|
Imre Kertész obituary
1929-2016
http://www.tanvien.net/cn/Trang_Kertesz.html
Và
sự phục sinh không dứt của sự thiện, chứ không phải của sự
dữ và độc ác, cho chúng ta thấy chân lý
về thế giới và cuộc đời của chúng ta. Nhà văn Do Thái-Hungari,
Imre Kertesz, đã đoạt giải Nobel Văn học năm 2002, đã có
một chứng tá thâm thúy về điều này. Ông
từng là một cậu bé trong trại giết người của Đức Quốc xã,
nhưng điều ông nhớ nhất về quãng thời gian này, không
phải là những bất công, tàn ác, và
cái chết mà ông chứng kiến ở đó, nhưng là
những hành động nhân ái, trìu mến và
vị tha giữa sự dữ. Vì thế sau chiến tranh, ông mong muốn đọc
hạnh các thánh hơn là tiểu sử các tội phạm
chiến tranh. Vẻ ngoài của sự thiện lôi cuốn ông. Với
ông, có thể hiểu được sự dữ, còn sự thiện thì
sao? Ai có thể giải thích được? Nguồn cội sự thiện là
gì? Tại sao sự thiện cứ tuôn ra, tuôn tràn trở
lại trên khắp cõi trái đất, trong mọi tình trạng
thế nào chăng nữa?
http://ronrolheiser.com/the-triumph-of-goodness/#.Vv8aYjZzY5s
And it is this, the constant resurrection of goodness,
not that of viciousness and evil, which speaks the deepest truth about
our world and our lives. The Jewish-Hungarian writer, Imre Kertesz, who
won the Nobel Prize for literature in 2002, gives a poignant testimony of
this. He had as a young boy been in a Nazi death camp, but what he remembered
most afterwards from this experience was not the injustice, cruelty, and
death that he saw there, but rather some acts of goodness, kindness, and
altruism he witnessed amidst that evil. After the war, it left him wanting
to read the lives of saints rather than biographies of war. The appearance
of goodness fascinated him. To his mind, evil is explicable, but goodness?
Who can explain it? What is its source? Why does it spring up over and
over again all over the earth, and in every kind of situation?
It springs up everywhere because God’s goodness and power lie at
the source of all being and life. This is what is revealed in the resurrection
of Jesus. What the resurrection reveals is that the ultimate source of
all that is, of all being and life, is gracious, good, and loving. Moreover
it also reveals that graciousness, goodness, and love are the ultimate
power inside reality. They will have the final word and they will never
be captured, derailed, killed, or ultimately ignored. They will break through,
ceaselessly, forever. In the end, too, as Imre Kertesz suggests, they are
more fascinating than evil.
The Triumph of Goodness
March 28, 2016
The stone which rolled away from the tomb of Jesus continues to
roll away from every sort of grave. Goodness cannot be held, captured,
or put to death. It evades its pursuers, escapes capture, slips away,
hides out, even leaves the churches sometimes, but forever rises, again
and again, all over the world. Such is the meaning of the resurrection.
Goodness cannot be captured or killed. We see this already in the
earthly life of Jesus. There are a number of passages in the Gospels
which give the impression that Jesus was somehow highly elusive and difficult
to capture. It seems that until Jesus consents to his own capture, nobody
can lay a hand on him. We see this played out a number of times: Early
on in his ministry, when his own townsfolk get upset with his message
and lead him to the brow of a hill to hurl him to his death, we are told
that “he slipped through the crowd and went away.” Later when the authorities
try to arrest him we are told simply that “he slipped away”. And, in yet
another incident when he is in temple area and they try to arrest him,
the text simply says that he left the temple area and “no one laid a hand
upon him because his hour had not yet come.” Why the inability to take
him captive? Was Jesus so physically adept and elusive that no one could
imprison him?
These stories of his “slipping away” are highly symbolic. The lesson
is not that Jesus was physically deft and elusive, but rather that
the word of God, the grace of God, the goodness of God, and power of God
can never be captured, held captive, or ultimately killed. They are adept.
They can never be held captive, can never be killed, and even when seemingly
they are killed, the stone that entombs them always eventually rolls back
and releases them. Goodness continues to resurrect from every sort of
grave.
