|
Thơ Mỗi
Ngày
Winter Travels
who's typing on the void
too many stories
they're twelve stones
hitting the clockface
twelve swans
flying out of winter
tongues in the night
describe gleams of light
blind bells
cry out for someone absent
entering the room
you see that jester's
entered winter
leaving behind flame
Bei Dao
Translated by David Hinton with Yanbing Chen
Du ngoạn Mùa đông
người gõ lên quãng không
rất nhiều chuyện
chúng là mười hai hòn đá
gõ lên mặt đồng hồ
mười hai con thiên nga
bay ra khỏi mùa đông
những giọng nói trong đêm
mô tả những tia sáng
chuông mù
khóc ai đó vắng mặt
đi vô phòng
bạn sẽ thấy, của anh hề
đi vô mùa đông
để lại đằng sau ngọn lửa
Bắc Đảo
Note: Trang "Thơ Mỗi Ngày", do trục trặc kỹ thuật",
mất tiêu luôn. Tin Văn đang gầy dựng" lại. Sorry.
Wang
Wei chắc là Vương Duy. Czeslaw Milosz rất mê
ông này. Trong cuốn sách giới thiệu thơ
của ông, Cuốn sách của muôn điều thần sầu,
A Book of Luminous Things, có mấy bài của Wang Wei
Sitting alone on an autumn night
I sit alone sad at my whitening hair
Waiting for ten o'clock in my empty house
In the rain the hill fruits fall
Under my lamp grasshoppers sound
White hairs will never be transformed
That elixir is beyond creation
To eliminate decrepitude
Study the absolute.
Trên Tin Văn, có loạt bài của Phạm Hải Anh,
về Thơ Đường, tháng nào cũng Top Ten.
Vị nữ lưu này, GCC phát giác ra, khi chưa
xuất hiện trên chốn giang hồ, còn ngồi 1 mình, trên
một mái nhà đỉnh cao của Hà Nội, và viết,
thanh thoát vô cùng.
Chính là cái tinh tuý của thơ Đường đã thấm vào tác
giả.
Vị này phán, về Vương Duy:
Lý Bạch tả cảnh ông đi chơi hồ Bình Thiên
vào đêm trăng sáng, ánh trăng phản chiếu
trên mặt nước phẳng lặng khiến cả vùng hồ như tấm lụa trải
rộng mênh mông. Có điều ông không tả hồ,
cũng không tả trăng, chỉ phác một liên tưởng về tấm
lụa cho thấy trăng nước hoà làm một, lại toát lên
cái "thần" yên ả, thanh bình của cả một vùng
trời nước. "Bình Thiên" là tên hồ, cũng có
nghĩa "cõi trời yên bình". Câu thơ vừa nói
được địa điểm thật của khung cảnh, song đồng thời lại nhấn thêm một
tầng đồng nhất nữa : đất này là cõi trời (địa- tức-thiên).
Trên cái nền trăng - nước, đất - trời tương hội đó,
con người cũng lâng lâng giữa hai cảm giác tiên
- tục. "Cưỡi vầng trăng sáng" - tưởng Lý Bạch đã thành
tiên, song từ "nại hà" ("sao có thể") cho thấy ông
chỉ là người thường mơ được thành tiên. Lên
cõi trời không được, ông trở về "ngắm hoa trên
thuyền rượu" - nhưng giữa trần gian, tao nhã với trăng - nước -
rượu - hoa, ông lại xuất hiện như một vị tiên thoát
tục. Đọc bài thơ, thấy ông tả tất cả, mà dường như
cũng không tả gì. Không thể hình dung dáng
hồ, cỏ cây hoa lá, biết là có người, nhưng cũng
không rõ con người ấy cụ thể ra sao. Cái được miêu
tả ở đây không phải là bản thân cảnh hay người mà
chính là thần thái của nó. Toàn bài
thơ toát lên ý tưởng về sự giao hòa thanh thản,
thần tiên giữa trời - nước, cảnh - người.
Cùng sử dụng bút pháp chấm phá, nhưng
cách miêu tả trong TTLB cũng không giống như ở tứ
tuyệt của Vương Duy. Vương Duy không chỉ là nhà thơ
mà còn là một họa sĩ kiệt xuất phái Nam tông,
chuyên vẽ tranh thủy mặc. Dễ thấy ông vận dụng những thủ pháp
miêu tả của hội họa vào trong thơ khiến thơ ông cũng
như một bức tranh ("Thi trung hữu họa"). Tứ tuyệt tả cảnh của Vương Duy
do vậy mà rất đặc sắc,kỹ thuật phối cảnh, tả hình quả đạt
tới mức điêu luyện. Vương Duy thích sử dụng sự tương phản
giữa những mảng màu tối - sáng, đậm - nhạt, nóng-lạnh,
giữa hư và thực, giữa động và tĩnh..., lấy cái này
làm nổi bật cái kia. Cảnh trong thơ ông có nhiều
phát hiện tinh tế và rất có chiều sâu. Như bài
"Lộc trại" :
Không sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân
ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng.
tạm dịch:
Núi vắng, người chẳng thấy,
Chỉ nghe vọng âm thanh,
Hồi quang vào rừng thẳm,
Phản chiếu lớp rêu xanh.
Ông tả tiếng vọng để làm nổi cái tĩnh của
rừng núi theo nguyên tắc "Không cốc truyền âm"
(động vắng càng vang). Ông gợi thanh âm của người
vẳng lại để nhấn mạnh ý người đã đi, cho thấy núi
càng vắng. Ông tả ánh phản chiếu của nắng xuyên
qua rừng sâu, soi lên lớp rêu xanh, lấy chút
sáng le lói để thấy cả cái thâm u dày
đặc của rừng. Bút pháp, "vẽ mây nẩy trăng" trong hội
họa được ông khai thác tối đa, do đó đọc thơ ông
cần vận dụng trí tưởng tượng, xét đoán để nối kết
những mảng đối lập, hình dung ra trước mắt một "bức tranh bằng lời"
toàn vẹn, giàu ý vị. Còn TT tả cảnh của Lý
Bạch ngược lại, thiên về cảm nhận trực giác. Ông không
tả cảnh trước mắt mà tả cảnh trong lòng. Khác với
Vương Duy, ông không ngắm cảnh như một họa sĩ hoặc một triết
nhân vui thú điền viên để di dưỡng tính tình.
