The Swedish poet you will soon
be reading Prospero.
Nhà thơ Thụy Ðiển
sẽ được đọc rất sớm sủa.
Giữa trận cá độ vào
phút chót 100/1 dành cho Bob Dylan, ở 1 nhà
cái, thì đùng 1 phát, nhà thơ ít
được người đời biết tới, Tomas Tranströmer, người Thụy Ðiển,
đất nước sở tại, thắng Nobel văn chương.
“Ông là nhà thơ, nhưng chưa từng bao
giờ là người viết toàn thời gian”, tay thư ký
thường trực của Viện Hàn Lâm, Peter Englund, giải thích.
Mặc dù hồi sau này, ông ít viết,
do bị 1 cú sốc tim vào năm 1990 khiến Mr. Tranströmer
bị liệt, nhưng đây là nhà thơ được yêu mến
ở Thụy Ðiển, nơi tên của ông được nhắc tới đã
nhiều năm mỗi lần Nobel. Thập niên vừa rồi,một ông phó nhòm, cứ tới mùa
lá rụng trong vườn, là bèn túc trực nơi
cửa nhà ông, để kịp bấm máy.
Sinh năm 1931, Mr Tranströmer bắt đầu in thơ từ những
năm đầu đời, thuở làm thơ yêu em như một nhà thơ
Mít viết, và, khi người ta hai mươi tuổi thì…
khiếp lắm. Kể từ đó, thơ của ông được dịch qua 60 ngôn
ngữ. Nhưng túi thơ của ông thì hơi bị khiêm
tốn - bạn có thể nhét gọn vô “cái túi
quần sau” của bạn, có thể nói như vậy, theo ông thư
ký thường trực, a not too-large pocket-book, một cái túi
đựng sách không lớn quá. (1)
Mr Tranströmer mần thơ, trong khi mần toàn
thời gian, đầu tiên thì như là một nhà
tâm lý học, và rồi thì như là công
chức của Viện Thị Trường Lao Ðộng ở Västerås. Bất cứ
1 cái thứ vinh danh nào mà ông khoái
thì đều thuộc loại trầm lặng, kiệm lời, kín tiếng. Khi
thông báo chiến thắng của Mr Tranströmer, Viện Hàn
Lâm thổi, đây là 1 thứ tác phẩm “kinh tế
cao”, bảo đảm cho người đọc 1 lối đi mới mẻ, tươi mát tới thực tại.
Ông là nhà thơ thứ nhất, kể từ khi nữ thi sĩ Ba Lan,
Wislawa Szymborska được giải này vào năm 1996.
Tay thư ký Nobel có lẽ phải lèm bèm
1 tí để bảo vệ sự chọn lựa, [lại một đấng Âu Châu,
và hơn thế nữa, đúng 1 đấng ở trong nhà], nhưng
quan trọng hơn, tại làm sao ông số 1 lại là Mr Tranströmer?
Nhưng câu hỏi này, có lẽ nên
để chính ông số 1 trả lời, bởi vì chỉ có
ông số 1 mới có thể trả lời bằng tác phẩm của ông,
chắc chắn là sẽ được độc giả vồ vập, trong những ngày
sắp tới.
*
Thực tại là của ngôn
ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ. Brodsky
Cái đặc trưng kinh tế cao, là đặc trưng của
thơ. Thơ là phải như thế.
Ðâu phải trường ca cà chớn như ở xứ Mít?
Làm 1 câu thơ chưa nên thân, mà
động đến là ỉa ra cả 1 đống!
(1)
Today at 12:55 PM
Anh Gấu tối ngày mua sách-bỏ-túi
để đọc mà sao dịch "ngộ" rứa ?
a not too-large pocket-book, một cái túi đựng sách
không lớn quá.
Theo K, nó có nghĩa là số lượng thơ của ông
chỉ chứa đầy một cuốn sách loại bỏ túi (áo, quần)
không dày lắm .
Webster : 1. often pocket book : a small especially paperback
book that can be carried in the pocket .
Chứ còn pocket với nghĩa là túi xách thì
chỉ dùng đựng tiền mặt hoặc giấy tờ thôi.
Bài thơ của Gấu cũng
có hải âu, cũng có tiếng thì thầm của hải âu,
của Gấu, và của biển
Trên net, tờ Người Kinh Tế có bài viết
về Nobel văn chương năm nay của Prospero.
GCC mê tay này lắm. Phê bình
gia, điểm sách gia số 1!
Cái chi tiết thần kỳ
mà Prospero khui ra từ thơ của Tomas Transtromer, [the Swedish Academy
has praised an oeuvre that is “characterised by economy”], làm GCC
nhớ tới Brodsky, qua đoạn viết sau đây:
Bài
thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó
bạn có được một cái chi cực kỳ quí giá:
chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn ngủi,
hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những
giấc mơ như thế có tính thuyết phục đến từng chi tiết.
Một bài thơ, như định nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai đều
là dồn nén, chỉ khác, bài thơ, vốn là
một hành vi ý thức, không phải sự phô diễn
rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng nó chính
là thực tại. Cho dù tất cả sự
phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng
ta vào ý thức vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt
đầu (ngay từ) trong giấc mơ, như thi sĩ Delmore Schwartz đã
có lần diễn tả, rốt ráo ra, những giấc mơ được thể hiện
và hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là
ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa những
thực tại phức biệt, người ta có thể lập luận rằng toàn
thực tại hướng vọng tới điều kiện của một bài thơ: nếu chỉ vì
lý do tiết kiệm. Sự tiết kiệm này là "lý
do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn
thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện dồn
nén và súc tích. Trong thơ, đó là
ngôn ngữ, tự thân nó, là một bản sao của thực
tại được cô đọng cao độ. Nói tóm lại, bài
thơ sản sinh hơn là phản ánh. Vậy nếu một bài thơ
đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều này có nghĩa là
một thực tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc
nếu bạn muốn - điều này có nghĩa là, một hậu quả
đặt tấm gương khuếch đại cạnh nguyên nhân và bị chói
loà bởi nó. Bài thơ "Orpheus.
Eurydice. Hermes" đúng là như thế, bởi nó chính
là chân dung tự hoạ của tác giả với cái
kính khuếch đại cầm trên tay, và người ta, qua bài
thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn là bất kỳ
cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung ứng. Cái
tác giả ngắm nhìn chính là cái tạo
nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn thì rõ ràng
hơn, bởi vì bạn chỉ có thể ngắm nhìn một cái
gì từ bên ngoài. Đó là sự khác
biệt giữa một giấc mơ và một bài thơ đối với bạn. Có
thể nói, thực tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là
của nhà thơ.
AMID the flurry of last-minute
bets for Bob Dylan (once rated by bookies at 100/1), a relatively
unknown Swedish poet, Tomas Tranströmer, has won the Nobel prize
for literature. “He is a poet but has never really been a full-time
writer,” explained Peter Englund, the permanent secretary of the Swedish
Academy, which decides the award. Though Mr Tranströmer has not
written much lately, since suffering from a stroke in 1990 that left
him partly paralysed, he is beloved in Sweden, where his name has been
mentioned for the Nobel for years. One newspaper photographer has been
standing outside his door on the day of the announcement for the last decade,
anticipating this moment.
