Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975 công
chức
Bưu
Điện [Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb
Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan Anh
chủ trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới, Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết Mỉm
Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới, 1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali, 2004]
Viết
chung
với
Thảo Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới, 2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển qua
Nhật Ký
Tin
Văn, và
chuyển
về những
bài
viết liên
quan.
*
Một
khi kiếm,
không
thấy
trên
Nhật Ký,
index:
Kiếm
theo
trang có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục, ở đầu trang
Tin Văn.
Email
Nhìn
lại
những trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở trên
Tin Văn,
ngoại trừ
những bài
có
tính
giới thiệu,
chỉ
để sử dụng cho
cá
nhân
[for personal
use],
xài
thoải mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương 2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM W.
G. SEBALD
|
TTT 10 years Tribute
Gió O tưởng niệm TTT [1926-2006]
http://gio-o.com/
Marina
Tsvetaeva
Trần
Hồng Tiệm FB
February 29 at 12:01am ·
dịch cho Văn Hoàng Đỗ
những bài thơ về matxcơva
bảy quả đồi như bảy quả chuông
trên bảy quả chuông - những tháp chuông
đếm tất cả - bốn mươi lần bốn chục
thất sơn khâu bảy quả đồi chuông
tôi sinh ra vào đúng ngày vàng
chuông ngân vang ngày lễ thánh gioan
nhà - bánh ngọt, còn xung quanh hàng giậu
những nhà thờ nho nhỏ những chóp vàng
tôi yêu sao yêu quá tiếng chuông đầu
như các sơ tuôn đến buổi lễ chầu
yêu tiếng rít trong lò và giấc nồng cháy
bỏng
lẫn bà lang hàng xóm chốn sân vườn
hãy dẫn tôi cả matxcơva du thủ
bọn tiên si, trộm cắp, tâm thần
đức cha ơi, bít miệng con chặt nữa
bằng đất matxcơva vang vọng chuông ngân
M. Tsvetaeva
* tiên si là dịch từ khlyst, những người theo giáo
phái chịu đòn roi để hiệp thông với chúa.
#thodichdonga #thongadonga
Семь холмов -- как семь колоколов!
На семи колоколах -- колокольни.
Всех счетом -- сорок сороков.
Колокольное семихолмие!
В колокольный я, во червонный день
Иоанна родилась Богослова.
Дом -- пряник, а вокруг плетень
И церковки златоголовые.
И любила же, любила же я первый звон,
Как монашки потекут к обедне,
Вой в печке, и жаркий сон,
И знахарку с двора соседнего.
Провожай же меня весь московский сброд,
Юродивый, воровской, хлыстовский!
Поп, крепче позаткни мне рот
Колокольной землей московскою!
from Poems for Moscow
Seven hills-like
seven bells,
seven bells toll in the seven bell towers.
All forty times forty churches, all seven hills
of bells, every one of them counted, like pillows.
I was born in the ringing of bells
on the saint's day of John the Theologian.
Over the wattle fence, our gingerbread house-
dropped its crumbs for SaintJohn the Theologian.
I loved it first: the first ringing-
the nuns sweeping to mass in the warmth of sleep-
the crack of the fire catching in the stove-
seven bells, seven bell towers.
Come with me, people of Moscow,
you crazy, looting, flagellant mob!
And priest-place on my tongue
all of Moscow, the city of bells!
Có tí
khác:
Qua phên giậu, nhà hàng xóm
của chúng tôi,
Thả những mẩu vụn bánh ngọt của nó cho Ngày Thánh
Gioan
Và tu sĩ – hãy đặt lên
lưỡi của ta
Tất cả Moscow, thành phố của chuông ngân
from Poems for Moscow
From my hands-take
this city not made by hands,
my strange, my beautiful brother.
Take it, church by church-all forty times forty churches,
and flying up the roofs, the small pigeons;
and Spassky Gates-and gates, and gates-
where the Orthodox take off their hats;
and the Chapel of Stars-refuge chapel-
where the floor is-polished by tears;
take the circle of the five cathedrals,
my coal, my soul; the domes wash us in their darkgold,
and on your shoulders, from the red clouds,
the Mother of God will drop her own thin coat,
and you will rise, happened of wonderpowers
-never ashamed you loved me.
MARCH 31 1916
8.
So how does one attempt to translate the work that even poets of Russia
find too demanding? Translators usually cite Tsvetaeva's famous temperament.
"Next time I will be born not on a planet, but on a comet!" she wrote. With
bravery, they announce their ambition to imitate her music in English-to
stay "faithful" to the music.
Merely acknowledging an attempt to imitate Tsvetaeva's
sounds produces just that: an attempt at imitation that cannot rise to the
level of the original. This may occur because of the translator's lack of
skill or because the "receiving" language, English, is an entirely different
medium at a very different point in its development, a point at which the
particular sound effects mean entirely different things.
