Last Page
15Khiem Do and 14 others
Comments
Nguyễn Ngọc Bích như
vậy là cùng tuổi GCC, 1937, Đinh Sửu. 1954, Gấu là
đứa con nít, học Đệ Lục, vô Sài Gòn trễ,
vì mê VC, bị thầy giám thị Nguyễn Trãi
bắt học lại năm Đệ Lục, bèn ra trường tư, vậy mà vị
này đã được học bổng đi Mẽo. Hay thật!
Bạn NTK cho biết, 1958. Thế thì OK. Vì 1958,
GCC cũng đi xong cái tú tài, 1 ông thầy
dậy ngoại ngữ, và còn làm ở Bộ Giáo Dục,
Thầy Đỗ Xuất Tỵ, vẫn nhớ tên, có hứa, đậu xong, kiếm ông,
ông lo cho cái học bổng du học, nhưng Gấu quả là
ngu, không hề bao giờ có ý đi du học, tếu thế, thế
là vờ.
Đi thi thì chỉ cần đậu, không cần đậu cao,
thành ra cũng khó mà có cái học
bổng.
Gấu chẳng đã kể cái lần thi tú tài
hai, ban toán, cho thí sinh ngồi kế copy bài.
Đến câu chót bài toán lý, có
câu áp dụng bằng số, Gấu nghĩ đủ điểm đậu rồi, không
làm, anh bạn ngồi bên bèn ký hoáy
nhân chia trừ cộng, và nói, cho chắc ăn, anh ạ!
Ui chao, sau gặp đúng 1 tên y chang GCC, là
Vi Bức Vương. Tay này mỗi lần ra đòn, là làm
địch thủ đóng băng, Hàn Băng Chưởng cái con mẹ
gì đó. Và chỉ 1 đòn, là đủ.
Vi Bức Vương không tin có tên nào
chịu được hai đòn của ông!
Gấu rớt chứng chỉ Toán Lý Hoá, là
do vậy. Hình như đã kể ra rồi.
1958, ăn nằm ở dề nhà bạn C. Trốn bà dì, Dì
Nhật, cô em gái Bà Trẻ, cực độc, cực ác, luôn
mắng Bà Trẻ Gấu, tại sao nuôi thằng Trụ, nó có
mẹ, để mẹ nó lo.
Đi thi Tú Tài II ban toán, khoá II, sau
khi rớt khóa I, được bà cụ thân sinh nhà thơ
& bạn C cho đi nghỉ hè bãi biển Nha Trang, nhờ thế sáng
tác được cái truyện ngắn đầu tay “Những Con Dã Tràng”.
Thi xong mỗi bài, là trình bản nháp cho
nhà thơ. Đọc bài Triết, ông không nói
gì, chỉ đến khi làm xong cả hai bài toán, vật
lý, đều OK “chăm phần chăm”, ông mới cười, nói, thế
thì đậu, chứ bài triết chỉ đáng trứng hột vịt, hoặc
1 gậy.
Đúng rồi, nhớ ra rồi, Gấu không nhờ Thầy Tỵ lo cho
đi du học, là vì phải lo kiếm việc gì làm,
để lo cho mẹ, lúc đó giữ trẻ cho người quen, và em
trai, hầu hạ ông cử Ngô Thúc Địch, bà con ông
anh rể Hiếu Chân.
Nhớ cả cái chuyện xin ý kiến ông anh, làm
sao học tiếp, ông nói, kiếm cái gì làm...
Thế là thi vô Bưu Điện...
GCC làm cho UPI, là nhờ Nguyễn Thành Tài,
nhiếp ảnh viên UPI, giới thiệu, nhân thấy AP có ông
Hưng. Khi đó, chưa có Dirck Halstead, trưởng phòng
hình ảnh. Sếp trực tiếp của Gấu là 1 phóng viên
UPI nói tiếng Tây rất cừ. Nhớ là, lương của Gấu cũng
chưa có ai quyết định, nhiêu, và cuối tháng,
anh phóng viên nói trên móc bóp
đưa Gấu 5 ngàn tiền ông Diệm, so với 5200, lương Bưu Đ iện của Gấu, thì cũng xêm
xêm!
Nhớ luôn, đúng ra phải viết nhớ hoài, chuyện
này: Gấu đi vô mấy tiệm sách ở Lê Lợi, tiệm
Xuân Thu, xài hết số tiền năm ngàn đồng!
Cái tên Xìn Phóng TPG, khi thấy Gấu cầm
cuốn Lịch Sử và Ý Thức Giai Cấp của Lukacs,
bĩu môi, cậu mua để nhát ma ư, là đếch hiểu được Gấu,
cũng thế là mấy đấng bạn quí. Gấu chưa bao giờ mua sách
để trộ ai, nhưng mua rất nhiều cuốn, để chờ đọc, khi đủ sức đọc chúng.
KhongLo
Vietnamese
medieval, Ly dynasty
died 1119
THE IDEAL RETREAT
I will choose a place where the snakes feel safe.
All day I will love that remote country.
At limes I will climb the peak of its lonely mountain
to stay and whistle until the sky grows cold.
1967, translated with Nguyen Ngoc Bich
Trong bài tưởng niệm
NTN trên Hậu Vệ, Nguyễn Đạt viết:
Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường
thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có tí hương vị Rimbaud,
một Rimbaud không vô thần”, thì tôi cho rằng,
trong bản chất thi sĩ của hai người, Nhan và Rimbaud, ít
nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ, Nhan không
đọc một dòng thơ nào của Rimbaud, không một dòng
thơ dòng văn nào của bất cứ nhà thơ nhà
văn nhà triết học nào của phương Tây. Và tôi
lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có nhiều hương vị Phạm Công
Thiện. Và tôi hiểu, cả hai, Nhan và Phạm Công
Thiện: ngôn ngữ của thi sĩ, sản sinh từ cùng một ly nước,
một ly nước có chất cà phê hay men rượu mà cả
hai đã uống.
Source
Theo Gấu, thơ NTN chẳng có tí Rimbaud, mà
cũng chẳng có tí PCT, nhưng rõ ràng là
có chất Thiền, một thứ Thiền của Việt Nam.
Trước 1975, tình cờ GNV có đọc một bài
thơ của anh, viết về một nhà sư Việt Nam, sư Không Lộ,
hình như vậy, trênThời Tập, và
như còn nhớ được, chất Thiền mạnh lắm.
Theo như trí
nhớ tồi tệ của GCC, bài thơ của Nguyễn Tôn Nhan, về Không
Lộ, có cái ý “thét lên 1 tiếng lạnh
hư không”, chắc là bài thơ trên, được W.S. Merwin
và Nguyễn Ngọc Bích chuyển qua tiếng Mẽo
Nơi thần sầu để rút dù
Tớ sẽ chọn một nơi mà
rắn [độc hay không độc] cảm thấy an toàn
Cả ngày tớ sẽ mê cái “lost domain” xa xôi
đó
Tớ sẽ leo lên cái đỉnh núi trơ cu lơ của
nó
Đếch thèm tìm bản chúc thư [của MT], hay
xác con gấu, hay con cáo gì gì đó
[của Hemingway]
Mà để hét lên 1 tiếng lạnh hư không!