Born in 1931, Mr Tranströmer began publishing poems
when he was in his early 20s. He has been translated into 60 different
languages since then. But his output is notably sparse—you “could
fit it into a not too-large pocket-book, all of it,” Mr Englund says.
Mr Tranströmer wrote poetry while working full-time, first as
a psychologist and then at the Labour Market Institute in Västerås.
Any fame he has enjoyed has been of the quiet, understated sort. In
announcing Mr Tranströmer’s victory, the Swedish Academy has praised
an oeuvre that is “characterised by economy” and that grants “fresh
access to reality”. He is the first poet to win the award since Wislawa
Szymborska in 1996.
Mr Englund has had to defend giving the literature award
once more to a European (seven of the last ten have gone to the continent),
and also to a Swede. In doing so, Mr Englund has perhaps had to deflect
attention from the more pressing question of why Mr Tranströmer
won in the first place. Perhaps that is a question that only Mr Tranströmer
can answer, in work that will finally be more widely read.
Tranströmer's
surreal explorations
of the inner world and its relation to the jagged landscape of his native
country have been translated into over 50 languages.
GCC dịch:
Những thám
hiểm siêu thực [TQ bỏ từ này] thế giới nội tại,
và sự tương quan của nó [số ít, không phải những tương quan] với những
phong cảnh lởm chởm [TQ bỏ từ này luôn] của quê
hương của ông được dịch ra trên 50 thứ tiếng.
Mấy từ quan trọng,
TQ đều bỏ, chán thế.
Chỉ nội 1 từ “lởm chởm” bỏ đi,
là mất mẹ 1 nửa cõi thơ của ông này rồi.
Chứng cớ:
The landscape of Tranströmer's
poetry has remained constant during his 50-year career: the jagged
coastland of his native Sweden, with its dark spruce and pine forests,
sudden light and sudden storm, restless seas and endless winters,
is mirrored by his direct, plain-speaking style and arresting, unforgettable
images. Sometimes referred to as a "buzzard poet", Tranströmer
seems to hang over this landscape with a gimlet eye that sees the world
with an almost mystical precision. A view that first appeared open and
featureless now holds an anxiety of detail; the voice that first sounded
spare and simple now seems subtle, shrewd and thrillingly intimate.
[Phong cảnh thơ TT thì
thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ: miền đất ven biển
lởm chởm của quê hương Thụy Ðiển với những rừng cây
thông, vân sam u tối, chớp bão bất thần, biển không
ngừng cựa quậy và những mùa đông dài lê
thê, chẳng chịu chấm dứt, phong cảnh đó được phản chiếu
vào thơ của ông, bằng 1 thứ văn phong thẳng tuột và
những hình ảnh lôi cuốn, không thể nào quên
được. Thường được nhắc tới qua cái nick “nhà thơ buzzard,
chim ó”, Transtromer như treo lơ lửng bên trên phong
cảnh đó với con mắt gimlet [dây câu bện thép],
nhìn thế giới với 1 sự chính xác hầu như huyền bí,
thần kỳ. Một cái nhìn thoạt đầu có vẻ phơi mở, không
nét đặc biệt, và rồi thì nắm giữ một cách
âu lo sao xuyến chi tiết sự kiện, tiếng thơ lúc đầu có
vẻ thanh đạm, sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế
nhị, sắc sảo, và rất ư là riêng tư, thân mật
đến ngỡ ngàng, đến sững sờ, đến nghẹt thở.]
Chỉ đến khi ngộ ra cõi
thơ, thì Gấu mới hiểu ra là, 1 Nobel văn chương về
tay 1 nhà thơ là 1 cơ hội tuyệt vời nhất trong đời
một người… mê thơ.
Người ta thường nói,
thời của anh mà không đọc Dos, đọc Kafka… thí dụ,
là vứt đi, nhưng không được nhìn thấy 1 nhà
thơ được vinh danh Nobel thì quả là 1 đại bất hạnh!
Hà, hà!
Tập thơ Transtromer mà Gấu mới tậu - tậu, vì
mới ra lò, bản bìa cứng - người dịch giới thiệu
ông, như là nhà thơ của cõi ngưỡng cửa,
tạm dịch cái từ “liminality”, như cái tít bài
giới thiệu cho thấy, Chào Buổi Tối, Sâu Đẹp
Làm Sao, "Good Evening, Beautiful Deep". Những bài thơ
trong tuyển tập, đa số có người dịch rồi, và được dịch lại.
Thí dụ, bài Lament.
LAMENTO
He put the pen down.
It lies there without moving.
It lies there without moving in empty space.
He put the pen down.
So much that can neither be written nor kept inside!
His body, is stiffened by something happening far away
though the curious overnight bag beats like a heart.
Outside, the late spring.
From the foliage a whistling-people or birds?
And the cherry trees in bloom pat the heavy trucks on the
way home.
Weeks go by.
Slowly night comes.
Moths settle down on the pane:
small pale telegrams from the world.
Tomas Transtromer: Selected Poems [ed by Robert Hass]
LAMENT
He laid down his pen.
It rests quietly on the table.
It rests quietly in the void.
He laid down his pen.
Too much that can neither be written nor kept inside!
He's paralyzed by something happening far away
although his marvelous travel bag pulses like a
heart.
Outside, it's early summer.
From the greenness comes whistling-people or birds?
And blossoming cherry trees embrace the trucks that
have returned home.
Weeks go by.
Night arrives slowly.
Moths settle on the windowpane:
small pale telegrams from the world.
Favourite trick Ventriloquism. Woolf was an exponent of the “free
indirect style”, whereby the narrator inhabits the voice of the
character. In “Mrs Dalloway”, for instance, the following lines
are attributed to the narrator, but they are unmistakably Clarissa’s
thoughts: “Hugh’s socks were without exception the most beautiful
she had ever seen — and now his evening dress. Perfect!” As J. Hillis
Miller put it, the narrator is a function of the character’s thoughts
in Woolf’s writing, not the other way around – “they think therefore
I am.”
Mánh thần sầu. Nói
bằng bụng.
Ui chao, bèn nhớ đến Kim Dung.
Đúng hơn, Kiều Phong, trong trận đấu kinh
hồn lạc phách ở Tụ Hiền Trang. Kiều Phong mang A Châu
tới, năn nỉ Tiết Thần Y trị thương cho nàng, sau khi trúng
đòn của Kiều Phong.
Mãnh hổ Nam Kít [Khất Đan] địch quần
hồ Bắc Kít [Trung Nguyên]... May được vị đại hán
mặc đồ đen cứu thoát.
Trước khi bỏ đi, bèn tát cho KP 1
phát, và chửi, tại sao mi ngu thế, chết vì
1 đứa con gái xa lạ, không quen biết.
