|
Last Page
Tiễn DC
Thơ Mỗi Ngày
Face nhắc lại bài về Tô Thuỳ Yên do Hoàng
Kim Oanh sưu tầm năm rồi:
NÓI VỀ THƠ, NGƯỜI LÀM THƠ VÀ NGƯỜI ĐỌC THƠ
28 Tháng 1 2015 lúc 19:10
Tô Thùy Yên
... Continue Reading
Nhà thơ Tô Thùy Yên
đang nói chuyện tại buổi ra mắt sách tạiHouston (Ảnh Nguyễn
Hoàng Nam)
Tribute to
Robert Walser
Magazine Littéraire, Avril 2003, có 1 cuộc trò chuyện
đặc biệt với, Peter Utz, tay viết tiểu sử Robert Walser, về những bản viết
bí mật, les écrits secrets, của nhà văn chết bên
lề đường, tức là về cuốn này:
Sách &
Báo
@ tiệm sách cũ
Instead of the book he's meant to write, Rudolph, a Viennese
musicologist, produces this tale of procrastination, failure, and
despair, a dark and grotesquely funny story of small woes writ large
and profound horrors detailed and rehearsed to the point of distraction:
his sister, whose help he invites, then reviles as malevolent meddling;
his 'really marvelous' house, which he hates; the illness he nurses;
his ten-year-long attempt to write the perfect opening sentence; finally,
his escape to the island of Majorca, which turns out to be the site of
someone else's very real horror story.
"Certain books-few-assert literary importance instantly,
profoundly. This new novel by the internationally praised but not
widely known Austrian writer is one of those-a book of mysterious
dark beauty....
[It] is overwhelming; one wants to read it again, immediately,
to re-experience its intricate innovations, not to let go of this
masterful work."
-John Rechy, Los Angeles Times
"Rudolph is not obstructed by some malfunctions in part of
his being- his being itself is a knot. And as Bernhard's narrative
proceeds, we begin to register the dimensions of his crisis, its self-consuming
circularity ... Where rage of this intensity is directed outward,
we often find the sociopath; where inward, the suicide. Where it breaks
out laterally, onto the page, we sometimes find a most unsettling artistic
vision."
-Sven Birkerts, The New Republic
Widely acclaimed as a novelist, playwright, and poet, Thomas
Bernhard (1931-89) won many of the most prestigious literary prizes
of Europe, including the Austrian State Prize, the Bremen and Bruchner
prizes, and
Le Prix Seguier.
Như Cioran, Thomas Bernhard là 1 trong những tác
giả ảnh hưởng lên Linda Lê, và nhận xét
của tờ The New Republic, về tác phẩm “Concrete”
trên đây, của Thomas Bernhard, có thể áp dụng
cho LL.
Không có gì trục trặc ở nơi nhân
vật chính, nhưng đời của anh ta, chính nó, là
1 cục nghẹn, và theo dòng kể, độc giả ghi nhận những
chiều hướng của cơn khủng hoảng của anh ta, cái “vòng
quanh miệng chén, tự nó thiêu hủy chính nó
…"
Khi cơn giận dữ hướng ngoại, chúng ta nhận ra, đây
là 1 con người hục hặc với xã hội; khi hướng nội, nó
đưa đến tự tử, tự làm thịt mình.
Khi nổ ra trên mặt giấy trắng, theo dòng chữ,
chúng ta có được cái viễn ảnh nghệ thuật rắc
rối, loạng quạng nhất.
Những dòng của tờ Los Angeles Times, áp
dụng cho LL cũng đặng. "Certain books-few-assert literary importance
instantly, profoundly. This new novel by the internationally praised
but not widely known Austrian writer is one of those-a book of mysterious
dark beauty...."
Vài cuốn sách, vừa ra lò là gây
chấn động, vì sự thâm sâu, quan trọng. Cuốn này
được thế giới khen, nhưng ít người biết đến cái nhan
sắc bông hồng đen của nó…
Đêm Giữa Ban Ngày [thuổng nhà văn người
tù lương tâm Mít VTH]
Ba tì!
Mua, vì cái hình bìa, và
vì những dòng gạch chi chít, của chủ nhân
cũ, của cuốn sách.