Ngo ChiLan
Vietnamese
15th century
AUTUMN
Sky full of autumn
earth like crystal
news arrives from a long way off following one wild goose.
The fragrance gone from the ten-foot lotus
by the Heavenly Well.
Beech leaves
fall through the night onto the cold river,
fireflies drift by the bamboo fence.
Summer clothes are too thin.
Suddenly the distant flute stops
and I stand a long time waiting.
Where is Paradise
so that I can mount the phoenix and fly there?
1968, translated with Nguyen Ngoc Bich
WINTER
Lighted brazier
small silver pot
cup of Lofu wine to break the cold of the morning.
The snow
makes it feel colder inside the flimsy screens.
Wind lays morsels of frost on the icy pond.
Inside the curtains
inside her thoughts
a beautiful woman.
The cracks of doors and windows
all pasted over.
One shadowy wish to restore the spring world:
a plum blossom already open on the hill.
1968, translated with Nguyen Ngoc Bich
My Tân Định
Tân Định là quê
hương của Gấu. Mấy bài viết này, chưa nói được cái
phần Gấu biết về nó.
Post, như 1 thứ chim mồi, chờ hứng.
Marina
Tsvetaeva
Thơ Mỗi
Ngày
LAMENT
O how far away and long gone
everything is.
I believe the star
whose brightness I take in
has been dead a thousand years.
I believe that in the boat
gliding by I heard
something fearful being said.
In the house a clock
just struck....
What house?....
I'd like to step out of my heart
and be under the great sky.
I'd like to pray.
And surely one of all those stars
must still exist.
I believe I'd know
which one alone
has lasted, -
which one like a white city
stands at its light's end in the sky ...
Rilke: The Book of Hours (1905)
from The Poetry of Rilke
Translated by Edward Snow
Introduction by Adam Zagajewski
For me, the happy owner of the
elegant slim book bought long ago, the Elegies represented just
the beginning of a long road leading to a better acquaintance with
Rilke's entire oeuvre. The fiery invocation that starts “The First
Elegy” - once again: "Who, if I cried out, would hear me among the
Angels' / Orders? And even if one of them pressed me / suddenly to
his heart: 1'd be consumed / in his more potent being. For beauty is
nothing / but the beginning of terror, which we can still barely endure"
-had become for me a living proof that poetry hadn't lost its bewitching
powers. At this early stage I didn't know Czeslaw Milosz's poetry;
it was successfully banned by the Communist state from the schools,
libraries, and bookstores-and from me. One of the first contemporary
poets I read and tried to understand was Tadeusz Rozewicz, who then
lived in the same city in which I grew up (Gliwice) and, at least
hypothetically, might have witnessed the rapturous moment that followed
my purchase of the Duino Elegies translated by Jastrun, might have
seen a strangely immobile boy standing in the middle of a side- walk,
in the very center of the city, in its main street, at the hour of the
local promenade when the sun was going down and the gray industrial
city became crimson for fifteen minutes or so. Rozewicz's poems were born
out of the ashes of the other war, World War II, and were themselves
like a city of ashes. Rozewicz avoided metaphors in his poetry, considering
any surplus of imagination an insult to the memory of the last war victims,
a threat to the moral veracity of his poems; they were supposed to be
quasi-reports from the great catastrophe. His early poems, written before
Adorno uttered his famous dictum that after Auschwitz poetry's competence
was limited-literally, he said, "It is barbaric to write poetry after
Auschwitz"-were already imbued with the spirit of limitation and caution.
Adam Zagajewski: Introduction
Với tôi người sở hữu hạnh phúc, cuốn
sách thanh nhã, mỏng manh, mua từ lâu, “Bi
Khúc” tượng trưng cho một khởi đầu của con đường dài
đưa tới một quen biết tốt đẹp hơn, với toàn bộ tác phẩm
của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở đây: “Ai,
nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên,
sống động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào
lúc đó, tôi chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị
“VC Ba Lan”, thành công trong việc tuyệt cấm, ở trường
học, nhà sách, thư viện, - và tất nhiên,
tuyệt cấm với tôi. Một trong những nhà thơ cùng
thời đầu tiên mà tôi đọc và cố hiểu, là
Tadeusz Rozewicz,
cùng sống trong thành
phố mà tôi sinh trưởng, (Gliwice), và, có thể chứng kiến, thì cứ giả
dụ như vậy, cái giây phút thần tiên liền
theo sau, khi tôi mua được Duino Elegies, bản
dịch của Jastrun - chứng kiến hình ảnh một đứa bé đứng
chết sững trên hè đường, nơi con phố trung tâm thành
phố, vào giờ cư dân của nó thường đi dạo chơi, khi
mặt trời xuống thấp, và cái thành phố kỹ nghệ xám
trở thành 1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút,
cỡ đó – ui chao cũng chẳng khác gì giây
phút thần tiên Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi nó
được nhà xb đem ra bán xon trên lề đường Phạm
Ngũ Lão, Sài Gòn – Thơ của Rozewicz như sinh ra
từ tro than của một cuộc chiến khác, Đệ Nhị Chiến, và
chính chúng, những bài thơ, thì như là
một thành phố của tro than. Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ của
mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là 1 sỉ
nhục hồi ức những nạn nhân của cuộc chiến sau chót, một
đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức của thơ ông:
Chúng được coi như là những bản báo cáo,
kéo, dứt, giựt ra từ cơn kinh hoàng, tai họa lớn. Những
bài thơ đầu của ông, viết trước khi Adorno phang ra đòn
chí tử, “thật là ghê tởm, man rợ khi còn
làm thơ sau Lò Thiêu”, thì đã hàm
ngụ trong chúng, câu của Adorno rồi.
Note: Có 1 sự trùng
hợp ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không
chỉ về cái cảnh Gấu chết sững trong nắng Sài Gòn,
khi đọc cọp – khám phá ra - Bếp Lửa, khi cuốn sách được nhà
xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon trên hè
đường Phạm Ngũ Lão, nhưng còn ở điều này: Cuốn sách
Bếp Lửa đã sống
lại, từ tro than, bụi đường Xề Gòn.
Gấu đã viết như thế, về Bếp Lửa, từ năm 1972
Giả như nó không được đem bán
xon, liệu có tái sinh?
Quá tí nữa, giả như không có
cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn còn, và
được cả nước nâng niu, trân trọng như bây giờ?
Ngày
22 tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà
thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về thơ
của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di
cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên
ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn
cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của
ông.”
