|
Đặng Tiến từ Pháp
qua chơi.
Chụp chung với Nguyễn Đình Thuần @ NDT's
Chúc Mừng Bạn Ta. Tiếc quá không có
GCC!
Sài Gòn giải phóng
tôi.
Nguyễn Quang Lập·Friday, April 29,
2016
Có được
cuốn sách quí - thẻ công dân & passport
-là bèn đi
chào cờ ba que liền!
Có
thể có một tiểu tít kèm theo:
Tuổi trẻ MB vs Tuổi Trẻ MN?
Những gì gì, nào là nghĩa khí giang
hồ, tình bằng hữu… tất cả đều có ở trong những cuốn phim cao
bồi mà Gấu này cùng lớn lên với chúng,
ở trong Sài Gòn.
Và nghĩa khí giang hồ, tình bằng hữu còn
có cả ở trong tất cả những bản nhạc lính của Miền Nam.
Trong khi đó, tuổi trẻ Miền Bắc được học những gì?
Học Toán bằng những xác chết Mỹ Ngụy. Học yêu
bằng cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn, hai đứa ở
hai đầu xa thẳm. Học nói bằng tiếng đầu lòng con gọi Xít
Ta Lin, vài thí dụ.
Kết quả Miền Nam
thua trận, tất nhiên. Nhưng cái giá thắng trận mới
khủng khiếp biết là chừng nào.
Koestler đã từng nói đến sự chúc dữ, sự trù
ẻo, lời nguyền rủa của cái vòng tròn, khi dẫn ra,
vào thời kỳ Pythagore, con người đã mường tượng ra quỹ đạo
của những hành tinh là hình bầu dục, nhưng liền sau
đó, triết học Platon lên ngôi, chủ trương trần tục vs
thanh cao, cái xấu vs cái đẹp… và còn gì
đẹp hơn là hình tròn, so với hình méo,
bầu dục?
Đến khi Kepler tìm ra được quĩ đạo mặt trăng, thì nhân
loại mất đúng hai ngàn năm.
Phải bao lâu dân Mít mới thoát ra khỏi sự
trù ẻo, lời nguyền rủa của cái tuyệt hảo là chủ nghĩa
Cộng Sản?
Và của Cái Ác Bắc Kít?
*
Vòng tròn ma thuật
Thành quả của Cái Ác, qua
sức mạnh và trí tưởng tượng của những Đại Ác Nhân
của Shakespeare cùng lắm thì cũng chỉ đếm được trên chục
xác chết. Bởi vì đám khốn kiếp này không
có ý thức hệ, như là một "nghĩa cả" để mà phục
vụ... Nhờ có "ý thức hệ", thế kỷ 20 đã có được
cái số phận khốn nạn của nó: kinh qua Cái Ác
ở mức độ hàng triệu triệu tử thi."
("The imagination and inner strength of Shakespeare’s vilains stopped
short at a dozen cadavers. Because they had no idology... Thanks to "ideology"
the 20th century was fated to experience evil calculated on a scale of
millions.").
Solzhenitsyn.
Koestler, trong Gót chân
Achilles, cho rằng, chính cái nhu cầu tự
huỷ diệt, the Urge to Self-Destruction, qua những hành động, thí
dụ, trích máu ngón tay viết huyết thư tình nguyện
vô Nam chiến đấu, mới đích danh thủ phạm!
*
Vòng tròn ma thuật? Không biết có liên
can tới cái gọi là sự chúc dữ, sự nguyền rủa, trù
ẻo, của cái vòng tròn, la malédiction du cercle,
là đề tài trọng tâm của cuốn Những Kẻ Mộng Du?
Koestler cho rằng, những nhà khoa học, bác học... đều
là những kẻ mộng du, và trong khi mộng du như thế, họ vớ
được chân lý! Cuốn sách của ông chứng minh điều
này, và có thể coi, là câu chuyện của
mấy nhà thiên văn học, trong có Kepler. Điều mà
Kepler khám phá ra, là quĩ đạo của mặt trăng, và
cũng là nhờ khi đó nhân loại làm ra được viễn
vọng kính. Khi quan sát quĩ đạo của mặt trăng, và
nhận ra, nó là hình bầu dục, ông hoảng hồn,
là vì điều này đã được Pythagore khám
phá ra trước đó hai ngàn năm rồi!
Khám phá ra, bị gạt bỏ, ấy là vì thời
đó mê cái vòng tròn: Hình đẹp
nhất, tròn trịa nhất.
Y chang chân lý Mác Xít!
Trong những cuốn tiểu
thuyết mà Tin Văn mong được dịch và giới thiệu là Trái
Tim Của Bóng Đen, và Gấu hiện có.. vài ấn
bản, mỗi bản mỗi khác, không phải nội dung cuốn tiểu thuyết,
mà những ghi chú, những sự kiện những phát giác,
kể cả những lời lên án, thí dụ của Achebe (1), theo
dòng thời gian. Trong số đó, bản song ngữ, dành cho
học sinh sinh viên của Catherine Pappo-Musard, tiến sĩ, Agrégée
de l’Université, dịch ra tiếng Pháp và ghi chú,
và nhất là bài giới thiệu mở ra cuốn tiểu thuyết mới
thật tuyệt, mặc dù cái hình ảnh, “cả vũ trụ, cả nhân
loại chao đi đảo lại, vẫn chỉ chờn vờn ở chung quanh thế ngồi của một ông
Phật” đã từng được viện ra rất nhiều lần, ở nhiều nhà phê
bình, và nghiên cứu.