Ui chao, lại Ui chao, đây là đòn
phục bút, để sửa soạn cho cú tái ngộ Nhạn
Môn Quan, Kiều Phong tung A Châu lên trời, như
con gà con, chờ rớt xuống, ôm chặt vào lòng,
hai ta ra quan ngoại chăn dê, sống đời tuyệt tích, không
thèm dính vô chốn giang hồ gió tanh
mưa máu…
Trong đời KP, hai lần đánh xém chết
người đẹp, hai chị em sinh đôi, đều yêu ông,
tếu thế.
Lần đánh A Châu, được Tiết Thần Y
cứu, lần đánh A Tử, nhờ đó, tìm lại được
xứ Nam Kít của ông, rồi chết vì nó…
Ui chao, lại nhớ Sến. Em chửi - mắng yêu,
đúng hơn - sao ngu thế, mất thì giờ với tiểu thuyết
chưởng!
Nhắc tới Kiều Phong, ở đây, là do trong trận
Tụ Hiền Trang, có 1 tên đệ tử của Tinh Tú Lão
Quái, dùng môn "nói bằng bụng" chọc quê
KP, bị KP quát 1 phát, bể bụng chết tươi, hà hà!
Môn võ công này, hễ gặp tay nội
công cao hơn, là bỏ mẹ!
Mê Cung
Note: Cuốn này, GCC có bản tiếng
Tây, và, tất nhiên, có nguyên tác
tiếng Tẩy, bài Tựa của Maurois. Nhưng kiếm hoài không
thấy, trong kho sách khổng lồ, nơi bên dưới cầu thang. May
mà kiếm thấy bản tiếng Anh.
Thôi đành post bản tiếng Anh vậy.
Maurois coi Borges "đã từng", was, là đệ tử trực
tiếp của Kafka, và “Lâu Đài”, có thể do Borges,
nhưng nếu là ông, nó sẽ chỉ còn chừng vài
trang, do lười và không ưa sự toàn hảo. [Kafka was
a direct precursor of Borges. The Castle might be by Borges, but he would
have made it into a ten-page story, both out of lofty laziness and out of
concern for perfection.]
Gấu đã từng nhận ra điều này, đúng như thế,
và cũng đã từng viết ra đâu đó, trên
TV. Nhưng có 1 khoảng cách xa vời vợi giữa họ, như giữa
mộng và thực. Với Kafka, Lâu Đài là thực, tức
thế giới toàn trị.
Preface
Jorge Luis Borges is a great writer who has composed only little
essays or short narratives. Yet they suffice for us to call him great
because of their wonderful intelligence, their wealth of invention, and
their tight, almost mathematical, style. Argentine by birth and temperament,
but nurtured on universal literature, Borges has no spiritual homeland.
He creates, outside time and space, imaginary and symbolic worlds. It is
a sign of his importance that, in placing him, only strange and perfect
works can be called to mind. He is akin to Kafka, Poe, sometimes to Henry
James and Wells, always to Valery by the abrupt projection of his paradoxes
in what has been called "his private metaphysics."
I
His sources are innumerable and unexpected. Borges has read everything,
and especially what nobody reads any more: the Cabalists, the Alexandrine
Greeks, medieval philosophers. His erudition is not profound-he asks
of it only flashes of lightning and ideas-but it is vast. For example,
Pascal wrote: "Nature is an infinite sphere whose center is everywhere,
whose circumference is nowhere." Borges sets out to hunt down this metaphor
through the centuries. He finds in Giordano Bruno (1584): "We can assert
with certainty that the universe is all center, or that the center of
the universe is everywhere and its circumference nowhere." But Giordano
Bruno had been able to read in a twelfth-century French theologian, Alain
de Lille, a formulation borrowed from the Corpus Hermeticum (third
century): "God is an intelligible sphere whose center is everywhere and
whose circumference is nowhere," Such researches, carried out among the
Chinese as among the Arabs or the Egyptians, delight Borges, and lead him
to the subjects of his stories.
Many of his masters are English, He has an
infinite admiration for Wells and is indignant that Oscar Wilde could
define him as "a scientific Jules Verne," Borges makes the observation
that the fiction of Jules Verne speculates on future probability
(the submarine, the trip to the moon), that of Wells on pure possibility
(an invisible man, a flower that devours a man, a machine to explore time),
or even on impossibility (a man returning
from the hereafter with a future flower).
Beyond that, a Wells novel symbolically represents
features inherent in all human destinies. Any great and lasting book
must be ambiguous, Borges says; it is a mirror that makes the reader's
features known, but the author must seem to be unaware of the significance
of his work-which is an excellent description of Borges's own art. "God
must not engage in theology; the writer must not destroy by human reasonings
the faith that art requires of us."
He admires Poe and Chesterton as much as he
does Wells. Poe wrote perfect tales of fantastic horror and invented
the detective story, but he never combined the two types of writing.
Chesterton did attempt and felicitously brought off
this tour de force. Each of Father Brown's adventures proposes to explain,
in reason's name, an unexplainable fact. "Though Chesterton disclaimed
being a Poe or Kafka, there was, in the material out of which his ego
was molded, something that tended to nightmare." Kafka was
a direct precursor of Borges. The Castle might be by
Borges, but he would have made it into a ten-page story, both out of lofty
laziness and out of concern for perfection. As for Kafka's precursors,
Borges's erudition takes pleasure in finding them in Zeno of Elea, Kierkegaard
and Robert Browning. In each of these authors there is some Kafka, but
if Kafka had not written, nobody would have been able to notice it-whence
this very Borgesian paradox: "Every writer creates his own precursors."
Another man who inspires him is the English
writer John William Dunne, author of such curious books about time, in
which he claims that the past, present and future exist simultaneously,
as is proved by our dreams. (Schopenhauer, Borges remarks, had already
written that life and dreams are leaves of the same book: reading them in
order is living; skimming through them is dreaming.) In death we shall rediscover
all the instants of our life and we shall freely combine them as in dreams.
"God, our friends, and Shakespeare will collaborate with us." Nothing pleases
Borges better than to play in this way with mind, dreams, space and time.
The more complicated the game becomes, the happier he is. The dreamer can
be dreamed in his turn. "The Mind was dreaming; the world was its dream."
In all philosophers, from Democritus to Spinoza, from Schopenhauer to Kierkegaard,
he is on the watch for paradoxical intellectual possibilities.
II
There are to be found in Valery's notebooks many notes such as
this: "Idea for a frightening story: it is discovered that the only remedy
for cancer is living human flesh. Consequences." I can well imagine a
piece of Borges "fiction" written on such a theme. Reading ancient and
modern philosophers, he stops at an idea or a hypothesis. The spark flashes.
"If this absurd postulate were developed to its extreme logical consequences,"
he wonders, "what world would be created?"
For example, an author, Pierre Menard, undertakes
to compose Don Quixote-not another Quixote, but the Quixote. His method?
To know Spanish well, to rediscover the Catholic faith, to war against
the Moors, to forget the history of Europe-in short, to be Miguel de Cervantes.