Và, nhận xét của D.M. Thomas, trong cuốn tiểu sử
nhà văn Solzhenitsyn, ["Alexander Solzhenitsyn: A Century in his
Life" By D. M. Thomas, St. Martin's Press], về sự ra đi của nhà thơ
Pasternak, có thể áp dụng vào trường hợp nhà
thơ Thanh Tâm Tuyền, nếu chúng ta nhớ lại, tình cảm
sửng sốt, bàng hoàng của đồng bào hải ngoại, khi được
tin ông mất:
“Nỗi đau của dân Nga khi nhà thơ Pasternak qua đời
vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Xô
Viết.”
The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral
in 1960 marked a turning point in Soviet history.
*
Nhân dịp tưởng nhớ nhà thơ năm nay, chúng
ta tìm hỏi ý nghĩa của sự chọn lựa, “Tôi là
kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà
văn nữa, như đã từng mong muốn”, của ông, sau khi ra khỏi
trại tù.
Liệu đây có nghĩa là, từ chối viết? (1)
Như rất nhiều tác giả khác, cũng như ông,
thí dụ như một Melville, nhà văn nổi tiếng Mỹ, qua nhân
vật nổi tiếng của ông, Bartleby, với câu nói nổi tiếng:
I would prefer not to: Tôi chọn đừng.
Báo
Văn học Pháp, Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Văn
chương và những trại tù [La littérature et les camps],
trong bài viết mở đầu, Thư gửi độc giả, Lettre aux lecteur, dưới
nhan đề Hội chứng Bartleby, Jean-Louis Hue viết:
Nghĩ đến chuyện từ bỏ viết, Melville tưởng tượng ra nhân
vật Bartleby, thách đố câm lặng và hư vô, đã
chọn lựa một giải pháp là tự nhốt mình trong văn phòng,
vắng mặt trước những kẻ khác, và trước chính mình.
“Tôi chọn lựa đừng” [I would prefer not to, khi được dịch sang
tiếng Pháp, là, “Je préférais ne pas le faire”,
và mới nhất, “Je préférais pas”].
Trong số những nhà văn “Tôi chọn lựa đừng” này,
có, kể sơ sơ, Rimbaud, Robert Walser, J.D. Salinger… và
nhà thơ Celan, sống sót Lò Thiêu, sau tự sát.
Liệu thái độ “Tôi chọn lựa đừng” này, là
cũng của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, sau trại tù cải
tạo?
(1)
Après ma libération, sur le chemin du retour, la
première chose que j'ai faite, a été de me replier
et écrire mes poèmes mémorisés tout au long
de ma détention.
Je suis un survivant, mais je ne veux plus être écrivain,
comme je l'ai pourtant souhaité depuis toujours.
J'ai écrit dans ma mémoire au camp: «II faut
que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe,
comme si rien n'était modifié.»
Et maintenant je me dis: «Quand serai-je capable d'une telle
chose?» Pour re-écrire.
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù
Propos recueillis et traduits par Le Huu Khoa
Khi ra khỏi trại tù,
trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là
cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong
trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng
muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở
trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như
chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì
tôi có thể làm được như vậy? Để lại viết?”
Thanh Tâm Tuyền (1)
TOMAS TRANSTROMER (b. 1931)
After Someone's Death
Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's
tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.
You can still shuffle along on
skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still hang.
They are like pages torn from old telephone directories-
the names are eaten up by the cold.
It is still beautiful to feel
your heart throbbing.
But often the shadow feels more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết của Ai Đó
Một lần, có 1 cú
sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái
đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm
những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh
phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt băng
trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá
năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé
ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái
lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp như mơ, cảm
thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì
lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương,
có thịt.
Tên samurai thì là cái
chó gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.
Note: Bài thơ thần sầu.
Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác
thân nào còn, linh hồn thì cũng có
khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu
nơi miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng
ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ:
VC bi giờ coi bộ trân
trọng cái bóng của ông cùng cái áo
giáp, mấy cái vảy rồng đen thui, còn hơn cả đám
bạn quí hải ngoại của ông! (1)
(1) Một bản dịch khác,
của Robert Hass, trong Selected
Poems:
AFTER A DEATH
Once there was a shock
that left behind a long, shimmering comet tail.
It keeps us inside. It makes the TV pictures snowy.
It settles in cold drops on the telephone wires.
One can still go slowly on skis
in the winter sun
through brush where a few leaves hang on.
They resemble pages torn from old telephone directories.
Names swallowed by the cold.
It is still beautiful to feel
the heart beat
but often the shadow seems more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.
Notes about Brodsky
Nghĩ về ông hoài
hoài kể từ khi ông mất, tôi cố gọi ra bài
học, to name the lesson, mà ông để lại cho chúng
ta. Làm sao mà một người không hoàn tất
học vấn trung học, chẳng hề bao giờ học đại học, trở thành
1 quyền uy được công nhận bởi những danh nhân của tri thức
nhân loại: How did a man who did not complete his high school
education, who never studied at a university, become an authority recognized
by the luminaries of humanistic knowledge? Ông thông minh,
và không phải ai cũng được ban cho món quà
này. Nhưng còn có 1 điều gì đó và
điều này mới là điều quyết định. Môi trường, the milieu,
Leningrad, của thế hệ của ông, những nhà thơ trẻ, và
những nhà dịch thuật không-Xô viết, nghiến ngấu
sách vở. Cái thôi thúc đến ám ảnh
đọc mọi thứ mà họ có thể kiếm thấy ở thư viện, hay tiệm
bán sách cũ, thì thật là đáng sợ,
gây choáng, stunning; họ cũng học tiếng Ba Lan, như Brodsky
đã từng, để đọc văn chương Tây Phương, vốn chỉ có,
available, trong ngôn ngữ đó. Bài học mà
lịch sử cuộc đời của ông cung cấp, thì là 1 bài
học lạc quan, bởi là vì nó chỉ ra sự chiến thắng
của ý thức trên hiện hữu, it points to the triumph of consciousness
over being.
“Tôi cho phép tôi
mọi chuyện, trừ phàn nàn”. Câu nói
của Brodsky phải được nhập tâm bởi mọi người trẻ tuổi mà
thất vọng, mà chán chường, mà chỉ muốn tự tử.
Ông chấp nhận tù đầy một cách triết lý,
không nóng giận, anger; ông coi cái chuyện
đào đất, đào kinh, tại 1 nông trường cải tạo Xô
Viết như là 1 kinh nghiệm hướng thượng, positive; bị tống xuất
khỏi nước Nga, ông quyết định hành xử như chẳng có
gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi. Ông coi,
equate, giải Nobel văn chương như là 1 trò đùa trớ
trêu của số mệnh, the capricious turns of fate, như ông đã
từng trải qua trước đó. Những vị hiền giả cổ xưa đòi hỏi
một cách ứng xử như thế, nhưng đâu có nhiều người
làm được điều này, not many people who can behave like
that in practice.