Nguyễn Du cũng đã từng chiêm nghiệm cũng một nỗi chênh
vênh, chao đảo đó, khi viết ra những câu thơ thần sầu,
thí dụ:
Ầm ầm sóng vỗ chung
quanh ghế ngồi
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Dân thiên
văn, địa lý, khí tượng học gọi hiện tượng này là
Mắt Bão.
Gấu đã từng sử
dụng hình ảnh Mắt Bão, để toan tính viết một cuốn tiểu
thuyết, và sau cùng, thua, và dùng nó,
để viết về thơ Thanh Tâm Tuyền, về “bạo động của bạo động”, về những
dòng thơ "thiền, ẩn mật, hiền hoà như ca dao" của ông
trong cõi tù.
*
Và đây
là câu mở ra bài viết của C. Pappo-Musard:
Ở cuối cuốn Trái tim của
bóng đen, con nước đổi chiều nhưng
những thính giả/độc giả của Marlow chẳng hề biết. Con nước lôi
cuốn họ cùng với nó từ cửa sông Ta Mì tới cửa
sông Congo, từ London tới Bruxelles, từ Âu
châu tới trung tâm Phi Châu, nhưng không ra khỏi
thế ngồi của ông Phật của Marlow.
Và, khép
lại bài viết, tác giả cảnh giác chúng ta:
Nói cho cùng,
Marlow chỉ giống được như ông Phật ở cái thế ngồi.. Cái
kinh nghiệm Congo đã biến đổi anh
ta thành một con người mà kể từ đó, nhìn thấy
những điều âm u: L’expérience congolaise a fait de lui un
home pour qui désormais les ténèbres sont toujours
visibles.
Và tác
giả dẫn thêm câu của Milton, làm đề từ cho
bài viết của mình:
“yet
from those flames
No light but rather darkness visible”
Milton: Paradis perdu (I, 62)
Tuy
nhiên, từ khối lửa đó,
không ánh sáng,
mà là bóng đen,
hiển hiện.
(1) At University College, Ibadan, Achebe encountered the
novel “Mister Johnson,” by the Anglo-Irish writer Joyce Cary, who had
spent time as a colonial officer in Nigeria. The book was lauded
by Time as “the best novel ever written about Africa.” But Achebe, as he grew
older, no longer identified with the imperialists; he was appalled by
Cary’s depiction of his homeland
and its people. In Cary’s portrait, the “jealous
savages . . . live like mice or rats in a palace floor”; dancers are “grinning,
shrieking, scowling, or with faces which seemed entirely dislocated, senseless
and unhuman, like twisted bags of lard.” It was the image of blacks as
“unhuman,” a standard trope of colonial literature, that Achebe recognized
as particularly dangerous. “It began to dawn on me that although fiction
was undoubtedly fictitious it could also be true or false, not with the
truth or falsehood of a news item but as to its disinterestedness, its intention,
its integrity,” he wrote later. This belief in fiction’s moral power became
integral to his vision for African literature.
After Empire
V/v Trái
tim của Bóng đen, Achebe cho rằng: Marlow là một nhân
vật giả tưởng, ý thức của anh ta khiến anh ta hành động
và cư xử theo như những qui luật và thể loại [categories]
đương thời, tức thời kỳ thực dân thuộc địa. Nếu cảm nhận của Marlow
là phân biệt chủng tộc, ấy là vì thời của anh
ta là thế. Những mẫu mã và những qui luật của thời
kỳ đó là như thế.
It was the image of blacks
as “unhuman,” a standard trope of colonial literature, that Achebe recognized
as particularly dangerous. “It began to dawn on me that although fiction
was undoubtedly fictitious it could also be true or false, not with the
truth or falsehood of a news item but as to its disinterestedness, its
intention, its integrity,” he wrote later. This belief in fiction’s moral
power became integral to his vision for African literature
Chính là
hình ảnh những người da đen như là "phi nhân", như
được mô tả trong văn chương thời kỳ thực dân thuộc địa khiến
ông thấy thực nguy hiểm.
Đây cũng là cách mô tả Ngụy của Yankee mũi
tẹt.
Ký
Giả Lô Răng đi xa
RIP
GCC
không nghĩ PLP coi ông là nhà văn. Hẳn ông
hài lòng với cái viết của ông, như 1 ký
giả, viết thứ văn chương gọi là tạp ghi, mà ông là
1 trong những vị cha đẻ của thể loại này. Viết tạp ghi, theo Gấu,
thật khó và cũng thật dễ. Viết 1 phát, là lòi
ra liền hai thứ: đạo hạnh của người viết, cùng sự uyên bác
của người này. Cái tên chuyên viết tạp ghi
số 1 ở hải ngoại, cũng 1 cộng tác viên số 1 của tờ Người
Vịt, cứ mỗi lần viết là mặt thật nghiêm, như thể thông
báo với nhân loại, ta là 1 kẻ sống sót Lò
Cải Tạo của VC!