Ông có khả năng kỳ diệu "nhập thân" vào đối tượng
miêu tả. Tứ tuyệt tả cảnh của ông do đó mà có
ý vị của Trang Chu mộng điệp, không biết là cảnh có
Lý Bạch hay chính Lý Bạch đã hóa thân
vào cảnh nữa! Lĩnh hội cái tinh thần của cảnh mà
tả, Lý Bạch đã lược bỏ mọi chi tiết rườm rà, chú
tâm khắc họa ấn tượng hơn là hình khối. Như trong bài
"Vọng Lư sơn bộc bố", ông tả thác nước núi Lư sơn như
dòng sông bị treo ngược lên, như dải Ngân hà
bị rơi tuột từ chín tầng trời. Người đọc có thể cảm nhận dòng
chảy dào dạt, mãnh liệt của một thác nước từ độ cao
tót vời tuôn nước xuống - rất cao, rất mạnh và rất đẹp.
Nhưng sự tưởng tượng chỉ dừng ở một ấn tượng chung như thế, không đi
xa hơn để dựng thành một bức tranh toàn cảnh tỉ mỉ. Có
hề gì, vì Lý Bạch đâu phải thợ vẽ, và ông
tả thác nước núi Lư sơn một phần, song cái chính
là ông biểu hiện dòng thác cảm xúc trong
lòng ông khi ngắm Lư sơn. Do đó mà cảnh trong
thơ ông đầy màu sắc chủ quan, ông dùng rất nhiều
ví von, so sánh, ẩn dụ bởi nó nói lên rõ
nhất cảm nhận của ông về cảnh. Khác với lối miêu tả điềm
đạm, trầm tĩnh của Vương Duy, TTLB tả cảnh luôn lồng vào đó
những cảm xúc, mơ ước. Ông nhận xét, liên tưởng,
cho sông, núi, mây, trời... những buồn vui của con người.
Nhân hoá là một thủ pháp ưa thích của
ông. Gió trong thơ ông cũng biết xót tình
li biệt ("Lao Lao đình"), chim núi biết xấu hổ ("Thu Phố ca"
bài 3), núi cũng biết nhìn người ("Độc tọa Kính
Đình sơn"), trăng đau buồn trẫm mình ngoài Đông
Hải ("Khốc Triều Khanh Hoành")... . Có lẽ vì vậy mà
thơ tả cảnh của ông như có hồn, tình và cảnh thống
nhất tuyệt vời.
Bài Lộc Trại này, theo như Gấu được biết, có
hàng chục chục
bản tiếng Anh, ấy là vì không bài nào
đạt tới cái thần thái của bản gốc.
Kinh thế đấy!
Cái
tay dịch Vương Duy tác giả cuốn thơ trên, trong lời giới
thiệu, phán, cũng thật là tuyệt cú mèo. Trước
thiên hạ chỉ biết có Lý Bạch và Đỗ Phủ, nhưng
Vương Duy, càng ngày càng được biết nhiều hơn hai ông mãnh
trên:
Introduction
Wang Wei
(699-761) is one of the great poets. His distinction would no doubt
be more widely recognized, outside China and Japan, had he not flourished
during a period universally regarded as one in which Chinese poetry reached
a zenith, dominated by the reputations of Li Po (701-62) and Tu Fu (712-70).
Their passions were overt: Li Po's might be called a kind of romanticism,
Tu Fu's, in modern parlance, 'involvement'. Their poetry may speak more
directly to western people today than that of the inwardly passionate,
contemplative Wang Wei. But this situation is perhaps even now changing.
Trước đây,
Lý Bạch có thể coi là nhà thơ vãi
lệ, Đổ Phủ, dấn thân, lũ mũi lõ dễ nhận ra, nhưng tình
hình khác đi nhiều rồi...
Bản
song ngữ, của Vũ Huy Quang. Lần qua Tiểu Sài Gòn, anh đang
tính dời đi San Jose, bèn cho GCC cả kho sách. Gấu
nói, sách của ông, làm tôi đọc.
Quê lắm.
Tới, quơ được cả 1 đống, anh cười, vậy mà dám chê
tủ sách của ta.
Nhưng, quả thực, sách của anh, khác của Gấu. VHQ cực
mê sex. Anh đã từng dịch Nhục Bồ Đoàn, và truyện
của anh, nick Người Thăng Long, sặc mùi “tinh khí” [tinh khí,
không phải tính khí]. Truyện “Cháo Rắn” của
anh mà không thần sầu ư? Trên TV đã từng viết
về nó.
Lộc Trại, là tên trại của Vương Duy, ở Võng Xuyên,
huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây
Bản dịch của TTS:
Trại Hươu
Núi vắng, không thấy người,
Chỉ nghe vang tiếng nói.
Nắng xế vào rừng sâu
Lại lên rêu xanh dọi
Desolation
There was no sight of man in the immense mountain,
Yet human voices were continually being heard.
The sun reflects the distant scenes into the thick woods,
Forming patterns on the green moss
Translated by Li Fu-ning
Tribute to
Robert Walser
Vincent van Gogh, L'Arlesienne:
Madame Joseph-Michel Ginoux, 1888-89
In observing this picture with
the intention of writing a review, Walser realizes that art criticism
is impossible. Not only is it impossible to say anything about the
work-it is impossible even to begin to "see" it. Only when the peasant
woman in the painting miraculously comes to life and speaks to him
is he able to make any headway. Learning more about her everyday life,
he discovers the artist's reasons for choosing her as his subject, and
only then does he begin to understand the painting-art appreciation from
the inside out.
Susan
Bernofsky and Christine Burgin:
Introduction
"The Van Gogh Picture"
At an exhibition of paintings several years ago,
I saw an, as it were, ravishing and priceless picture: Van Gogh's
Arlesienne, the portrait of a peasant woman
who is decidedly not pretty, as she is already rather old, sitting
quietly in a chair and gazing pensively before her. She wears the
sort of skirt one sees all the time, and has the sort of hands one encounters
everywhere without paying them any attention, as they appear to be
far from lovely. Nor can a modest ribbon in her hair count for much.
The face of this woman is hard. Her features speak of a great many incursive
experiences.
I willingly admit that at first
I intended to devote only a moment's consideration to this picture-which
to be sure struck me as a powerful work-since I wished to move on
as quickly as possible to look at other items, but a strange something
held me back, as if I'd been seized by the arm. Asking myself if
there was anything at all of beauty to look upon here, I soon became
convinced that one must pity the artist who had squandered such great
industry on so low and charmless a subject. I asked myself: was this
a picture I'd wish to own? But I didn't dare respond to this peculiar question
with either a yes or no. I further submitted for my own contemplation the
apparently simple and, it seemed to me, certainly not unjustified question
of whether a suitable place even exists in our society for pictures like
this Arlesienne. No one can possibly have commissioned such works;
the artist would appear to have given himself the assignment and then
painted something that perhaps no one ever wished to see depicted. Who
could want to hang such an ordinary picture on his wall?