We do not claim to do better. In fact, Jean
Valentine and I do not claim to have translated her. To translate is to
inhabit. The meaning of the word ekstasis is to stand outside of
one's body. This we do not claim. (We wish we could, one day.) Jean Valentine
and I claim we are two poets who fell in love with a third and spent two
years reading her together. If translation-as most translators are eager
to claim-is "a closest possible reading," then this is not translation; it
is a notation, a midrash. These pages are fragments, notes in the margin.
"Erase everything you have written," Mandelstam says, "but keep the notes
in the margin."
So, what is this enterprise? Our two temperaments differ
vastly from Tsvetaeva's, but we are drawn by her magnetism and so we continue
reading her together. Just that: reading lines, fragments, moments; two years
of two poets reading a third is an homage.
What would Tsvetaeva herself think of the many English
translations of her work? She translated Rilke, famously. She translated
Shakespeare, too, and Rostan, and Lorca-into Russian. She also translated
Mayakovsky, Pushkin, and Lermontov into French. She translated herself into
French as well, devoting a great deal of time and care to it. Was she faithful?
Not at all. She also translated from languages she did not know: Georgian,
Polish, Yiddish. Most of her translations are far from literal. "I tried to
translate," she wrote, "but then decided-why should I get in my own way? Moreover,
there is a lot the French would not understand which is clear to us. The
result was I rewrote it."
Scholars call her best work of translation-her take
on Baudelaire's "Voyage"-a work translated "not from French into Russian"
but from "Baudelaire into Tsvetaeva."
* zaurn refers to the pure play of language, "beyonsense"
Afterword
Một người ngoại toan tính dịch thơ Tsvetaeva sẽ
đụng phải vấn đề mà ngay cả những thi sĩ Nga cũng cảm thấy thật căng,
Và, có thể, người đó sẽ nhớ tới câu phán
cực kỳ nổi tiếng, ấy là nói về tính khí của
bà, kiếp sau tôi sinh ra, không phải trên 1 hành
tinh, a planet, nhưng mà là 1 ngôi sao chổi, a comet.
Với sự can đảm, tham vọng của người dịch sẽ là bắt chước âm
nhạc của bà trong tiếng Anh – nghĩa là trung thành
với âm nhạc.
Ngưỡng mộ bà, nhà thơ Balmont đã từng viết, bà
đòi hỏi ờ thơ điều chỉ âm nhạc đem lại.
Penguin
Russian Poetry
Answer
I'm certainly not a Sibyl;
my life is clear as a stream.
I just don't feel like
singing
to the rattle of prison
keys.
(1930s)
Anna Akhmatova
Robert Chandler
Trần
Hồng Tiệm
trả lời
tôi hoàn
toàn không phải là đồng cốt
cuộc đời tôi trong vắt tựa suối
nguồn
mà đơn giản tôi không
muốn hát
dưới tiếng leng keng của khóa
nhà tù
những năm 1930
anna akhmatova
Ответ
И вовсе я не пророчица,
Жизнь моя светла, как ручей.
А просто мне петь не хочется
Под звон тюремных ключей.
1930-е годы
Анна Ахматова
#thodichdonga #thongadonga
Note: Bản tiếng Anh, cũng vậy.
Có tí khác, tôi
không muốn hát theo tiếng leng keng...
Do đọc ba chớp ba nháng,
nên
dịch trật.
Bài thơ Pasternak tưởng niệm
Tsvetaeva cũng dịch trật, nhờ bạn K sửa giùm
Tks all and sorry abt that
NQT
Trả lời
Tôi chắc chắn không
phải là 1 Sybil;
Đời tôi thì
trong sáng như là con suối
Tôi chỉ không
thích nghe
Tiếng leng keng của chùm
chìa khoá
Nhà tù
Sibyl, là
bà đồng, như Mít gọi, người nói ra những sấm ngôn.
Đây là nick của Akhmatova. Số phận của bà giống của
Cassandra.
The sibyls were women that the ancient Greeks believed were oracles.
The earliest sibyls, according to legend, prophesied at holy sites. Their
prophecies were influenced by divine inspiration from a deity; originally
at Delphi and Pessinos, the deities were chthonic deities. In later antiquity,
various writers attested to the existence of sibyls in Greece, Italy, the
Levant, and Asia Minor. [Wiki]
Cassandra, nhân
vật trong thần thoại Hy Lạp, được thần Apollo ban cho tài tiên
tri, nhưng do từ chối tình yêu của Apollo nên bị thần
trù eỏ, mi tiên tri, nhưng đếch ai tin điều mi tiên
tri.
Trong bi kịch Agamemnon của Aeschylus, Cassandra cảnh cáo đám
Mít Miền Nam, đừng rước Yankee mũi tẹt vô, đừng đuổi Yankee
mũi lõ. Đếch ai nghe. Thế là mất mẹ Miền Nam. Đến lúc
đó, lời tiên tri mới thành hiện thực!