GCC đọc cuốn sách, đúng thời gian 1954, và
không làm sao nhớ ra được cái lỗ trên cánh
cửa, spy-hole, tiếng Việt gọi là gì, và có
lần dịch đại là “lỗ đầu ruồi”!
Nhảm thực!
Nhưng cái cảnh anh cựu Trùm, nhân vật
số 2 trong Đảng, gí mẩu thuốc lá cháy đỏ vào
lòng bàn tay, để thứ sức chịu đựng của mình,
trước những trận đòn tra tấn sắp tới, bám chặt lấy Gấu.
Ông già Gấu cũng đã từng bị bắt, và
bị làm thịt vì họa đảng phái hồi 1945
Mít vs Lò
Thiêu
Trọng Lú dưới cái nhìn
của Người Kinh Tế qua Đại Hụi Bịp: Trò
ma nớp của loài bò sát
Chính
trị xứ Mít VC
Politics in Vietnam
Reptilian manoeuvres
Trò ma nớp của loài bò sát
A colourful prime minister goes, as the grey men stay
Một vì thủ tướng màu mè ra đi, một
lũ muối tiêu ở lại
Note:
Bảnh thật, đám lề trái cũng không
nghĩ ra nổi, hình ảnh 1 lũ bò sát ở Đại Hội Bịp,
và cái chết của vị đại cha già dân tộc,
là con rùa vàng, biểu tượng của bốn ngàn năm văn minh Sông
Hồng, nằm chết lều bều trên mặt Hồ Gươm!
Carry on, Nguyen Phu Trong
Cố lên, Trọng Lú, đừng
để chết lâm sàng!
Nhiệm
vụ Đảng giao, cố mà mang, dù sắp xuống lỗ rồi!
Khi vị Đại Cha Già, hậu duệ Thần Kim Qui, “Thiên
Sứ…. Rùa” của xứ Mít, được phát giác
ngỏm, nằm lềnh bềnh 1 đống trên mặt Hồ Gươm, đúng vào
đêm “trừ tịch”, sáng ngày hôm sau Đại Hụi Bịp
lần thứ 12, rất nhiều người Mít tin rằng đây là điềm
gở giáng xuống chế độ toàn trị VC.
Thiên Sứ Rùa, theo truyền thuyết, đã từng
hiện thân, trên mặt Hồ Gươm, để lấy lại thanh thần kiếm,
trước đó, cho Vua Mít mượn, để đánh đuổi giặc Tẫu,
thế kỷ 15.
Viết/Đọc mỗi ngày
Mother's Day
By Richie
To U, my Mom, with Love.
Mother's Day, 2010
Nóng
Mẹ chồng
và nàng dâu sống cùng nhà với nhau thời
này đã hiếm, nàng dâu và mẹ chồng thân
nhau như mẹ con ruột lại còn hiếm hơn. Tôi may mắn có
được cả hai thứ hiếm hoi ấy. Thành ra, tôi luôn bỏ chữ
“chồng” đi liền sau chữ “mẹ”, kể cả khi kể chuyện…
Cuối tuần trước, mẹ gọi tôi ra góc vườn, nơi có
chiếc xích đu dưới bóng mát cây bàng,
ngọt ngào:
- Ngồi xuống đây con, mẹ con mình tâm sự…
Tôi ngồi xuống, nắm lấy tay mẹ, nheo mắt cười:
- Mẹ lại muốn kể chuyện thời oanh liệt phải không?
Mẹ cười hiền, bẹo má tôi:
- Bao nhiêu oanh liệt thời quá khứ mẹ kể cho con nghe hết
rồi còn gì. Hôm nay mẹ muốn nói chuyện tương lai
kia.
Tương lai có gì mà đáng nói? Chồng
tôi là con một, là người thừa kế duy nhất căn biệt
thự này. Thằng cu Beo sau này cũng sẽ là người thừa
kế duy nhất khi hết đời vợ chồng tôi. Tương lai của cái nhà
này xem ra có thể đoán trước được rồi. Nhưng có
vẻ như mẹ đang muốn nói về cái tương lai khác. Mẹ thở
dài, nhìn xa xăm:
- Từ ngày về hưu, ba mày sinh ra đổ đốn!