Milosz
TTT cũng đâu có
bằng cấp đại học, hà hà? Ông đi thi Tú
tài chưa đủ tuổi, phải làm đơn xin được chiếu cố.
Đậu xong hai cái Tú Tài, ông bỏ học,
đi dạy học để nuôi mẹ, nuôi em, buồn buồn ghi tên
học Luật, lấy đâu được 1 chứng chỉ.
Khi Gấu đậu xong cái bằng
Tú Tài, bà cụ thì đi giữ
trẻ cho 1 nhà người quen, thằng em thì
hầu hạ 1 ông cử nhhân hán học, cụ Ngô
Thúc Địch, chỗ bà con của ông anh rể Nguyễn
Hoạt. Gấu bèn hỏi ông anh, nhà thơ, làm sao bi giờ, làm
sao học Đại Học, ông nói, thì đi làm,
vừa làm vừa học. May làm sao Bưu Điện mở lớp, Gấu bèn
thi vô, và quả là Trời cứu, bởi vì nếu
không học Bưu Điện, ra trường làm anh thợ sửa máy,
thì vô phương làm thêm cho UPI.
Nhờ tiền Mẽo, thế là
tha hồ mua sách Tây, đọc lia lịa, đọc chạy đua với
chiến tranh với Thần Chết...
Trang Vila-Matas
Vila-Matas trả
lời The Paris Review
Thú chôm chĩa
Note: Bài này mà
chẳng thần sầu sao?
Đọc, bỗng nhớ ông
anh nhà thơ, Quán Chùa, và những
ngày Mậu Thân, cả hai đánh chắn suốt đêm,
khi ông phải trực chiến tại Cục Tâm Lý Chiến.
Gấu đã tả cái cảnh hai anh em len
lỏi, xuyên qua những bức tuờng khu Trại Gia Binh, để đến
điểm hẹn, là 1 chiếu bạc.
Gần sáng, Gấu về nhà, đánh
răng, rửa mặt, chạy xuống UPI, số 19 Ngô Đức Kế, [con đường
từ Tự Do đâm ra công trường Mê Linh, có
tượng Đức Thành Trần], xem có radiopho cần chuyển cữ
sáng, thường là không, vì chuyển hết
cữ tối hôm trước, trừ khi có hình khẩn cấp mới
nhận trong đêm.
Thế là hai anh em lại gặp lại, vừa uống
cà phê, vừa bàn về đủ thứ chuyện, và
thường là về sách, về 1 cuốn vừa đọc...
Thời gian đó, vì là Mậu
Thân, nên gần như chỉ có hai anh em.
Đọc thư gửi đảo xa lại bồi hồi thương ông
anh, ông gần như chẳng có ai để tâm sự, có
lẽ ý nghĩa của cái nick Lỗ Bình Sơn, là
từ đó chăng?
Thời gian đó, thời gian
Mậu Thân, GCC có cô bạn, tối nào cũng
mò tới, hà, hà, nhờ đó viết được cái
truyện ngắn Cõi Khác
[Cõi Khác
thì cũng 1 thứ… Đảo Xa chứ gì nữa!]:
Những
ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng
cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào
da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái
chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng
hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm
nhìn bóng mình run rẩy cùng với những
thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc
cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu
thương cô bạn một cách bình thường, giản dị
như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như
vậy...
Đau khổ nhất là
những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày
tháng ngây ngô bên mớ máy móc,
nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành
phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường
dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến
tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc...
Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao,
trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài
điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn
sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng
ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài,
không còn nơi để ghé, không còn chỗ
để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng
viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên
Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước
này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em,
tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.
Tôi thích những trích dẫn,
những dòng lạ mà chúng ta đưa vô
bản văn của mình. Tôi không hiểu những người
ghét chúng, và khẳng định một cách
ngu ngu ngốc, "để viết, thì đừng nợ bất cứ ai".
Trong bài viết, Vila-Matas
nhắc tới Susan Sontag, người đã từng chấp nhận thách
đố của Walter Benjamin, viết 1 cuốn sách chỉ gồm toàn
trích dẫn, và những gì của riêng mình,
thì giống như giàn giáo, sẽ được dẹp bỏ, khi
ngôi nhà xây dựng xong.
Ui chao, vào đúng
đêm 30 Tết Ta vừa rồi, GCC bèn ngộ ra, GCC, chính
hắn, đã thực hiện được cả hai giấc đại mộng của W. Benjamin:
Viết lịch sử từ đáy, và, viết 1
tác phẩm chỉ gồm toàn trích dẫn.
Trong hai cuốn tiểu thuyết của
TTT, Cát Lầy,
và Một Chủ
Nhật Khác, nhân vật chính đều ngỏm, một
người một kiểu. Người tự tử, người bị hiểu lầm là… VC.
Trong
Bếp Lửa, thì
bỏ đi sau khi phán, buộc vào với quê hương thì
phải là 1 người bà con ruột thịt với mình. Người
đọc, liệu có rút ra được 1 kết luận nào, qua những
dòng trên?
gửi đảo xa
hỏi. người đã chết
những. lá thư. tình không.
theo
người viết. về nơi cuối. cùng
những yêu. thương cần. có
cho. những bài thơ. ngày. giông
bão
những bài thơ. câm. trơ trọi
người tình. loay hoay. hơn
phân nửa. cuộc sống. cất giữ
tình yêu. trên. trang giấy
cuộc sống cất. giữ và. cái chết
những bài thơ. cũ
hơn. 40 năm. sao
không. cho riêng mình. hay
yêu thương
tan tác. có thấy. không crusoe
đã. trở lại. cuộc sống
không. có. điểm riêng. biệt
hãy. hỏi người. đã chết
có còn. nhớ. ngôi nhà
màu. hồng
đã sơn. phết. lại không. còn
là. màu hồng. đà lạt quá.
nhỏ
và. không tuyết. trắng
cello. giọng cao. vút vào mùa.
đông
khi. nở cùng ly rượu. đêm
hỏi người. đã chết
những. lá thư nối. niềm. hy vọng
sao không. giữ. bởi. tình yêu
không. già
ngày. còn rất trẻ. trên những.
lá thư
hay đó là. đoạn kết. phải có
trong. cuốn tiểu thuyết. phải được. viết
cũng chỉ là. những lập lại
người tình. trên những. trang giấy
đảo. xa vẫn hoang. sơ
bài thơ. vẫn cô độc
sẽ đi. vào. cõi chết
nơi vĩnh hằng. với những điều. không tưởng
Đài Sử
TTT dịch
Bà nữ phê
bình gia Thụy Khê mũi lõ, "kinh điển" - từ
này thuổng của bạn Cà - Helen Vendler, có
đi 1 đường còm, bài thơ trên.
TV sẽ post liền.
1960. Bước sang năm thứ hai đời sinh
viên ở Québec, Xứ Tuyết. Tôi thu mình
quạnh quẽ trong căn gác trọ nhỏ nhít đường Garnier,
gần đại học Laval.