And it is this, the constant resurrection of goodness, not that
of viciousness and evil, which speaks the deepest truth about our world
and our lives. The Jewish-Hungarian writer, Imre Kertesz, who won the Nobel
Prize for literature in 2002, gives a poignant testimony of this. He
had as a young boy been in a Nazi death camp, but what he remembered most
afterwards from this experience was not the injustice, cruelty, and death
that he saw there, but rather some acts of goodness, kindness, and altruism
he witnessed amidst that evil. After the war, it left him wanting to read
the lives of saints rather than biographies of war. The appearance of goodness
fascinated him. To his mind, evil is explicable, but goodness? Who can
explain it? What is its source? Why does it spring up over and over again
all over the earth, and in every kind of situation?
It springs up everywhere because God’s goodness and power lie at
the source of all being and life. This is what is revealed in the resurrection
of Jesus. What the resurrection reveals is that the ultimate source of
all that is, of all being and life, is gracious, good, and loving. Moreover
it also reveals that graciousness, goodness, and love are the ultimate
power inside reality. They will have the final word and they will never
be captured, derailed, killed, or ultimately ignored. They will break through,
ceaselessly, forever. In the end, too, as Imre Kertesz suggests, they are
more fascinating than evil.
And so we are in safe hands. No matter how bad the news on a given
day, no matter how threatened our lives are on a given day, no matter how
intimidating the neighborhood or global bully, not matter how unjust and
cruel a situation, and no matter how omnipotent are anger and hatred,
love and goodness will reappear and ultimately triumph.
Jesus taught that the source of all life and being is benign and
loving. He promised too that our end will be benign and loving. In the
resurrection of Jesus, God showed that God has the power to deliver on
that promise. Goodness and love will triumph! The ending of our story,
both that of our world and that of our individual lives, is already written
– and it is a happy ending! We are already saved. Goodness is guaranteed.
Kindness will meet us. We only need to live in the face of that wonderful
truth.
They couldn’t arrest Jesus, until he himself allowed it. They put
his dead body in a tomb and sealed it with a stone, but the stone rolled
away. His disciples abandoned him in his trials, but they eventually
returned more committed than ever. They persecuted and killed his first
disciples, but that only served to spread his message. The churches have
been unfaithful sometimes, but God just slipped away from those particular
temple precincts. God has been declared dead countless time, but yet a
billion people just celebrated Easter.
Goodness cannot be killed. Believe it!
Tks. NQT
Trong bài ai điếu trên Guardian, viết:
Tác phẩm của K. đôi khi ló ra cái hàm
hồ của ông, về tín ngưỡng, khiến đôi khi ông
không tin có Thượng Đế.
Trong tác phẩm Gályanapló, ông đi 1 đường
nghịch thiên, ngược ngạo:
Thượng Đế có ở Lò Thiêu. Người ném tôi
vô đó, để kể (“bao giờ thì tôi có thể
“lại viết”, của TTT, là ở chỗ này) lại cho Người nghe, Người
đã làm gì ở đó!
Kertész’s books also sometimes betrayed his ambivalent relationship
with religion, which at times led him to doubt the existence of God. In
his work Gályanapló (Galley Boat-Log, 1992) he chose a paradox
to express his doubts: “God is Auschwitz, but also He who brought me out
of there, who obliged, even compelled me to give an account of all that
there happened, because He wants to know and hear what he had done.”
Often tempted by suicide, Kertész somehow persevered and
it was not until 2003 in his novel Felszámolás (Liquidation,
2003) that he produced a hero who actually kills himself. The ending to
that book was probably influenced by his recurring depression after he
was diagnosed with Parkinson’s disease. In 2014, having lived in Berlin
for a number of years, Kertész moved back to Budapest, ostensibly
for medical treatment.
TCDT: "Lịch sử và chính
thống", Văn Học 134, Tháng 6, 1967
Cái này mà
đem về trong nước in ư?
Một
trong số những
nhà văn có tầm nhìn sáng suốt, về xứ Mít
và cuộc chiến của nó, là Solzhenitsyn. Ngay từ
1975, khi trả lời trong 1 chương trình văn học trên TV Tẩy,
ông đã tiên đoán Miền Bắc sẽ cướp đoạt Miền
Nam, và đây là 1 cuộc chiến tranh chấp quyền lực
giữa các đế quốc, khác hẳn mọi người, trong có Octavio
Paz, khi ông này cho rằng đây là cuộc chiến
giải phóng dân tộc.
Nói rõ hơn, Solzhenitsyn biết chuyện Bắc Kít
dâng vợ con đất nước cho Tẫu, để lấy viện trợ, để lấy cho bằng
được Miền Nam.