"Magnificent women," I said
to myself, "were painted by Titian, Rubens and Lucas Cranach,"
and because I spoke these words, I am filled with pain, as it were,
for our artist, who assuredly experienced a life more replete with
suffering than joy, as well as for this age of ours, which is so difficult
and dismal in many respects.
"To be sure," I continued, "the
world is clearly often beautiful, and blithe hopes must ever
blossom. But certain states of affairs are downright oppressive-no
one would deny it."
Although something doleful or
disturbing surrounded Van Gogh's picture, and all the harshest
life circumstances seemed to emerge from beside or behind it-not
quite sharply, but still recognizably enough-I nonetheless took
pleasure in it, since the painting is a sort of masterpiece. The
colors and brushwork possess the most extraordinary vitality, and formally
the picture is outstanding. It contains, among other things, a wonderful
patch of red that is delightfully in flux. Yet the work as a whole reflects
more inner than outward beauty. Are not also certain books unlikely to
become popular because they are not easily accessible, in other words
because it is difficult to assign them a value? Sometimes things of
beauty are inadequately perceived.
The effect the Van Gogh had
on me was like that of a solemn tale. The woman suddenly began
speaking about her life. Once she was a child and went to school.
How beautiful it is to see one's parents every day, and to be initiated
by teachers into all sorts of knowledge. How gay and bright the schoolroom
and her interactions with her playmates. How sweet, how happy is youth!
These hard features were once
soft, and these cold, almost malicious eyes were friendly and
innocent. She was just as much and just as little as you. Just as
rich in prospects and just as poor. A human being, like all of us,
and her feet carried her through many a sunlit street as well as
streets veiled in nocturnal darkness. She no doubt often went to church,
or to dances. How often her hands must have opened a window, or pressed
shut a door. These are the sorts of acts you and I perform daily, are
they not, and in this circumstance resides a certain pettiness, but
also grandeur. Can she not have had a lover, and known joy, and many
sorrows? She listened to the ringing of bells, and with her eyes perceived
the beauty of branches in blossom. Months and years passed for her, summer
passed, winter. Is this not terribly simple. Her life was filled with
toil. One day a painter said to her- himself just a poor working man-that
he would like to paint her. She sits for him, calmly allowing him to
paint her portrait. To him, she is not an indifferent model-for him, nothing
and no one is indifferent. He paints her just as she is, plain and
true. Without much intention, however, something great and noble enters
into the simple picture, a solemnity of the soul it is impossible to
overlook.
After I carefully impressed
the picture upon my memory, I went home and wrote an essay about
it for the magazine Kunst und Kiinstler. The content of this essay
has now escaped me, for which reason the desire came over me to renew
it, which has now been done.
Karl Walser, Portrait of a Lady, 1902
Portrait of a Lady
A young lady,
a girl of perhaps twenty, is sitting in a chair and
reading a book. Or she has just been diligently reading,
and now she is reflecting on what she has read. This often
happens, that someone who is reading must pause, because
all sorts of ideas having to do with the book keenly engage
him. The reader is dreaming; perhaps she is comparing the subject
matter of the book to her own experiences hitherto; she is thinking
about the hero of the book, while she fancies herself almost its
heroine. But now to the picture, to the way it is painted. The picture
is strange, and the painting in it is delicate and subtle, because
the painter, in a mood of beautiful audacity, has crossed the boundaries
of the usual and has thrust his way through a biased reality out
to freedom. In painting the portrait of the young lady, he is also
painting her amiable secret reveries, her thoughts and daydreams,
her lovely, happy imagination, since, directly above the reader's head,
or brain, in a softer, more delicate distance, as though it were the
construction of a fantasy, he has painted a green meadow surrounded by
a ring of sumptuous chestnut trees and on this meadow, in sweet, sunlit
peace, a shepherd lies sprawled, he too appearing to read a book since
he has nothing else to do. The shepherd is wearing a dark blue jacket,
and around this contented loafer graze the lambs and the sheep, while
overhead in the summer morning air, swallows fly across the cloudless
sky. Looming up from the opulent, rounded tops of the leafy trees, one
can glimpse the wispy tips of a few firs. The green of the meadow is rich
and warm, and speaks a romantic and adventurous language, and the whole
cloudless picture inspires observant, quiet contemplation. The shepherd
off in the distance on his painted green meadow is undoubtedly happy. Will
the girl who is reading the book also be happy? She certainly would deserve
to be.
Every creature
and every living thing in the world should be happy.
No one should be unhappy.
Translated
by Lydia Davis
This painting portrays
something like a moral dilapidation.
But are not loosenings of moral strictures at times
elegant?
This category includes women who are, to begin with,
beautiful, and secondarily straying, etc., from the proper
path.
A variety of straying would seem to be the subject
of the picture I am observing here, which appears to have
been painted with exceptional delicacy, caution, precision,
intelligence and melodiousness.
from "A Discussion of
a Picture"
Looking
at Pictures presents a little-known facet of
the work of the eccentric Swiss genius Robert Walser (1878-1956):
his writings on art.
Translated by Susan
Bernofsky, Lydia Davis, and Christopher Middleton.
[Lời giới thiệu
bìa sau]
Note: Loạt bài "Nhìn Tranh" này,
Tin Văn giới thiệu, tưởng niệm Walser, và còn là
1 cách ăn theo, tiễn DC, vì do mù tịt về hội
họa, bèn mượn hoa tiến Phật, thay vì viết nhảm, làm
thơ nhảm tưởng niệm DC!
Borges lèm bèm về art, nghệ thuật, trong Trò
Chuyện, Conversations. Bài này đọc, tiễn DC, cũng đặng.
Art Should Free Itself from Time
OSVALDO FERRARI. Today we will talk about beauty. But before
we do so, we will transcribe your views about the place of art and
literature in our times as discussed in an earlier conversation.
JORGE LUIS BORGES. Art and literature ... should try and
free themselves from time. Often, I have been told that art depends
on politics or on history. I think that's untrue. It escapes, in some
way, from the organized causality of history. Whether art happens or
doesn't, either depend on the artist.
FERRARI. Another matter not usually talked or thought about,
apart from the spiritual life, is beauty. It's odd that, these days,
artists or writers do not talk about what is supposedly always their
inspiration or objective, that is, beauty.
BORGES. Perhaps the word has been worn out but not the concept-
because what purpose does art have other than beauty? Perhaps the word
'beauty' is not beautiful though the fact is, of course.