The coincidence then becomes so total that the twentieth-century author
rewrites Cervantes' novel literally, word for word, and without referring
to the original. And here Borges has this astonishing sentence: "The text
of Cervantes and that of Menard are verbally identical, but the second
is almost infinitely richer." This he triumphantly demonstrates, for this
subject, apparently absurd, in fact expresses a real idea: the Quixote that
we read is not that of Cervantes, any more than our Madame Bovary is that
of Flaubert. Each twentieth-century reader involuntarily rewrites in
his own way the masterpieces of past centuries. It was enough to make
an extrapolation in order to draw Borges's story out of it.
Often a paradox that ought to bowl us over
does not strike us in the abstract form given it by philosophers. Borges
makes a concrete reality out of it. The "Library of Babel" is the image
of the universe, infinite and always started over again. Most of the
books in this library are unintelligible, letters thrown together by chance
or perversely repeated, but sometimes, in this labyrinth of letters, a
reasonable line or sentence is found.
Such are the laws of nature, tiny cases of regularity in a chaotic
world. The "Lottery in Babylon" is another ingenious and penetrating
staging of the role of chance in life. The mysterious Company that distributes
good and bad luck reminds us of the "musical banks" in Samuel Butler's
Erewhon.
Attracted by metaphysics, but accepting no
system as true, Borges makes out of all of them a game for the mind.
He discovers two tendencies in himself: "one to esteem religious and
philosophical ideas for their aesthetic value, and even for what is magical
or marvelous in their content. That is perhaps the indication of an essential
skepticism. The other is to suppose in advance that the quantity of fables
or metaphors of which man's imagination is capable is limited, but that
this small number of inventions can be everything to everyone."
Among these fables or ideas, certain ones -particularly
fascinate him: that of Endless Recurrence, or the circular repetition
of all the history of the world, a theme dear to Nietzsche; that of the
dream within a dream; that of centuries that seem minutes and seconds
that seem years ("The Secret Miracle"); that of the hallucinatory nature
of the world. He likes to quote Novalis: "The greatest of sorcerers would
be the one who would cast a spell on himself to the degree of taking his
own phantasmagoria for autonomous apparitions. Might that not be our case?"
Borges answers that indeed it is our case: it is we who have dreamed the
universe. We can see in what it consists, the deliberately constructed
interplay of the mirrors and mazes of this thought, difficult but always
acute and laden with secrets. In all these stories we find roads that
fork, corridors that lead nowhere, except to other' corridors, and so
on as far as the eye can see. For Borges this is an image of human thought,
which endlessly makes its way through concatenations of causes and effects
without ever exhausting infinity, and marvels over what is perhaps only
inhuman chance. And why wander in these labyrinths? Once more, for aesthetic
reasons; because this present infinity, these "vertiginous symmetries,"
have their tragic beauty. The form is more important than the content.
III
Borges's form often recalls Swift's: the same gravity amid the
absurd, the same precision of detail. To demonstrate an impossible discovery,
he will adopt the tone of the most scrupulous scholar, mix imaginary writings
in with real and erudite sources. Rather than write a whole book, which
would bore him, he analyzes a book which has never existed. "Why take
five hundred pages," he asks, "to develop an idea whose oral demonstration
fits into a few minutes?"
Such is, for example, the narrative that bears
this bizarre title: "Tlon, Uqbar, Orbis Tertius." This concerns the history
of an unknown planet, complete "with its architectures and quarrels,
with the terror of its mythologies and the uproar of its languages, its
emperors and seas, its minerals and birds and fish, its algebra and fire,
its theological and metaphysical controversies." This invention of a
new world appears to be the work of a secret society of astronomers,
engineers, biologists, metaphysicians and geometricians. This world that
they have created, Tlon, is a Berekeleyan and Kierkegaardian world where
only inner life exists. On Tlon everyone has his own truth; external objects
are whatever each one wants. The international press broadcasts this discovery,
and very soon the world of Tlon obliterates our world. An imaginary past
takes the place of our own. A group of solitary scientists has transformed
the universe. All this is mad, subtle, and gives food for endless thought.
Other stories by Borges are parables, mysterious
and never explicit; still others are detective narratives in the manner
of Chesterton. Their plots remain entirely intellectual. The criminal
exploits his familiarity with the methods of the detective. It is Dupin
against Dupin or Maigret against Maigret. One of these pieces of "fiction"
is the insatiable search for a person through the scarcely perceptible reflections
that he has left on other souls. In another, because a condemned man has
noticed that expectations never coincide with reality, he imagines the circumstances
of his own death. Since they have thus become expectations, they can no
longer become realities.
These inventions are described in a pure and
scholarly style which must be linked up with Poe, "who begat Baudelaire,
who begat Mallarme, who begat Valery," who begat Borges. It is especially
by his rigor that he reminds us of Valery. "To be in love is to create
a religion whose god is fallible." By his piled-up imperfects he sometimes
recalls Flaubert; by the rarity of his adjectives, St. John Perse. "The
inconsolable cry of a bird." But, once these relationships are pointed
out, it must be said that Borges's style is, like his thought, highly original.
Of the metaphysicians of Tlon he writes: "They seek neither truth nor likelihood;
they seek astonishment. They think metaphysics is a branch of the literature
of fantasy." That rather well defines the greatness and the art of Borges.
Số mới nhất, Mùa Đông 2016, có mấy
bài thơ tuyệt lắm
Đi liền bài này:
This Being Still
1.
With the dog's head on my foot, asleep
it seems wrong to move.
She is getting old, doddery,
walks into doors and stumbles off kerbs,
feels her way by the edge of my voice.
I have brought her to an island
of cropped light and few words,
her silence just as diffuse as my own.
She keeps close into me.
It is a small gift to the world,
I reckon, this our being still.
11.
In no time, at the clatter of a winter bird
or my book falling or the heat kicking in
she will rise to the surface
of the last of day
and I will meet her milky gaze
to wonder what I wanted
to begin with.
- Vona Groarke
Tuyển tập essays “Table Talk” của tờ Ba Xu, Tin Văn đã
từng giới thiệu.
Nhớ, lần đầu mua tờ báo này, là
vì cái bài viết của 1 em, về 1 chuyến đi tham
quan thư viện, chẳng nhớ gì, ngoài cái kỷ niệm,
lúc vô thang máy với 1 thằng con trai cùng
tuổi, thằng con trai bèn tụt quần cho đứa con gái ngắm
khẩu súng của nó.
Thế là nhớ đời!
Nhớ & tưởng tượng ra liền, cảnh em Jackie, mới tuổi
teen, bị 1 thằng Tẩy làm thịt tại, cũng 1 thang máy
nào đó
Tờ báo, khổ bự, làm
nhớ tờ “Nghệ Thuật” ngày nào. Lần đầu mua, vì
loạt bài viết về thư viện (1)
DURING MY senior year in college,
the offices of my literature professor, with whom I met weekly for
tutorial, were located deep in the stacks of Harvard's Widener library.
