng, dai, như cố tình trì hoãn, dù
thật muốn, làm bật ra, trọn hữu thể của nó, nhờ cái sự dằng dai đó mà
có
được, và trở thành, có nghĩa: Racine là Racine, Proust là Proust; "bằng
chứng" phê bình, nếu mà có một cái thứ bằng chứng như thế, hệ tại ở
khiếu năng, khả năng - không "khám phá" tác phẩm nhưng ngược lại - che
chở cho nó, bao trùm lên nó, càng đầy đủ, hoàn
toàn, viên
mãn nhiêu, càng tốt nhiêu, bằng chính ngôn ngữ của nó.
Như thế, một lần nữa, điều làm chúng ta quan tâm, là một hoạt động
thiết yếu hình thức, không phải theo nghĩa thẩm mỹ, mà luận lý, của từ
này. Chúng ta có thể nói, với phê bình, cách độc nhất để tránh [làm một
thứ] "lương tâm tốt", hay "niềm tin xấu", là, coi mục tiêu đạo đức
không phải giải mã ý nghĩa tác phẩm nhưng, làm sao
tái tạo dựng, những luật lệ, những câu thúc [constraints] của việc
triển khai [elaboration] ý nghĩa tác phẩm, với điều kiện, chúng ta, một
lần nữa, thừa nhận, một tác phẩm văn học là một hệ thống ngữ nghĩa
[semantic] rất ư đặc biệt., mục tiêu của nó, đem "nghĩa" đến cho thế
giới, "nghĩa", "meaning", chứ không phải "một cái nghĩa", "a meaning",
tác phẩm; chí ít, tác phẩm nào mong "được, bị, chịu", xâm xoi, dò xét,
tìm tòi, bởi phê bình - và có lẽ, đây là một định nghĩa về văn chương
tốt - tác phẩm đó chẳng hề hoàn toàn vô-nghĩa, non-signifying, [bí
hiểm, hay, "được mặc khải, được gợi hứng"], và cũng chẳng hề hoàn toàn
sáng sủa, clear; nó là, người ta có thể nói, một cái nghĩa bị treo, a suspended meaning: tác phẩm
tự nó hiến dâng cho người đọc, như một hệ thống ý nghĩa được nhìn
nhận, tuy nhiên, nó cứ co lại, cố nén, cố tránh, cố tạo một
khoảng cách với người đọc, như một món đồ có ý nghĩa. Nỗi bực
mình
về ý nghĩa của tác phẩm [nói gì thì nói mẹ nó ra, cứ ấm a ấm ớ], giải
thích, một mặt, tại sao tác phẩm văn chương lại có được quyền năng
khổng lồ tra hỏi thế giới, bằng đủ thứ câu hỏi [trong khi ngồi xổm lên
dư luận, ỉa vào mặt những ý nghĩa, những câu trả lời có sẵn, đã được
bảo đảm bởi, nào ý thức hệ, thí dụ, viết dưới ánh sáng của Đảng, nào
niềm tin, đường ta trận mùa này đẹp lắm, nào, thắng trận giặc Mỹ, Nguỵ
này ta sẽ xây dựng
cái nhà Việt Nam to đẹp bằng trăm bằng mười, luôn cả ý nghĩa thông
thường, cảm quan thông thường], tuy nhiên, đừng trông
mong, nó trả lời những câu hỏi liên quan tới những vấn đề nêu trên,
[tác
phẩm mang tính "độc đoán" chẳng có nhiều], một mặt, tại sao nó cứ
tự phơi
ra, cho tha hồ giải mã, hoài hoài, vô tận, bởi vì, chẳng lý do
nào, chẳng quyền năng nào bắt chúng ta ngưng nói về
Racine, về
Shakespeare, [ngoại trừ một khi ngấy, chán, bất như ý, nhưng chính sự
bất mãn về tác phẩm, chính nó, cũng sẽ trở thành một ngôn ngữ]
(2): cùng một lúc, vừa đề nghị dai dẳng, nằng nặc, vừa chạy trốn, tránh
né ý nghĩa: văn chương, như vậy thực tình chỉ có thể là một ngôn ngữ,
nghĩa là, một hệ thống ký hiệu, hữu thể của nó
không phải những thông điệp, nhưng, cái "hệ thống đó". Và như
thế, phê bình gia không có trách nhiệm tái tạo dựng thông điệp tác
phẩm, chỉ [trách nhiệm tái tạo dựng] hệ thống, chẳng khác chi
nhà ngôn ngữ học không có trách nhiệm giải mã nghĩa một câu, nhưng
có trách nhiệm tạo dựng cấu trúc hình thức, chính cấu trúc này cho phép
ý nghĩa được truyền đi.