Điều này tôi biết và cứ ngỡ là giấu được
mẹ để bà ấy khỏi buồn. Tôi nắm chặt tay mẹ hơn:
- Thôi mẹ ạ, ba sinh tật vài bữa rồi lại chán thôi.
Mẹ lắc đầu:
- Không đâu con, càng ngày càng hư
đốn. Chuyện ông ấy đi bia ôm bia iếc với bạn mẹ không
thèm để ý. Nhưng hôm rồi mẹ mới phát hiện ra
ông ấy đang cặp bồ với một con bé còn nhỏ hơn cả tuổi
của con…
Tội nghiệp mẹ, tôi an ủi:
- Dù sao ba mẹ cũng có đến mấy chục năm hạnh phúc!
Mẹ cười, giọng vui vẻ hơn:
- Thì vậy! Thiệt ra bây giờ mẹ chỉ lo nhiều hơn buồn.
Tôi trấn an với tư cách chủ tài khoản gia đình:
- Mẹ khỏi lo, ba toàn cho gái… à, không,
toàn xài bằng tiền lương hưu và quỹ đen giấu giếm
lâu, không ảnh hưởng đến kinh tế gia đình đâu
ạ.
Mẹ nhếch mép:
- Không phải mẹ lo chuyện tiền bạc. Mẹ lo sau này con dâu
của mẹ cũng lâm vào hoàn cảnh như mẹ bây giờ.
Con biết đó, thằng chồng con, con trai mẹ… nó là thằng
đào hoa có tiếng. Hồi chưa cưới con nó đã “quậy”
có tiếng rồi.
Chuyện này tôi cũng biết, nhưng tôi ngạc nhiên:
- Nhưng như thế thì có liên quan gì đâu
hả mẹ?
Mẹ nhìn tôi thương hại:
- Sao lại không? Cha nào con nấy! Ba nó trước kia
đàng hoàng biết bao nhiêu mà giờ còn
hư hỏng vậy huống chi là nó. Mai kia nó mà…
già thì con sẽ khổ gấp nhiều lần so với mẹ bây giờ,
con dâu ạ!
Tôi giật mình, không phải là không có
lý!
Tối hôm ấy, tôi nói hết những băn khoăn sau buổi
trò chuyện với mẹ cho chồng nghe. Anh ấy bật cười, ung dung đứng
dậy đi lấy cho tôi một cuốn… tiểu thuyết và nhẹ nhàng:
- Đúng là cha nào thì con nấy. Anh ví
dụ như anh và ba cùng đọc cuốn tiểu thuyết có phần
đầu đầy trắc trở và phần kết rất có hậu này. Nhưng
anh đọc xuôi từ đầu đến cuối, còn ba thì đọc ngược lại,
em hiểu không?
Tôi lắc đầu, ngơ ngác. Chồng tôi thở dài rồi
nói như hét vào mặt tôi:
- Nghĩa là anh bắt đầu “quậy” ngay từ thời trẻ, “quậy” chán
rồi nên càng về già anh càng đàng hoàng.
Còn ba, ông ấy trẻ không chơi nên già sinh
đổ đốn, em hiểu chưa?
Lần này thì tôi hiểu nhưng vẫn gắt chồng:
- Anh làm gì mà hét lên vậy, không
sợ thằng cu Beo nó nghe thấy à?
Tôi bực bội mở cửa ra ngoài. Thấy cu Beo đang ngồi đọc
truyện, tôi lại gần, ôm vai con:
- Con đọc xuôi hay đọc ngược vậy con?
Beo trố mắt nhìn tôi:
- Đọc xuôi chứ, sao mẹ lại hỏi vậy?
Tôi thở phào:
- Tốt, đọc xuôi là tốt con à. À, mà
này... con đã thích bạn gái nào trong
lớp chưa?
Con trai tôi trợn mắt:
- Dạ chưa, mà sao mẹ lại hỏi vậy?
Tôi ấp úng:
- Thì nếu có, mẹ… mẹ sẽ cho con tiền dẫn bạn gái
đi ăn kem và xem phim!
Quý tử của tôi há hốc miệng nhìn mẹ lắc đầu
rồi cúi xuống lẩm bẩm:
- Chắc tại mấy hôm nay trời nóng quá…
Nguồn: Blog Cô Gái Đồ Long.