Đầu Xuân đọc Tạp Ghi
Người
khai sinh ra mục Tạp Ghi trên nhật báo Tiền Tuyến ngày
nào, sau những năm tháng dài cải tạo, trở về đời, và
trở ra hải ngoại đã cho ra mắt độc giả hai tập tạp ghi, chỉ là
những bài viết sau này, khi mục tạp ghi do ông khai sáng
đã trở thành "lịch sử", bởi vì làm sao mà
độc giả "lại" còn có thể "lại" được thưởng thức, chỉ một bài
trước đó?
Tôi
viết "trở ra", là bởi vì, trước 75 ông đã từng
ra "ngoài này" nhiều lần, và đã từng viết về
nỗi, đêm nằm kế bên một bãi biển, nhớ phở, ".... Trong
những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố
thức giấc ở trong tôi, tôi cứ tưởng, những tiếng sóng
vỗ vào bờ bên ngoài kia, là những tiếng réo
gọi: Phở, Phở!" (mô phỏng một câu văn trong Lần Cuối Sài
Gòn của Nguyễn Quốc Trụ: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ,
hồn thiêng thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi
tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những
nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng
với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng
kể.").
Trong
nỗi hoài nhớ đó, chúng ta có thể coi đây,
vẫn chỉ là những "nhớ phở" ngày nào của ông,
nhưng lần này, "dậy" lên cùng với phở, là cái
mùi "tâm linh" như ông diễn tả, ngay ở những trang mở
đầu của "Tuyển tập Tạp ghi", khi trích dẫn Nguyên Phong: "Các
cổ thư Đông Phương đã vạch ra một cuộc sống ở cõi trần
như sau: 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo gia đình... 25 năm
sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh." (Hành Trình
Về Phương Đông).
Chúng
ta tự hỏi, nếu không có những tháng ngày cải tạo,
liệu ông có tới được cái trạng thái tâm
linh đó không, hay nói như Võ Phiến: "Các
hồi ký lao tù khác thường chung một vẻ, một hướng.
Bè Bạn Gần Xa biệt ra một hướng riêng. Các hồi ký
khác nói về cái xấu, cái khổ, cái tàn
khốc dã man. Bè Bạn Gần Xa nói về cái tốt, cái
cao quí trong tù. Các hồi ký khác đọc
thấy đau đớn uất hận. Bè Bạn Gần Xa thấy tin tưởng, xúc động,
hãnh diện về con người – thấy sướng...".
Sự thực,
không phải không có dấu vết của cái ác,
ở trong những bài tạp ghi, về những ngày tháng đó.
Cái tốt ở trong, chỉ là tốt, khi quanh nó, cái
ác luôn luôn rình mò, và giọng tâm
linh của tạp ghi, không phải dễ gì ai cũng có, vào
lúc cuối đời. Nên nhớ, Phan Lạc Phúc là người
miền bắc. Gia đình ông, bạn bè ông, có người
ở bên này, ở bên kia, như những trang đầu viết về thời
thơ ấu cho thấy. Nếu ông viết về cái ác ở trong tù
bằng cái giọng không thể nào gây tác động
ác, là bởi vì ông biết rất rõ, không
thể có một cách viết khác, đối với những con người
như ông.
Trong
lần về Hà Nội, cá nhân người viết có hân
hạnh gặp, quen, và quen thân, với một người thuộc hàng
con cháu của ông. Nghe "người ấy" nói bằng một giọng
bùi ngùi, "Em phải gọi ông ấy bằng ông", tôi
lại thấy giọng của cô, ở trong những dòng tạp ghi của Phan Lạc
Phúc.
Viết
tới đây, tình cờ giở qua số báo Điểm Sách Nữu
Ước vừa mới nhận được, tôi thấy có bài viết của nữ văn
sĩ Mỹ gốc Đại Hàn, Suki Kim, viết về chuyến trở về của bà,
vào ngày 16 tháng Hai, năm 2002:"... thật là
một tình trạng kỳ cục, đối với một người viết tiểu thuyết, đến từ
East Village thuộc Nữu Ước, một kẻ chẳng phải nhà hoạt động nhân
quyền, hay diễn viên. Tôi sinh ra là Đại Hàn,
và sau đó, là người Mỹ di dân từ khi mười ba tuổi.
Cái phần Mẽo ở trong tôi chối đây đẩy xứ sở này,
chốn đèo heo hút gió, đứa con hoang của chiến tranh
lạnh. Nhưng tôi thường xuyên bị ám ảnh, bởi cơn đói
của nó, trên màn hình TV vào mỗi buổi
chiều. Khi bạn bè hỏi tôi, liệu có khi nào, hai
phần Đại Hàn sẽ hợp làm một, tôi không biết làm
sao trả lời. Tôi biết nhiều như họ, và cũng ít như họ.
Nhưng có một điều làm tôi lẻ loi ra, giữa đám
bè bạn của mình, đó là, tôi chắc chắn
một điều, cho dù miền đèo heo hút gió đó
- tôi muốn nói Bắc Hàn - tà ma ác quỉ
tới mức nào, tôi cũng chẳng bao giờ thù ghét
nó." ("... I am certain, no matter how evil North Korea
is supposed to be, that I could never hate it". Suki Kim: A Visit to North Korea,
NYRB, số đề ngày 13 tháng Hai, 2003)
(còn tiếp)
Jennifer Tran
30.4.2016
Biểu tình cũng đã bắt
đầu lúc 9g.