Cô đơn nhuộm người tôi vàng xỉn xanh xao. Như
trái chanh non héo úa ai bỏ quên trong
tủ đá. Rồi bỗng một tối nọ Thanh Tâm Tuyền tới gõ
cửa gác trọ, tóc tai bù xù, dưới nách
kẹp tập thơ mỏng Tôi không còn cô độc.
Mở cửa nắm tay giắt vào, kéo ngồi xuống trên
chiếc giường sắt sinh viên hẹp nhỏ ọp ẹp. Người mới bước vô
là Khương, một du học sinh Việt Nam vừa bay sang Québec, nhập đại
học Laval,
cũng như tôi. Khương khoái thơ. Tôi cũng khoái
thơ. Tôi khoái Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang.
Khương khoái Thanh Tâm Tuyền, Tôi không còn
cô độc. Trao đổi văn nghệ, bắt nhịp cầu tri âm. Và
tối đó, tôi khám phá nhà thơ
đứng đầu nhóm Sáng Tạo. Những câu thơ chém
xuống hừng hực.
Thiệt ra không phải đợi đến tối đó
tôi mới được đọc thơ Thanh Tâm Tuyền lần đầu. Tôi
đã đọc thơ Thanh Tâm Tuyền hồi còn là
học trò đệ nhị đệ nhất trung học, chuẩn bị thi Tú một
Tú hai. Ðọc lõm bõm trên tạp chí
Sáng Tạo nhưng không thấm. Thuở đó tôi chưa
từng biết cô đơn là gì. "Khi ấy em còn thơ
ngây, đôi mắt chưa vương lệ sầu…" Tôi còn
rất hồn nhiên. "Tôi chưa hề cô độc". Có thể
nói như vậy. Hồn nhiên? Chưa chắc. "Anh chỉ giỏi tài
ba xạo", một bận Tuyết đã chỉnh tôi bằng lời lẽ đó.
Trong thời kỳ này, tôi đã có Hoa, người yêu
đầu tiên Xóm Bến Ðò Mỹ Tho. Tôi có
Ánh, người yêu nữ sinh Cầu Cái Cá Vĩnh Long.
Tôi có Tuyết, người tình quán nước bên
bờ sông Cổ Chiên ngầu đục phù sa. Tôi đã
biết rờ rẫm, biết hun hít mấy người em nhỏ hậu phương, tôi
đã biết sục sạo đóa hoa thầm kín trong rạp hát
bóng, đã biết vật lộn với em nhỏ bên bờ cỏ đêm
trăng, đã biết xâm nhập và cư ngụ trong thân
thể mượt ẩm, ấm hỉnh Liêu Trai của nàng. Cô độc sao nổi
mà cô độc! Tôi còn đang lẩn quẩn trước hàng
ba nhà nàng, còn đang đứng xớ rớ bên cạnh cái
hàng rào dâm bụt, nhà nàng ở cạnh nhà
tui, cách nhau cái giậu mồng tơi xanh dờn, lẩm cẩm y hịch
như sư phụ Nguyễn Bính. Còn xa lắm mới bước được vào
lãnh thổ của Thanh Tâm Tuyền, bước được vào vương quốc
của Hoàng Ðế Cô Ðộc, nơi đức vua có đủ quyền
y để cai trị mọi người bằng… thơ tự do. Còn được gọi diễu là
thơ hũ nút bởi phe đối lập. Một bận, trên tờ Văn Nghệ Tiền
Phong xuất hiện một bài thơ hũ nút nhái giọng Hoàng
Ðế. Thơ rằng:
bánh xe đạp
quay tròn
xịt khói
trái tim giơ mười ngón tay
thét chết
cô độc!
Xịt cười. Không hiểu ất giáp
gì hết. Tuy nhiên, thấy ngộ ngộ cho nên còn
nhớ tới bây giờ. Cũng như đã nhớ hai câu thơ
vỡ lòng, em ơi em ở lại nhà, vườn dâu em đốn
thịt gà xé phay của sư phụ mình. Và
những câu thơ bá láp khác nữa, chẳng hạn:
Ủa ủa giống gì trẹo? Ờ ờ chó mắc lẹo. Ðực vện ngổng
đuôi trì, cái vàng cong lưng kéo…
Mà càng bá láp lại càng nhớ dai.
Trí nhớ con người nó khỉ như vậy đó.
Tuy nhiên, ngay những năm hai
mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã ngoái đầu nhìn
lại lịch sử nhân loại mà không khỏi hãi
hùng:
toa chở súc vật
bít bưng tức thở
bánh nghiến đường rầy
chúng nó
làm phát xít
chúng nó làm cộng sản
chúng con làm tù nhân
Và ngay từ những năm 50, hình
như nhà thơ đã linh tính tai họa thảm thiết
sắp sửa giáng xuống đất nước kể từ tháng Tư 1975:
mẹ bưng tấm hình
úa cũ trước ngực
dò xét từng nét đau khuôn
mặt
các anh nhìn cúi đầu
khóc lén
hai hàng rào quá khứ đăm
đăm
chúng nó làm phát
xít
chúng nó làm cộng sản
chúng ta làm tù nhân
Có phải, qua những câu
thơ chặt khúc trên, Thanh Tâm Tuyền đã tiên
đoán căn phần đày đọa của mình và
bạn bè hai mươi năm sau, trong những trại tập trung cải tạo
mọc lên như loài nấm độc trên khắp cùng
đất nước tả tơi sau 75?
mưa bay lất phất gió căm căm
đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
co ro đứng xem tù qua thôn
Và khi làm thân
tù đi chém tre đẵn gỗ trên ngàn, một
bận bị tuột dốc nhào trên hẻm núi, nhà
thơ lại thấy lòng mình thanh thản hơn bao giờ hết:
duỗi soải chân tay gối trên
nứa
ngó trời nhá nhem nghe mưa mau
tưởng chừng thi thể ai thối rữa
hồn viển vông chẳng chút oán
sầu
Giọng thơ không còn
uất hận như thuở ban đầu nữa. Tập Thơ ở đâu xa, tác
phẩm cuối cùng của Thanh Tâm Tuyền đã xuất hiện
im lìm, âm thầm xuất hiện tại Hoa Kỳ năm 1990. Ðể
rồi mười sáu năm sau, nhà thơ cũng âm thầm ra đi
tại Minnesota, để lại một vết chim bay trên nền trời băng giá
giáp ranh Xứ Tuyết, nơi lần đầu tiên tôi khám
phá Tôi không còn cô độc, tập thơ
đầu tay của cùng một tác giả.
Đinh Cường Tribute
Cali 2012 With H/A
Tribute to
Robert Walser
Viết mỗi ngày
Granta 134
No man's land is the ground between opposing forces. This
issue tells us what happens there.