Còn
cái này thì thuổng trong số báo Granta, Winter, 2004, về
Mẹ, Mothers.
Bác sĩ:
Báo tin buồn cho
cô biết, bà mẹ chồng của cô chết vì đau tim.
Cô con dâu của bà mẹ chồng Bắc Kít trợn mắt,
hét:
Vô lý!
Đến lượt ông bác sĩ trợn mắt:
Sao?
Bả đâu có tim!
[To O., from K/GNV]
Mới đây, dưới một status của
tôi bàn về thủ tướng, một bạn đã vào bình
luận, “chị cứ thử về làm thủ tướng đi, xem chị có làm
được không”. Tôi ở vào 'tình cảnh' không
về được, chứ đừng nói tới chuyện 'làm thủ tướng'.
Kiểu 'khích tướng' này
không phải là hiếm gặp trong các bình luận
trên các trang mạng xã hội, hay trong đời sống
hàng ngày. Một lần khác, khi viết bài về
vấn nạn cần sa trong cộng đồng, một vị trong cộng đồng cũng độp vào
mặt tôi là, cho chị giải quyết chuyện trồng cần sa, chị có
giải quyết được không? Tất nhiên là không.
Văn minh như thế nước Anh, 'đành hanh' như thể Ba Lan cũng ch...
...
See More
Note: Tuyệt. Tks both of U
Nói ra thì xấu hổ, nhưng đọc đoạn sau đây,
GCC bèn nghĩ ngay đến... Thầy Cuốc, chán thế:
Ở Tây có một nghề khá phổ biến đó
là critic/ krytyk. Nói một cách nôm na dễ
hiểu, đó là nghề 'cá trê'.
'Cá trê' hành nghề
ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Với văn học người ta có các
nhà phê bình văn học; với sân khấu, có
các nhà phê bình sân khấu; với hội
họa, có phê bình hội họa... Và đặc biệt,
nghề phê bình chính trị rất đắt giá và
luôn được công chúng sát sao theo dõi.
Mỗi khi có sự thay đổi trên chính trường, những nhà
phê bình chính trị lại được dịp 'khua môi, múa
mép'. Họ được báo giới phỏng vấn, mời lên truyền hình,
mổ xẻ vấn đề, phân tích đúng/ sai, phải/ trái,
đưa ra ý kiến, nhận xét... Trong nhiều trường hợp, các
nhà hoạch định chính sách phải tham khảo ý kiến
của họ. Ba Lan có hẳn chuyên trang về phê bình
chính trị.
Những nhà 'cá trê'
học thường có học hàm, học vị và nhận được sự
kính trọng trong xã hội, nhưng hoàn cảnh của họ
nhiều khi lại giống y chang anh chàng ngồi xổm ở quán
bia kia. Nhà phê bình văn học cả đời chẳng viết
được cuốn tiểu thuyết nào. Nhà phê bình hội
họa hóa ra không biết vẽ. Nhà phê bình
chính trị suốt đời chỉ là chuyên viên với mớ
lý thuyết bùng nhùng, chẳng được nắm giữ chức vụ
gì; và người ta không chắc, nếu cho làm thủ
tướng, ông ấy có làm nổi hay không.
Borges:
Cha đẻ chủ nghĩa hiện thực thần kỳ?
Đọc, trên…. Văn Vịt, thi sĩ Ngu Yên đi 1 xê
ri bài về Borges, qua đó, ông coi Borges là
cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực thần kỳ.
Không đúng.
Hiện thực thần kỳ là từ chủ nghĩa siêu thực mà
ra, đúng như Rushdie nhận xét, khi viết về Garcia Marquez:
Trong một bài viết về tác giả Trăm Năm Cô
Đơn (được in lại trong Quê Hương Tưởng Tượng), S. Rushdie cho
rằng, sức tưởng tượng của Garcia Marquez phần lớn là từ kỷ niệm
về bà nội ông. Ngoài ra còn những nguồn khác
nữa. Tác giả đã từng xác nhận, ông ảnh hưởng
Faulkner, và thế giới kỳ ảo Macondo là một phần bất động
sản Yoknapatawpha của Faulkner được dời tới một khu rừng ở Colombia. Ngoài
ra còn có Borges, và sau lưng vị khổng lồ này,
nhiều người khác. Thời gian ông viết cho điện ảnh đã
cho ông ý tưởng, người Mỹ đã bắt một nhà độc
tài Mỹ châu La tinh phải đem biển cả trả cho họ, thay cho
những món nợ còn thiếu, trong Mùa Thu của Trưởng Lão
(L'Automne du Patriarche).