Sài
Gòn Báo
Vũ Minh Ngọc (tường trình từ
hiện trường)
Đầu giờ chiều ngày 1 tháng
5. Tiếp tục có một số người tham gia biểu tình đã
bị tạm giữ...
10g, đoàn biểu tình bị
an ninh bao vây ngăn không cho đi tiếp tại khu vực Hàm
Nghi.
...
Follow
Hơn bốn mươi năm
hòa bình đã khiến cả cuộc hậu chiến thay xương
máu trên cạn bằng hàng trăm ngàn xác
chết dưới lòng biển cũng phải kết thúc. Bốn vị đứng
đầu nhà nước Việt Nam hôm nay đều chưa từng cầm súng.
Trong 19 ủy viên Bộ Chính trị, chỉ còn ba vị có
chút tiểu sử trong quân ngũ những năm cuối cuộc chiến,
có lẽ là lính chính trị hơn lính
chiến hào. Kẻ thù không đội trời chung thuở nào,
nay là đối tác toàn diện đáng săn đón
nhất. Starbucks, McDonald’s, Coca-Cola và Pepsi, K...
See More
Một lần đi cắt tóc trong khu
buôn bán của người Việt hai mươi năm trước, tôi ngạc
nhiên thấy thợ bỏ công chăm chút tỉ mỉ. Dùng kéo
nhỏ, cắt thận trọng từng lọn, hơn ba mươi phút cho mái tóc
luôn rất ngắn của tôi. Bình thường dịch vụ của…
baotreonline.com|By Phạm Thị Hoài
Note: Từ Việt Cộng, theo như Gấu biết, do thời gian làm
cho UPI, là
do GI phịa ra.
Họ gọi Vi-Xi, thay vì Việt Cộng.
Lúc đầu chỉ dùng
để gọi đám MTGP.
Không mắc mớ gì
đến từ Việt Minh, hoặc liên can đến Diệm.
Giống từ GI, từ này không làm sao bỏ được.
Sến chê,
mấy tên Trùm
VC hiện thời đếch biết Vi-Xi là gì, Sến thì cũng
rứa, chuyện nước Mít bị huỷ diệt thì cũng chẳng khác,
gãi ngứa giữa hai ngón chân, nhất là giữa
hai ngón cái - Catastrophe is our bedtime story, Don Delilo,
hay ‘Tis not contrary to reason to prefer the destruction of the whole
world to the scratching of my finger, David Hume, hay, It is an easy thing
for one whose foot is on the outside of calamity to give advice and to rebuke
the sufferer, Aeschylus, c.460 BC; ông số 2 chẳng đã vừa
nhâm nhi ly cà phê buổi sáng, tại tòa
soạn 1 tờ báo chống Cộng ở Cali, vừa phán bảo đàn
em, đệ tử, Saigon có người chết đói rồi đấy, ở ngay bên
hông Chợ Bến Thành.
Cái sự tệ hại của xứ Mít bây giờ là
do không còn giống đực nữa, chúng chết hết, do dám
đối đầu với cuộc chiến vừa rồi, theo GCC.
Giấc mơ muôn đời của dân Mít, xém 1 chút
là thực hiện được, làm sao không bị huỷ diệt vì
nó?
http://www.tanvien.net/Al/4.html
GCC có gần như tất cả
sách của David Remnick, nhưng thiếu cuốn đầu, tức cuốn trên,
Ngôi
Mộ Lenin, Những ngày sau cùng của Đế Quốc Xô Viết
GCC tính mua cuốn này lâu rồi,
chờ thứ second-hand, bữa nay, giở đọc sơ bài Bạt thấy được quá, bèn tặc
lưỡi, OK. Vả chăng, đây cũng là ấn bản rẻ tiền.
GCC biết ông này, khi đọc bài ông viết về
Brodsky, trên The New Yorker, (1) những ngày đầu viết cho Văn Học. Bèn chôm liền. Sau
in thành sách, bèn mua, và bèn chôm
bài viết về Oe, (2) được 1 vị độc giả mail, khen, bài
viết được quá!
10-5-2005
… Cám ơn bác
rất nhiều về vốn quý hiểu biết của bác, tôi đã
học được rất nhiều về những bài giới thiệu của bác. Bác
không giới thiệu thì tôi cũng chẳng biết gì...
về G. Steiner, cũng không hiểu sâu thêm về S. Weil, không
biết chuyện “Cha và Con” của Oé – Ui chao, cả một trời hiểu
biết mà không hiểu biết thêm về “Cha và Con” là
cả một thiếu sót lớn trong cuộc đời!
Tks. Take Care Both of U
NQT
Đoạn
mở ra bài Tựa, cũng thú
PREFACE
Long before anyone had a reason
to predict the declide and fall of the Soviet Union, Nadezhda Mandelstam
filled her notebooks with the accents of hope. She was neither sentimental
nor naive. She had seen her husband, the great poet Osip Mandelstam, swept
off to the camps during the terror of the 1930s; she described in ruthlessly
clear terms how the regime left its subjects in a permanent state of fear.