PETER POMERANTSEV reports from Ukraine's Donbas region, examining
the surreal nature of propaganda in the war zone; PEREGRINE HODSON'S
lyrical text describes the post-traumatic stress that followed his
experience of war in Afghanistan; PHILIP Ó CEALLAIGH tells the
devastating story of the Communist destruction of old Bucharest; and
RACHEL CUSK meditates on silence as a familial weapon of war.
Plus: A.M. HOMES remembers her late friend, the writer DAVID
RAKOFF.
…. Those of us who have left our country of origin, or who
have immigrant parents, understand how quickly the lives of immigrants
can crystallize around the revival of ancient cultural traditions. We
tangle and project, in exile; we make it up as we go along. And those
cultural traditions become dangerous when they attach themselves to revolutionary
ideology, with its heritage of violence; the solidarity of blood brothers,
and the dehumanization of others. The memes mutate, and reproduce.
But we know this story, too: the aftermath of revolution.
The disillusion. Love and affirmation revealed as bullying and brainwashing.
Stories of sexual exploitation and drugs. The internal violence, the
underhanded ambitions, the informants, the submission, the sly vanity.
A Maoist old man, a cult leader, has just been accused of
rape and slavery in a British courtroom. The revolution eats its children,
in so many different ways.
Our cover image, by photographer Lorenzo Meloni, is of Kobane,
the Syrian town near the Turkish border that was occupied by the Islamic
State in the autumn of 2014. Kurdish forces took back the city in January
2015; Kobane was almost destroyed in successive battles. We chose this
image because there was hope, somehow, in that motorbike, and that sun,
rising or setting. Hope against hope, perhaps, but still. Life carries on
.•
Sigrid Rausing: Introduction.
Số báo này, có mấy bài
thật là tuyệt. Thuật ngữ “no man's land”, được sử dụng trong văn
chương, để chỉ 1 cõi văn chưa có ai khám phá,
nhưng ở đây, chỉ vùng đất ở giữa những lực lượng đối nghịch,
chống đối nhau. Bài intro thật tuyệt: Cách mạng ăn thịt những
đứa trẻ của nó, trong rất nhiều đường hướng khác nhau.
Yann Martel: ‘My children aren’t impressed that I won the Booker or that
I wrote Life of Pi’
http://www.theguardian.com/books/2016/mar/04/books-interview-yann-martel-the-high-mountains-of-portugal
Martel, người Canada, tác giả Life
of Pi. "Mấy đứa con của tôi đếch để ý gì tới cái
chuyện tôi được Booker hay là tác giả của Life of Pi".
Một bữa ông ngủ dậy khám phá ra mình tương
tư niềm tin, fell in love with faith, và cùng với nó,
là sự ngỡ ngàng về loài vật:
His discovery of faith was bound up with another awakening
– to the wonder of animals. In India, they were everywhere, “not just
the obvious sacred cows … or the loudly cawing crows, or the tribes of
monkey”. In the temples he visited, he “became aware of the many animals
of Hinduism: Hanuman the monkey, Ganesha the elephant-headed, Nandi the
bull, Garuda the eagle, and so on”. Confronted with gods and animals for
the first time, he “took both of them seriously … I bought a copy of the
Bhagavad Gita and of the gospels. I camped
near cows and observed them at length. I started attending masses, pujas
and Friday prayers.” India was not only “where gods and animals abound and
rub shoulders”, but a place “where all stories were possible”.
The story it made possible for Martel was Life of
Pi, his 2002 Man Booker prize-winning novel, adored around the world,
which has now, he tells me, sold nearly 13m copies. It is a set text in
schools, has been translated into more than 40 languages and been adapted
into a film for which director Ang Lee won an Oscar.
The central metaphor of Life of Pi came to him
one day like a revelation: “the animal will be divine … and the lifeboat
crossing the Pacific will be … an odyssey of the soul across existence”.
The animal is, of course, a Bengal tiger called Richard Parker, the fearsome
companion of Pi, an Indian boy in a boat adrift on the ocean for 227 days;
the enthrallingly detailed story of survival that Pi later recounts to the
narrator is, in Martel’s words, all about “discovering life through a religious
perspective”. He has summarised the novel’s subtext in three lines: “Life
is a story; you can choose your own story; a story with God is the better
story.” As Pi asks the investigators who are reluctant to believe his implausible
account: “If you stumble at mere believability, what are you living for?”
HNB Case
“The tears of the world are a constant quantity. For each
one who begins to weep somewhere else another stops. The same is true
of the laugh.”
― Samuel Beckett, Waiting for Godot
Trong những điều được nói về Sikiew, tất cả chỉ là
bịa đặt, hoặc tô điểm. Duy có điều này: Nó
thực sự là một địa ngục.
-Nước mắt cũng có hạn. Nơi này đổ ra nhiều
thì nơi khác dè xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng lạm dụng cảm xúc?
-Người ta chỉ đọc khi xúc động. Nhưng chớ bao giờ
lạm dụng cảm xúc của độc giả cũng như của chính mình.
NQT: Bụi
Cái truyện ngắn Bụi, của GCC, được viết ở Trại
Cấm Sikiew, Thái Lan. Đúng thời gian đó, Gấu
vớ được "Trong khi chờ Godot", bản tiếng Anh.
Câu, “Nước mắt cũng có hạn… “, hóa ra
chôm của Beckett, lúc nào không biết, nó
ăn mẹ vô tiềm thức, rồi phọt ra.
Cũng thế với Beckett, hà, hà!
Một cách nào đó, ông viết, ở 1
Trại Cấm nào đó, những câu văn thần sầu của ông.
Thua, thua nữa, thua cho bảnh, là từ Worstward
Ho:
“All of old. Nothing else ever. Ever tried. Ever failed.
No matter. Try again. Fail again. Fail better.”
― Samuel Beckett, Worstward Ho
Trong cuốn tiểu sử của ông, Trầm Luân
vào Danh Vọng, “Damned to Fame”, chương dành cho Thua
Cho Bảnh, "Fail Better", chứng minh điều GCC phán, Beckett viết
văn từ 1 trại tị nạn. Đúng hơn, từ cái bóng của
Lò Thiêu, đúng hơn nữa, ông viết cho nạn nhân
Lò Thiêu.
Một số từ ngữ mà ông sử dụng trong "Tiến Lên
Tàn Mạt, Già Hồ", là để mô tả tình
trạng thiếu ăn của nạn nhân Lò Thiêu
Nếu Nazi có giải pháp chót, thì
Beckett có “grand finale”, chữ của Beckett. Kịch “Catastrophe”,
thảm họa, viết bằng tiếng Pháp – bà vợ của ông, Suzanne,
dùng từ này, khi biết tin ông được Nobel văn chương
- được Beckett đề tặng Vaclav Havel. Sau khi ra tù, Havel chơi
1 cái kịch đáp lễ, Lỗi Lầm, “The Mistake”. Hai kịch bổ
túc cho nhau. Havel nói với một đấng Mẽo, một cách
khiêm tốn, tôi không có ý đứng ngang hàng
với ông ta, như là hai nhà soạn kịch - đừng bắt hai
ông đứng kế nhau nhe, Thầy Phúc - "I am not suggesting that
I am equal as a playwright to Samuel Beckett".
