Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày

*

  Daily TV
Old

1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 13 14
15 16 17 18
19 20 21 22 23
24 25 26 27 28
29 30 31

















 









Last Page
Ngô Nhật Đăng liked this.
Lm Le Ngoc Thanh
February 18 at 8:19pm ·

QUYẾT NGHỊ về VIỆT NAM (CHXHCNVN) ĐƯỢC ĐẠI HỘI THẾ GIỚI VĂN BÚT QUỐC TẾ THÔNG QUA TẠI QUÉBEC, GIA NÃ ĐẠI (CANADA)

Dưới đây là toàn văn Quyết Nghị về Việt Nam. Dự thảo tiếng Pháp và tiếng Anh đã được tu chỉnh 48 giờ trước khi đại biểu Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại lên đường đi dự Đại hội. Bản tiếng Tây Ban Nha do Văn Bút Quốc Tế phiên dịch. Bản tiếng Việt do văn hữu Hà Tản Viên (Hà Nội) phiên dịch và nhà báo Nguyễn Ngọc (Thụy Sĩ), trợ bút. (Nguồn tin: nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việ...

Continue Reading


*
manhhai
Giao tranh tại khu vực CHOLON Tháng 6, 1968 - Tiệm Radio và điện LẬP THANH số 541 Đồng Khánh (góc ĐK-Mạnh Tử)
Ten (10) Viet Cong bodies lie in the street in Cholon where they were dragged by ARVN Rangers.
6 June 1968
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/25026209782/

Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất thây những người chết

Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho Gấu đi

Trong vương quốc của những người đã chết
Gấu vẫn thường thơ thẩn đi về... 


30.4.2014

Let the Past Collapse on Time!

“Dzhugashvili [Stalin] is there, preserved in a jar,” as the poet Joseph Brodsky wrote in 1968. This jar is the people’s memory, its collective unconscious.
“Stalin ở trong đó, được gìn giữ ở trong 1 lọ sành”, như Brodsky viết, vào năm 1968. Cái lọ sành là hồi ức của dân tộc, cái vô thức tập thể của nó.

“Tẫu Cút Đi”: Trong cái lọ sành đựng hồi ức của Bắc Kít, hình như đếch có chỗ dành cho Tẫu, trong cả hai cuộc chiến thần kỳ, chống thực dân cũ, Pháp, và mới, Mẽo.

“You were not who you were, but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.


Yiyun Li


Cái chuyện Miền Nam, tức Ngụy, chống Tẫu, thì rõ như ban ngày.
Còn cái chuyện Bắc Kít chống Tẫu, thì có cái gì đó cực kỳ vô ơn ở trong đó
Không có Tẫu, là cả hai cuộc chiến không có.
Nhìn rộng ra, nhìn suốt 1 cõi 4 ngàn năm văn hiến của... Bắc Kít, có hai yếu tố không có, lòng nhân từ và lòng biết ơn.
Hai yếu tố làm nên con người "hoàn toàn" [từ này của Mạc Xịt, l'homme total]
Vương Đại Gia, đại phê bình gia Bắc Kít phán, may mà có [văn học] Ngụy, sau khi...  phần thư nó.

Trên tờ Guardian số cuối tuần, có 1 bài viết về lòng biết ơn, khi nó xẩy ra đúng vào thời kỳ Lò Thiêu, thật tuyệt. TV post ở đây, và chuyển ngữ sau.

*

Tẫu tiến vô Cao Bằng

(

Cái cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực Bắc Bắc Việt không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi, mà mô phỏng Gulag của Xì.
Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là Trại Tù, Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng ra, thì chúng cũng không có nơi nào để mà trở về.
Trên TV có dành 1 trang để viết về cú độc này, tất nhiên của Thầy của VC, là Xì.
Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình tàn độc này.

Lạ, là không chỉ não bị sứt một mẩu, mà hồi ức VC cũng thủng 1 hố to tổ bố. Chúng chửi Tẫu ra rả, mà không hề nhớ, cái lông chim ngày nào của chúng, cũng “made in China”!



1 YEAR AGO TODAY
Thu, Feb 19, 2015
Quoc Tru Nguyen
February 19, 2015 at 7:07pm ·

Người anh hùng đã ra đi

http://viet-studies.info/NguyenNgoc_BuiNgocTan.htm

Note: Nếu BNT là anh hùng, thì là bà con với anh hùng Núp ư?...

See More
Người anh hùng đã ra đi | Nguyên Ngọc
Tôi quen anh Bùi Ngọc Tấn nhiều là từ khi đọc bản thảo “Mộng du”, tên ban đầu của “Chuyện kể năm 2000”, anh Tấn từ Hải Phòng gửi lên dự cuộc thi tiểu thuyết do nhà xuất bản Hà Nội tổ chức. Chị Hoàng Ngọc Hà giám đốc nhà xuất bản…
viet-studies.info


Harper Lee, To Kill a Mockingbird author, dies aged 89
http://www.theguardian.com/books/2016/feb/19/harper-lee-author-to-kill-a-mockingbird-dies-alabama

RIP

Umberto Eco, Italian novelist and intellectual, dies aged 84
The revered literary critic, author and essayist – most famous for 1980 novel The Name of the Rose – had been suffering from cancer
http://www.theguardian.com/books/2016/feb/20/italian-author-umberto-eco-dies-aged-84

RIP

Đinh Cường Tribute

 Tribute to PCL & VHNT

Thông báo của Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng
Sau 9 năm hoạt động trên internet (1995 - 2004), VHNT quyết định đình bản vì nhiều khó khăn trong việc điều hành và biên tập trong năm vừa qua. Thành thật cám ơn sự ủng hộ của bạn đọc, các thân hữu cộng tác trong thời gian qua.
Trân trọng
Nguồn

Quoc Tru Nguyen's photo.




ĐÀ LẠT,
NHỮNG ĐOẠN GHI RỜI

Đinh Cường

Mùa hè Đà Lạt thường mưa buổi chiều, mưa liên tiếp ba buổi rồi tạnh. Mưa núi buồn hơn mưa thành phố. Có thể ngửa bàn tay hứng những hạt mưa đá li ti rồi tan ngay. Mây xám thấp, sà xuống sát núi. Chỉ chừa lại một loé sáng . Một màu mây nếu vẽ lên tranh sẽ thấy thật dữ dội. Những cây thông già mờ đi trong từng đám mây băng qua. Và gió se lạnh. Phải kéo cao cổ áo. Đến một thành phố khác, tìm mua một tờ báo từ Sài Gòn lên như gặp được người quen, và người quen thường đến chậm. Đọc báo ở địa phương cũng gặp những nét riêng, biết được những sinh hoạt sinh động mà âm thầm ...
Đã lâu lắm rồi không qua lại đèo Ngoạn Mục. Từ Trại Hầm, Trạm Mát đến Trạm Bò, Cầu Đất để về Xóm Rẫy ... Chuyến xe đò lại vòng xuống Đức Trọng để rẽ qua con đường về Nha Trang . Trên đoạn đường qua Đơn Dương, tôi như lặng đi với bao nhiêu xúc cảm của một thời trai trẻ, đã sống những ngày tháng nồng nàn , với những bức tranh đầy sinh lực, thơ mộng .
Những đêm trăng trên cánh rừng dương xĩ , tiếng vượn hú giữa khuya , và bước chân của người bạn nhạc sĩ đến thăm lâng lâng sương khói lúc chiều tà :
Nhớ không Sơn rượu chiều Đơn Dương
bạn cùng ta uống cạn ...

