*

 




*


*


Note: Ông này là 1 trong những dịch giả thơ TT, và là tác giả bài viết Translating Tomas Tranströmer, Dịch TT

Gấu tính dịch bài thơ trên, và giữ nguyên cái form của nó trên tờ báo, thay vì scan.
Bởi vì cái tít của bài thơ làm nhớ đến 1 bài thơ của Gấu.

Bài thơ của Gấu cũng có hải âu, cũng có tiếng thì thầm của hải âu, của Gấu, và của biển

TOMAS TRANSTROMER 

Here, the Greece of islands and ports gives occasion to Swedish poet Tomas Transtromer for a descriptive poem which changes into a moral parable.

SYROS 

In Syros' harbor abandoned merchant ships lay idle.
Stem by stem by stem. Moored for many years:

CAPE RION, Monrovia.
KRITOS, Andros.
SCOTIA, Panama.

Dark paintings on the water, they have been hung aside.

Like playthings from our childhood, grown gigantic,
that remind us
of what we never became. 

XELATROS, Piraeus.
CASSIOPEIA, Monrovia.
The ocean scans them no more. 

But when we first came to Syros, it was at night,
we saw stem by stem by stem in moonlight and thought:
what a powerful fleet, what splendid connections! 

Translated from the Swedish by May Swenson and Leif Sjoberg

Ở đây, Hy Lạp của những hòn đảo và bến cảng là dịp để nhà thơ Thụy Ðiển Tomas Transtromer
đi một đường miêu tả, và bài thơ miêu tả, tới lượt nó, đi một đường ẩn dụ đạo đức.

SYROS

Cảng Syros hoang phế
Những tầu hàng nằm ì
Từ đầu tầu tới cuối tầu tới cuối tầu.
Bỏ neo hàng bao nhiêu năm.

CAPE RION, Monrovia.
KRITOS, Andros.
SCOTIA, Panama.

Những bức họa u tối trên mặt nước, chúng được treo một bên.
Như những đồ chơi thời con nít, trở thành khổng lồ
Nhắc nhở chúng ta
Về điều chúng ta chẳng bao giờ trở thành.

XELATROS, Piraeus.
CASSIOPEIA, Monrovia.
Biển chỉ chiếu rọi có thế.

Nhưng khi chúng tôi tới Syros lần đầu thì là vào ban đêm.
Dưới ánh trăng chúng tôi nhìn từ đầu tầu tới đuôi tầu và nghĩ:
Hạm đội mới dũng mãnh làm sao!
Những móc nối mới tuyệt vời làm sao!

Nobel 2011

Trên net, tờ Người Kinh Tế có bài viết về Nobel văn chương năm nay của Prospero.
GCC mê tay này lắm. Phê bình gia, điểm sách gia số 1!

Cái chi tiết thần kỳ mà Prospero khui ra từ thơ của Tomas Transtromer, [the Swedish Academy has praised an oeuvre that is “characterised by economy”], làm GCC nhớ tới Brodsky, qua đoạn viết sau đây:

Bài thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó bạn có được một cái chi cực kỳ quí giá: chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những giấc mơ như thế có tính thuyết phục đến từng chi tiết. Một bài thơ, như định nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai đều là dồn nén, chỉ khác, bài thơ, vốn là một hành vi ý thức, không phải sự phô diễn rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng nó chính là thực tại.
Cho dù tất cả sự phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng ta vào ý thức vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc mơ, như thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo ra, những giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa những thực tại phức biệt, người ta có thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều kiện của một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện dồn nén và súc tích. Trong thơ, đó là ngôn ngữ, tự thân nó, là một bản sao của thực tại được cô đọng cao độ. Nói tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là phản ánh. Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều này có nghĩa là một thực tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc nếu bạn muốn - điều này có nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh nguyên nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là như thế, bởi nó chính là chân dung tự hoạ của tác giả với cái kính khuếch đại cầm trên tay, và người ta, qua bài thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn là bất kỳ cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm nhìn chính là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn thì rõ ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có thể ngắm nhìn một cái gì từ bên ngoài. Đó là sự khác biệt giữa một giấc mơ và một bài thơ đối với bạn. Có thể nói, thực tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ.