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là người bà của ông.
Trong một cuộc phỏng vấn, ông thừa nhận ông thừa hưởng
ngôn ngữ của bà. "Chính giọng kể là của
bà. Bà là một người kể chuyện tuyệt vời". Trong
những gia đình thuộc sắc dân da đỏ, người đàn bà
giữ gìn kho tàng chuyện kể, và Nam Mỹ cũng có
truyền thống này. Garcia Marquez được ông bà nuôi
nấng và ông chỉ gặp mẹ lần đầu tiên vào lúc
7, hoặc 8 tuổi. Sau 8 tuổi, chẳng có chuyện chi là "hay ho,
khác thường" đối với ông. Ông nói về ông
bà của mình: "Họ có một căn nhà thật lớn, đầy
những ma. Họ cũng rất mê tín. Trong mỗi góc nhà
là những bộ xương, và những kỷ niệm, và sau 6 giờ
tối là không ai dám ra khỏi phòng". Từ những
kỷ niệm về căn nhà, mượn thêm giọng kể của người bà
như cục nam châm, ông xây dựng thế giới Macondo.
Nhưng rõ ràng ông còn có nhiều
hơn thế nữa. Ông rời Aracataca, ngôi làng thơ ấu
khi ông còn quá trẻ, và thực tại phố phường
khác xa, nhiều khi trái ngược với vùng núi
rừng. Trong Trăm Năm Cô Đơn, Người Đẹp Remedios
bay lên trời là một biến cố được đợi chờ, nhưng khi chuyến
xe lửa đầu tiên tới Macondo, một người đàn bà chạy
ra giữa mặt lộ, la lớn: " Nó tới rồi. Cái gì giống
như một cái bếp kéo theo sau nó cả một làng."
Garcia Marquez đã quyết định để viễn ảnh thế giới của dân quê
ở bên trên cái của kẻ tỉnh; đó là nguồn
gốc sự diệu kỳ ở nơi ông.
Ở Mỹ Châu La Tinh, thực tại biến dạng do chính
trị nhiều hơn là do văn hóa. Sự thực được bưng bít
đến nỗi không còn biết đâu là sự thực. Cuối
cùng chỉ còn một sự thực độc nhất, đó là
lúc nào người ta cũng nói dối. Những tác phẩm
của Garcia Marquez không có tương quan trực tiếp tới chính
trị, nhưng chúng đề cập tới những vấn đề đại chúng bằng những
ẩn dụ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là một khai triển
chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực; một chủ nghĩa siêu
thực diễn tả lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức
là của những xã hội được tạo thành "có một nửa",
trong đó, cái cũ có vẻ như không thực chống lại
cái mới làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối
nát "công cộng" của đám cầm quyền và nỗi khiếp
sợ "riêng tư" của từng người dân, tất cả đều trở thành
hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez, những điều
vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài
hoài, ngay giữa ban ngày ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu
coi vũ trụ văn chương của ông là một hệ thống bịa đặt, khép
kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào
khác mà chính là mảnh đất chúng ta đang
sống. Macondo có thực. Và đó tính nhiệm mầu của
ông.
Xứ Mít mê Garcia Marquez, theo GCC, trong bài
viết “Mác Két ở xứ Mít”, chính cũng là
từ cái ẩn ức “một nửa” mà ra!
Người rành nhất về Borges, theo GCC, là Vargas
Llosa. Khi được Nobel, ông có đi 1 đường vinh danh những
vị thầy của ông, trong có Borges, trong cuốn Wellsprings,
“Giả tưởng của Borges”.
Bài viết sự thực đã từng in trong A Writer’s Reality.
Bài
viết này rất thú. Tin Văn tính đi, nhưng lu bu
hoài, quên hoài.