Bắc Kít phải hiểu rõ điều này hơn ai hết.
Chúng vờ, làm như không biết. Đây là
nỗi nhục của cả xứ Bắc Kít, theo cái kiểu mà Sebald
nói, về nước Đức, khi họ vờ những trận mưa bom của Đồng Minh
lên đất nước, thành phố của họ.
Nhạc sĩ Tô Hải hình như cũng có kể về 1
lần gặp gỡ hai tên, 1 VC, áp giải 1 anh tù Ngụy,
và để ý, anh VC trang bị, từ đầu đến chim, toàn
đồ Tầu,anh Ngụy toàn đồ Mẽo. Cái chuyện Miền Nam được Mẽo
lo cho đủ thứ, thì ai cũng biết. Khốn nạn nhất, là khi chúng
bỏ mặc Miền Nam cho VC. Chúng cắt mọi viện trợ, làm sao đánh
đấm?
Chúng bức tử Miền Nam.
(1)
Trong bài viết "Gulag", trong “On Poets and Others”,
Paz chỉnh Solz, khi phán, cuộc chiến Đông Dương là
mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina
was an imperial conflict. Paz coi đây là cuộc chiến giành
độc lập của 1 xứ cựu thuộc địa của Pháp. Cái bước ngoặt lịch
sử - bốn ngàn năm thù Tẫu của xứ Mít - chấm dứt, xẩy ra đúng vào lúc
ông Hồ trốn thoát cuộc canh chừng của Cớm Tẩy ở Paris, và
chuồn được qua Moscow.
Sau đó, ông thoát cuộc thanh trừng của Xì,
và được Xì cho về Trung Quốc, như 1 tên Cớm CS
Quốc Tế, ăn lương Cẩm Linh, làm việc với CS Tẫu.
Đường ngắn tới… Heo
Heo 1: Ngay sau 30 Tháng 4, 1975 cho lũ Ngụy
Heo 2: Dài dài sau đó, cho tới 40
năm sau, và sau nữa, cho xứ Mít.
Nhìn hình, thì thấy Tông Tông
Thiệu bảnh trai hơn bất cứ 1 tên nào ở Bắc Bộ Phủ!
Được, được!
“Short road to Hell”, cụm từ này, là
của tuỳ viên báo chí của Tông Tông
Thiệu, phát biểu, khi Nixon và Kissinger tìm đủ
mọi cách đe dọa Thiệu, bắt ông phải ngồi vô bàn
hội nghị ở Paris. Trên tờ Vietnam, số mới nhất Tháng 10,
2015, có bài viết của J. Veith, tác giả Tháng
Tư Đen: Miền Nam thất thủ, Black April : The Fall of South Vietnam, 1973-75,
viết về cú bức tử Miền Nam của Nixon và Kssinger. Bài
viết là từ cuốn New Perceptions of the Vietnam War: Essays on the
War: The South Vietnamese Experience, The Diaspora, and the Continuing
Impact, do Nathalie Huynh Chau Nguyen biên tập:
Sau khi dụ khị đủ mọi cách, Thiệu vẫn lắc đầu, Nixon
dọa cắt hết viện trợ Mẽo, nếu không chịu ký hòa
đàm.
After persuasion had failed, Nixon threatened Thieu with the
cessation of all American aid if he did not sign the accords
Tổng Lú nhớ đọc nhe, vừa hôn đít O bá
mà, vừa đọc nhe!
Hôn rồi, về xứ Mít đọc, cũng được!
Chúng ta giả dụ, sau khi Mẽo lại đi đêm với Tập,
như Kissingger đã từng đi đêm với Mao, chúng yêu
cầu, thịt thằng VC Mít nhe?
Thơ Mỗi
Ngày
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/index.html
The luxury of tears
Nước
mắt cũng có hạn. Bữa nay đổ ra nhiều, thì bữa khác
dè sẻn lại.
Càng khóc nhiều, thì xã hội càng
giầu thêm
The old idea that people in developed countries suppress
their emotions is being overturned. As Matthew Sweet discovers, we
cry more as our societies get richer
Matthew Sweet | April/May 2016
https://www.1843magazine.com/features/the-luxury-of-tears
Những ngày TCS
http://www.art2all.net/tho/tho_nqt/nhungngaytcs.html
Trong
số những người tưởng niệm TCS khi anh vừa nằm xuống, GCC là thằng
đầu tiên.