Soure

Nobel prize for literature

The Swedish poet you will soon be reading

Oct 6th 2011, 18:43

AMID the flurry of last-minute bets for Bob Dylan (once rated by bookies at 100/1), a relatively unknown Swedish poet, Tomas Tranströmer, has won the Nobel prize for literature. “He is a poet but has never really been a full-time writer,” explained Peter Englund, the permanent secretary of the Swedish Academy, which decides the award. Though Mr Tranströmer has not written much lately, since suffering from a stroke in 1990 that left him partly paralysed, he is beloved in Sweden, where his name has been mentioned for the Nobel for years. One newspaper photographer has been standing outside his door on the day of the announcement for the last decade, anticipating this moment.
Born in 1931, Mr Tranströmer began publishing poems when he was in his early 20s. He has been translated into 60 different languages since then. But his output is notably sparse—you “could fit it into a not too-large pocket-book, all of it,” Mr Englund says. Mr Tranströmer wrote poetry while working full-time, first as a psychologist and then at the Labour Market Institute in Västerås. Any fame he has enjoyed has been of the quiet, understated sort. In announcing Mr Tranströmer’s victory, the Swedish Academy has praised an oeuvre that is “characterised by economy” and that grants “fresh access to reality”. He is the first poet to win the award since Wislawa Szymborska in 1996.
Mr Englund has had to defend giving the literature award once more to a European (seven of the last ten have gone to the continent), and also to a Swede. In doing so, Mr Englund has perhaps had to deflect attention from the more pressing question of why Mr Tranströmer won in the first place. Perhaps that is a question that only Mr Tranströmer can answer, in work that will finally be more widely read. 

Tomas Tranströmer – My Nobel prize-winning hero

The literature prize means the world of poetry can finally raise a glass to salute this humble man


Thơ ông là những thám dò vào thế giới nội tại và những tương quan của thế giới đó với phong cảnh của quê hương Thụy Điển.

TQ dịch, Da Màu

Nguyên tác tiếng Anh:

Tranströmer's surreal explorations of the inner world and its relation to the jagged landscape of his native country have been translated into over 50 languages.

GCC dịch:

Những thám hiểm siêu thực [TQ bỏ từ này] thế giới nội tại, và sự tương quan của nó [số ít, không phải những tương quan] với những phong cảnh lởm chởm [TQ bỏ từ này luôn] của quê hương của ông được dịch ra trên 50 thứ tiếng.  

Mấy từ quan trọng, TQ đều bỏ, chán thế.

Chỉ nội 1 từ “lởm chởm” bỏ đi, là mất mẹ 1 nửa cõi thơ của ông này rồi.

Chứng cớ:

The landscape of Tranströmer's poetry has remained constant during his 50-year career: the jagged coastland of his native Sweden, with its dark spruce and pine forests, sudden light and sudden storm, restless seas and endless winters, is mirrored by his direct, plain-speaking style and arresting, unforgettable images. Sometimes referred to as a "buzzard poet", Tranströmer seems to hang over this landscape with a gimlet eye that sees the world with an almost mystical precision. A view that first appeared open and featureless now holds an anxiety of detail; the voice that first sounded spare and simple now seems subtle, shrewd and thrillingly intimate.

[Phong cảnh thơ TT thì thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ: miền đất ven biển lởm chởm của quê hương Thụy Ðiển với những rừng cây thông, vân sam u tối, chớp bão bất thần, biển không ngừng cựa quậy và những mùa đông dài lê thê, chẳng chịu chấm dứt, phong cảnh đó được phản chiếu vào thơ của ông, bằng 1 thứ văn phong thẳng tuột và những hình ảnh lôi cuốn, không thể nào quên được. Thường được nhắc tới qua cái nick “nhà thơ buzzard, chim ó”, Transtromer như treo lơ lửng bên trên phong cảnh đó với con mắt gimlet [dây câu bện thép], nhìn thế giới với 1 sự chính xác hầu như huyền bí, thần kỳ. Một cái nhìn thoạt đầu có vẻ phơi mở, không nét đặc biệt, và rồi thì nắm giữ một cách âu lo sao xuyến chi tiết sự kiện, tiếng thơ lúc đầu có vẻ thanh đạm, sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế nhị, sắc sảo, và rất ư là riêng tư, thân mật đến ngỡ ngàng, đến sững sờ, đến nghẹt thở.]

Source


Chỉ đến khi ngộ ra cõi thơ, thì Gấu mới hiểu ra là, 1 Nobel văn chương về tay 1 nhà thơ là 1 cơ hội tuyệt vời nhất trong đời một người…  mê thơ.

Người ta thường nói, thời của anh mà không đọc Dos, đọc Kafka… thí dụ, là vứt đi, nhưng không được nhìn thấy 1 nhà thơ được vinh danh Nobel thì quả là 1 đại bất hạnh!
Hà, hà!

Thành thử, Gấu rất bực vị sư phụ tiếng Anh của Gấu, khi bà khăng khăng không chịu dịch thơ, không thích đọc thơ dịch, không… thơ, tuy bà là 1 nữ thi sĩ rất ư là khiêm nhường với những bài thơ khiêm nhường của bà.
Nhớ, lần đọc Phu nhân ở Somerset, Gấu nghĩ ngay đến sư phụ, bà này đúng là 1 vị bà con với sư phụ của Gấu!
Hà, hà!

Câu chuyện sau đây, thật thi vị, thật tuyệt vời, và lẽ tất nhiên, vì thật thi vị, thật tuyệt vời cho nên, thật.. sến, và vào những ngày đầu năm, thật quá đắc địa để mà kể ra, bởi vì nó đẹp như là những lời chúc mừng ngày đầu năm vậy.
Mario Vargas Llosa dùng câu chuyện này để mở ra tập Ngôn ngữ của đam mê, The language of passion, chắc cũng là vì thế.