Ban mai kéo nhau ra soi mặt bên giòng suối trong ... Lạc Lâm I , Lạc Lâm II , KaĐô, Đơn Dương . Mà sao cứ nhớ mãi .
"... Mặt đất này chen chúc muôn loài hoa , mỗi loài hoa có riêng một ngôn ngữ nói với riêng tôi là đoá dã qùy bao nhiêu năm rồi ở Đơn Dương, ở Đa Thọ mặt đất này có bao nhiêu miền lạ mỗi một miền có riêng một linh hồn mà linh hồn tôi mãi ở Đơn Dương ..." (Nguyễn Đạt)
Nhìn một rừng hoa qùy vàng dại bên đường, thật xúc động, khi bên cạnh là đứa con trai, hình ảnh tôi thời mới lớn, mà nay cũng đã biết thắp lên khoảng không những lời mịt mùng :
"Tôi cầm lửa đi qua chiều
thắp lên khoảng không mầu nhiệm
trí nhớ thả đều những tiếng rơi khô
mặt trời đỏ trên vai núi ..."
(Đinh Trường Chinh)

Xe qua đèo Eo Gió lồng lộng ... Nhìn xuống lũng sâu, những đoạn đường ngoằn ngoèo dưới đó . Qua hết đèo là Sông Pha , một dải đồng bằng . Trên con đường hun hút , bỗng gặp hai hàng phượng đỏ rực. Chưa thấy hàng phượng nào đẹp như phượng Tháp Chàm. Thân cây thấp, tiếp nối theo nhau một đoạn đường dài, đều đặn ...
Và biển đã hiện ra phía bên phải. Một đoạn biển Cà Ná cũng đủ dựng lên một cảnh trí. Nói chi đến những đồng muối trắng, rồi những vườn xoài bạt ngàn ở Cam Hòa. Muối được vun lên thành núi , và xoài cũng vun lên thành núi. Đẹp quá một đoạn đường đầu hạ đi qua. Lên rừng xuống biển. Mới thở sương mai Đà Lạt, chiều đã ngâm mình dưới biển Nha Trang. Màu nước xanh huyền diệu. Một bờ cát chạy dài bên con đường ven biển lộng gió . Đêm ra phố, lại tìm mua vài tờ báo. Đọc được mấy bài thơ ngắn của Nguyễn Đình Thi , mà nay anh vừa mới mất. Có bài "Hoa Không Quên" mà anh đã chép tặng tôi trong cuốn sổ tay năm 1987, hôm anh ghé Sài Gòn :
"Tím hồng trên vách đá
một đóa hoa
bé nhỏ cười với núi mây lộng gió
Đóa hoa không tên
từ rất xa
từ rất lâu
một ngày bỗng nở
Đoá hoa không quên
từ rất lâu
từ rất xa ..."

Phải, đoá hoa không quên, từ rất lâu , từ rất xa ... của tôi là đoá hoa phong lữ thảo trên những bồn hoa bên cửa sổ những ngôi nhà Đà Lạt , ngày nào.
Căn phòng thuê ở đường Roses, suốt mùa là những cánh hoa mong manh ấy, đủ màu, chen dưới những đốm lá xanh tròn. Căn phòng có cánh cửa không khóa , có ngọn đèn cháy cả đêm. Cả đêm, tôi say sưa vẽ, và Đỗ Long Vân say sưa dí mắt cận vào sách. Từng đống vỏ Bastos xanh. Từng khuôn mặt bè bạn : Thiệp, Sơn, Mai, Christian, Tường, Sâm , ... Căn nhà nay là một công sở lớn. Màu ngói màu sơn chói chan. Gió ở đâu lùa về qua hai hàng thông cao còn đó, làm tôi rùng mình ...

"Níu vai phố rộng xin về
Với cây gió trút với hè nắng rung "
(Bùi Giáng)