Một bài
viết, thoạt đầu ngắn,
sau đây, sau, phát triển thành 1 bài dài
thòng.
Liền sau
đó, GCC nhận được 1 cái mail, của 1 người bạn, kèm một đoạn trong bài viết của DT,
về TCS, khi bài chưa được post, "xoa đầu" GCC tới chỉ!
Giữa một rừng than khóc ki khu,
thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị.
Vì chính xác và dũng cảm. DT
Đoạn ngắn này,
sau GCC được biết, bạn Lý Kiến Cắn [Lý Kiến Trúc] chơi
liền, trong 1 số báo Văn Hoá của anh, ở Tiểu Saigon, tưởng
niệm TCS.
Tờ Văn của NXH, liền sau đó, cũng lấy đăng.
Cái tít bài viết, thuổng Sơ Dạ Hương, Những
ngày ở Saigon.
Tks all.
NQT
Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và
qua Nguyễn Đình Toàn, tại một bàn cà phê
ở quán Cái Chùa, đường Tự Do, Sài Gòn.
Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa số công chúng
thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc chiến leo thang, người dân
miền nam ngày càng thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng
cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn
nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc
hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như
vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi,
anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương trình
nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn,
và hai người hình như có hẹn gặp nhau tại quán,
ấy là tôi suy đoán ra như vậy. Thời gian này,
tôi chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn. Nói rõ
hơn, nó chưa thấm vào tôi.
Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm
Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường
sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là
quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ
gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi,
rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng
tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm
tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của cả
miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó,
khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết
nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận
cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với
chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều,
miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như
cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến
đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói
đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là
tính phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau vòng
tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu. Một bạn văn của người
viết, còn ở lại Sài Gòn, nhân lần gặp gỡ tại
xứ người, đã kể chuyện, sau "giải phóng", có thời gian
Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản địa phương làm khó dễ, anh
phải vô Sài Gòn, và có than thở với anh
bạn văn kể trên. Anh nói, thì cứ dzô đây,
gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang Trịnh Công Sơn không phải
chỉ lần đó. Theo như tôi được biết, những ngày cuộc
chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau lên
Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đã được đại tá
không quân Lưu Kim Cương che chở. Trong số những quân cảnh
tại thành phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh Công
Sơn!
Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi
bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh: được chết tại Sài
Gòn.
Xin vĩnh biệt.
manhhai
SAIGON, 7 May 1968 - Đại tá Lưu Kim Cương tại vành đai
phía Tây Nam sân bay TSN
Location: RVN, Tan Son Nhut. Photographer: SP5 J.F. Fitzpatrick, Jr.
A Vietnamese Air Force Col, and the Tan Son Nhut CO, (right), fire a 50
cal. machine gun into enemy positions in the Old French Cemetery from atop
a tank on the southwestern perimeter of Tan Son Nhut Air Base.
Một Đại tá Không quân VN Chỉ huy trưởng căn cứ TSN
(bên phải), bắn đại liên .50 vào vị trí địch
tại Nghĩa trang QĐ Pháp từ trên một xe tăng tại vành
đai phía tây nam Căn cứ KQ Tân Sơn Nhứt, [đó là
Đại tá Lưu Kim Cương]
7 May 1968
Thơ Tháng Tư
http://tanvien.net/new_daily_poetry/April_Poems.html
Số báo tuyệt vời, Tháng
Tư 1975
"Tôi mang cái chết đến
cho những người thân của tôi
Hết người này tới người
kia gục xuống.
Ôi đau đớn làm
sao! Những nấm mồ
Đã được tôi báo
trước bằng lời."
"I brought on death to my
dear ones
And they died one after another.
O my grief! Those graves
Were foretold by my word."
Anna Akhmatova
Saigon, qui meurt…
Khi người ta chôn một
thời đại
Chẳng lời hát tang
chế nào cất lên.
Để trang trí cho mộ
phần kia
Chỉ thấy cúc gai với
tầm ma
Và chỉ có bọn
đào huyệt hối hả
Ra tay nhanh gọn vùi
lấp nó.
Giữa niềm im lặng sâu
không đáy
Khiến ta nghe được thời gian
đi qua.
Rồi thời đại nổi lên
như thi thể
Lênh đênh sông
nước lúc xuân về.
Nhưng đứa con chẳng còn
nhìn ra mẹ
Và thằng cháu
quay lưng vì quá chán.