The people of the Soviet Union had been made, as she put it, "slightly unbalanced
mentally-not exactly ill, but not normal either." But Mandelstam, unlike
so many scholars and politicians, saw the signs of the Soviet system's inherent
weakness and believed in the resiliency of the people.
Trước rất lâu bất cứ một
ai có thể tin rằng, Đế Quốc Đỏ sẽ sụm, Nadezhda Mandelstam đã
viết Sổ Ghi bằng 1 thứ âm thanh của hy vọng. Bà không
phải thứ người tình cảm, hay ngây thơ, ngù ngờ. Bà
đã chứng kiến chồng mình, nhà thơ vĩ đại Osip Mandelstam,
chết trong tù thập niên 1930, thời kỳ khủng bố. Bà đã
mô tả, bằng 1 giọng cực rõ ràng, không chút
thương xót, nhà nước đối xử với nhân dân của nó,
như thế nào: bằng cách đẩy tất cả vào tình trạng
lo sợ, rằng tai họa sẽ giáng xuống bất cứ lúc nào.
Người dân Xô Viết, bà viết, thì được làm
ra, “hơi mất thăng bằng về tâm thần 1 tị - không hẳn là
bịnh, nhưng cũng không thể nói, là những con người bình
thường”. Nhưng, Mandelstam, không như những nhà học giả hay
chính trị gia, nhìn ra những dấu hiệu của sự yếu đuối nội
tại, cố hữu, gắn liền với chế độ, của hệ thống Xô Viết, và tin
tưởng ở khả năng dẻo dai, sức bật, sự phục hồi mau lẹ của dân chúng.
Bài
ngắn, TV sẽ post và dịch.
Biết đâu, nhờ đó tìm ra gót chân Achilles
của VC!
Đây là bức hình được
Pulitzer của Faas
Người cha ôm xác con hỏi lính VNCH:
Tại sao?
1. Chuyện ở tù
Một phụ nữ đụng chết một học sinh bị
xử án khá kỳ lạ: Mỗi năm ở tù một ngày
vào đúng kỷ niệm gây tai nạn
Dec 18, 2005
Cali Today News - Một phụ nữ ở Arkansas
lái xe vượt qua một xe bus học sinh đang đỗ lại và
cán chết 1 em học sinh đã bị tòa kêu án
ở tù 10 ngày trong 10 năm tới, mỗi năm đúng
vào ngày gây tai nạn thì lại vào
tù.
Cô Tiffaty Nix, 25 tuổi, bị tuyên án
là phải ngồi tù đúng vào ngày
28 tháng 9 hàng năm cho đến năm 2015 mới hết hạn tù
kỳ lạ này, là ngày mà vào năm
2004 cô đã tông xe vào em William Issac
Brian, 9 tuổi, gây tử thương cho em.
Nix tuyên bố mình có tội hôm
thứ ba qua và nhận có vượt qua xe bus đang đỗ.
Quan tòa còn yêu cầu Nix phải bồi
thưởng gần 5,700 đô la tiền tang lễ cho em Brian. Cô
sẽ được tạm tha có điều kiện trong 10 năm và phải làm
400 giờ lao động công ích.
Cha của nạn nhân, ông Kelly Brian và
vợ Shari nói họ cảm
thấy hài lòng với bản án này. Bản án
đã trở nên nặng hơn sau khi nhà chức trách
khám phá có dấu vết của nha phiến và amphetamines
trong máu của cô Nix sau khi gây tai nạn. Lúc
đầu cô ta chỉ bị truy tố tội giết người không cố ý,
nhưng công tố viên đã tăng mức án sau khi nhận
các báo cáo từ phòng thí nghiệm cho
thấy như thế.
Sau một tuyên bố viết kèm theo báo
cáo của cảnh sát, Nix nói cô đã
thấy chiếc xe bus nhưng không thấy cái bảng ra hiệu Stop
của chiếc xe. Cô ta nói không biết là chiếc
xe đang đỗ lại cho đến khi em Brian chạy băng trước đầu xe của cô.
Cái chết của Brian khiến các nhà
làm luật của tiểu bang siết chặt thêm hình phạt
dành cho bất cứ ai lái xe mà không chịu
ngừng lại sau một chiếc xe bus chở học sinh đang đỗ lại.
Lê Lộc theo CNN
*
2. Câu chuyện thời sự, một người
cán chết người, phải ở tù mỗi năm một ngày,
đúng cái ngày cán chết người, làm
Hai Luá nhớ tới một câu chuyện kinh dị đọc từ hồi còn
nhỏ, của Hoffmann, và khủng khiếp hơn nữa, là cứ hơi
bị liên tưởng đến ngày 30 Tháng Tư.
Câu chuyện của Hoffmann, như
Hai Lúa còn nhớ được đại khái như sau.
Một anh chàng xa quê hương quá lâu,
bèn về. Tới làng, thì đã đêm,
bèn trọ lại ở quán nước đầu làng. Ở đây,
anh ta chú ý tới một ông khách lạ dáng
vẻ hết sức bồn chồn, tay đeo một chiếc nhẫn chạm nổi hình một
chiếc xe ngựa, bốn con ngựa dáng thật hung hãn, đang phi
nước đại.