Có ai ngờ, một ngày, Bùi Giáng đã được mời lên Đà Lạt để quay một cảnh trong phim ...
Buổi chiều, như ngày xưa, thường ngồi ở Shanghai với Phạm Công Thiện, thời Thiện ở dưới căn phòng đường Yagut, say sưa viết về Saroyan, Henri Miller, ... Nay tôi lẳng lặng ngồi một mình một góc trên chiếc băng ghế da dài ở café Tùng. Ông Tùng mất đã hai năm nay. Còn bà Tùng và con trai cả tiếp tục trông coi quán . Café Tùng cũng như café Lâm ở Hà Nội, lâu năm nhất, một góc thân thuộc như linh hồn của phố, và của cả nghệ thuật ...
Vách bên trái vẫn còn treo bức Thiếu Nữ Xanh của tôi, đã 40 năm, từ hôm ông mua ở phòng triễn lãm tại Alliance Francaise Đalat, 1965 . Vách bên phải là bức Người Chơi Đàn Guitar, đầu cúi xuống, khổ lớn, màu nâu ấm, của Vị Ý . Phòng trong vẫn còn bức chân dung thiếu nữ với chiếc bandeau màu hồng nhạt của Cù Nguyễn.
Nhìn lại tranh xưa , qua thời gian tàn phai, qua hoàn cảnh đổi thay – ông phải giấu đi một thời gian dài mới đem ra treo lại – lần gặp tôi về thăm đầu tiên, ông nói vậy. Không biết bộ báo Bách Khoa đóng bìa da mà ông sưu tập đầy đủ, có còn không ...
Và nhà thờ Con Gà Đà Lạt, in dấu vào bao nhiêu tranh thiếu nữ của tôi đến ngày nay. Có lẽ ám ảnh từ thời "Les Dimanches de Ville d’Avray", phim đen trắng và cô bé Cybelle làm tôi cảm động ... "Chuyện phim kể về anh chàng đánh giặc về hơi khật khùng, thường đến đón một cô gái nhỏ bị bỏ rơi ở trường học ngày cuối tuần. Cô gái tên Cybelle (Si belle ?) . Một đêm lễ anh khật khùng leo lên đỉnh tháp chuông, gỡ con gà bằng đồng trên đó về cho cô gái để làm quà tặng. Người trong làng nghi ngờ anh ta bắt cóc cô gái và có tà ý . Anh ta bị bắn từ trên tháp chuông rớt xuống đất chết tốt , không kịp trối trăn ... " (Kiệt Tấn – Nụ Cười Tre Trúc – nxb Văn Nghệ, trang 140).
Khi qua Paris, tôi đã tìm đến thăm ngôi nhà thờ Con Gà ở thành phố nhỏ Avray, kề cận Paris, cũng vì để tìm lại bóng dáng nhà thờ Con Gà Đà Lạt một thời sương khói. Sương khói như trong "Một Chủ Nhật Khác" của Thanh Tâm Tuyền. Tập truyện được viết trong không khí của mùa hè nóng bỏng chiến tranh, trên thành phố cao rực rỡ rét mướt, một truyện tình lãng mạn, chứa chất những đam mê vô vọng.
Có đoạn làm nhớ khung cảnh L’eau Vive, quán ăn ấm cúng dưới một con dốc của các dì xơ, những muỗng, nĩa bạc, khăn bàn trắng, nến lung linh, bình hoa hồng sẫm...
Và Một Chủ Nhật Khác đã in xong đúng tháng 4, 1975 , thất tán. May Ngọc Dũng năm 75 trong hành lý xách tay mang theo, lại chỉ có quyển truyện này. Sau đưa cho cơ sở xuất bản Văn của Mai Thảo in lại bên này ...
Đà Lạt và đêm. Những đêm sương toả ngát trời, đứng bên đồi Lữ Quán Thanh Niên nhìn qua Domaine de Marie, ánh đèn lấp loá dưới xa như những ngọn hải đăng. Những đêm hoang vu nhất như người đi hái hoa phù dung ... mà trong bức tranh cũ : "Người Hái Hoa Đầu Địa Đàng" tôi đã ghi dấu. Đó là một đồi thông, ngựa và thiếu nữ, khăn voile bay, vầng trăng bạc ...
May là Đà Lạt vẫn còn thông ... "Thông với thơ là một. Trong núi thơ có đồi thông. Trong đồi thông có núi thơ. Núi thơ là đồi thông. Đồi thông là núi thơ ... " (Nguyễn Đức Sơn).
Tôi còn tìm được cho riêng mình cái mùi hăng hắc của nhựa thông, khi đêm lạnh về bên ánh lửa tàn, trước sân căn nhà nhỏ dưới con dốc sâu đường Trần Hưng Đạo của Thân Trọng Minh. Bạn đã đón tôi về, với ngụm trà thơm ngát ban mai, nhìn ra những bụi mimosa vàng.
Tôi còn giữ mãi hình ảnh Đà Lạt với màu mây dữ dội.

Virginia, 9.03

ĐINH CƯỜNG


Và Một Chủ Nhật Khác đã in xong đúng tháng 4, 1975 , thất tán. May Ngọc Dũng năm 75 trong hành lý xách tay mang theo, lại chỉ có quyển truyện này. Sau đưa cho cơ sở xuất bản Văn của Mai Thảo in lại bên này ..
DC
Tuyệt: Chi tiết là Thượng Đế trong văn chương, và còn trong "đời thực", như thế này, mới khiếp chứ!
Ui chao, Gấu lại nhớ ấn bản của Gấu, được nhà thơ đích tay thân tặng, một vài ngày, chắc cỡ đó, sau 30 Tháng Tư, 1975, Gấu vừa ra khỏi một "rehap", tại một con hẻm Sài Gòn, lấy cái vespa ghé thăm ông, hai anh em ra một quán cà phê gần nhà ông, khu Xóm Gà.
Và cũng chỉ ít tháng sau đó, chắc cỡ đó, Gấu Cái xé từng trang, sau khi đọc lần chót, rồi đưa vô bếp, thay cho củi...
Bài viết của DC có khá nhiều chi tiết là Thượng Đế trong đời thường.
Mấy bài thơ NDT.
"C
ả đêm, tôi say sưa vẽ, và Đỗ Long Vân say sưa dí mắt cận vào sách"
"Tôi còn tìm được cho riêng mình cái mùi hăng hắc của nhựa thông."
*
Hay, cũng DC:
Đêm trên phố khuya ấy là một kỷ niệm đẹp. Trong chúng ta, ai mà không có những góc phố kỷ niệm :
Níu vai phố rộng xin về
Với cây gió trút với hè nắng rưng

(Bùi Giáng)
Với Sơn thì :
Về trên phố cao nguyên ngồi
Tiếng gà trưa gáy khan bên đồi

như còn nghe rõ "ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì" của chúng tôi trên phố Blao, Đơn Dương, Đà Lạt ...
Nguồn

*
Tin Văn  @ VHNT n. 558
19.9.2003

Không dễ gì mà làm một người CS, và càng không dễ, làm một nhà văn CS.
TCS: Theo tôi, nhạc TCS có tới hai "đỉnh cao".
Đỉnh cao thứ nhất: Nó tiên đoán Mậu Thân, khi bắt đầu bằng những câu hát cho thấy sự bình an của hang ổ Mỹ Ngụy chỉ là giả tạo.
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.
Đỉnh cao thứ hai của nó: Người chết hai lần
Một lần cho cuộc chiến
Và một lần cho biển cả.

Ta`n tro trong gio'

Saturday, September 26, 2009 12:57 PM
From: "LVTA"
To:
Cha`o O^ng  Nguye^~n Quo^'c Tru.
Ba^'t ngo+` vo+'i tin Chi Lan tre^n calitoday & ho^m nay la^`n da^`u xem trang ta^n vie^n ne^n bie^'t O^ng va^~n cha(m so'c tin va(n tha^.t chu da'o va` co`n giu+~ la.i ca? va`i trang VHNTLM cu~ trong tra(m nga`n lo+'p a?o lie^n ma.ng cu+' tu+o+?ng ta^'t ca? da~ theo gio' cuo^'n hu't va`o hu+ kho^ng, nhu+ kho^ng!
Tin Ca^?n
LVTA, Canada

Phúc đáp:  Mấy số VHNT cũ, nhờ Alexa lưu giữ dùm.
Tks.
Lâu quá mới nghe tin LVTA.
Take care.
NQT

*

*

Tặng, lần Gấu qua Paris, tá túc nhà anh

Note: Gấu có viết về lần xém chết này rồi.
Do xổ tiếng Tây, khi hai thằng tranh cãi về tiểu thuyết mới, bị đám anh chị ngồi cũng ngồi trong quán, nóng mắt, bèn ra bên ngoài chờ, tính thịt.
May nhờ bà chủ quán cho người báo động, đi cửa sau, chuồn.
Sau này, ra hải ngoại, đọc bài viết của ông anh KT, mới biết, nhà của KT ở trong khu này. Quán cho người vô nhà báo động, ông anh chạy ra kéo ra cửa sau.