FERRARI. Certainly, but in your writing, your poems, your
stories ...
BORGES. I try to avoid what's called 'ugly art'- sounds horrible,
doesn't it? But there have been so many literary movements with horrible
names. In Mexico, for example, there was a literary movement frighteningly
called Stridentism. It finally shut up, which was the best thing it
could do. To aspire to be strident-how awkward, isn't it!
My friend Manuel Maples Arce led that movement against the
great poet Ramon Lopez Velarde. I remember his first book-without
any hint of beauty, it was called 'Inner Scaffolding'. That's very
awkward isn't it? (Laughs) To possess inner scaffolding? I remember
one line of a poem, if it was a poem at all: 'A man with tuberculosis
has committed suicide in all the newspapers'. It's the only line I recall.
Perhaps my forgetfulness is kind-if that was the best line in the book,
on shouldn't expect much from the rest of it. I saw him many years later
in Japan. I think he was the Mexican ambassador there and that had made
him forget not only literature but his literature. But he has remained
in the histories of literature, which collects everything, as the founder
of the Stridentist movement (both laugh). Wanting to be strident-one
of the most awkward of literary desires.
FERRARI. As we are talking about beauty, I would like to
consult you about something that has caught my attention. Plato said
that of all the archetypal and supernatural entities, the only visible
one on earth the only manifest one, is beauty.
BORGES. Yes, made manifest through other things.
FERRARI. Caught by our senses.
BORGES. I'm not sure about that.
FERRARI. That's what Plato said.
BORGES. Well, of course, I suppose that the beauty of a poem
has to appeal to our ears and the beauty of a sculpture has to pass
through touch and sight. But these are mediums and nothing more. I don't
know if we see beauty or if beauty reaches us through forms which could
be verbal or sensual or, as in the case of music, auditory. Walter Pater
said that all the arts aspire to the condition of music. I think that
is because form and content fuse in music. That is, one can tell the plot
of a story, perhaps even give it away, or that of a novel, but one cannot
tell the story of a melody, however straightforward it may be. Stevenson
said, though I think he was mistaken, that a literary character is nothing
but a string of words. Well, it is true, but at the same time it's necessary
that we perceive it as more than a string of words. We must believe
in it.
FERRARI. It must, in some way, be real.
BORGES. Yes. Because if we sense that a character is only
a string of words, then that character has not been well created. For
example, reading a novel, we must believe that its characters live beyond
what the author tells us about them. If we think about any character in
a novel or a play, we have to think that this character, in the moment that
we see him, sleeps, dreams and carries out diverse functions. Because if
we don't, then he would be completely unreal.
FERRARI. Yes. There's a sentence by Dostoyevsky that caught
my eye as much as one by Plato. About beauty, he said, 'In beauty, God
and the devil fight and the battlefield is man's heart.'
BORGES. That's very similar to one by Ibsen, 'That life is
a battle with the devil in the grottoes and caverns of the brain and
that poetry is the fact of celebrating the final judgment about oneself.'
It's quite similar, isn't it?
FERRARI. It is. Plato attributes beauty to a destiny, a mission.
And among us, Murena has said that he considers beauty capable of
transmitting an other-worldly truth.
BORGES. If it's not transmitted, if we do not receive it
as a revelation beyond what's given by our senses, then it's useless.
I believe that feeling is common. I have noticed that people are constantly
capable of uttering poetic phrases they do not appreciate. For example,
my mother commented on the death of a very young cousin to our cook from
Cordoba. And the cook said, quite unaware that it was literary, 'But Senora,
in order to die, you only need to be alive.' You only need to be alive!
She was unaware that she had uttered a memorable sentence. I used it later
in a story: 'You only need to be alive'-you do not require any other conditions
to die, that's the sole one. I think people are always uttering memorable
phrases without realizing it. Perhaps the artist's role is to gather such
phrases and retain them. George Bernard Shaw says that all his clever expressions
are the ones he had casually overheard. But that could be another clever
feature of Shaw's modesty.
FERRARI. A writer would be, in that case, a great coordinator
of other people's wit.
BORGES. Yes, let's say, everyone's secretary-a secretary
for so many masters that perhaps what matters is to be a secretary
and not the inventor of the sayings.
FERRARI. An individual memory of a collective.
BORGES. Yes, exactly that.
Nghệ thuật và văn chương tự nó nên cố
mà thoát ra khỏi thời gian. Tôi thường nghe nói,
nghệ thuật tuỳ thuộc chính trị và lịch sử. Đếch phải.
Nó chạy trốn, một cách nào đó, cái
liên hệ nhân quả được tổ chức của lịch sử.
Có 1 câu của Dos, thú lắm, Trong cái
đẹp, Chúa và Quỉ uýnh lộn, và chiến trường
là trái tim của con người
Ui chao, THNM, Gấu lại nghĩ Dos nói về cuộc chiến
Mít, chán thế!
Tôi cũng ngưỡng mộ bác Tin Văn,
mặc dù ổng hay "chưởi tứ phía".
Một vị độc giả Blog NL
Khi mới ra hải ngoại, hăm
hở với giấc mơ quy tụ suốt 1 dải hải ngoại về một mối, tạo thành
1 lực lượng, 1 phong trào… như 1 tiếng nói đối
nghịch hẳn lại, với Hội Nhà Thổ ở trong nước – thì cứ
gọi đại như vậy - Gấu, báo nào cũng viết, nào báo
của lũ chuột túi kan-gu-ru, bú rù, nào Kánh
Én, nào Gió Đông, nào talawas…
Khi ra sách lần đầu,
gửi tặng búa xua, rất nhiều người chưa từng quen biết,
chỉ nghe tên. Lần nhận sách từ nhà xb Văn Mới,
từ Los Angeles mang xuống, Gấu ngồi ở Cà Phê Fuck [Factory],
tặng sách tuốt đám Mít ở đó. Bà
vợ NMG nói, thế không để bán ư, thế là ông
bà NMG bày trò ra mắt sách tại gia, cho
vợ chồng Gấu có tí tiền trở lại Canada.
Cái sự chưởi tứ phía,
như bây giờ, là có ý nghĩa của nó.
Chửi, thật dữ, may ra có thay đổi.
Không lẽ khen thứ thơ vãi linh hồn,
ngồi bên ly cà phê nhớ bạn hiền…
Chửi, chỉ trên Tin Văn, đâu ở chỗ nào
khác, kể cả trên FB?