Sau hồi làm quen, ông
khách cho biết, ông là chủ chiếc xe ngựa được khắc trên
mặt chiếc nhẫn, và đây là một kiệt tác của một
thợ nổi tiếng tại làng này, cách đây năm trăm
năm. Ông khách lạ là vị lãnh chúa của vùng
này. Mê xe ngựa, mê cho xe chạy như điên
trên đường làng, và một lần, đã cán
chết đứa con gái nhỏ của ông thợ.
Quá đau đớn, và cũng để trả thù cho
đứa con, người thợ này cặm cụi khắc chiếc xe ngựa lên
chiếc nhẫn, và nguyền: Mi mê phóng ngựa, thì
ta cho phóng ngựa. Cứ mỗi năm, đúng vào ngày
mi cán con ta, mi sẽ phải trở về đây, cưỡi chiếc xe này,
phóng vòng đua này, rồi sau đó, đi lang
lang như người Do Thái phạm tội giết Chúa, đến ngày
đến tháng lại trở về.
Khi vòng đua cuối cùng
của năm trăm năm được thực hiện, chiếc xe ngựa trên chiếc
nhẫn mà ông khách trao tặng anh chàng
kể chuyện này, cứ thế mờ dần, và biến mất.
Nhân câu chuyện thời sự,
Hai Lúa bỗng nhớ lại câu chuyện ma quái trên,
và cứ tưởng tượng một cách thật là ma quái
rằng thì là có một dân tộc bị lời nguyền,
cứ đến ngày 30 Tháng Tư, là lại diễn lại cái
tuồng cuộc chiến 30 năm mới có ngày 30 Tháng
Tư này, vui sao nước mắt lại trào?
*
Này coi chừng, bị tẩu hỏa nhập
ma đấy, cha nội!
Hai Lúa lại bỗng nhớ đến một lời cảnh cáo
của một độc giả Tin Văn.
*
Thư độc giả
Lần này thì không
kêu lên “Coi chừng bị THNM”, mà gật gù
đồng ý, rằng đúng như thế, dân tộc kia rõ
ràng là bị một lời nguyền độc địa, khiến mỗi lần chỉ
nghe nói đến 30 Tháng Tư là đã rợn cả
người, không biết nên quên hay nên nhớ.
Chao ôi, chẳng lẽ chúng
ta cũng bị một ông thợ rèn nào đó trù
yểm, một ngàn năm nô lệ chú Chệt, một trăm năm
nô lệ thằng Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày,
và năm trăm năm sau vẫn còn lang thang chờ khóc
một 30-4?
K.
NQT
& Quyên @ Cali, 2003
Ẩn dụ
Lò Cải Tạo, cái sườn của tất cả những gì
được viết ra ở đây.
[Mô phòng: Ẩn dụ Quần Đảo, cái
sườn tác phẩm, trở đi trở lại, và là tít
của nhiều chương: Những Con Tầu của Quần Đảo, Những Bến Tầu của Quần
Đảo, Từ Đảo tới Đảo, Quần Đảo Mọc Lên Từ Biển.
D.M Thomas: Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong
ta].
Hãy
cẩn thận, về điều này: Anh chiến đấu vì cái
gì - và có thể nhờ vậy, anh sẽ có được
nó.
Châm ngôn Nga.
D.M
Thomas, sđd
...."Peter, tôi
không hiểu điều này. Tôi đến Paris cùng
lực lượng giải phóng Pháp năm 1945 và họ tổ
chức bằng cách cướp phá một số nơi. Họ bắn một số gái
điếm và ngay sau đó là những hành động
tàn ác khác chống lại những người cộng tác.
Những những người Cộng sản này họ chẳng phản ứng gì
hết. Vợ ông ta xen vào: Họ quá tôn trọng
chúng tôi. Tôi không hiểu nổi nữa”.
Không trả thù hay bắn giết
bạo động, quân Giải phóng vào nội đô
Sài Gòn ngày 30/4/1975 một cách thanh
bình nhất, khiến phóng viên kỳ cựu của AP sửng
sốt.
www.baomoi.com|By BAOMOI.COM
Note: Cái thực tế nước Mít như bây
giờ là nhân chứng hùng hồn nhất. Sửng sốt nhất.
VC đã lấy đi của dân Mít giấc
mơ hiện hữu của giống Mít, như Tin Văn đã rất nhiều lần lèm
bèm.
Chúng sinh ra là để thực hiện cuộc chiến
vừa rồi.
Đến Thượng Đế mà còn bị chúng
lừa chứ 1 anh ký giả mũi lõ thì bõ
bèn gì.
GCC đã từng kể về cái chuyện học tập cải tạo ở nông trường Phạm Văn
Cội Củ Chi, những ngày sau 30 Tháng Tư 1975, vừa cuốc đất, vừa hát Con Kinh
Ta Đào, nước mắt chảy ròng ròng vì
hạnh phúc.
Đám sĩ quan Ngụy cũng thế, 10 ngày "phù
du", rồi sau đó, trở về nhà cùng cả nước xây
dựng cái nhà Mít to đùng!
Trước 30 Tháng Tư 1975, VC là Thiên
Sứ, là Savior.
Sau 30 Tháng Tư 1975, biến thành Quỉ
Đỏ.
Liên Xô cũng lâm họa y chang. Cuốn
tiểu sử Solz của D.M. Thomas, là viết trên cái
sườn này
Cái gì làm
cho Giấc Mơ Giải Phóng biến thành Thảm Họa?