Ảnh hưởng của Borges lên văn chương của xứ ông,
ở 1 số người viết, rất sâu đậm. Nhưng ông không phải
là cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực thần kỳ, và cõi văn
của ông, cũng đếch thuộc "trường phái thần ký, hay thần
kỳ". Hơn thế nữa, "nhân
dân" không ưa ông, do mê tụi mũi lõ, quá
rành tụi mũi lõ [Âu Châu] hơn mũi tẹt, có
thể nói như vậy.
Trong bài viết "Giả tưởng của Borges", Vargas Llosa giải thích
lý do tại sao Borges không được Nobel, trong 1 tiểu chú:
… I saw Borges very few times. The first time was in Paris, when
I was a journalist. I went to interview him and was so impressed I could
not speak. I remember one of the questions I asked him was "What do you
think of politics?" He gave me an answer I have always remembered. He
told me it was una de las formas del tedio (one of the forms of
tedium). Initially, he was a very courteous, very shy man; but his personality
changed when he became a celebrity. He adopted a public personality, very
different from what he was before. He always repeated the same jokes. He
made provocative remarks to épater le bourgeois (to shock
the old fogeys). (1) But in spite of his remarks that sometimes seemed
arrogant, he was one of the really modest writers I have met-modest about
his achievements as a writer and about his genius. He did not believe that
he was a genius. Until his fifties, he was an unknown man in his country.
It was only when France and the rest of the world discovered him that he
became a celebrity in Argentina and the rest of Latin America and that his
life changed completely.
(1)
I think the reason Borges never received the Nobel Prize is because
of his political statements, because he made rightest statements when it
was unacceptable to be a rightest, to " épater le bourgeois." In
fact, I do not think he was a rightest. He was a very courageous man; for
instance, during the Peronist regime. He despised politics, but he opposed
Peronism with great clarity and courage.
TV sẽ scan &
post bài viết này.
BORGES AND THE RAVENS
I'm in Geneva and I'm looking
for the cemetery where Borges is buried. It's a cold autumn morning,
although to the east there's a glimpse of sun, a few rays that cheer
the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic tradition.
The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect
cemetery: the kind of place to come every afternoon read a book, sitting
across from the grave of some government minister. It's really more like
a park than a cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended.
When I the keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods,
and tells me how to find it, not a word wasted. There’s no way to get
lost. From what he says it's clear that visitors always coming and going.
But this morning the cemetery is literally empty. And when I finally reach
Borges's grave there’s no one nearby. I think about Calderon, I think
about the English and German Romantics, I think how strange life is or,
rather: I don't think anything at all. I just look at the grave the stone
inscribed with the name Jorge Luis Borges, the date of his birth, the
date of his death, and a line of Old English verse. And then I sit on a
bench facing the grave and a raven says something in a croak, a few steps
from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a poem by Poe.
Only then do I realize that the cemetery is full of ravens, enormous black
ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees
or run through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like
walking, looking at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's,
and that's what I do, growing more and more uneasy, with the ravens following
me, always keeping within the bounds of the cemetery, although I suppose
that one occasionally flies off and goes to stand on the banks of the Rhone
or the shores of the lake to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully,
of course.
Roberto Bolano: Between
parentheses
Note: Tay Bolano này,
đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế,
nhưng một PCT thực, trong khi PCT Mít thì lại là
đồ dởm!
Có vẻ như nhà văn Mít, nói chung, thì
đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến,
cái nước mình nó thế!
GCC hình như cũng mới mê Bolano đây thôi,
có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết về…
BHD, hà hà!
Borges và
những con quạ
Tôi ở Geneva và
kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng
mùa thu, trời lạnh, mặc dù phía đông thấy có
tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân
Geneva, một giống dân ương ngạnh
có truyền thống dân chủ, sướng điên lên.
Plainpalais, nghĩa địa Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng
là một công viên tuyệt hảo, thứ công viên
mà Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm
nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1), nơi,
cứ xế trưa là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc
sách, thí dụ, từ ngôi mộ của một đấng, khi còn
sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là
một nghĩa địa, một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẩu
đất cũng được chăm sóc. Khi tôi hỏi người coi coi giữ về
ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống
đất, gật gật cái đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa.
Chẳng thể nào lạc. Từ những điều ông ta nói, thì
rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng.