Trong “cú” chưởi của GCC, của Tin Văn, đúng
hơn, có cái gọi là "bổn phận phục sinh", le
"devoir de résurrection", của xứ Mít, nói theo
1 tác giả trên tờ ML của Tẩy, số đặc biệt về văn học Nga,
dưới đây.
Tks, anyways.
"Nếu có 1 nhà văn
lớn của Việt Nam, thì chắc sẽ là Linda Lê,
lập lại nhận định của NL. " - GNV.
The writer we all are looking for is Tran Vu.
- GC
Blog NL
Trần Vũ, theo GCC, là 1 hiện tượng,
không phải 1 nhà văn.
Anh xuất hiện, là nổi như cồn. Ở dây,
có gì tương tự với hiện tượng Thầy Kuốc.
Thứ thiệt, thường thì, khi xuất hiện, bị chửi
nhiều hơn là được khen, hoặc chẳng ai thèm để ý
đến. Hoặc bị từ chối, refusé.
TTT, khi mới xuất hiện mà chẳng bị chửi dữ sao?
Bây giờ đâu có ai đọc
Trần Vũ nữa?
Hình như anh cũng hết viết văn, và
chuyển qua nghề phỏng vấn?
GCC chỉ chịu được, mỗi bài viết của
TV, kể lại lần gặp "hitman" HPNT, như đã có lần viết
trên Tin Văn.
Bài viết này, cũng phỏng vấn, nhưng có
thể, do bóng ma Mậu Thân phủ lên nó, nên
quá đã!
Nhớ, 1 tay mũi lõ nào đó
phán, Dante, sở dĩ còn được đọc, là vì
bị từ chối!
Bạn chỉ trở thành nhà văn
nhớn, khi bị từ chối, và có chân trong Hội Những Kẻ Bị
Đá Đít, dưới đây!
Quand, rompus de fatigue, les héros
restent à quai, c'est l'auteur qui part.
En attendant le train
Khi mệt quá, độc giả TV ngồi lại,
GCC vưỡn tiếp tục chưởi!
Trong Khi Chờ Tầu!
Nhân đọc mẩu viết về “tầu
hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số
báo này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong Khi Chờ Godot, và đây
là dụng ý của tay viết.
Và của Gấu!
EN ATTENDANT LE TRAIN
MÉDITANT SUR TOLSTOI
ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner ouvre une
brève parenthèse pour souligner le role stratégique
des quais de gare chez ces deux auteurs. Leurs trajectoires, si souvent opposées
et dont Steiner s'applique à minorer les divergences, se
trouvent ainsi réunies, en attendant le train, II ne faudrait
pas toutefois en conclure que le roman russe s'apparente à
l'indicateur Chaix et encore moins à une littérature
de gare, encore que lire Guerre et Paix
dans le Transsibérien demeure un projet séduisant.
Et cohérent. Les héros de Tolstoi comme ceux de Dostoievski
aiment voyager par le train, Que l'on songe à l'ouverture de
L'ldiot, quand le prince Muichkine et Rogojine
approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie. Ou
encore à la tragédie d'Anna Karénine qui commence,
comme elle finira, sur un quai de gare.
Vronsky, on le sait, part pour
la guerre. II existe d'autres destinations plus enviables. D'autant
que le roman russe profite de l'immensité de l'espace pour
pousser ses héros vers de lointaines et mythiques frontières,
là où campent les Cosaques, les tribus du Caucase, les
vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros tolstoien s'évade
volontiers à la campagne, et ce retour à la terre s'accompagne
d'une résurrection de l'âme. Le héros dostoievskien,
pour sa part, cherche son salut dans le royaume de Dieu, improbable
destination que l'auteur des Possédés
conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
Quand, rompus de fatigue, les héros
restent à quai, c'est l'auteur qui part. Ainsi Tolstoi,
abandonnant au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver
les lieux de sa jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait
semer la mort qui est à ses trousses. « Je m'en vais
dans la solitude», écrit-il dans ses Carnets.
Pour terminus, une petite gare, à Astapovo, où il
mourra en laissant sur sa table de chevet deux livres, ultimes compagnons
de voyage: Les Frères Karamazov et les
Essais de Montaigne.
La Russie et l'Europe sont les
deux patries des auteurs russes. Tolstoi admirait Stendhal. De
son coté, Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens,
Balzac, Sue, Restif... Reconnaissant sa dette envers la culture
européenne, il faisait dire à Ivan Karamazov: «
Je veux voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir d'ici. Et pourtant,
je sais que je ne trouverai qu'un cimetière un très
précieux cimetière, voilà ce que c'est! »
Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait
à Paris, Rome ou Vevey.
Indifférente à tant
de transports, l'Europe à longtemps consideré avec
froideur et réticence les auteurs russes, On leur reprocha
une débauche de pathos, l'absence de contraintes esthétiques,
trop de vie, trop de pages. Comment faire face aces « grands
monstres informes », selon la redoutable expression d'Henry
James? Tolstoi a écrit pas moins de quatre-vingt-dix volumes
et, jamais en mal d'inspiration, il se risqua à bâtir
une pièce de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec
l'infinité, il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque
roman ménage un prélude à l'oeuvre prochaine. II
refusait de mettre un point final, et en mit même trois pour éviter
de tout à faire conclure
Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles
de la littérature russe : les trains qui la traversent ne
s'arrêtent jamais.+
(1) George Steiner, Tolstoi ou Dostoievski, traduit de l'anglais par Rose Celli,
réed, 10/18, 2004.
Sách &
Báo Mới
Lướt Tin Văn
Viết như không
viết
Đọc còm của độc giả Chợ Cá,
về bài ký của Trần Vũ, Gấu ngộ ra một sự thực, về
cái đọc của độc giả quyết định “số phận” cái diễn
đàn của họ.
[Chợ Cá đâu phải bản chất là Chợ
Cá, nhưng mà do những người hội họp ở một nơi, và
nơi này từ đó có tên là Chợ Cá!]
Mr. TV dùng hình ảnh
khoảng lưng trần đẹp ơi là đẹp của phụ nữ, để làm
bật lên tấm lưng trần đầy sẹo của một người đàn ông,
và nhân đó, nói về cái lưng trần
"da beo" của chính TV.
Còn chuyện cái bụng
đàn bà Mít đẻ ra cả một lũ ngu Mít,
trong có Gấu, tất nhiên, lại là chuyện khác!
Cái tay thi sĩ ở trong
nước, nhìn ra hình ảnh Chợ Cá, khi nó
chưa là Chợ Cá, quả là thần sầu!