Cái Ác Bắc Kít.
Với Liên Xô, Tẫu là Cái Ác
Á Châu
Kafka đã cảnh cáo
Bắc Kít, rồi:
Lũ Bắc Kít tìm
đủ mọi cách ăn cướp Miền Nam, và trong những
cách đó, là nhử Mẽo vô, rồi vận động
cả nước chống Mẽo kíu nước, với giấc mơ thống nhất, Nam
Bắc 1 nhà, Xuân này xum họp Xuân nào
vui hơn cái con mẹ gì đó; Kafka phán,
OK, nhưng chớ có trèo lên.
Nhưng làm sao không
trèo?
Cái Ác Bắc Kít
xúi chúng trèo, nhà Ngụy chúng
cướp, Ngụy, chúng tống đi cải tạo mút mùa
lệ thuỷ, vợ Ngụy, chúng hiếp, con Ngụy, cấm đi học, nếu
có học, cấm vô Đại Học.
Đã cảnh cáo rồi,
đừng có trèo mà cứ trèo, thế
là ô hô ai tai cả nước Mít!
Thằng Tẫu, kẻ thù muôn
đời của Mít, lũ Bắc Kít thèm Miền
Nam quá, thế là mời Tẫu vô... giường,
nhường cả vợ con cho chúng, cốt sao lấy được Miền Nam, thoát
Trung cái con khỉ Tầu!
Đau thương nhất, là người dân Miền Bắc
bây giờ chịu đúng cái nhục của Miền Nam.
Lũ Bắc Bộ Phủ, những Trọng Lú, tân thủ tướng
Bắc Kít, Fuck Fuck gì đó, chúng đâu
có tha đám Bắc Kít nghèo khổ. Chúng
cũng ăn cướp, bóc lột họ, y chang đã từng với
Miền Nam.
GCC tự hỏi, những tên Bắc Kít
cực kỳ thông minh, não bị thiến một mẩu, chúng
đâu hết rồi?
Bỏ chạy hết ra nước ngoài rồi.
Hay thế!
Sến, ở Đức, Nobel Toán, Mẽo,
“Hồng Béo” gì đó, Mẽo…
Bởi vì
Demon, và Savior, chỉ là một. Trước 1975, là
Savior. Sau 1975, biến thành Demon. Vẫn chỉ là một thứ.
Nên nhớ, không phải Dos là người
đầu tiên nhắc tới Demon, Quỉ. Quỉ của Pushkin
- viết năm 1830, một trăm năm trước cơn phẫn nộ của Stalin, giáng
xuống đầu nông dân Nga - mô tả một chiếc xe ngựa
bị bão tuyết làm mất phương hướng, mấy con ngựa kéo
xe bị quỉ xúi giục và cứ thế lao vào địa ngục.
Tới thời Dos, Những Con Quỉ [thường
được dịch là Lũ
Người Quỉ Ám, 1871], Quỉ biến thành Kẻ Cứu Rỗi,
Vị Cứu Tinh. Hãy tưởng tượng, 1921, ông Hồ đói rét,
run lẩy bẩy ở Paris, đọc Lênin, và sảng khoái la
lên, cứu tinh đây rồi, đây là tri âm tri
kỷ, kẻ đồng điệu, người đồng hành...
Bởi vì tầng lớp trí thức miền bắc đã
đón nhận quỉ sứ như kẻ cứu rỗi, như thế đó. Họ thực
sự tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ là cơ may, cơ hội đổi đời.
Chính niềm tin này là nền tảng của, thí
dụ, "Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm", của những cảnh tượng
thật bi hùng, bi tráng, bi thương, trai tráng làng,
người người trích máu tay, làm đơn tình
nguyện xin đi chiến trường miền nam.
Nhưng 1975, tất cả đều chưng hửng. Đều vỡ mộng. Hãy
tưởng tượng tâm trạng của DTH lúc đó.
Như một nhà tiên tri, Kafka đã
nhìn ra từ bao lâu cảnh này, trong Y sĩ đồng quê. Độc giả Việt, đọc
ông, mà cứ nghe ra giọng của DHT, vào đúng cái
ngày cay đắng nhục nhã đó:
"Ta đã bị bội phản! Bội phản!"
TTT 10 years Tribute
HNT Số 555 February
14, 2003
Tin
Văn
1.
Mỗi trường hợp mỗi khác.
Thus
it is enough for the poet to be the bad conscience of his age.
Saint-John Perse. Diễn văn Nobel (1960).
(Là ý thức tự phán của
thời mình, vậy là quá đủ cho nhà
thơ).
Đọc mấy đấng “lề trái”
ở trong nước, như tên vô lại NV, thấy cực tởm, so với đám
lề phải, ấy là vì chúng nghĩ chúng chọn “phiá
của nước mắt”, như ông Dương Tường phán, thành ra
tên nào tên đó chửi nhà nước dữ lắm,
và giọng văn rất càn dỡ, đểu giả, tinh ròng độc
Bắc Kít, ấy là vì chúng nghĩ, lương tâm
chúng trong sạch.
Ở bên dưới những câu
văn độc địa của NHT, ở những tác phẩm đầu, tinh ý thì
lại nhận ra tấm lòng nhân hậu của ông, nhận ra cái
ý của Kafka, trong cuộc đấu sinh tử tay đôi, duel, giữa nhà
văn và thế giới, nhà văn chọn thế giới.