Những rừng đèn chai đứng dậy trong đêm khuya
Thơ Kiệt Tấn

* *

Hình như trong Cát lầy có một nhân vật tên là Kiệt, quả đúng y thị, tên của tôi. Kiệt là một nhân vật lừng khừng, dật dờ, sống cẩu thả, bê bối - tôi nhớ loáng thoáng. Có bận hỏi tác giả, Kiệt trong Cát lầy có phải phần nào đã đội lốt Kiệt tui ngoài đời chăng? Hoàng Ðế khẽ gật gù phán nhỏ: "Cũng có". Như vậy, vô tình tôi đã được đẩy vào văn học sử, và hết phương trở ra nữa. Than ôi, người ngay mắc nạn! Trời đã hại Sa Vệ! Khiến cho Hạng Võ phải biệt Ngu Cơ rồi tự ý cắt đầu giao cho ông lái đò trên dòng sông định mạng.

Kiệt Tấn

Nhân vật chính của Cát Lầy, tên Trí. Có lần, hỏi, ông cho biết, đúng, khi đặt tên Trí, ông có liên tưởng tới nhân vật làm thịt hụt ông Diệm trên cao nguyên Ban Mê Thuật thuở nào. Hình như Nguyễn Trương Thiên Lý, trong Ván Vài Lật Ngửa, có nhắc tới cú này?
Kiệt là nhân vật trong Một Chủ Nhật Khác. Trùng tên với Kiệt Tấn, trùng thêm vài chi tiết nữa, như du học, về trở lại. Nhưng dậy học Đà Lạt, thì lại giống tác giả. Chi tiết "Et , enfin", lại của một người khác, cũng, như KT, bạn tác giả.
Không hiểu, ngoài Trí ra, còn một nhân vật tên Kiệt, trong Cát Lầy?  
Chắc không, theo Gấu.


Kiệt ở trong Một Chủ Nhật Khác, khác với Kiệt Tấn ở một chi tiết rất quan trọng, là, anh người Bắc. Đi du học, quen một em, hai người đều tính không trở về, nhưng do bà cụ em đau nặng, em phải trở lại đất nước. Kiệt về vì em và đứa con sắp sinh, chẳng vì một lý do lớn lao nào khác nữa.
Còn một chi tiết quan trọng khác, về Kiệt. Anh đi du học, là do ông bố. Ông này không muốn đứa con chết vì cuộc chiến. Một thương gia người Bắc, rất khôn ngoan, bỏ Miền Bắc ngay sau khi ở hậu phương về Hà Nội, vô Nam lập nghiệp. Ông bố của Kiệt làm Gấu nhớ đến một ông bố của một cô bạn của Gấu. Ông này làm khổ Gấu nhiều lắm!
Có vẻ như TTT lấy nhiều chi tiết của ông này, cho ông kia.

Thành thử cái chuyện Kiệt trở về, để sau đó chết lãng nhách, vì bị lầm với một ông VC, nó có nhiều 'ẩn dụ' ở trong đó lắm.
Theo Gấu, những nhân vật của TTT đều từ đời sống bước vô văn học, nhưng sau đó, họ đều có những đời sống riêng, khác hoàn toàn nguyên mẫu.
(1)

Cô bạn ở đây, là BHD. Ông bố của Kiệt, trong MCNK, là từ ông bố BHD ngoài đời. Và đúng là BHD không muốn Gấu phải gọi ông ta là bố, nên bye bye Gấu.
Ta không muốn làm nhục mi, nếu mi lấy ta, thì phải gọi ông ta bố.
BHD còn 1 người em trai học giỏi lắm, tên Hưng, đi du học, rồi từ luôn gia đình, chỉ giữ mối liên hệ máu mủ, qua BHD.
Khi bán căn nhà ở Ngã Sáu Gia Long, hai chị em ký giấy nhường hết phần của họ cho đám còn lại.
Chỉ có mỗi Gấu là được cái ân huệ, đưa cho ta tí tiền lẻ, để ta bù vô tiền chợ ta lỡ tiêu quá đi 1 chút, và không muốn phải giải thích với bố mẹ ta...

Ui chao, liệu 1 khi đi xa, vẫn còn nhớ...  BHD?

Ân huệ, hay ân sủng?
Một Chủ Nhật Khác

Cuốn này, MCNK, sống sót là nhờ Ngọc Dũng mang theo những ngày bỏ chạy 30 Tháng Tư, 1975. Cơ sở Văn của MT sau đó cho xb.
Bản trên net, có, là nhờ Nguyễn Đông Ngạc, trước khi té xuống, dặn bà vợ đưa cho GCC.
Gấu đọc nó, thì cứ liên tưởng tới Cuộc Tình Bỏ Đi, Tender Is the Night, của Fitz
Cái tít tiếng Việt, của Mặc Đỗ. Ông dịch những cuốn thần sầu. Anh Môn, Cuộc Tình Bỏ Đi....
Lạ, là mấy cuốn này, chúng quen biết nhau. MCNK, Anh Môn, Cuộc Tình Bỏ Đi, Gatsby. Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby.

Cali 2012 With H/A

* *

*

Liệu bạn có thể tưởng tượng cuốn sách khổng lồ, là Bách Khoa Toàn Thư Tin Văn Toàn Tập, và cuộc gặp gỡ trên, là giữa GCC và… độc giả TV, trong 1 buổi ra mắt sách ở Tiểu Sài Gòn?

Yes, sure, why not?


Re: Editing and publishing... 

Today at 4:54 PM 

It's exactly right! Why not? Hooray...
Happy New Year, Gau Nha Van.
H/A


Tks
Take Care


The Moon
for Maria Kodama

There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.

J.L. Borges

Trăng

Có cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.


Valentine's Day

Thơ Mỗi Ngày

Ta thấy hình ta những miếu đền

Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương

Mai Thảo

THE POET PROCLAIMS HIS RENOWN

The span of heaven measures my glory.
Libraries in the East vie for my works.
Emirs seek me, to fill my mouth with gold.
The angels know my latest lyrics by heart.
The tools I work with are pain and humiliation...
Would that I had been born dead.

-from The Divan of Abulcasim el Hadrami (twelfth century)

LE POÈTE PROCLAME SA RENOMMÉE

Le cercle du Ciel est la mesure de ma gloire,
Les bibliothèques de l'Orient se disputent mes vers,
Les emirs me cherchent pour emplir ma bouche d'or,
Les anges savent déjà par coeur jusqu' à mon dernier zejel,
Mes instruments de travail sont l'humiliation et l'angoisse;
Plut à Dieu que je fusse né mort.