NQT
Linda Lê, une voix qui
nous hante
Linda Lê, một giọng ám ảnh chúng
ta
Blog Pierre Assouline giới thiệu
cuốn sách mới xb của Linda Lê: Lame de
fond [sóng dữ bất thình lình: lame soudaine,
provenant d'un phénomène sous-marin. Petit Robert],
276 trang, 17 euros, nhà xb Christian Bourgois
TV sẽ có bản tiếng Việt,
sau.
Nhà văn nào
thì cũng viết so với sự bí mật của mình. Và
cây kim để ở trong bọc mãi, thì cũng có
ngày ló ra. Khi, bất thình lình; khi, nhỏ
giọt. Những độc giả trung thành của Linda Lê, một câu
lạc bộ không ngừng lớn mãi, rình mò từ hai
chục năm nay điều này, qua chừng mười lăm cuốn sách. Và,
“hình tượng lột da sống" ["écorchée vive", người
tử đạo văn chương), (1) không phải thứ dễ dàng
lôi kéo, hay hoảng sợ trước những cái micro, hay dưới
ánh sáng chói loà ở phòng ghi âm,
để trải ra sự loạn luân: cái vũ trụ đắng, chát
được chuyển tải bằng 1 cách viết đòi hỏi, không dễ
dàng đến với người đọc. Và nếu bạn chưa từng đọc, thì
chỉ vào lúc này, hoặc là chẳng bao giờ.
Bởi vì tác phẩm mới xb của bà, Lame de
fond, (Sóng ngầm đáy
biển), không phải chỉ, hoàn hảo nhất, thành
tựu nhất: lãng mạn hơn so với đa phần tác phẩm xb trước
đó, cắm sâu hơn, vững hơn, vào cái thực,
nó còn tự ban cho nó cái quyền: chiếc chìa
khoá của tác phẩm của bà, hay, ma trận, tử cung,
cái khuôn, từ đó đẻ ra mọi tác phẩm.
Người ta tìm thấy ở trong đó, cường
độ và ý nghĩa của bi kịch của bà, những tang
tóc, trở đi trở lại, đủ thứ tang tóc, về người, nơi chốn,
ngôn ngữ, nhà cửa, mà lưu vong và bị nhổ,
bật gốc mang theo (bà sinh năm 1963 tại Việt Nam) hay là
từ tái tạo gốc, cắm lại rễ trong tiếng Pháp sống như một
xứ sở ngôn ngữ đối với bà, một tổ quốc di động, ở đó,
bà nương náu, và diễn tả bằng nói và
bằng viết, trong 1 ngôn ngữ độc nhất, trừ bỏ hẳn đi một ngôn
ngữ khác, nơi bà sống hiệu quả, kể từ những ngày “ngày
mai ca hát”, sau ngày 30 Tháng Tư của cuộc chiến Mít.
(1)
Linda Lê, năm nay
Tiểu thuyết mới nhất của Linda Lê hứa hẹn sẽ có
số phận đặc biệt vào mùa sách Pháp năm nay.
Cuốn sách tên là Lame de fond (Sóng
ngầm ở đáy biển), mà theo Linda Lê tự miêu
tả là "có bốn giọng, viết về sự lưu đày, về một
mối tình loạn luân" như trong
bài trò chuyện với tôi hồi tháng Tư
vừa rồi.
Trong khi chờ quyển sách thì có thể
đọc bài
của PA25 nhấn mạnh vào một giọng văn ám ảnh
và khẳng định Lame du fond là tác
phẩm thành tựu nhất từ xưa đến nay của Linda Lê. Trong
mắt Pierre Assouline (cũng như trong mắt nhiều người), Linda Lê
đích thực là một người tử đạo vì văn chương (PA
dùng cụm từ "écorchée vive").
Cũng sắp có một cuốn sách của Nguyễn
Khánh Long, người chính yếu đưa Linda Lê về
(à quên, đến) Việt Nam. Chỉ riêng đây thôi
cũng đã là một câu chuyện dài của lịch sử
văn chương Việt Nam (lịch sử lớn chứ không phải lịch sử nhỏ).
Cuốn này mới xứng đáng
Goncourt, nhưng nói 1 cách nào đó, tuy
ngược ngạo, Goncourt thực chưa xứng với nó, theo nghĩa, độc giả
Tẩy, lớp trung bình/trung lưu thật "cũng" khó mà
chịu nổi Linda Lê, và có thể, chính vì
lý do này cuốn sách không được trao giải,
theo Gấu Cà Chớn.
Nhân vật tên Van,
đàn ông, Mít, đã chết rồi, một cách
nào đó, là biểu tượng của cái giống đực
Mít, cũng chết rồi, và chỉ còn sống trong hồi ức
của ba người đàn bà cùng yêu anh ["Những
cuộc sống của 1 người đã chết", "les vies d'un mort", là
thế].
Tại sao lại “ba”?
Đây cũng là con số của Hóa
Thân, của Kafka [đọc bài của Nabokov về cuốn này
thì hiểu tại sao “ba”, nhưng Mít thì chẳng cần đọc,
cũng biết, và đau rồi!]
Vào ngày 30 Tháng
Tư khi những người CS chiến thắng ở Việt Nam, Van đo luờng thảm họa…
Một khi tới được Pháp, Van gạch bỏ Vietnam. Rồi thì, khi
yêu Ulma, anh lại kiếm thấy nó… Sóng Ngầm có thể đọc
như là 1 cú đâm vào cái gọi là
gia đình [un terrible charge contre la famille]
Sức mạnh của ngòi viết của Linda Lê là
ban cho những đứa con của gia đình Mít 1 cơ hội, một cái
cửa mở ra tuyệt vời, một sinh lộ, có tên là văn
chương!
Tuyệt!
Ngoài ra, còn bài viết của tay PA trên
Blog của ông, cũng tới lắm, nhưng theo Gấu Cà Chớn, thua
bài trên!
Đâu có phải tự nhiên, vô tư, mà
Linda Lê phán, tôi mang trong tôi 1 đứa trẻ
Việt Nam, đã chết.
Nhà văn dởm kiêm nghề phỏng
vấn làm sao mà so được với Linda Lê.
Chưa kịp viết là đã ngỏm rồi!
NQT
Gấu chưa hề thích,
bất cứ một cái gì từ Mr. TV [Không phải Mr. Tin
Văn]. Anh ta cường điệu quá. Đây là cú viết
đầu tiên của anh ta, không cường điệu, và quá
bảnh.
Trường hợp TV làm Gấu nhớ đến một xen trong Thạch Kiếm. Tay
kiếm sĩ này bị kẻ thù săn đuổi, được một em kỹ nữ chứa
chấp. Thấy mặt mày kiếm sĩ căng thẳng quá, em kỹ nữ mới
đi một đường truyền dậy bí kíp đánh đàn, và
em nói, y chang bí kíp đấu kiếm.