Chỉ bằng cách nhìn nhận, tự thân, chẳng là chi, mà chỉ là một ngôn ngữ
[hay nói một cách chi ly hơn, một siêu ngôn ngữ], phê bình mới có thể,
nghe có vẻ ngược ngạo, nhưng đích thực nó là như vậy, vừa khách
quan vừa chủ quan, vừa mang tính lịch sử vừa mang tính hiện sinh, [theo
nghĩa "mình ên", CTND], vừa toàn trị vừa cởi mở. Bởi vì, một mặt, ngôn
ngữ mà nhà phê bình chọn lựa để nói ra, không rớt từ trên Trời xuống,
nó là một trong số những ngôn ngữ mà thời đại của người đó ban cho, nói
một cách khách quan, nó là một sản phẩm ở vào giai đoạn chót của một
thời đại lịch sử, nó là thành quả, một sự chín mùi về tri thức, về tư
tưởng, về những đam mê trí thức của thời đại lịch sử đó - nó là một sự
cần thiết, a necessity; và một mặt khác, ngôn ngữ cần thiết này, được
chọn lựa bởi mỗi nhà phê bình, như là một hậu quả của một tổ chức hiện
sinh, [nhà phê bình này thuộc miệt vườn...], như là một cuộc hành sử
một chức năng trí thức thuộc riêng người đó chỉ người đó mới có quyền
hành sử như vậy, một công cuộc thực tập mà người đó ném hết mình vào
trong đó, nghĩa là, với tất cả những sự chọn lựa, những niềm vui, những
đề kháng, những ám ảnh. Và như thế, bắt đầu, ở ngay nơi trái tim của
một tác phẩm phê bình, một cuộc thoại, của hai câu chuyện, của hai chủ
thể, một, tác giả, và một, nhà phê bình. Nhưng cuộc thoại này luôn xoáy
về hiện tại và đây là tính ích kỷ, vị kỷ của nó: phê bình không phải là
một "homage" [sự tôn vinh] chân lý của quá khứ, hay chân lý
của "những người khác" - nó là một thiết kế công trình về sự dễ hiểu,
dễ cảm nhận... của riêng thời đại chúng ta.
1963
(1) Thanh Tâm Tuyền, ở đầu tập thơ Tôi
Không Còn Cô Độc, như
lường trước được phản ứng của độc giả, trước sự ra đời của thơ tự do,
đã
cảnh cáo,
ở đây, tôi là
vị hoàng đế của một "vương
quốc" - "hệ thống", với một cái nghĩa rất mạnh như Barthes nói. Bạn vô,
là
phải
thần phục, còn không, cứ việc ném nó vô thùng rác - ông viết, ném ra
ngoài cửa
sổ. CTND.
(2) Genette, phê bình gia Tây, đã từng nói về nhà văn, như là một độc
giả, vô thư viện, tính kiếm một cuốn để đọc, không thấy, bực quá, bèn
viết một cuốn, thay vì mất công tìm. CTND.
NQTdịch từ bản tiếng Anh: What Is
Criticism?
Khi nào kiếm được nguyên bản tiếng
Tây, sẽ chỉnh lại.
Cẩn bạch.