Nhưng ít người biết số phận của Cassandra, sau khi thành
Troy bị mất. Em bị Yankee mũi tẹt bắt, hãm hiếp, và trao
cho Víp Va Ka, Trùm VC nằm vùng, làm bồ nhí.
Nhưng em bị ám sát, và thê thảm là,
em nhìn thấy trước tất cả những điều này!
Hà, hà!
Một Bóng Đêm Giữa Ban Ngày
Khác
The
New York Review of Books
March 15 at 9:41am ·
Last summer a German doctoral student working in the Zurich Central
Library made a remarkable discovery, one that will transform our understanding
of Arthur Koestler’s finest novel. For Darkness at Noon is a book that,
until now, was known to the world only in translation.
A Different ‘Darkness at Noon’
Last July a
German doctoral student named Matthias Weßel made a remarkable discovery:
a copy of the German manuscript of Arthur Koestler’s masterpiece. The implications
are considerable, for Darkness at Noon is that rare specimen, a…
nybooks.com|By Michael Scammell
Speaking in tongues
Trang Bolano
A PERFECT STORY
A while ago, at a lunch with Nicanor Parra,
the poet made mention of the stories of Saki, especially one
of them, "The Open Window," which is part of the book Beasts
and Super Beasts. The great Saki's real name was Hector Hugh
Munro and he was born in 1870 in Burma, which in those days was a British
colony. His stories, heavily seasoned with black humor, generally
belong to the genre of horror and supernatural fiction, so popular among
the British. When World War I broke out, Saki enlisted as a volunteer,
a fate he could surely have avoided by virtue of his age (he was over
forty), and he died fighting at Beaumont-Hamel in 1916.
During that long postprandial
conversation, which lasted until nightfall, I thought about
a writer of the same generation as Munro, though stylistically
he was very different: the great Max Beerbohm, who was born in London
in 1872 and died in Rapallo, Italy, in 1956, and who, in addition
to stories, wrote novels, newspaper pieces, and essays, without ever
giving up two of his first loves: drawing and caricature. Max Beerbohm
may be the paradigm of the minor writer and the happy man. In other
words: Max Beerbohm was a good and gracious soul. When we finally took
our leave of Nicanor Parra and the Caleuche and returned to Santiago,
I thought about the story that I believe is Beerbohm's best, "Enoch Soames,"
which was included by Silvina Ocampo, Borges, and Adolfo Bioy Casares
in the magnificent and often hard to find Antologia de
la literatura fantastica [Anthology of Fantastic Literature]. Months
later I reread it. The story is about a mediocre and pedantic poet whom
Beerbohm meets in his youth. The poet, who has written only two books,
one worse than the next, befriends the young Beerbohm, who in turn becomes
an involuntary witness to his misfortunes. The story thus becomes not
just a testament to the life of all poor fools who in a moment of madness
choose literature, but to late nineteenth-century London. Thus far, of
course, it's a comic tale, vacillating between naturalism and reportage
(Beerbohm appears under his real name, as does Aubrey Beardsley), between
satire and the broad brushstrokes of costumbrismo. But
suddenly everything changes, absolutely changes. The critical moment
comes when Enoch Soames, lost in thought, glimpses his mediocrity. He's
seized by despair and apathy. One afternoon Beerbohm runs into him at a
restaurant. They talk, and the young narrator tries to cheer up the poet.
He points out that Soames's financial situation is all right, he can live
on his income for the rest of his life, maybe he just needs a holiday. The
bad poet confesses that all he wants to do is kill himself and that he
would give anything to know whether his name will live on. Then someone
at the next table, a man with the look of a scoundrel or miscreant, asks
permission to join them. He introduces himself as the Devil and he promises
that if Soames sells him his soul he'll send him into the future, say
one hundred years, to 1997, to the British Library Reading Room where Soames
often goes to work, so he can see for himself, in situ, whether his name
has stood the test of time. Despite Beerbohm's pleas, Soames accepts. Before
he leaves he agrees to meet Beerbohm again at the same restaurant. The
next few hours are described like something out of a dream-a nightmare-in
a Borges story. When at last they meet again, Soames is as pale as death.
He really has traveled to the future. He couldn't find his name in any
encyclopedia, any index of English literature. But he did find the
Beerbohm story called "Enoch Soames," in which, among other things,
he's mocked. Then the Devil comes and takes him away to hell, despite
Beerbohm's efforts to stop him. In the last lines there's still a final
surprise, having to do with the people Soames claims to have seen in the
future. And there's yet another surprise, this one much smaller,
concerning paradoxes. But these two final surprises I'll leave to the
reader who buys the Antologia de fa literatura fantdstica or
who rifles through libraries in search of it. Personally, if I had to
choose the fifteen best stories I've read in my life, "Enoch Soames" would
be among them, and not in last place.