"Căng quá, thì giống thế này này”,
và em cầm kiếm đi một đường đứt hết dây đàn.
Đại khái vậy.
Một tay kiếm sư trong phim Scaramouche mà
Gấu coi từ hồi nhỏ cũng phán, cầm kiếm như cầm chim. Chặt quá,
nó nghẹt thở, chết; lỏng quá, nó bay mất.
Từ trước giờ TV cầm chim chặt quá, chết mẹ mất chim.
(1)
Bây giờ mới biết cầm!
NQT
(1) Cái tay cầm lỏng quá, theo Gấu, là
me-xừ Đỗ KH.
Còn một tay nữa, cầm chim cũng chặt quá, mặt
mày hầm hầm, như sắp O.K.
Corral tới nơi, thấy ớn, là PNH.
Đố bạn biết là ai?
Note: Đọc, bèn nhớ đến Steiner.
Ông cảnh cáo "Bắc Kít, Phát Xít, Nazít":
For let us keep one fact clearly in mind: the German language was not
innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn
ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê
gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép Lạ Hổng (The
Hollow Miracle)
Cái thứ tiếng dạy con nít hận thù, nhét
vô... mắt chúng đủ thứ tội ác bịa đặt của Mỹ Ngụy,
đâu phải tiếng Pháp?
NQT
1 Year Ago Today
Prague của Kafka
Kafka ra đời tại một building ở quảng trường Cổ Thành
Prague, ngày 3 Tháng Bẩy, 1883. Ông di chuyển vài
lần, nhưng không bao giờ ra khỏi thành...
See More
Kafka's Prague
KAFKA WAS BORN IN A building
on the square of Prague's Old Town on July 3, I883. He moved several times,
but never far from the city of his birth. His Hebrew teacher recalled him
saying, "Here was my secondary school, over there in that building facing
us was the university, and a little further to the left, my office. My whole
life-" and he drew a few small circles with his finger "-is confined to this
small circle."
The building where Kafka was
born was destroyed by a great fire in I889. When it was rebuilt in 1902,
only a part of it was preserved. In 1995, a bust of Kafka was set into the
building's outer wall. A portent of the Prague Spring, Kafka was finally recognized
by the Czech communist authorities, hailed as a "revolutionary critic of
capitalist alienation."
In a letter to a friend, he wrote:
"There is within everyone a devil which gnaws the nights to destruction, and
that is neither good nor bad, rather, it is life: if you did not have it,
you could not live. So what you curse in yourself is your life. This devil
is the material (and a fundamentally wonderful one) which you have been given
and which you must now make use of. . . . On the Charles Bridge in Prague,
there is a relief under the statue of a saint, which tells your story. The
saint is sloughing a field there and has harnessed a devil to the plough.
Of course, the devil is still furious (hence the transitional stage; as long
as the devil is not satisfied the victory is not complete), he bares his
teeth, looks back at his master with a crooked, nasty expression and convulsively
retracts his tail; nevertheless, he is submitted to the yoke. . . ."
Kafka ra
đời tại một building ở quảng trường Cổ Thành Prague, ngày
3 Tháng Bẩy, 1883. Ông di chuyển vài lần, nhưng không
bao giờ ra khỏi thành phố. Ông thầy dạy tiếng Hebrew còn
nhớ là vị học trò của mình có lần nói,
“Đây l ngôi trường trung học của tôi, ở chỗ kia kìa,
trong cái toà building đối diện chúng ta, là
đại học, xa tí nữa, về phía trái, là văn phòng
của tôi. Trọn đời tôi” – ông học trò khua vòng
vòng ngón tay – “thì đóng khung ở trong cái
vòng tròn nho nhỏ này”.
Tòa nhà nơi Kafka
ra đời, bị một trận cháy lớn tiêu hủy vào năm 1889. Khi
xây cất lại vào năm 1902, chỉ 1 phần được giữ lại. Vào
năm 1995, một bức tượng nửa người của ông được dựng lên trong
toà nhà, tường phía ngoài. Một điềm triệu của
Mùa Xuân Prague, Kafka sau cùng được nhà cầm quyền
CS Czech công nhận, như là một “nhà phê bình
cách mạng về sự tha hóa của chế độ tư bản”.
Trong 1 lá thư cho bạn,
Kafka viết, luần quần trong bất cứ 1 ai, là một con quỉ, nó
gậm đêm, đến tang thương, đến hủy hoại, và điều này,
đếch VC, và cũng đếch Ngụy, hay đúng hơn, đời Mít là
như thế:
Nếu bạn đếch phải như thế, thì bạn đếch phải là Mít!
Bạn không thể sống, đúng hơn.
Còn quỉ này là…
hàng – như trong cái ý, Nam Kít nhận họ, Bắc
Kít nhận hàng – và bởi thế, hàng này mới
thật là tuyệt vời, "ơi Thi ơi Thi ơi", một em Bắc Kít chẳng
đã từng nghe, đến vãi lệ, 1 giọng Nam Kít, phát
ra từ cặp loa Akai, tặng phẩm-chiến lợi phẩm của cuộc ăn cướp - Bạn ăn cướp
và bây giờ bạn phải sử dụng nó, làm cho nó
trở thành có ích… Trên cây cầu Charles Bridge ở Prague, có một cái
bệ, bên dưới 1 bức tượng thánh, nó kể câu chuyện
của bạn. Vị thánh trầm mình xuống một cánh bùn,
kéo theo với ông một con quỉ. Lẽ dĩ nhiên, con quỉ đếch
hài lòng, và tỏ ra hết sức giận dữ (và đây
là ý nghĩa của ẩn dụ, một khi mà con quỉ cuộc chiến
Mít chưa hài lòng, dù có dâng hết
biển đảo cho nó, thì chiến thắng đỉnh cao vưỡn chưa hoàn
tất), nó nhe răng, tính ngoạm lại sư phụ của nó 1 phát!
Trong tập tiểu luận,
GCC thích nhất, bài viết “Prague của Kafka”. Tác giả
lồng những cuộc thăm viếng thành phố của ông, với Prague của
Kafka. Ông trích dẫn một số thư từ của Kafka, và có
thể, đó là lý do GCC mê bài viết, thí
dụ câu sau đây, nó làm GCC nhớ Xề Gòn:
Prague isn't willing to leave nor will it
let us leave. This girl has claws and people must line up or we will have
to light a fire at Vysehrad and the Old Town Square before we can possibly
depart.