I rarely saw anyone else among the aisles of medieval romances and
Icelandic sagas, and when I did, they seemed to materialize from the
darkness, like the spooky nun in Vertigo. I heard noises, I saw shadows,
I imagined the grisly scenarios of horror films. My heart was always
pounding by the time I got to my professor's door. In fact nothing unpleasant
happened to me in Widener Library. That would have to wait until I reached
the heartland and was teaching at the University of Iowa. A guy showed
me his penis when we were alone in the library elevator. I recall him looking
like a sumo wrestler, but that may not be true. I didn't think he was going
to hurt me; he just wanted me to look. The door opened, I got off. He stayed
on the elevator. But after that I got vaguely phobic about the library.
I no longer enjoyed going there, and I began to avoid it until finally
I asked my husband if he would accompany me into the stacks-on the off
chance that Sumo Guy might reappear. My husband readily agreed; there
were art books on the same floor as the literature section, and he is a
painter....
Francine Prose
Note: "Sumo Guy" chắc súng
phải khủng lắm!
Hà, hà!
Em có chồng, đi với chồng về nơi chốn cũ, "thiên
đàng thư viện", vưỡn mong thằng nhỏ ngày xưa xuất
hiện!
It works,
he says. But it will never be the same
Nó vưỡn OK. Nhưng chắc
chắn sẽ chẳng vưỡn như ngày xưa!
Tuyển tập này,
mới ra lò, 2015, bèn quơ liền. Đọc loáng thoáng
bài viết “Bơi ở Việt Nam” thấy có nhắc tới Lê
Thị Diễm Thuý, tác giả “Tên Găng Tơ mà
tất cả chúng ta tìm” TV đã từng giới thiệu.
Tờ này, GCC cũng hay đọc, nhưng mỗi
số, cao lắm, 1 bài.
Bài intro của guest editor, Ariel Levy, OK
lắm. Em phán, viết essay thì giống như tóm
1 con sóng. Bạn cần cái tài, skill, cái
cân não, nerve, không chỉ dòng nước chuyển
động.
Nhân tiện lèm bèm về essay, thấy
trên Da Màu, có bài tuỳ bút của
Thầy Phúc, được độc giả khen um lên, trong có
1 đấng khen, bảnh hơn nhiều, so với những bài phê bình
trước đó:
Một bài
tùy bút tuyệt vời, hơn hết cả những bài phê
bình của tác giả!
Một nhận xét tuyệt vời, và thật đúng với Thầy
Phúc.
Nói rõ hơn, Thầy không viết được essay, mỗi
lần viết… essay, phê bình, điểm sách... khi
thầy lên đồng, là nó biến thành tùy bút,
với cái giọng nặc mùi cải luơng. Bài tuỳ bút
này, sở dĩ được khen tới chỉ, là cũng do dậy mùi cải
lương. Không lẽ độc giả Mít chỉ đọc đươc thứ tùy bút
như vậy?
Chứng cớ, Thầy viết về…. Cô Tú:
Có sự trộn lẫn của thực tại với hồi ức, của cuộc đời hằn
xé với những mộng tưởng thanh xuân. Có nắng mưa,
gió sóng, cùng những bụi bặm, náo động của
cuộc đời. Nhưng cũng có, trong những dòng văn chân
thật ấy, những khoảng thinh lặng cần thiết và ấm áp của tình
người.
Bùi Vĩnh Phúc
Qua bài tuỳ bút của Thầy Phúc, GCC biết tin,
Tạ Chí Đại Trường đã mất. Hình như chẳng có
báo nào loan tin, hay đấng nhà văn nào tưởng
niệm. Trước đó, có vụ, 1 đấng ở trong nước, loan tin ông
mất, trong khi, vào thời điểm đó, chưa.
Ngay cả Thầy Phúc, cũng rất thân quen với băng Văn
Học.
Trong khi đấng nào cũng có bài về Phùng
Nguyễn. Khen tới chỉ, thương tới chỉ.
Thì cũng được đi.
Nhưng hơi kỳ.
Một nghi can vừa
bị bắt trong vụ gây rối ở Köll đêm giao thừa đã
nói với cảnh sát thế này:
- Tao là người Syria nhá. Chúng mày
phải đối xử với tao tử tế nhá. Bà Merkel đã mời
tao tới đây nhá. (Trích từ biên bản của công
an sở tại.)
Khách nói với chủ thế đấy. Đọc, nhớ bà chị
dâu khăng khăng bảo không thích ở nước ngoài
vì dù thế nào cũng chỉ là công dân
hạng hai. Chắc bà chị có lí riêng dựa trên
kinh nghiệm riêng. Khi nói chuyện, bà chị và
bà em đều chưa biết thế nào là làm kh...
Trên
TV cũng đã viết trường hợp tương tự, với đám thanh thiếu
niên, đa phần gốc Bắc, bị đưa vô trung tâm cải huấn,
thời gian GCC làm thiện nguyện cho Hội Ngườì Việt, và
được cử đi uý lạo.
Chúng cũng phán y chang, chúng tao đâu
có muốn đi Canada, mà đi Mỹ, tụi mày vô năn
nỉ, bây giờ lại tính trả về Việt Nam.
Nhưng cái chuyện công dân hạng hai này,
theo GCC, sai. Ở Việt Nam bây giờ, không có cái
gọi là công dân, nên đừng so sánh với
bất cứ 1 nước nào. Brodsky chẳng đã từng phán, thà
làm 1 thằng cà chớn, công dân hạng bét
ở xứ sở coi trọng dân chủ, con người, còn hơn là
làm công dân số 1 ở xứ VC. Bà chị, trong câu
chuyện, thử đòi quyên công dân, như 1 thiểu số
đang làm, coi VC sẽ đối xử ra sao.
V/v công
dân “hạng mấy” này, xin kể hai giai thoại.
Một, của Brodsky. Ông phán, trong diễn văn Nobel, thà
làm 1 tên cà chớn, trong xã hội dân chủ,
tự do, còn hơn là công dân số 1, thứ “cà
rem của cà rem”, tinh anh số 1, ở xứ mất tự do.
Còn 1, của Kertesz, khi ông kể về 1 bà gốc gác
Lò Thiêu, trở thành công dân Mẽo.
Một trong những cuốn tiểu thuyết của ông có tên
là Những kẻ tìm dấu vết, Les Chercheurs de traces. Liệu
bây giờ còn những người tìm dấu vết, so, comparable,
với những nhân vật của ông?
Một câu hỏi tuyệt. Còn chứ, chắc chắn [Il y en a, sans
doute]
Ông khuyên họ, sao?
Tôi mới vớ được 1 cuốn tiểu thuyết mà nữ tác giả
sống ở Mẽo từ lâu, ông chồng là nhà chính
trị được nhiều người biết, connu. Trong bốn chục năm, bà ta không
biết gốc mình là Do Thái, tuy ngửi ra có 1
cái gì đó bị giấu diếm, che đậy [tout en sentant que
quelque chose clochait]. Thế rồi 1 bữa có người bất thình
lình hỏi bà, "Thế nào sống sót có cực
không?"