GCC đòi vinh danh là nhà văn của thế kỷ... 21

Bầu trời là thước đo vinh quang của GCC
Thư Viện Đông Phương cãi nhau ỏm tỏi
Vì những bài Tạp Ghi thần kỳ của GNV
VC xin gặp Gấu để mời về làm Trùm Văn Học xứ Mít
Những thiên thần thuộc lòng thơ của Gấu
Dụng cụ viết văn của Gấu là tủi nhục, và đau thương.
May quá, Gấu không chết lần vượt biển ở Vũng Tầu!
[Nguy
ên văn, giá mà G sinh ra và ngỏm liền củ tỏi!]

LIMITES

II y a une ligne de Verlaine don’t je ne dois plus me ressouvenir,
II y a une rue toute proche qui est défendue à mes pas,
II y a un miroir qui m'a vu pour la dernière fois,
II y a une porte que j'ai fermée jusqu'à la fin du monde.
Parmi les livres de ma bibliothèque (je les ai devant mes yeux)
II doit y en avoir un que je n'ouvrirai jamais plus.
Cet éte j'aurai cinquante ans ;
La mort me rogne, incessante

JULIO PLATERO HAEDO,
Inscripciones
(Montevideo, 1923).

Giới hạn

Có 1 dòng thơ của TTT, Gấu không làm sao nhớ ra
Có 1 con phố ngay gần nhà, Gấu không được đặt chân tới.
Có 1 cái gương nhìn thấy Gấu lần chót
Có 1 cái cửa Gấu đóng lại cho đến Tận Thế
Trong số sách thư viện của Gấu (đang hiển hiện ra trước mắt Gấu)
Phải có 1 cuốn mà Gấu sẽ chẳng bao giờ mở ra nữa
Mùa Thu này Gấu gần tám bó
Cái chết gặm Gấu suốt ngày đêm

*

Trong cuốn này có cái thư Tsvetaeva gửi cho Xì Ta Lỉn, xin tha cho chồng và con gái

Tribute to Robert Walser
Susan Sontag Memoriam

Susan Sontag, the writer and activist whose powerful intellect helped shape modern American thinking for nearly half a century, died yesterday at the age of 71. Wednesday December 29, 2004
The Guardian
Tác giả Nhìn nỗi đau của những người khác, Susan Sontag vừa mới mất, ngày 28 tháng Chạp, 2004, thọ 71 tuổi 

1.

Phỏng vấn Susan Sontag

PV: Cuộc phỏng vấn này bị hoãn mấy lần, vì những chuyến đi của bà tới Sarajevo, mà nghe bà nói, đây là một trong những kinh nghiệm dữ dằn nhất trong đời. Tôi đang nghĩ tới chiến tranh và sự hiện diện của nó, tái đi tái lại, trong tác phẩm của bà.
Sontag: Tôi đã từng tới Bắc Việt, hai lần, khi Mỹ ném bom. Chuyến đầu, tôi kể lại trong "Đi Hà Nội, Trip to Hanoi". Và khi xẩy ra cuộc chiến Yom Kippur War vào năm 1973, tôi tới Israel thực hiện phim Đất Hứa, ngay tại tiền tuyến. Bosnia là cuộc chiến thứ ba của tôi.
-Trong Đất Hứa, bà viết, "Đề tài của tôi là chiến tranh, và bất cứ thứ gì dính dáng tới chiến tranh, mà lại có vẻ sạch quá - nguyên văn, 'mà không nói lên tính cụ thể khốn kiếp của huỷ diệt và chết chóc' - là bố láo."... Bà có tính viết về Sarajevo?
Không, tôi muốn nói, chưa. Chắc là còn lâu. Và không phải dưới dạng tiểu luận, hay phóng sự. Con trai tôi, David Rieff, tới đó trước tôi, và đã viết một thứ phóng sự-tiểu luận về nó. Một người trong gia đình viết về sự diệt chủng ở Bosnia, là đủ rồi. [Vả chăng].... tới đó để chứng kiến, để than thở, để chường bản mặt của mình ra, như muốn nói lên một kiểu mẫu trí thức, nghĩa là không đồng lõa... như vậy cũng là đủ rồi. Đó là những bổn phận của một con người, một con người tin vào hành động đúng, không phải của một nhà văn.
[Trích Điểm Sách Paris]

 "Trong một đoạn tuyệt vời của phim Xa quá Vietnam [Far From Vietnam], nhà làm phim người Pháp, Godard đã cho rằng, thật tốt, nếu mỗi người chúng ta làm bật ra, một con người Việt nam, từ bên trong của chính chúng ta, đặc biệt, với những người không thể tới đó [ông bị Hà Nội từ chối không cho giấy nhập cảnh, khi tính tới quay phim về Bắc Việt]. Quan điểm của Godard, từ Che mà ra, là, để phá vỡ bành trướng Mỹ, cách mạng có nhiệm vụ tạo ra "hai, ba, nhiều Việt nam", theo tôi thật là đúng. Trong bốn năm qua, Việt nam bám chặt lấy tôi, ở trong đầu, ở dưới da, ở một chỗ quái quỉ nào đó trong dạ dầy. Nhưng..."
Susan Sontag: Chuyến đi Hà Nội


Sách & Báo Mới
NL vs Camus

à, Camus lại còn cái nữa rất là hehe: tủ sách mà Camus phụ trách cho nhà Gallimard tên là "Espoir" tức là hy vọng, nghe là đủ biết rồi đấy.
Blog NL

"Espoir" ở đây, gốc của nó, là từ Kafka, như khi Camus viết về ông:

Camus nhìn ra, cả hy vọng lẫn phi lý, ở n
ơi
Kafka: Nói đến hy vọng ở đây, không phải tiếu lâm, cà chớn (ridicule). Bởi vì, càng bi thảm tới cỡ nào là nỗi ở đời của những nhân vật của Kafka, hy vọng càng ngược ngạo chừng đó...

Hay nói như Kierkegaard,
"Phải đập nát bấy hy vọng trần gian, để làm bật ra hy vọng thứ thiệt, và được cứu rỗi, nhờ nó"
(On doit frapper à mort l’espérance terrestre, c’est alors seulement qu’on se sauve par l’espérance véritable – Kierkega
ard: La Pureté du coeur: Sự Trong trắng, trinh nguyên của trái tim).