Nhựng các cái
đầu càng cúi thấp hơn
Dưới đòn cân
chậm chạp của vầng trăng .
Niềm im lặng ấy trị vì
Trên Paris đang chờ
chết.
Chân Phương dịch
Tháng Tư 1975! Ban
Mê Thuộc, Đà Nẵng, Nha Trang mất…Dân tình
nhốn nháo, một số tìm cách ra đi, bạo lực chiến
tranh trùm phủ bầu khí Sàigòn, ngoại ô
xa đã bị pháo kích…
Một buổi trưa rời đại học Văn Khoa và đám
sinh viên đang hoảng loạn, tôi phóng mô
tô qua Institut – viện Văn Hóa Pháp ở Đồn Đất –
tìm chút tĩnh lặng trong mấy trang sách báo,
cố duy trì thói quen trầm tư với chữ nghĩa dù binh
lửa cận kề. Cầm trên tay LA NOUVELLE REVUE FRANCAISE , Avril 1975
– nguyệt san từ Paris vừa gửi đến – tôi mở ra trang đầu và
gặp phải bài L’année quarante của nữ thi hào Anna
Akhmatova. Đây là bài thơ khóc Paris vào
năm 1940 khi nước Pháp thua trận và thủ đô bị quân
Đức chiếm đóng. Tại sao nhà Gallimard lại cho đăng bài
thơ này khi Sài gòn đang hấp hối từng ngày?
Ban biên tập của NRF có chủ ý gì chăng? Dân
Pháp làm gì không biết là Nam Việt
Nam sắp mất!
http://damau.org/archives/36641
V/v Câu hỏi của CP,
có câu trả lời của 1 blogger dưới đây:
* đề từ lấy từ bài thơ khu
latin của nhà thơ vyacheslav ivanov
* tháng 6 năm 1940 paris đầu hàng phát
xít đức. bài thơ này được làm trong bối
cảnh đó.
Bài thơ làm
năm 1940, tức là cùng thời với Kinh Cầu.
Bản tiếng Anh, của Lyn Coffin:
1.
When they bury an epoch,
No psalms are read while the coffin settles,
The grave will be adorned with a rock,
With bristly thistles and nettles.
Only the gravediggers dig and fill,
Working with zest. Business to do!
And it's so still, my God, so still,
You can hear time passing by you.
And later, like a corpse, it will rise
Ride the river in spring like a leaf,-
But the son doesn't recognize
His mother, the grandson turns away in grief,
Bowed heads do not embarrass,
Like a pendulum goes the moon.
Well, this is the sort of silent tune
That plays in fallen Paris.
Khi họ chôn một thời kỳ
Không tụng ca được đọc khi hạ huyệt
Ngôi mộ sẽ được điểm trang bằng 1 cục đá.
Với cây kế tua tủa và tầm ma
Chỉ mấy đấng thợ, đào, và sau đó
lấp, mồ.
Họ háo hức, hăm hở. Công việc mà!
Và thật câm lặng, Chúa ơi, thật câm
lặng!
Bạn có thể nghe thời gian qua đi.
Và sau đó, như 1 cái thây ma,
nó trỗi dậy
Bay trên mặt sông vào mùa xuân
như 1 chiếc lá –
Nhưng ông con trai không nhận mẹ
Đứa cháu trai bỏ đi trong đau khổ
Những cái đầu cúi xuống đâu làm
phiền ai
Như con lắc, mảnh trăng đong đưa
Đúng rồi, đúng điệu nhạc âm thầm đó
Dân Sài Gòn chơi, ngày mất
Sài Gòn.
[Bản của GCC]
Trần Hồng Tiệm FB
Yesterday at 3:36pm ·
tháng 8 năm 1940
thành phố của người, julian
vyach. ivanov
khi người ta chôn thời đại
trước huyệt không hát thánh ca
cúc gai cùng với tầm ma
sẽ phải tô điểm cho mộ
chỉ có phu huyệt hối hả
chôn cất. đợi chờ được sao
lặng im, chúa ơi, im quá
nghe thấy mỗi thời gian đi
sau khi thời đại nổi lên
giống thây trên dòng sông xuân
nhưng con không nhận ra mẹ
còn cháu quay lưng trong buồn
đầu người cúi xuống thấp nữa
như con lắc ở mặt trăng
và thế - trên paris đã chết
lặng im hiện đang bao trùm
ngày 5 tháng 8 năm 1940
tại nhà sheremetevsky
anna akhmatova
* đề từ lấy từ bài thơ khu latin của nhà
thơ vyacheslav ivanov
* tháng 6 năm 1940 paris đầu hàng phát
xít đức. bài thơ này được làm trong
bối cảnh đó.