-Excerpt from a letter from Kafka to Oskar Pollak
Xề Gòn đếch muốn bỏ đi, mà
cũng đếch muốn GCC bỏ đi.
Ẻn có răng, có móng, có vuốt, sắc lắm!
UNDER EASTERN EYES
Dưới con mắt Đông phương
Có một cái gì
đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga
ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước
ra đi.
Khi dịch câu trên, Gấu nghĩ đến Nguyễn
Huy Thiệp, Văn Cao.
Nhất là NHT, và câu chuyện
do anh kể, “tớ” đã từng đi vượt biên, nửa đường bỏ
về, bị tay dẫn đường “xém” làm thịt!
Nhớ luôn cả cái tay phỏng vấn Gấu,
và câu mở đầu cuộc phỏng vấn, “off-record”, lần
Gầu trở lại đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách:
Tôi cũng đi vượt biên, mấy lần, mà
không thoát.
Nhưng, nhớ, nhất, là, Quê Người
của Tô Hoài.
Bài viết này thật
là thần sầu.
Một cách nào đó,
Gấu bị lừa, vì một “thiên sứ” dởm, bởi vậy, khi
Chợ Cá vừa xuất hiện là Anh Cu Gấu bèn cắp
rổ theo hầu SCN liền tù tì.
Gấu đọc NHT là cũng theo dòng “chuyện
tình không suy tư” như vậy: “chấp nhận” Tướng Về
Hưu, "thông cảm" với ông ta, sau khi góp phần
xây dựng xong xuôi Ðịa Ngục Ðỏ của xứ Mít,
bèn về hưu, sống nhờ đàn heo, đuợc vỗ béo
bằng những thai nhi, của cô con dâu Bắc Kít...
Lịch sử Nga là một lịch
sử của đau khổ và nhục nhã gần như không
làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai -
quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn
hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ,
một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị,
hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này
có thể chuyển dịch vào một thành ngữ của “the
Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga
là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là
cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ
nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên
của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay,
nó cũng có thể được hoá thân vào
trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là
Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC
Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ],
với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã
hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của
một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên,
tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn
lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung
của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng
thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa,
có một liên hệ tam giác [không phải ‘ba ngôi’
nhe], giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và
sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước,
cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định.
Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa
bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó
sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó
gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự
ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào
thực sự có thể chia sẻ, [trường hợp sống sót nào
cũng thuộc loại độc nhất vô nhị, đại khái thế], nhưng cũng
cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng
câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm,
tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng
cái từ “hoài niệm” này thì quả là
quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế!
Họ không quên những
điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng
họ lại hàm ý rằng, ui chao, may quá, những
điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại
Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ
thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết!
Chúng tôi đã
được Bác H., một Ðại Ma Ðầu, trị vì, chứ
không phải thằng Thiệu, đồ Việt gian, đồ Ngụy, đồ bán
nước!
Văn Hóa vs Cái
Ác Bắc Kít
“Je suis une sorte de survivant,
tôi chỉ tạm coi mình cũng 1 thứ sống sót.
Steiner viết như vậy về ông, là cũng
từ cái ý thế kỷ bửn mà không có
tí cứt trên người, là đếch có được!
Nhờ ông già khôn như… Bắc Kít, gia đình ông chạy
kịp trên chuyến tầu chót rời cựu lục địa qua Mẽo. Ông
già của ông sau đó, chắc cũng đau vì sống
sót nhờ khôn quá, khi ông con tính
định cư luôn ở Mẽo, bèn chửi, mi mà ở Mẽo thì
thằng Hít Le quá đúng rồi, quá có
lý, còn cái mẹ gì để mà nói
nữa, và ông con bèn ngộ ra liền, bèn về lại
Âu Châu, quanh quẩn bên mớ tro than Lò Thiêu.
Cái cú gia đình Steiner thoát
Lò Thiêu vào phút chót, gần
như 1 phép lạ, như ông kể với tờ The Paris Review,
(1) làm Gấu nhớ đến “phép
lạ Mỹ Cảnh”: Giả như Gấu, vào phút chót không
bật ra cái ý nghĩ, nhường cho hai ông bạn người
Phi hai ghế trong, quay lưng vào bờ, nhìn ra sông
Sài Gòn về đêm với ánh đèn chói
lòa tung tăng trên sóng nước, thì đâu
còn anh cu Gấu ở trên đời nữa?
Và nếu không được VC thưởng cho hai trái
mìn, thì Gấu dính cú Tổng Động Viên,
và có thể cũng mất xác rồi cũng nên, hà
hà!
Y chang chuyện tái ông thất mã!
Ly kỳ nhất, là cái lần đầu đi trình
diện, gặp tay y bác sĩ quân y, ông ta coi cái
hình cánh tay bị thương của Gấu, phán, đi.
Gấu cũng nghĩ thế, đi thì đi, sợ gì,
nhưng Tết đến đít rồi, thế là Gấu bèn trả lời,
OK, đi, nhưng ông cho tôi ăn Tết với gia đình 1
phát, rồi ra Giêng ngày rộng tháng dài,
tha hồ mà đi.
Ông ta bật cười, gật đầu, và cho Gấu
hoãn dịch 3 tháng.
Thế là những lần sau, mấy ông y sĩ khác
bắt chước ông thứ nhất, cho mày 3 tháng!
Viết/Đọc mỗi ngày
1 Year Ago Today
Thơ Mỗi Ngày
Underground Poems
Poems on the Underground The Wider World
... See More
Tôi rất thích đọc những tài liệu
của báo Văn, và những bài phê bình
đăng trước 75 của ông, như bài viết về Nguyễn Xuân
Hoàng và Thanh Tâm Tuyền. Những tài liệu
đặc sắc này đã giúp tôi kiếm đọc lại những
tác phẩm của các nhà văn này. (Hiện tôi
đang đọc Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền và hy vọng sẽ có
dịp chia sẻ với ông ở vị trí một người đọc tác
phẩm khoảng 60 năm sau lần xuất bản đầu tiên).
Một lần nữa, cám ơn ông. Kính
chúc ông mạnh khoẻ.
Trân trọng,
Đinh Từ Bích Thuý
Tks. Chúc Mừng Năm Mới
NQT
|
|
Trần Vũ viết bóng bẩy, hung bạo, cố gắng rắc rối nhưng thiếu nội lực. Nên chỉ hấp dẫn dân Việt Nam dốt. Sách Trần Vũ đã được dịch sang Pháp Văn, nếu khá thì bà con thế giới đã nhận ra. (BBP)
Reply