Nhưng buổi sáng hôm đó, quái làm sao,
trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất
nhiên là chẳng có ai lảng vảng quanh đó. Tôi
bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng
Mao và Đức. Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì
lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ cái
mẹ gì hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái
bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày ông
sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng
Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái băng ghế đối diện ngôi
mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó,
bằng thứ ngôn ngữ quoạc quoạc của nó, cách tôi
vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì ở Geneva, thì tôi ở trong
một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận ra, nghĩa địa đầy quạ,
những con quạ đen khổng lồ, lò cò giữa những ngôi mộ
đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm
cỏ. Và tôi cảm thấy mình như đang lang thang tản bộ,
nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu may mắn, tôi
có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là
điều tôi đang làm, mỗi lúc một thêm bừng bực,
vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như
trong nghĩa địa, và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có
vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1 chuyến bay tới đậu
ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với
cái vẻ dè bỉu, khinh khi, tất nhiên!
Cũng sách xôn. Một thứ
"chuyện nghề" của Vargas Llosa. Có bài, “Làm
thế nào để biến 1 lời nói dối thành sự thực”,
đọc cũng thú. Vargas Llosa, lúc đầu cũng rất chịu
Steiner, nhất là cuốn “Ngôn ngữ và Câm
Lặng.” Sau chán, chê nổ quá, cũng 1 thứ “enfant
terrible” của thế kỷ. Rushdie thì kể như không đọc
nổi Steiner. Chê rầm trời. Nhưng, đa số những người chê
Steiner, theo GCC, đều không có nỗi đau Lò Thiêu,
như 1 thứ bịnh kín, mort dans l'âme. Và thiếu nội
lực, về tôn giáo Do Thái, thí dụ. Nhưng
khi Oz chửi Steiner, khi ông này chọn thái độ vô
tổ quốc, [bằng giá nào tớ, Oz, đếch bỏ cái chất
Bắc Kít (căn cước Do Thái)], là không đọc
tới ông.
Saigon ngày
nào của GCC
manhhai
SAIGON (01 June 1968) - Vụ trực thăng
Mỹ bắn rocket nhầm vào trường Phước Đức (nay là trường Trần
Bội Cơ, Chợ Lớn) trong biến cố Tết Mậu Thân đợt hai.
Note: GCC có gửi Radiophotos những tấm hình tương tự, và
có viết đâu đó, trên TV.
Nghe nói toàn đệ tử của Râu Kẽm, và Râu
Kẽm thoát chết, vì đến trễ, do mải rút xì phé,
hoặc mê coi chọi
gà!
Và vẫn nghe nói, đòn độc của Thiệu!
Đường sách Xề Gòn.
Con phố ngắn này, có tên là Nguyễn
Hậu thì phải, là nơi Bưu Điện có 1 block sử
dụng làm Hộp Thư, Boite Postale. Thư Lưu Trữ.
Có thời gian, lúc sắp sửa đứt phim, khi
Bưu Điện tách làm đôi, một Bưu Chính,
vẫn thuộc Bưu Điện, một Viễn Thông, thuộc… Mẽo, Gấu làm
dưới quyền 1 ông sếp mới, nghe nói Xịa, và có
1 căn phòng của riêng Gấu, là cả một tầng lầu phía
bên trên mấy sạp sách.
Buồn buồn ngó đầu ra ngoài thở hơi me,
phi xì ke, tuyệt cú... me.
Gấu nhớ có viết về vụ này, đâu đó
trên Tin Văn (1)
Tính kiếm 1 cái hình của thời cũ,
trên manhhai, nhưng không thấy.
(1)
Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là
qua Tập san Văn chương. Không biết ai là người đầu
tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi,
mọi chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời, phần
lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh
Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi
quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên
đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long,
khi bên kia quá ồn. Số là lúc này,
Bưu Điện đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và
Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc
lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của
ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày
cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn
loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán,
xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết
Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không..." tôi nghe
tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng
sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa
vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình
đi từ mấy ngày trước.
Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh
thần, và Tổng thư ký, của tờ báo. Không
có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai.
Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi,
đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co
cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi
bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi
từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày, thỉnh thoảng ghé quán
Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng
đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn
ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương,
chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và
có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ.
Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên
hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã
rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn
- Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện
lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên
Tập san Văn chương.
|
|