Август 1940
То град твой, Юлиан!
Вяч. Иванов
Когда погребают эпоху,
Надгробный псалом не звучит,
Крапиве, чертополоху
Украсить ее предстоит.
И только могильщики лихо
Работают. Дело не ждет!
И тихо, так, Господи, тихо,
Что слышно, как время идет.
А после она выплывает,
Как труп на весенней реке,-
Но матери сын не узнает,
И внук отвернется в тоске.
И клонятся головы ниже,
Как маятник, ходит луна.
Так вот - над погибшим Парижем
Такая теперь тишина.
5 августа 1940
Шереметевский Дом
Анна Ахматова
#thodichdonga #thongadonga
https://www.facebook.com/donga01?fref=nf
Note: Tks. NQT
LE HIBOU
Mon pauvre coeur est un hibou
Qu'on cloue, qu'on décloue, qu'on récloue.
De sang, d'ardeur, il est à bout.
Tous ceux qui m'aiment, je les loue.
Trái tim đáng thương của Gấu là con cú
Người ta đóng đính, nhổ đinh, rồi lại đóng đinh
Máu
me, yếu xìu, mệt nhoài
Tất cả những kẻ yêu tôi, tôi đều mướn họ
THE OWL
My poor heart is like an owl,
Nailed, un-nailed, and nailed again.
Gutless, weak, exsanguinate.
Loyal friends I ululate.
LA PUCE
Puces, amis, amantes même,
Qu'ils sont cruels ceux qui nous aiment!
Tout notre sang coule pour eux.
Les bien-aimés sont malheureux.
Chấy rận, bạn quí, và ngay cả người yêu
Tàn nhẫn làm sao, những kẻ yêu chúng ta
Máu của chúng ta chảy là vì họ
Những kẻ yêu thương thì mới bất hạnh làm sao
THE FLEA
Fleas, friends, even lovers,
How cruel are those who love us!
They empty us of all our blood.
Unhappy are the well-beloved.
OCEAN VUONG
Toy Boat
For Tamir Rice
yellow plastic
black sea
eye-shaped shard
on a darkened map
no shores now
to arrive - or
depart
no wind but
this waiting which
moves you
as if the seconds
could be entered
& never left
toy boat - oarless
each wave
a green lamp
outlasted
toy boat
toy leaf dropped
from a toy tree
waiting
waiting
as if the sp-
arrows
thinning above you
are not
already pierced
by their own names
Note: Trên Tin Văn đã giới thiệu Ocean Vuong,
qua bài thơ xử VC.
Bài thơ mới, trên số báo Thơ, cũng
hợp với Tháng Tư, thay vì thuyền nhân, thì
chúng ta có thuyền đồ chơi con nít
Ocean Vuong
The Photo
http://www.tanvien.net/TV_Diary_New/6.html
After the infamous 1968 photograph of a Viet Cong officer
executed by South Vietnam's national police chief.
What hurts the most
is not how death
is made permanent
by the cameras flash
the irony of sunlight
on gunmetal
but the hand gripping the pistol
is a yellow hand,
and the face squinting
behind the barrel
a yellow face.
Like all photographs this one fails
to reveal the picture.
Like where the bullet
entered his skull
the phantom of a rose
leapt into light, or how
after smoke cleared
from behind the fool
with blood on his cheek
and the dead dog by his feet
a white man
was lighting a cigarette.
ASIA LITERARY REVIEW
SUMMER 2010
Một "Bóng Đen Giữa Ban Ngày"
Khác
Sài Gòn có phải
là 'Hòn ngọc Viễn Đông'?
Trương
Thái Du Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/04/160401_saigon_truong_thai_du_comments?SThisFB
Cái tên Hòn Ngọc Viễn Đông, là
Tẩy ban cho Sài Gòn, và quả đúng như thế,
và sở dĩ được như thế, thì vì nhiều lý do,
trong có cái gọi là "mentalité" của dân
Miền Nam, và cái gọi là “văn minh” của Tẩy.
Tẩy đối xử với dân Miền Nam ngang hàng, không phân biệt. Điều
này được những nhà văn, thí dụ hai đấng, là
Graham Greene, trong "Ways of Escape" đã có những dòng
ca ngợi thần sầu về
Sài Gòn, và Maugham, trong bài viết về Huế,
có trên Tin Văn.