[Et comment vous avez survécu?: Bà sống sót như
thế nào?].
Sống sót cái gì chứ?
Thì Lò Thiêu chứ cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông bô bà bô,
ngỏ lời trách móc, tại sao giấu?
Làm Mẽo không thú sao? Để ý làm
gì cái quá khứ thê lương đó.
Cô con gái lắc đầu, nói, bây giờ con mới
cảm thấy thực sự là người!
Có 1 điều gì đó, liên quan tới cái
vụ Bắc Kít rất thèm được là… Ngụy, ở đây!
Gấu đã từng gặp những người như vậy, và đã từng
viết ra điều này, trong 1 truyện ngắn, để coi lại, trình
cho bà con cùng đọc.
Hà, hà!
Italy, where migration's front
line and art's avant-garde meet
“THEY were like
two nights: the real night and the night-black sea that come down on
us. Everyone was praying, Muslims, Christians and even people who don’t
believe.” The story shared by the hundreds of thousands of people who
have survived the crossing from North Africa to Italy, but rarely heard
in their own words outside of news reports. This account, however, comes
from the opening page of a hand-stitched, silkscreen-printed book. It
is the creation of ELSE, an independent press hidden down a back street
in Rome's immigrant-heavy neighbourhood of Tor Pignattara. Since 2010,
the tiny workshop has been printing the stories and poems of immigrants
living in the city.
Note: Đọc, thì
bèn nhớ đến cái truyện ngắn đầu tiên của Bắc Kít
di cư đem tới Sài Gòn, và cùng với nó
là dòng văn chương di cư, và bến đậu của nó:
Sài Gòn.
Đó là truyện ngắn Bão Biển, của Mặc Thu,
kể về 1 gia đình, dùng thuyền buồm, bỏ xứ Bắc Kít,
vượt biển, vô Nam. Gian nan, chết chóc...
Lạ, là GCC chỉ nhờ câu chót.
Ông bố Bắc Kít, sau cuộc chiến đấu, sống sót,
mệt quá,
thiu thiu ngủ. Thấy đất liền, mấy đứa con đánh thức Bố. Ông
mở mắt, nói:
Đến rồi à!
Tuyệt!
Chỉ 1 câu nói, tiên tri ra cuộc vượt biển
sau 30 Tháng Tư 1975. Lần sau, cả 1 miền đất đi cùng với
ông.
Judas, study for the Kiss of Judas
Số Điệp Viên, Mùa Đông, 2016, có
bài về Graham Greene thật tuyệt.
Philby, gián điệp Hồng Mao,
phản bội tổ quốc, khi vỡ
lở, bỏ chạy qua Liên Xô.
Greene là đệ tử của Philby. Khi qua Liên Xô
thăm Thầy, Thầy ra lệnh, cấm nói chuyện chính trị. Trò
nói, em chỉ tính hỏi Thầy có rành tiếng
Nga tí nào, chăng?
Bài viết về GG, trong số báo trên, cho
thấy, hai thầy trò thư từ cho nhau nhiều phen, và kể
về lần chót GG đến Moscow, và được thu xếp cho gặp Thầy.
Vợ của Thầy, hoá ra là 1 nhà văn có
hạng.
GG, Gấu biết từ hồi mới lớn, đọc ông, để học tiếng
Tẩy.
Theo GCC, cách học tiếng nước ngoài thành
tựu nhất, là đọc truyện trinh thám, điệp viên.
Bạn tò mò muốn biết lớp lang, kết cục, và cứ thế
đọc tiếp, bỏ qua những từ khó, và rồi 1 lúc, những
từ khó nhập vô bạn lúc nào không hay.
Tuyệt vời nhất, là về già, ông trở thành
sư phụ của GCC, trong cái nghiệp viết, và trong cái
số phận xứ Mít, qua cuộc chiến vừa rồi.
Cách giải thích cuộc chiến Mít, trong
Người Mỹ Trầm Lặng, khủng đến nỗi, có
thể nói, mọi cuộc chiến có Mẽo dính vô, đều
có mùi của nó.
Mùi 1 cô Phượng!
GG cho rằng, cái tội phản bội, thì thật dễ
tha thứ, đối với kiếp người.
Agents of Betrayal Điệp Viên
Phản Thùng Reconsideration Our Man
in Havana by GG by Lawrence
Osborne
In
his introduction to Kim Philby's My Silent War, published in 1968,
Graham Greene laid out the case for betrayal as an understandably human
problem that needed, in the end, to be forgiven. Philby, the aristocratic
son of the orientalist and Islamic convert H. St. John Philby, served as
a high-ranking British intelligence officer and Soviet double agent until
his defection to the Soviet Union in 1963.
"The end, of course, in his eyes," Greene wrote of the luckless
traitor (who died in Moscow in 1988),
is
held to justify the means, but this is a view taken, perhaps less openly,
by most men involved in politics, if we are to judge them by their
actions, whether the politician be a Disraeli or a Wilson. 'He betrayed
his country'-yes, perhaps he did, but who among us has not committed
treason to something or someone more important than a country?
Chót đời, nhìn lại, có
thể nói, GCC là thằng Mit độc nhất, viết văn, có
Thầy dậy.
Những đấng khác, đếch cần Thầy. Tao ị ra [viết] cho
thiên hạ đọc, cần gì Thầy?
Chúng đâu biết, Thầy, 1 cách nào
đó, chính là chúng. Và, không
có nghề nào cần Thầy như nghề viết, vì nghề khác,
chỉ học Thầy là đủ rồi. Nghề viết văn, bắt buộc phải hơn Thầy,
và [nếu] cần, là làm thịt Thầy!
Bạn kiếm ra Thầy, là đi được 1 nửa đường, làm
nhà văn.
Gấu nhớ, lần đầu đọc Asalom, Absalom! của Faulkner, mừng quá, ta là nhà
văn rồi!
Điều này, Alain cũng đã nói, mi yêu
ai, cứ dịch người đó, là trở thành nhà
văn.
GCC không dịch, mà chôm. Thời gian đầu viết
văn, phải để Absalom, Absalom! kế bên, bí
1 phát, không có hứng, là lôi ra…..
“Bạn
văn”, TV, khuyên, hơi khác Alain 1 tí.
Mi yêu ai, cứ f. một phát cho ta!
Ghét, cũng f. một phát.
Nếu thế, thì vừa yêu vừa ghét, là
khoẻ nhất
Hà, hà!
Khi rời con tầu Rắn Biển, Đệ Thất Hạm Đội,
thay vì tới 1 lều tạm cư, ở khu Phú Thọ,
thì Gấu tới khu Chợ Vườn Chuối, nhà ông
Hiếu Chân, ông anh rể, lúc đó còn
lo đưa đồng bào di cư xuống tầu vào Nam, ở Hải
Phòng. Gấu một mình vô trước để kịp năm
học. Bà cụ cùng thằng em trai cũng chưa vô,
vì bà cụ còn lo bán chợ trời, kiếm
tí tiền làm vốn.