*

Les critiques de notre temps et KAFKA
présentation par Claudine Raboin
Assistante à l'Université de Paris X - Nanterre

Gaston Bachelard/Roger Bauer/Daniel Biégel/Maurice Blanchot/André Breton/Max Brod/Albert Camus/Elias Canetti/Paul Claudel/Daniel-Rops/Claude David/Michel Dentan/Vladimir Dneprov
Albert Ehrenstein/Wilhelm Emrich/Gesine Frey/Roger Garaudy/Eduard Goldstucker/Maurice Gravier/Ingeborg Henel /Eugène Ionesco/Claude-Edmonde Magny/Maurice Marache/
Fritz Martini/Hans Mayer/Robert Musil/Heinz Politzer/Marthe Robert/Jean-Paul Sartre/Walter H. Sokel /Jean Starobinski/Homer Swander/Alexandre Vialatte/Klaus Wagenbach
   
Albert Camus

L’espoir et l’absurde dans l'oeuvre de Kafka


    L’oeuvre d'art étant pour A. Camus « elle-même un phénomène absurde” », on ne s 'étonnera pas de trouver dans Le Mythe de Sisyphe une interprétation de l'oeuvre de Kafka. En effet, Camus voit en lui un de ces « romanciers philosophique” que sont les grands romanciers modernes [« c'est-à-dire, ajoute-t-il, le contraire d’écrivains à thèse”]. Si la situation métaphysique de l'homme moderne est l'absurde, Kafka, rapproché ici de Dostoievski, en est le romancier lucide conscient. « Le Procès, dit Camus, est une oeuvre absurde dans ses principes » : on y trouve, en effet, les paradoxes et les contradictions propres à la littérature de l’absurde; le choc des deux mondes où se meut Kafka, celui de la vie quotidienne et celui de l'inquiétude surnaturelle, produit cette « révolte inexprimée », ce « désespoir lucide et muet » - créateurs, et caractéristiques du genre - que les personnages assument avec une « liberté d'allure», une simplicité et un naturel tout aussi caractéristiques.
Cette inquiétude surnaturelle mène les héros de Kafka - tout particulièrement dans Le Chateau - aux confins de l'absurde, et c'est là que se produit le « saut» qui fonde une autre espérance : « Son verdict incroyable acquitte, pour finir, ce monde hideux et bouleversant où les taupes elles-mêmes se rnêlent d'espérer. »
C. R.

Albert Camus, Le Mythe de Sisyphe, essai sur l' absurde, © ed, Gallimard, Paris, 1943.

Hy vọng và Phi lý trong tác phẩm của Kafka

Tác phẩm nghệ thuật với Camus, là 1 hiện tượng phi lý - "chính tác phẩm của ông thì cũng rứa - và, người ta chẳng ngạc nhiên, khi coi Huyền thoại Sisyphe, của ông như 1 diễn dịch tác phẩm của Kafka.
Đúng như vậy, Camus nhận ra Kafka, như 1 trong những "tiểu thuyết gia triết học", như những tiểu thuyết gia hiện đại, khác đám tiểu thuyết gia luận đề.

Camus 100


&

Tặng bạn quí của ta [Sartre]
GCC [Camus]

Je fus placé à mi-distance de la misère et du soleil
Albert Camus: L'envers et l'endroit

Tôi được đặt để, ở giữa quãng đường, một bên là sự khốn cùng, và một bên là mặt trời.

Đó cũng là số phận của…  Gấu.
Sự khốn cùng, là, nửa ở Miền Bắc
Nửa còn lại, có Mặt Trời - không phải Mặt Trời Địa Trung Hải của Camus - mà là Mặt Trời Miền Nam.
Một khi mất nó, Gấu khóc than thảm thiết!
(1)
Camus 100

“And Simone Weil - for there are dead people who are closer to us than many of the living.”
"Và Simone Weil- bởi là vì có những người chết gần gụi với chúng ta hơn, so với nhiều người kẻ đang sống"

TTT, khi viết, “Những người đã chết đều có thực”, là cũng từ cùng 1 nguồn cảm hứng trên, theo GCC.

WHEN THE INTELLECTUAL AND LITERARY WORLDS had reduced him to a plague victim's isolation, only one honest man had the courage to extend a brotherly hand, and help him survive: Albert Camus. A deep friendship developed between the two writers, cemented further by their shared admiration for Simone Weil.

Khi thế giới trí thức và văn chương xua đuổi ông tới tận cùng, đầy ông vô sự trơ trọi cô độc của 1 thứ nạn nhân bịnh dịch, chỉ 1 người đàn  ông lương thiện, nhân hậu có can đảm đưa bàn tay bạn bè ra, và giúp ông sống sót: Albert Camus. Một tình bạn sâu xa nẩy nở giữa hai nhà văn, càng thêm bền chặt như xi măng nhờ lòng ngưỡng mộ mà cả hai cùng san sẻ, dành cho Simone Weil.

    Where Camus is concerned, it's impossible to overstate the extent to which Simone Weil's thought and example counted in his intellectual and spiritual life, from the end of the war until his premature death. This is a point that even his best biographers have not adequately treated, thereby confirming Emerson's view, according to which literary biography is a vain undertaking, since it tells of lives in which, by definition, the most significant events have unfolded in silence and invisibility. And yet here, the material evidence is abundant. From 1948, Camus undertook the publication, in the "Espoir" collection that he directed for Gallimard, of Simone Weil's main writings on social and political questions, L'Enracinement (The Need for Roots) and La Condition ouvrière. (Of all the titles in the collection, these were the only ones that had any real success.) Along with Gustave Thibon (for the philosophical and religious texts) he was thus one of the very first and most ardent guardians of Simone Weil's work and memory. Above all, Simone Weil became a constant inspiration for his own reflection, as many passages in his Notebooks testify. Furthermore, in Stockholm, on the occasion of the Nobel Prize, he gave the most vibrant public confirmation of her influence. During the press conference before the ceremony, when he was asked which living writers mattered to him most, he named various Algerian and French friends, and add: “And Simone Weil - for there are dead people who are closer to us than many of the living.”

    Ten years earlier, the publication of Simone Weil's writings had led him to get in touch with her family, who welcomed him warmly, especially Mrs. Bernard Weil, herself a remarkable woman. Milosz also got to know her, and after Camus's death - which devastated Mrs. Weil - he continued to visit her. At the end of his essay on Simone Weil, Milosz notes a touching and revealing detail: on the day Camus learned that he had been awarded the Nobel Prize, hounded by a horde of journalists and photographers, he took refuge at Mrs. Weil's. And we know that for Camus, tormented by self-doubt, the crushing distinction was in many ways an ordeal - far from reassuring him, it left him unmoored. Just as, in a moment of sudden distress, a believer's natural reflex is to go into a church, the atheist Camus felt the irrepressible need to collect himself in the room where the young Simone had mediated and written.