Và quả đúng là quá khứ không
thể nào lập lại, và điều này phần lớn là
do Bắc Kít. Cái độc, cái ác của chúng
làm biến đổi xã hội Miền Nam đến tận gốc rễ, không
làm sao gượng lại được nữa.
HUẾ
HUE
IS A pleasant little town with something of the leisurely air of a cathedral
city in the West of England, and though the capital of an empire it is
not imposing. It is built on both sides of a wide river, crossed by a
bridge, and the hotel is one of the worst in the world. It is extremely
dirty, and the food is dreadful; but it is also a general store in which
everything is provided that the colonist may want from camp equipment and
guns, women's hats and men's reach-me-downs, to sardines, pate de foie
gras, and Worcester sauce; so that the hungry traveler can make up with
tinned goods for the inadequacy of the bill of fare. Here the inhabitants
of the town come to drink their coffee and fine in the evening and the
soldiers of the garrison to play billiards. The French have built themselves
solid, rather showy houses without much regard for the climate or the environment;
they look like the villas of retired grocers in the suburbs of Paris.
The French carry France to their colonies
just as the English carry England to theirs, and the English, reproached
for their insularity, can justly reply that in this matter they are no
more singular than their neighbors. But not even the most superficial
observer can fail to notice that there is a great difference in the manner
in which these two nations behave towards the natives of the countries
of which they have gained possession. The Frenchman has deep down in him
a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood.
He is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes
haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot
prevent himself from feeling that the native, black, brown, or yellow,
is of the same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and
pains, and he cannot bring himself to treat him as though he belonged
to a different species. Though he will brook no encroachment on his authority
and deals firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke,
in the ordinary affairs of life he is friendly with him without condescension
and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices;
Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite
is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not
convinced that outside France there is neither art, literature, nor science.
But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him,
drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty
Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and
bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession of
his house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better
repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics
even though his master has installed a lift for him to reach them; and I
do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that strangers
hold their country. But I should say that whereas the Burmese only respect
the English, the Annamites admire the French. When in course of time these
peoples inevitably regain their freedom it will be curious to see which of
these emotions has borne the better fruit.
The Annamites are a pleasant people to look
at, very small, with yellow flat faces and bright dark eyes, and they
look very spruce in their clothes. The poor wear brown of the color of
rich earth, a long tunic slit up the sides, and trousers, with a girdle
of apple green or orange round their waists; and on their heads a large
flat straw hat or a small black turban with very regular folds. The well-to-do
wear the same neat turban, with white trousers, a black silk tunic, and
over this sometimes a black lace coat. It is a costume of great elegance.
But though in all these lands the clothes
the people wear attract our eyes because they are peculiar, in each
everyone is dressed very much alike; it is a uniform they wear, picturesque
often and always suitable to the climate, but it allows little opportunity
for individual taste; and I could not but think it must amaze the native
of an Eastern country visiting Europe to observe the bewildering and vivid
variety of costume that surrounds him. An Oriental crowd is like a bed of
daffodils at a market gardener's, brilliant but monotonous; but an English
crowd, for instance that which you see through a faint veil of smoke when
you look down from above on the floor of a promenade concert, is like a
nosegay of every kind of flower. Nowhere in the East will you see costumes
so gay and multifarious as on a fine day in Piccadilly. The diversity is
prodigious. Soldiers, sailors, policemen, postmen, messenger boys; men in
tail coats and top hats, in lounge suits and bowlers, men in plus fours and
caps, women in silk and cloth and velvet, in all the colors, and in hats
of this shape and that. And besides this there are the clothes worn on different
occasions and to pursue different sports, the clothes servants wear, and
workmen, jockeys, huntsmen, and courtiers. I fancy the Annamite will return
to Hue and think his fellow countrymen dress very dully.
Somerset Maugham: The Skeptical Romancer
Bắc
Kít rêu rao giải phóng Nam Kít. Sự thực, chúng
đem tới, và tiêm chủng vào khí hậu con người
Nam Kít cái độc cái ác bản chất của chúng,
và lấy đi, những cái chúng không bao giờ có,
và được hưởng, là tự do, dân chủ, sống thoải mái
giữa con người với con người.