Thơ, ngôn ngữ của đam mê?

The literature prize means the world of poetry can finally raise a glass to salute this humble man:
Giải văn chương năm nay có nghĩa là thế giới thi ca sau cùng có thể nâng ly để chào mừng người thi sĩ bình dị, khiêm tốn này.

Tuyệt.
Nhất là từ “sau cùng”.

"No poet expresses better the relationship between humans and the natural world. The black and melancholy seas, the drifting seagulls, the oaks and elks, the storms, rowanberries, the moon and stars, the well, salt, and wolves are agents rather than background; they are what the world is, as much as we are. It's dark, and thoughtful. It is, also, bleakly intelligent."

Teju Cole, also writing on the New Yorker blog, calls Tranströmer one of his "ports of refuge" in a beautiful, affectionate hymn of praise to a poet who he reads "when I wish to come as close as possible to what cannot be said". I love the line he quotes from Tranströmer describing New York, as "a high place where with one glance you take in the houses where eight million human beings live".

Source

 


TOMAS TRANSTROMER 

Here, the Greece of islands and ports gives occasion to Swedish poet Tomas Transtromer
for a descriptive poem which changes into a moral parable.

SYROS 

In Syros' harbor abandoned merchant ships lay idle.
Stem by stem by stem. Moored for many years:

CAPE RION, Monrovia.
KRITOS, Andros.
SCOTIA, Panama.

Dark paintings on the water, they have been hung aside.

Like playthings from our childhood, grown gigantic,
that remind us
of what we never became. 

XELATROS, Piraeus.
CASSIOPEIA, Monrovia.
The ocean scans them no more. 

But when we first came to Syros, it was at night,
we saw stem by stem by stem in moonlight and thought:
what a powerful fleet, what splendid connections! 

Translated from the Swedish by May Swenson and Leif
Sjoberg

 

TOMAS TRANSTROMER 

A transformation of the landscape, and awareness of the alienation of man
in new surroundings,
transpire in this poem by Transtromer.

OUTSKIRTS

Men in overalls the same color as earth rise from a ditch.
It's a transitional place, in stalemate, neither country nor city.
Construction cranes on the horizon want to take the big leap, but
       the clocks are against it.
Concrete piping scattered around laps at the light with cold
      tongues.
Auto-body shops occupy old barns.
Stones throw shadows as sharp as objects on the moon surface.
And these sites keep on getting bigger
like the land bought with Judas' silver: "a potter's field for burying
      strangers." 

Translated from the Swedish by Robert Bly 

TOMAS TRANSTROMER 1931- 

This poem by Transtromer is the most literally spoken in the now, and it's so impressive that we forget to ask when-how long ago-the observer lived through it. It's like a snapshot, though enriched by things known from the past, in a dream or during illness.

 

TRACKS

Night, two o'clock: moonlight. The train has stopped
in the middle of the plain. Distant bright points of a town
twinkle cold on the horizon. 

As when someone has gone into a dream so far
that he'll never remember he was there
when he comes back to his room.

And as when someone goes into a sickness so deep
that all his former days become twinkling points, a swarm,
cold and feeble on the horizon. 

The train stands perfectly still.
Two o'clock: full moonlight, few stars. 

Translated from tire Swedish by Robert Bly

 
Czeslaw Milosz giới thiệu, trong A Book of Luminous Things

 

Tomas Tranströmer: Alone

A poem by the 2011 Nobel prize for literature winner

One evening in February I came near to dying here.
The car skidded sideways on the ice, out
on the wrong side of the road. The approaching cars –
their lights – closed in.

My name, my girls, my job
broke free and were left silently behind
further and further away. I was anonymous
like a boy in a playground surrounded by enemies.

The approaching traffic had huge lights
They shone on me while I pulled at the wheel
in a transparent terror that floated like egg white.
The seconds grew – there was space in them –
they grew as big as hospital buildings.

You could almost pause
and breathe out for a while
before being crushed.

Then something caught: a helping grain of sand
or a wonderful gust of wind. The car broke free
and scuttled smartly right over the road.
A post shot up and cracked – a sharp clang – it
flew away in the darkness. 

Then – stillness. I sat back in my seat-belt
and saw someone coming through the whirling snow
to see what had become of me.

    II

I have been walking for a long time
on the frozen Östergötland fields.
I have not seen a single person.

In other parts of the world
there are people who are born, live and die
in a perpetual crowd.

To be always visible – to live
in a swarm of eyes –
a special expression must develop.
Face coated with clay.

The murmuring rises and falls
while they divide up among themselves
the sky, the shadows, the sand grains.
I must be alone
ten minutes in the morning
and ten minutes in the evening.
– Without a programme.

Everyone is queuing at everyone's door.

Many.

One.