Cách đọc Kafka, của Camus, theo Claudine Raboin, trong lời giới thiệu cuốn sách của bà mà trích đoạn sau đây cho thấy, giới tinh anh Tẩy đọc Kafka, bằng cái tinh thần Tẩy của họ.
Với Camus, Kafka có mùi hiện sinh, phi lý, thí dụ.
May quá, theo tác giả cuốn sách, chỉ có E. Mounier, trong "Giới thiệu những chủ nghĩa hiện sinh", tuyên bố, “tôi không xếp hạng Kafka, không thể xếp hạng” 

Quelques articles ont été consacrés à la diffusion de l'oeuvre de Kafka en France. Citons d'abord de Maja Goth, un livre intitulé “Kafka et les lettres francaises”, en 1956 : l'auteur montre comment Kafka fut d'abord et surtout connu «sous le jour du pittoresque et de l'exotisme ». Mais pendant la guerre, sous l'occupation, un public élargi -l'adaptation du Procès à la scène en 1947 l'élargira encore - retrouve dans Kafka le monde qui l'entoure («la guerre nous fait vivre Kafka», écrit M. Goth). C'est l'époque aussi où Camus reconnait en Kafka un grand écrivain de l'absurde. Marthe Robert, dans un texte publié en 1961 dans Le Mercure de France, et dont elle reprend les conclusions dans l'article que nous reproduisons ici (9), explique que les Francais ont cherché à comprendre Kafka en le rattachant d'abord à un mouvement intellectuel francais, au surrealisrne ou à l'existentialisme par exemple, et non à un mouvement littéraire allemand; ainsi s'est établie la popularité d'un écrivain qui semblait ne venir de nulle part et s'adresser à la généralité des hommes. Les surréalistes, qui traduisirent les premiers récits publiés en France (La Metamorphose et Le Verdict), ne virent là que le caractère fantastique d'une réalité qui semblait relever uniquement d'un monde onirique. L'existentialisme, celui de Sartre et celui de Camus, - Kafka est cornmente à la fois dans Le Mythe de Sisyphe et dans L'Être et le Néant - a été attiré par l'impression de contingence et d'absurdité qui se dégage de certaines situations où s'enfoncent les heros. Heureusement, dans L'Introduction aux existentialismes, Emmanuel Mounier déclare: “Je ne classerai pas Kafka inclassable.”
Claude Prevost, auteur d'une étude exhaustive intitulée À la recherche de Kafka (10) reconnait avec de nombreux critiques que la posterité de Kafka en France relève non plus de la littérature, mais de la magie, et souligne le « caractère mythologique» de l'idée qu'on a pu se faire de Kafka. L'article de Hans Mayer (11) nous apprend qu'en Allemagne la situation n'est guère meilleure.

(9). Voir Citoyen de l'utopie, p. 45.

CR: Introduction

Cái ghê gớm nhất của Camus, mà tất cả đạo hạnh của ông nhờ đó, mà có, là sự can đảm. Một mình chống lại tất cả, và sau cùng, chỉ một mình mình đúng. Đây là điều mà Milosz nhận ra, khi vinh danh ông, và trong bài viết của Người Kinh Tế, khi coi Camus là Ông Hoàng Của Sự Phi Lý cũng nhận ra:

Camus, Albert

Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn [L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông viết như một con người tự do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con người tự do là con người chống Mẽo, phò Xô Viết,  nói theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir, xẩy ra đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre dậy dỗ Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ còn có một chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.
Czeslaw Milosz

Prince of the absurd
In search of the real Camus
Jan 7th 2010

Ông Hoàng của Sự Phi Lý

Khi Camus bị tử nạn xe cộ cách đây 50 năm, vào ngày 4 tháng Giêng, ông 46 tuổi, đã được Nobel văn chương và cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông, Kẻ Xa Lạ, giới thiệu tới độc giả trên toàn thế giới một thứ triết học về sự phi lý. Tuy nhiên, vào thời điểm ông mất, Camus thấy mình là một tên bị xã hội ruồng bỏ, tứ cố vô thân tại Paris, bị nhạo báng bởi Jean-Paul Sartre và những trí thức tả phái khác, họ tố cáo thứ suy tư tự do của ông, là từ chối không chịu hò theo những quan điểm chính trị đang ăn khách. Như cô con gái của ông nói: “Bố tôi thì cu ki, chỉ có mình bố tôi” [“Papa was alone.”]
Lịch sử nhận ra Camus ở về phía của rất nhiều giải pháp đạo đức của thế kỷ 20. Ông gia nhập Kháng chiến Pháp chiến đấu chống Nazi, biên tập nhật báo chui Chiến đấu. Hô hào bãi bỏ án tử hình. Một thời đã từng theo CS, tác phẩm chống chế độ toàn trị Con người phản kháng, xb năm 1951, có trong nó những cảm nhận đáng kể về những cái ác của chủ nghĩa Stalin, và đưa đến cú đoạn tuyệt với Sartre, vào lúc đó vẫn bảo vệ Liên Xô và từ chối kết án hệ thống nhà tù Gulag.
Camus bỏ Algeria về đất liền Pháp quốc, nhưng Algeria không hề bỏ ông. Khi cuộc nổi dậy chống thực dân thuộc địa nổ ra vào những năm 1950, sự từ chối gia nhập vào lời kêu gọi hợp lề luật, bien-pensante, cho một nền độc lập đã bị coi là một hành vi phản quốc bởi đám tả phái người Pháp. Ngay cả khi khủng bố tấn công những người Algiers, Camus vẫn đòi hỏi một cách vô ích một giải pháp liên bang, cùng với một nơi chốn cho người định cư. Khi ông tuyên bố thật lẫy lừng, “Tôi tin tưởng ở công lý, nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công lý”, ông bị tố cáo là một kẻ biện hộ cho chủ nghĩa thực dân thuộc địa. Gần 40 năm sau, Mr Lenzini kiếm ra tông tích người cựu sinh viên Algerian đã gây hấn vì lời tuyên bố trên tại một cuộc họp báo, anh ta thú nhận, vào lúc đó, anh ta chưa hề đọc bất cứ một tác phẩm nào của Camus, và sau đó, đã bị ‘sốc’ và cảm thấy mình chẳng là gì khi đọc Camus viết về sự nghèo khổ của những người Ả Rập.

The public recognition that Camus achieved in his lifetime never quite compensated for the wounds of rejection and disdain from those he had thought friends. He suffered cruelly at the hands of Sartre, Simone de Beauvoir and their snobbish, jealous literary clique, whose savage public assassination of Camus after the publication of “The Rebel” left deep scars. “You may have been poor once, but you aren't anymore,” Sartre lashed out in print.
“He would remain an outsider in this world of letters, confined to existential purgatory,” writes Mr Lenzini: “He was not part of it. He never would be. And they would never miss the chance to let him know that.” They accepted him, says Mr Tanase, “as long as he yielded to their authority.” What Sartre and his friends could not forgive was the stubborn independent-mindedness which, today, makes Camus appear so morally lucid, humane and resolutely modern.