Roberto Bolano: Between Parentheses
Truyện ngắn tuyệt hảo
Theo Bolano, truyện ngắn tuyệt hảo, là
"Enoch Soames"
của Max Beerbohm, trong cuốn truyện quái
dị, do Borges & friends biên tập.
Thú vị làm sao, GCC có
cuốn này.
Book
of Fantasy
Sách
& Báo Mới
The
disaster takes care of everything
Maurice Blanchot, 1980
To hide and feel guilty would be the beginning of defeat
Milan Kundera, 1978
Hegel says somewhere that all great historic facts and personages
recur twice. He forgot to add: "Once as tragedy, and again as farce. "
-Karl Marx, 1852
Câu này, THNM, áp dụng vô xứ Mít, tuyệt!
Trước 1975, thảm họa, sau, trò hề.
Cũng vưỡn nó, Cái Ác Bắc Kít!
I can't go on, I'll go on.
-Samuel Beckett, 1953
1894: Alexandria
ONLY THIS
You said: "I'll
go to some other land, I'll go to some other sea
There's bound to
be another city that's better by far.
My every effort
has been ill-fated from the start;
my heart-like something
dead-lies buried away;
How long will my
mind endure this slow decay?
Wherever I look,
wherever I cast my eyes,
I see all around
me the black rubble of my life
where I've spent
so many ruined and wasted years."
You'll find no new
places, you won't find other shores.
The city will follow
you. The streets in which you pace
will be the same,
you'll haunt the same familiar places,
and inside those
same houses you'll grow old.
You'll always end
up in this city. Don't bother to hope
for a ship, a route,
to take you somewhere else; they don't exist.
Just as you've destroyed
your life, here in this
small corner, so
you've wasted it through all the world.
C.P.
Cavafy, "The City." Born in Alexandria in 1863 to Turkish Greeks, Cavafy lived
in Liverpool for seven years before returning to Egypt to begin a thirty-year
career in its ministry of public works. "The City" is one of only a handful
of poems he published during his lifetime; he circulated the majority of them
among his acquaintances in homemade booklets bound with pins. In 1919 his
friend E.M. Forster helped introduce his work to the English-speaking world
in an essay that described Cavafy as "standing absolutely motionless at a
slight angle to the universe. »
Note: Bài
thơ này, TV đã có dịch, nhưng kiếm không ra
THE CITY
You said: 'I'll go to another land, I'll go to another sea.
Another city will be found, a better one than this.
My every effort is doomed by destiny
and my heart - like a dead man - lies buried.
How long will my mind languish in such decay?
Wherever I turn my eyes, wherever I look,
the blackened ruins of my life I see here,
where so many years I've lived and wasted and ruined.'
Any new lands you will not find; you'll find no other seas.
The city will be following you. In the same streets
you'll wander. And in the same neighborhoods you'll age,
and in these same houses you will grow grey.
Always in this same city you'll arrive. For elsewhere - do no
hope-
there is no ship for you, there is no road.
Just as you've wasted your life here,
in this tiny niche, in the entire world you've ruined it.
C.P. Cavafy
Bạn nói: “Tớ sẽ đi tới một biển trời khác,
Và sẽ kiếm thấy một Sài Gòn khác, bảnh hơn Sài
Gòn này.”
Mọi cố gắng của tớ thì đều bị số phận trù ẻo
Và trái tim của tớ – như một người chết – bị chôn vùi.
Tớ còn phải nức nở than van bao lâu nữa, trong cái thành
phố thối rữa như thế này?
Nhìn đi đâu, về hướng nào,
Thì cũng vẫn những điêu tàn đen đủi, là cuộc
đời của tớ mà tớ nhìn thấy,
Ở một nơi trong bao tháng năm, tớ hoang phế đời mình."
Bạn sẽ chẳng tìm thấy một biển trời mới mẻ nào đâu,
nghèo mà ham!
Sài Gòn sẽ tò tò bám theo bạn, như một
con đỉa đói!
Cũng vẫn những con phố đó,
Nào ngã tư Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao (1) nào
con hẻm 72 Thị Nghè,
Nào Đống Rác Chợ Cũ, nào Xóm Ken bên kia
Thủ Thiêm
Vẫn những chòm xóm đó mà bạn cứ thế mà
mòn mỏi, tàn tạ đi
Mớ tóc xam xám, rồi muối tiêu, rồi bàng bạc,
rồi trắng toát!
Vẫn Sài Gòn mà bạn sẽ tới!
Ui chao đừng hy vọng, đừng trông mong,
Chẳng có tầu, mà cũng chẳng có đường.
Như bạn tàn tạ cuộc đời của bạn, ở đây.
Ở Sài Gòn-Toronto này!
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|