Khu thứ nhì Gấu biết,
là khu Tân Định.
Bà chị họ, chị Giậu,
vợ ông Hiếu Chân, đưa thằng em lên
trình diện ông chú. Chú Thao,
Chu Quang Thao.
Ông lúc này
có căn nhà ở đường Đặng Dung, thuộc khu
xóm phía sau đường Trần Quang Khải. Khi Gấu
đậu Trung Học, rồi Tú Tài I, ông bèn
kêu kèm, [làm trợ giáo, précepteur]
cho mấy đứa nhỏ con ông.
Cô con gái thứ
nhì của ông, Cô Nguyệt, là
mối tình đầu của GCC.
Sau, ông mua căn nhà,
ngay đầu đường TQK.
Lần cuối cùng Gấu
đến thăm hai ông bà và cô
Nguyệt, là 1 bữa trời mưa lớn, Gấu cứ thản nhiên,
vô tư như người Hà Nội, lê đôi
dép đầy bùn vô nhà, làm 1
đường dài trên sàn gạch bóng lộn,
cô Nguyệt hoảng quá [cô được ông bố
cưng nhất, nhưng không vì thế mà không
sợ ông bố Bắc Kít của mình] la thất thanh,
trời ơi, sao anh không để dép bên ngoài.
Gấu chỉ chờ có thế, bèn quay ra, đi 1 mách!
Hà, hà!
Ngay kế bên cái
nhà to tổ bố như cái villa, của ông
chú, là 1 viện bảo sanh. Mấy đứa con của GCC,
đều được sinh ở đây.
Gọi chú, vì
học cùng ông cụ của Gấu, nhưng ít
tuổi hơn. Ông là nhân vật chính,
trong cái truyện ngắn, đi tìm 1 cái
tên cho 1 cuộc chiến, của Gấu.
Đến trường Nguyễn Trãi
xin học. Giám thị phán, mi vô trễ,
phải học lại lớp cũ, dù đã lên lớp.
Tiếc 1 năm đèn sách, thế là ra trường tư.
Trường Văn Hoá, nhờ thế có mớ bằng hữu tới giờ.
Những Ngô Khánh Lãng, Nguyễn Hải Hà,
Phạm Văn Hàm…
Bức hình độc nhất &
Di sản độc nhất ông cụ Gấu
Đọc Hà Sĩ Phu trả lời
Lý Kiến Trúc, báo
Văn Hóa, Cali, trên blog Sến Cô Nương, Gấu bỗng
dưng nhớ tới ông cụ Gấu, chán thế!
Ông bố của Gấu không
hề theo Việt Minh, vào cái giai đoạn cả nước theo Vẹm. Mấy
đứa con ở lại Miền Bắc - ông em trai út & bà chị
gái, nữ anh hùng thồ hàng chiến dịch DBP của GCC - không hề được VC công nhận là con
liệt sĩ.
Gấu về lại đất Bắc, một phần là cố tìm cho ra câu
trả lời. Gặp cô con gái của ông chú, Chú
Cầm, vào thời kỳ đó, là huyện uỷ Hạc Trì[Bạch Hạc và Việt Trì]
sau nghe nói, leo lên đến 1 chức vị gì cao lắm, cũng
bị VNQDD bắt, nhưng trốn thoát. Bà cho biết, ông bố của
bà, cho bà biết, ông giáo Dương, tức Nguyễn Tái
Dương, bố của Gấu, chỉ được “tổ chức” coi là cảm tình viên
của Việt Minh.
Gấu cũng được biết, qua cô con gái của Chú Cầm, ông
bố của Gấu, bị tên học trò giết, là do không chịu
đại diện cho VNQDD, ra tranh cử Quốc Hội Vẹm.
Ông qua sông đúng 30 Tết, dự tất niên với băng
VNQDD chiếm giữ Việt Trì, là vì vấn đề Quốc Hội Vẹm,
hẳn thế, và khi ông lắc đầu, đấng học trò bèn
làm thịt Thầy, trước khi bỏ chạy VC qua Tẫu.
Như thế, ông cũng là cảm tình viên của VNQDD
?
Gấu tin là ông cụ Gấu, khi phải chọn giữa Nguyễn Thái
Học vàBác Hồ, đã chọn Nguyễn
Thái Học!
Trong bài viết về Koestler
[điểm cuốn tiểu sử của K, của Michael Scammell, The Literary
and political Odyssey of a 20 Century Skeptic, trong mục Di
sản của chủ nghĩa toàn trị, Athur Koestler: The Zealot
[“cuồng tín” – thay vì “bi quan”, skeptic], trong cuốn tiểu
luận của ông,Arguably, Christopher
Hitchens cho biết, Koestler bỏ đảng CS, liền sau khi thoát ra khỏi
Tây Ban Nha, vì quá tởm những vụ án thanh trừng
“mần tuồng”, the hysterical faking of the Moscow purge trials, 1938 [ông,
sau dùng làm đề tài cho cuốn Đêm Giữa
Ban Ngày].
Koestler diễn tả cái
tởm của mình, thật là tuyệt cú mèo, theo Christopher
Hitchens, đến nỗi ông phải bệ nguyên văn, vô bài
viết của mình:
It is a logical contradiction
when with uncanny regularity the leadership sees itself obliged to undertake
more and more bloody operations within the movement, and in the same breath
insists that the movement is healthy. Such an accumulation of grave surgical
interventions points with much greater likelihood to the existence of a
much more serious illness. [Thật khốn
kiếp khi, một mặt, cứ tiếp tục thanh trừng nội bộ, cùng lúc
phán, Đảng ta đả biến thiên hạ vô địch thủ, mạnh khoẻ
lắm]
Trong cuốn
tiểu luận, có bài Hội Chứng
Việt Nam, The Vietnam Syndrome, viết về vấn đề chất độc màu
da cam, thú. Thú
hơn nữa, nó làm Gấu nhận ra, trong cái gọi là
“hội chứng Mít”, có... “hội chứng Tẫu”! Christopher
Hitchens giải thích, bằng tiếng La Tinh: Mutato nomine de te fabula narratur:
with the name changed, the story applies to you. Cứ thay
cái tên đi, là nó áp dụng vô ngay
tim, ngay hồn lũ Mít. Đâu có phải là chúng
không biết thằng Tẫu khốn kiếp đâu. Suốt chiều dài lịch
sử, một mặt chống Tẫu, một mặt mở nước về phía Nam, làm cỏ
mọi giống dân yếu hơn, ít người hơn, vậy mà đùng
1 phát, rước chúng vô nhà, vô giường, để
ăn cướp cho bằng được Miền Nam. Gấu thêm
vô, còn "hội chứng nhân quả" nữa, ở đây.
Hôm qua tôi đưa
con gái út ra phi trường. Cô xin được công việc
làm mùa hè ở tiểu bang Wisconsin. Làm research.