Beckett phải mất 7 tháng chỉ để viết bản nháp
đầu tiên, the first draft, của Worstward Ho, [Hồ, Hồ,
Tiến Lên Tàn Mạt. “Hồ, Hồ”, là từ tiếng reo hò,
thời cả thế giới ủng hộ Bắc Kít]. Vào thời gian, trong mùa
đông 1981-82, ông suy sụp, bịnh, Ông viết cho bạn,
"Chiến đấu với văn xuôi bất khả. Tiếng Anh. Với tởm lợm”:
BACK IN PARIS for the summer, after meeting his German publisher,
Dr. Siegfried Unseld, for coffee in the PLM hotel on Sunday morning,
August 9, 1981,84 Beckett returned to his desk to write three brief paragraphs
of a new piece of prose in English. After starting with his 1960s concern
with imagining "a body" and "a place" where there was neither, he wrote:
"All before. Nothing else ever. lwer tried. Ever failed. No matter. Try
again. Fail again. Fail better." The will to "fail better" provided this
text with its initial impetus. And, in order to fail better, the strategy
Beckett adopted was to strive for the worst.
He took his cue from Edgar's speech in
King Lear. He copied out quotations from three
different points in the speech into his little commonplace book:"The
lamentable change is from the best, / The worst returns to laughter";
"Who is't can say, I am at the worst"; and "The worst is not so
long as one can say, This is the worst." For some time, when he alluded
to his new text in letters, he entitled it "Better worse." Later on, he
called the book Worstward Ho, playing on the title of Webster and
Dekker's play Westward Hoe (1607) and Charles Kingsley's better
known novel Westward Ho! (1855). At one level, the text, like III Seen
III Said, is concerned with the failure of language: when anything
is said, it must inevitably be missaid. So language is deliberately pared
down, reduced to a few lexical items assembled in a variety of combinations,
so that it reaches out toward an "unworsenable worse." It is part of the
strategy to be rid of Romantic accretions. So images evoking human memories
or literary allusions are excised. That at least is how it first appears.
Bạn, đọc văn Mít Butor, cũng 1 thứ “Romantic” mà Beckett
vứt vô sọt rác (to be rid of).
Vậy mà thất bại rực rỡ. Kiệt tác!
Chỉ nội mấy dòng GCC trích dẫn, là đủ chửi bố
mấy đấng bịp bợm!
Và, quả đúng, hai đấng này, không đọc nổi
Beckett!
Cái thất bại được thấy ra, chỉ ra, từ Beckett, một phần, là
do/của ngôn ngữ: Khi cái gì được nói ra thì
nó bắt buộc phải là nói trật, trìa: When anything
is said, it must inevitable be missaid.
Thê thảm hơn thế nhiều, đây là hiện tượng đói
ăn, thiếu dinh dưỡng, chết dần chết mòn, không phải chỉ của
ngôn ngữ, mà là của nạn nhân Lò Thiêu.
“Every word is like an unnecessary stain on silence and nothingness.”
― Samuel Beckett
Mọi từ thì cũng như vết trầy không cần thiết
lên im lặng và hư vô.
V/v Không đọc được.
GCC đã từng thú nhận, không đọc được Dickinson, và
không chỉ Dickinson, mà còn nhiều nhà thơ khác,
và trước đó, không đọc được thơ.
Tuy nhiên, chưa bao giờ không đọc được, mà chê
1 tác giả, như NDT và bà Huệ, chủ diễn đàn Gió
O. Bà này chê thơ TTT, thua cả thơ Nguyễn Đăng Thường,
và Nguyễn Đăng Thường cũng nhân đó, bèn chê
TTT tơi bời hoa lá cành. Sa-đích. Thua cả thơ Đỗ Quí
Toàn!
Ui chao đến thơ TTT mà còn không đọc được, thì
làm sao đọc được Beckett?
Lê Thị Huệ: So sánh hai bài thơ "Tiễn Một Nguời Vào
Dĩ Vãng Đậm Màu" với bài thơ "Phục Sinh"
của Thanh Tâm Tuyền. Là một khoảng cách lớn lao. Bài
Phục Sinh làm dáng và rỗng, chỉ được
cái phá cách, self-esteem vào thời đó.
Bài "Tiễn Một Người Vào Dĩ Vãng Đậm Màu",
già dặn, trí tuệ cũng phá cách nhưng cái
phá cách của một lõi trí. Anh có tự cảm thấy cái khoảng cách chữ nghĩa
giữa anh và nhà thơ lãnh tụ thơ Tự Do thời 1960 ở Việt
Nam.
Nguyễn Đăng Thường: Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền được công nhận
là ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ thơ tôi là ngôn
ngữ đời thường, có thể chưa được đóng mộc. Khi nhại, hay cập
nhựt Bài Ngợi Ca Tình Yêu của Thanh Tâm
Tuyền với tựa đề mới Bài Ngợi Ca Chó Đá, tôi
nghĩ tới nội dung bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, và hiện
tình đất nước ta hôm nay nhiều hơn ngôn ngữ, dù
nội dung và hình thức như hình với bóng, không
thể tách đôi. Tác phẩm bị giễu nhại vẫn còn y
nguyên, nhưng đã có thêm những tác phẩm song
đôi. Tác phẩm bị, được giễu nhại nhiều nhứt, là bức tranh
La Joconda, cho ra đời vô số những tranh "nhại họa"
vô cùng thú vị. Salvador Dalí cũng nhại tranh
Andy Warhol với các tranh Marilyn Mao. Các lãnh
tụ độc tài vì bất an nên rất sợ bị chế giễu. Cậu Ủn Bắc
Hàn là một thí dụ.
http://www.gio-o.com/NguyenDangThuong/NguyenDangThuongPhongVan4.htm
Samuel Beckett
Although approved by Beckett, these
lost translations of "Mirlitonnades" (Doggerels) have never been
published, until now.
We are grateful to Grove Press for allowing us to reprint
the originals here.