Cái sự được nhìn nhận ghê gớm như thế, về tài năng của “chàng”, không làm sao làm dịu đi, cái sự tàn nhẫn khốn kiếp, của bạn quí của chàng, đối với chàng, nhưng chàng đếch cần. Chàng ở bên ngoài cái lũ khốn kiếp nhà văn nhà veo, chàng “chưởi búa xua, tứ phía”….

Điều mà Sartre và bạn bè của ông, không tha thứ cho Camus, là sự bướng bỉnh của 1 tâm hồn độc lập, điều bây giờ, làm cho ông xuất hiện trước mắt chúng ta, thật trong sáng về lương tâm, thật nhân bản, và hiện đại 1 cách thật quyết liệt.

*

Cuốn này, lạc xon, Gấu mua vì cái tay mũi lõ nào đó, quá mê Camus, đọc kỹ lắm.
Thế rồi lại mua xon 1 cuốn nữa, cũng nó, nhưng bìa khác!
Đọc OK lắm. Giới thiệu những ai cần, nếu quan tâm tới Camus.

Story-Bearers

Marina Warner

Je parle toutes les langues, mais en arabe

by Abdelfattah Kilito

 ‘I speak all languages but in Yiddish,’ Kafka remarks in his Diaries; and when it came to writing, he might have chosen any one of them, besides German. We now read him in all languages, receiving glimpses, like faraway signals at sea, of the original German, and beyond the German of the other languages that made up Kafka’s mindscape, with Yiddish beating out a bass line, familiar ground. Echoing Kafka, the Moroccan writer and scholar of Arabic literature Abdelfattah Kilito declares ‘I speak all languages but in Arabic,’ in the title of his recent collection of essays. Kilito is a writer who reads (not all do) – and widely, in several languages. He’s an amphibian creature, living in Arabic and French with equal agility, and ambidextrous with it, continuing to use one language or other at will for his critical studies or his ‘récits’ – his gnomic, often poignant memoirs and fictions. 

Tôi nói tất cả thứ tiếng, bằng tiếng Do Thái, Kafka phán, trong Nhật Ký của ông. Và khi viết, thì bên cạnh tiếng Đức, ông có thể viết bằng bất cứ 1 trong những thứ chữ. Và bây giờ, chúng ta đọc ông, trong tất cả các thứ tiếng, và nhận được, những loáng thoáng, như những ký hiệu xa xa ở mặt biển, của tiếng gốc Đức, và quá nó, của những thứ tiếng khác, chúng làm thành “mindscape” của ông, với tiếng Do Thái, như là tiếng đập giữ nhịp [a bass line, familiar ground].
Lập lại Kafka, nhà văn Ma Rốc và nhà học giả văn học Ả Rập, Abdelfattah Kilito, tuyên bố, tớ nói tất cả tiếng nói, bằng tiếng Ả Rập, trong cái tít của tuyển tập tiểu luận mới ra lò. Ông là 1 nhà văn đọc rộng vài ngôn ngữ, một sinh vật lưỡng cư - vừa ở trên cạn, vừa ở dưới nước, sống thoải mái, lanh lẹ như nhau, ở trong tiếng Ả Rập và tiếng Tẩy, thuận cả hai tay với nó, tiếp tục sử dụng, hoặc tay phải, hoặc tay trái, để đi những đường tiểu luận hay “récits” - những giả tưởng, hồi ức có tính châm ngôn, thường là nhức nhối.


Độc giả TV, đọc mẩu trên, là nhìn ra cái sự thê lương của cõi văn Mít.
Không rành tiếng Mít; tiếng mũi lõ thì mù tịt, chưa kể cái mảng ăn cướp mà kêu là khai hóa, giải phóng của thứ tiếng Bắc Kít.
Sở dĩ cái đám Miền Nam bỏ chạy, không tên nào ra hồn, vì chúng học tiếng mũi lõ, không phải để hiểu văn hóa, văn học của 1 giống dân nào khác, mà để chuồn.
Khủng khiếp thật.

Viết mỗi ngày



Lò Thiêu @ France

Dear father
A haunting memoir of a young Holocaust survivor

But You Did Not Come Back.

By Marceline Loridan-Ivens. Translated by Sandra Smith. Faber; 100 pages; £12.99.

Nhưng bố tôi không trở về

Đây là 1 cuốn sách nhỏ với giọng lớn.
Tác giả mất 70 năm, trước khi có thể viết ra được.
Vào năm 15 tuổi, Tháng Tư, 1944, cô gái và ông bố bị bắt ở ngoài vườn, trong khu vực Pháp bị Nazi đô hộ, và bị tống xuất, ông bố tới Auschwitz, cô gái tới Birkenau.
Cô gái trở về.
Đây là lá thư dịu dàng, đau nhức, hối hận của tình yêu, của cô con gái, viết cho ông bố chẳng bao giờ trở về.
Hồi nhớ của cô gái xoay quanh hy vọng bất thành, làm sao nhớ ra được những từ cha mình viết trong lá thư, được lén lút đưa cho cô con gái, khi cả hai bị giam giữ trong trại tử thần.
Vào lúc đó, cô con gái được phân công đào hố, chôn xác chết từ phòng hơi ngạt.
Cô lầm bầm nói với chính mình, "những từ bố mình dùng, hình như là nói về tình yêu, hy vọng, nhưng làm gì còn nhân loại ở trong tôi…. Tôi phục vụ thần chết. Tôi là 'phù thăng' [thằng phu, người dọn dẹp], là cái cuốc, cái xẻng của nó."

Saigon ngày nào của GCC
*

Ui chao, lục báo cũ, lôi ra được 1 bài "thần tiên", Khói Thánh, [ML Juin 2007, về Juilen Gracg, tên cổ điển cuối cùng]
A chaque jour suffit son tabac
Mỗi ngày 1 bi, đủ rồi
Nhớ tôi, người chơi, mấy bi thuốc?


Cảnh đẹp VN

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

Thơ JHV

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

War_Pix
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life

Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi


Blog TV

Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Bếp Lửa trong văn chương

Báo Văn [Phê Bình] cũ, có bài của GCC

Mù Sương
Hồi Ký Viết Dưới Hầm
Nghĩ về phê bình
Mây Bay Đi
Nguyễn Du giữa chúng ta
  "Tạp Ghi" by Tuấn Anh
Chữ và Việc
TSVC
Nhã Tập
Truyện Kiều ABC

Xuân Vấn Đề Kỷ Dậu

Truyện ngắn Võ Phiến

Những ngày ở Sài Gòn
nhà xb Hoàng Đông Phương

Mộ Tuyết
[Hồi bắt đầu đi làm]

Happy Birthday GCC

Cali 3.08

Cali Tháng Tám 2011

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

Cali 2012 With H/A

Lolita vs BHD