Cô nhắm công việc này từ mùa hè năm trước
nhưng khi ấy cô còn đang học năm thứ hai, mà người ta
đòi điều kiện phải ít nhất là năm thứ ba. Năm nay cô
lại nộp đơn và người ta nhận. Ông Tám, chị Ách
Cơ của cô, và tôi tiễn cô ra phi trường. Ông
Tám và Ách Cơ xách hành lý đưa
cô vào bên trong. Tôi ngồi chờ ngoài xe.
Chia tay, tôi ôm cô. Chúng tôi hôn nhau
và cô nói. “Thế thôi à?” Dường như cô
ngỡ ngàng, nhận ra đến lúc mình phải xa tất cả những
thứ quen thuộc an toàn, bố mẹ, chị, và con mèo. Hay
là cô ngỡ ngàng tôi không đưa cô vào
tận bên trong.
Còn tôi, mãi
đến khi người ta bảo, thuyền ra đến hải phận quốc tế rồi, tôi mới
chợt nhận ra tôi đã mất hết. Không còn đường về.
Tôi mất má tôi rồi.
Khi tôi ngồi chờ trên
xe, tôi thấy có một chiếc xe BMW mui trần đậu vào trước
xe tôi. Người lái xe là một phụ nữ độ ngoài năm
mươi. Bà chở cô con gái và đứa bé, chắc
là cháu ngoại. Bà bế cháu cho cô con gái
sửa soạn khuân hành lý từ trên xe xuống. Cô
con gái trạc ba mươi. Cô mang chiếc ghế dành riêng
cho em bé xuống, bỏ vào bao, bọc lại. Đeo nịt mang đứa bé
trên ngực. Một cái túi đeo trên lưng. Tay kéo
va li hành lý, và chiếc ghế em bé đi. Trước
khi đi bà mẹ hôn con gái và cháu ngoại.
Tôi thấy khóe môi
người đàn bà run rẩy. Bà cắn môi nhưng những giọt
nước mắt vẫn tràn ra trên má long lanh. Tôi đoán
có lẽ lâu lắm bà mới có thể gặp lại con gái
và cháu ngoại.
Tôi chợt nhận ra tôi
không khóc khi tiễn cô út. Vì cô đi
chỉ hơn hai tháng là về. Thật ra tôi còn thấy
nhẹ nhõm khi biết là mình không phải bận rộn nấu
ăn cho cô trong hai tháng cô vắng nhà. Tôi
thuộc loại bà mẹ lười biếng. Mặc dù tôi chưa bao giờ
bỏ con ở nhà để đi nghỉ hè, nhưng mỗi khi tôi tránh
được chuyện nấu cơm, rảnh rỗi để lười biếng thì tôi hoan hỉ
lắm.
Tôi nhớ, khi tôi
nhận ra là tôi sẽ vĩnh viễn xa rời má tôi, trong
cơn say sóng dữ dội, tôi quì gối gục đầu xuống khoang
thuyền, lặng lẽ ứa nước mắt.
Những cuộc chia lìa khởi
từ đây…
*
Bài này quá
tuyệt, đúng là cao thủ, do mù mờ mà thành,
cũng nên. Lấy cái nọ bù cho cái kia.
Tks. NQT
V/v “Cao thủ”
Roland Barthes ưa xài
đòn này. Ông nối kết hai vật, chẳng mắc mớ, liên
hệ, rồi ra đòn, chúng là một, hoặc chúng có
cái thật đỗi chung.
Rõ rệt nhất, trong Mythologies,
bài Thiên Văn, Astrology, ông đưa ra nhận xét
thật bất ngờ: Thiên văn và Văn chương có cùng
một nhiệm vụ, task, trì chậm xác nhận cái thực, the
“delayed” confirmation of the real.
Khủng hơn nữa, ông biểu là, trong cái vũ trụ tiểu
tư sản, Thiên văn là Văn chương, In the petit-bourgois
universe, Astrology is Literature.
Thảo nào mấy Thầy sáng
tác đếch được bèn quay qua sờ mu rùa, bói toán
việc nước Mít: Tẫu nó đếch dám đụng vô Mít
đâu, tối hôm qua tao coi sao trời thấy có nói rồi!
Hay bài, “Kẻ Nghèo
và Tên Vô Sản” [tưởng 1 mà đếch phải 1].
Michel Foucault, khi viết Chữ và Vật, cho biết, được gợi
ý từ 1 bản xếp hạng của Tẫu, trong đó, có những vật
lạ hoắc, vậy mà cũng được xếp chung với nhau, là bạn quí
của nhau!
"Les Mots et les Choses", nhan
đề bản tiếng Anh có lẽ sáng sủa và thích hợp
với chúng ta: "The Order of Things (Trật tự của những sự vật)." Trong
Lời Mở Đầu, ông cho biết, cuốn sách được gợi hứng từ một bài
viết của Borges. Và cùng với bài viết, là tiếng
cười làm rung rinh cõi tư duy của chúng ta (Tây
phương).
Borges nhắc tới một cuốn bách
khoa nào đó, ở xứ sở của Kim Dung, theo đó, loài
vật được chia ra như sau: a/ thuộc về Hoàng Đế, b/ được tẩm nước thơm,
c/ được thuần hóa, d/ heo sữa, e/ nhân ngư, f/ huyền hoặc, g/
chó thả rông, h/ ở trong bảng sắp xếp này, i/ cử động
như người điên, j/ không thể đếm được, k/ được vẽ bằng một ngọn
bút lông lạc đà thật mịn, l/v…v… và v… v, m/vừa
đánh bể một cái bình, n/ ở xa trông như ruồi.
Theo Foucault một bảng phân
loại như thế đúng là thách thức lối tư duy của Tây
phương. Làm sao có thể hiểu nổi những con vật không
có gì giống nhau, lại ở cùng trong một bảng sắp xếp,
ngoài cái trật tự abcd như trên?
Trong khi tìm hiểu một
trật tự như vậy, ông nhìn ra một điều: lịch sử của sự khùng
điên sẽ là lịch sử của Kẻ Khác, lịch sử trật tự của những
sự vật sẽ là lịch sử của Ta (Le Même). Và đối với văn
minh Tây phương, lịch sử của Kẻ Khác – không phải lịch
sử trật tự của những sự vật – bị coi là thứ yếu, xa lạ, và
bị đẩy bật ra khỏi lịch sử của những Ta. Đây là lý do
người điên bị tống vào tù, hoặc bị cưỡng bức lao động.
(1)
Trở lại với bài viết
của Ai Trần. Với những độc giả thường ghé thăm blog “bâng quơ”,
tác giả thường có tí mừng, khi người thân đi vắng
vài ngày, vì vào thời gian đó, bà
cho phép bà lười biếng, hoặc có tí thì
giờ rôi ra để viết.
Tuy nhiên, ở đây, so với cái lớn là vượt biển,
nỗi đau của cả nước, thì cái buồn nhớ con chẳng nên kể
ra!
Lấy cái nọ bù cái kia, là thế.
Ở đây, như thế, cũng có cái cười “rung rinh”, bên
cạnh nỗi buồn nhất định không nhỏ lệ!