Hãy thử đọc 1 đoạn Somerset Maugham viết, là biết:
The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal
and that mankind is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in
case you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there
it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that the
native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the
same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself to
treat him as though he belonged to a different species. Though he will brook
no encroachment on his authority and deals firmly with any attempt the native
may make to lighten his yoke, in the ordinary affairs of life he is friendly
with him without condescension and benevolent without superiority. He inculcates
in him his peculiar prejudices; Paris is the centre of the world, and the
ambition of every young Annamite is to see it at least once in his life;
you will hardly meet one who is not convinced that outside France there is
neither art, literature, nor science. But the Frenchman will sit with the
Annamite, eat with him, drink with him, and play with him. In the market
place you will see the thrifty Frenchwoman with her basket on her arm jostling
the Annamite housekeeper and bargaining just as fiercely. No one likes having
another take possession of his house, even though he conducts it more efficiently
and keeps it in better repair that ever he could himself; he does not want
to live in the attics even though his master has installed a lift for him
to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more than the
Burmese that strangers hold their country. But I should say that whereas
the Burmese only respect the English, the Annamites admire the French. When
in course of time these peoples inevitably regain their freedom it will be
curious to see which of these emotions has borne the better fruit.
Tẩy thực dân đối xử với Nam Kít, như thế, trong khi lũ
Yankee mũi tẹt sau khi lấy được Miền Nam, đối xử với họ như thế nào?
Cái chuyện Bắc Kít không hề biết đến cái
gọi là tự do, dân chủ, người đối xử như người với người, là
sự thực, và là chuyện thường ngày ở cả xứ Mít
hiện nay.
Sự kiện chưa từng biết đến dân chủ là gì, là
lịch sử bốn ngàn năm của xứ Bắc Kít, và cũng là
cái chuyện của xứ Nga Xô. Nói 1 cách ẩn dụ, thì
đây là câu chuyện Bóng Đêm Giữa Ban Ngày,
được Koestler, bằng con mắt của 1 nhà văn, cô đọng nó
vào 1 cuốn sách mỏng dính. Trong bài viết mới
nhất về nó, nhân nguyên tác mới tìm lại,
Michael Scammell viết:
Like other European Communists, Koestler had struggled to make sense
of these trials, and having utterly failed to do so, he handed in his Party
card. He started his novel in an attempt to decipher the tortured logic of
the confessions, taking as his hero a Bukharin-like disillusioned high Party
official, Nikolai Salmanovich Rubashov. In the course of the novel Rubashov
is interrogated by two secret police officials, the “good cop” Ivanov (a
former friend) and the “bad cop” Gletkin (a younger, robotic apparatchik),
who between them force him to review his life as a Party leader and convince
him that by following his ideals he has disobeyed the Party line and has
violated his oath of loyalty. In Party-speak, he was guilty of counterrevolutionary
activities. Broken by the logic of his interrogators, Rubashov listlessly
confesses at a public trial and is taken to a prison cellar where he is
executed with a bullet in the head. The novel’s provisional title was “The
Vicious Cycle” and after that “Rubashov.”
Những vụ án dởm, mà Koestler dựa vào chúng,
để xây dựng tác phẩm, vẫn đang hàng ngày xẩy ra
ở Xứ Mít VC.
Cái tít của cuốn sách, thoạt kỳ thuỷ là “Vòng
Tròn Xấu Xa, Ma Quỉ”, rồi “Rubashov”, rồi “Bóng Đêm
Giữa Ban Ngày”.
Michael Scammell viết, thật khó mà tin rằng, 1 nhà
văn lại đẻ ra vài ấn bản khác nhau như thế, về tác phẩm
đầu tay của mình: It’s hard to believe the same author could have
produced two such different versions of his own novel, until one remembers
that Koestler was working from the English edition the second time around.
In the intervening four years he had learned to think and write in English
himself, which helps to explain why the discrepancies were so wide. When
he ran into trouble with his translation into German he consulted some native
German speakers for advice and showed a sample to Rudolf Ullstein, scion
of the great German publishing house (for which Koestler himself had worked
in the 1930s). Ullstein noted that Koestler was using “a great deal of foreign
words instead of German expressions” in his translation and asked for permission
to change them into idiomatic German. There is irony here, for the English
translation Koestler worked from is itself full of German words and phraseology,
a neat reversal. After further drudgery, Koestler acknowledged his limitations
and asked another German friend to revise the entire translation for him,
but the final version, with all its weaknesses, was still his.
|
|