[The Paris Review Winter 2015]
DOGGERELS
vive rnorte ma seule saison
lis blancs chrysanthèmes
nids vifs abandonnés
boue des feuilles d'avril
beaux jours gris de givre
alive dead only season mine
white lilies feverfews
vivid nests forsaken
silt of April leaves
frost fair hoar grey days
ce qu'ont les yeux
mal vu de bien
les doigts laissé
de bien filer
serre-les bien
les doigts les yeux
le bien revient
en mieux
what good the eyes
have ill seen
good the fingers
have let escape
close them tight
the fingers the eyes
good is back
better still
ce qu'a de pis
le coeur connu
la tête pu
de pis se dire
fais-les
ressusciter
le pis revient
en pire
what worse
the heart has known
worse the head
to itself said
make them
resuscitate
worse is back
worst still
le nain nonagénaire
dans un dernier murmure
de grâce au moins une bière
grandeur nature
the dwarf in his last
nonagenarian gasp
for mercy's sake at least
a full-size coffin
fous qui disiez
plus jamais
vite
redites
fools who said
nevermore
quick
say it again
pas davantage
de souvenirs qu'à l’âge
d'avril un jour
d'un jour
no more
memories than at the age
of April one day
of a day
- Translated from the French by Edith Fournier
Beckett có 1 từ, ông chuyển từ tiếng Pháp
qua tiếng Anh, nhưng khi chuyển lại tiếng Tẩy, thì từ gốc
không xứng với nó.
Trên TV có từ thần sầu này, nhưng
không làm sao kiếm.
Bài thơ trên đây, tuy được tác
giả gật đầu OK, nhưng bây giờ kiếm thấy, và đây
là lần in thứ nhất của nó. (1)
Có nhiều câu đúng điệu Beckett, “nửa
đêm, mưa, tớ về nhà, không phải nửa đêm,
không phải mưa.”
Khi ông mới xuất hiện, gần như chẳng ai chịu nổi
thứ văn này, nhưng bây giờ thì quá tuyệt
Sống chết mùa độc nhất của tớ
Huệ trắng
Tổ chim sặc sỡ bỏ hoang
Mùn lá tháng Tư
Ngày đẹp xám màu sương giá
(1). Sự thực, không đúng như tờ Paris Review.
Bài thơ chưa từng in ấn này, đã xuất hiện, trong
Selected Poems 1930-1989, nhưng chỉ có khổ
đầu. NQT
Bài này, cũng tuyệt, trong Selected
Poems 1930-1989
A perte de vue dans le sens de mon
corps
Tous les arbres toutes leurs branches toutes leurs feuilles
L'herbe à la base les rochers et les maisons en
masse
Au loin la mer que ton oeil baigne
Ces images d'un jour après l'autre
Les vices les vertus tellement imparfaits
La transparence des passants dans les rues de hasard
Et les passantes exhalées par tes recherches obstinées
Tes idées fixes au cceur de plomb aux lèvres
vierges
Les vices les vertus tellement imparfaits
La ressemblance des regards de permission avec les yeux
que tu conquis
La confusion des corps des lassitudes des ardeurs
L'imitation des mots des attitudes des idées
Les vices les vertus tellement imparfaits
L'amour c'est l'homme inachevé,
Out of Sight in the Direction of
My Body
All the trees all their boughs all their leaves
The grass at the base the rocks the massed houses
Mar the sea that thine eye washes
Those images of one day and the next
The vices the virtues that are so imperfect
The transparence of men that pass in the streets of hazard
And women that pass in a fume from thy dour questing
The fixed ideas virgin-lipped leaden-hearted
The vices the virtues that are so imperfect
The eyes consenting resembling the eyes thou didst
vanquish
The confusion of the bodies the lassitudes the ardours
The imitation of the words the attitudes the ideas
The vices the virtues that are so imperfect
Love is man unfinished.
Trên
tờ Điểm Sách London, số
6 Tháng Tám, 2009, dưới cái tít Who to Be, Colm Tolbin đọc “Thư Beckett,
1929-40”, có nhắc tới bài thơ trên, thoạt đầu Beckett
làm bằng tiếng Tây, và “tình tôi” ở đây
là tình bạn giữa Beckett và Thomas McGreevy, một
người bạn thân nhất của ông, một nhà phê bình
nghệ thuật và một thi sĩ, hơn ông 13 tuổi. Bài thơ
Lưu vong của McGreevy có câu:
I knew if you had died that I should grieve
Yet I found my heart wishing you were dead.
Tôi biết nếu bạn chết tôi sẽ đau khổ
Vậy mà thâm tâm tôi lại
mong điều đó.
Bài
thơ không đề của Beckett, là từ hai câu thơ trên,
của bạn ông.
Bài thơ trên, lần đầu Gấu đọc, là ở trong Thơ ở đâu xa của TTT.
Nhưng, thú vị nhất, hay đúng hơn, thê lương nhất,
lại là cái tít của bài viết của Tolbin. Về
những năm tháng thê thảm của Beckett, thời kỳ 1930-1936, Tolbin
viết: Vấn đề của ông trong những năm này xem ra thật dễ, nhưng
lại khó giải quyết: it was how to live, what to do, and who to be,
sống thế nào, làm cái gì, là thằng gì.
Ông [Beckett] thì khôn khéo [clever], có
học [well-educated], ông nói rành tiếng Anh, tiếng
Ý, tiếng Đức của ông thì thật tốt. Nhưng cuốn sách
đầu, truyện ngắn, của ông không bán được, và ông
không làm sao kiếm được nhà xb cho tiểu thuyết của ông.
Ông không biết làm cách nào kiếm sống.
Rất nhiều giai thoại thật tuyệt vời về chuyện Beckett mê tranh
của Jack Yeats. Tình bạn giữa ông và McGreevy là
cũng từ chuyện mê tranh Yeats.
je suis ce cours de sable qui glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement
cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme
my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end
my peace is there in the receding
mist
when I may cease from treading these long shifting
thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.
Bản tiếng Tây theo tôi
tuyệt hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:
la pluie d'été
pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa
hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao,
sao mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!
Saigon ngày
nào của GCC
Mémoirs
@ KT's
Đây là cái
note của KT, kèm cuốn sách của anh. Sau đó,
là chuyến đi Tây đầu tiên, cũng thời gian đó,
bạn quí HPA đang ở Tây.
Có 1 kỷ niệm thật tếu, là, khi
đến phi trường chẳng làm sao nhận ra KT, thế rồi có
một bà tiến tới gần, hỏi, có phải Gấu Đực &
Gấu Cái đó không.
Bà xã KT.
Bà nói, tôi đã nói
với ông KT, là khó nhận ra nhau lắm, vì
anh ở Canada qua, xa nhau bao nhiêu năm, dễ gì nhận
ra nhau. Bà nói thêm:
Nhưng khi HPA qua, thì nhận ra ngay.
GNV ngạc nhiên quá, hỏi, tại sao.
Bà trả lời, cứ thấy ai gầy nhom, trông như đang đói
ăn, là biết liền.
Ui chao, đám Việt Minh,
khi về Hà Nội, thời kỳ đánh Tây, bị bắt,
đúng là do cực khổ quá mà ra.
Anh nào cũng ốm nhom,
xanh lét, và nhất là, đều thèm phở.
Thế là đám
mật thám Tây chờ sẵn ở mấy tiệm phở, tóm
thằng nào là y chang vừa ở rừng về!
|
Trang NQT
art2all.net
|