Làm sao mà có chúng ta ở trong thứ
văn chương nhơ bẩn của NV được.
Trong bài viết “Con người,
con vật chính trị, L’homme, une bête politique”, trong số Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire,
7&8 2007, đặc biệt về cái ngu đần, một phát
kiến hiện đại (la bêtise, une invention
moderne), tác giả Perrine Simon-Nahum phán, một xã
hội dân chủ vận hành tốt đòi hỏi công dân
của nó một sự phán đoán sáng sủa, rõ
ràng (un jugement éclairé). Nhất là khi mà
những đấng trí thức, tầng lớp tinh anh, chính chúng,
lại là bằng cớ của sự phạm tội mù quáng (Surtout quand
les “intellectuels” font eux-mêmes preuve d’un coupable aveuglement).
Trong phần “Sự đồi bại trí thức” (“Perversions intellectuelles”),
tác giả bài viết viện dẫn Raymond Aron: Tiếp theo những nghiên
cứu của Élie Halévy về bản chất của những chủ nghĩa toàn
trị và sự yếu hèn của những chế độ dân chủ, R. Aron
bèn tóm lấy đề tài này, ngay từ năm 1937, trong
1 bài viết trên “Tập san siêu hình và đạo
đức” (Revue de métaphysique et de morale) nhắm vào chính
trị kinh tế của “Front populaire” (Mặt Trận Bình Dân?). Áp
dụng vào tầng lớp trí thức, trong 1 bài viết vào
năm 1948, trên tờ Le Figaro, Aron đề ra trước tiên,
những “nghịch lý của chủ nghĩa CS”: "Được coi thuộc giai đoạn giải
phóng con người, một chế độ thành lập những trại tập trung,
những hộ chiếu đi lại trong nước, les passeports intérieurs, cảnh
sát chính trị, une police politique, siêu việt hơn
thứ của những sa hoàng, như vậy là vượt quá giới hạn
của sự ngu đần, cà chớn, đồi bại mà ngay cả 1 tên trí
thức sau cùng cũng chấp nhận”.
Điều Aron kết án thì không nhắm vào
chuyện, tôi chọn lề phải hay lề trái (nguyên văn,
sự tham dự ý thức vào một ý thức hệ), mà là
sự đồi bại trí thức.
Chúng ta gặp đúng trường hợp những những đấng tinh
anh Bắc Kít ở đây, những đấng như Nobel Toán, Diễn
đàn Bô xịt, hay tên vô lại NV.
Thơ Mỗi Ngày
Marina
Tsvetaeva
Penguin
Russian
Poetry
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Sách
Báo
Kẻ
Phản Thùng
VIET THANH NGUYEN:
ANGER IN THE ASIAN AMERICAN NOVEL
By PAUL TRAN
The Vietnam War ended 40 years ago. A new regime rose
from the battlefields. Families like mine fled across the Pacific.
Many died at sea. Others wish they had. There's no happy ending to
this story- not when the losers ceaselessly obsess over their defeat
by a people they regard as having little value for human life. This obsession,
of course, dominates the ways Americans tell and retell their "intervention"
in the Vietnamese peoples' struggle for freedom. It obscures a story about
Vietnamese people, their triumphs and tragedies, by placing the United States,
its imperial imperatives, its altruism and delusional exceptionalism, at
the center of the narrative. But Viet Thanh Nguyen's shimmering debut novel,
The Sympathizer, calls our attention back to the war's
primary actors. It opens a complex world where no one is on the "right
side" of history. Leaping with lyrical verve, each page turns to a unique
and hauntingly familiar voice that refuses to let us forget what people
are capable of doing to each other. In a phone conversation last month,
Nguyen and I spoke about writing a novel full of rage against US imperialism,
how the Vietnamese can "fuck ourselves just fine;' and the individual in
the wake of failed revolutions.
Cuộc chiến Việt Nam chấm dứt 40 năm trước đây. Một chính
quyền mọc lên
từ chiến trường. Những gia đình trong có gia đình
tôi bỏ chạy bằng cách vượt biển Thái Bình Dương.
Nhiều người chết. Nhiều người khác mong được như vậy. Chẳng có
cái kết thúc hạnh phúc cho câu chuyện này
– hạnh phúc sao được, khi kẻ thua cay đắng nhận ra rằng, họ thua
những kẻ ít tính người hơn họ. Chính cái sự
cay đắng, nỗi ám ảnh này, trấn ngự những cách thức
mà những người Mỹ kể đi kể lại sự “can thiệp” của họ trong cuộc
chiến đấu giành tự do của người Việt. Nó làm u ám
câu chuyện về người Việt, chiến thắng và bi kịch của họ, khi
để Hoa Kỳ, thái độ cha chú đế quốc, tính vị tha, và
chủ nghĩa ngoại lệ hoang tưởng của nó ở trung tâm của tự sự.
Nhưng cuốn tiểu thuyết đầu tay tỏa sáng lung linh của Viet Thanh
Nguyen, Kẻ Phản Thùng, kéo sự chú
tâm của chúng ta trở lại với những diễn viên gốc của
cuộc chiến. Nó mở ra một thế giới đa dạng nơi không ai ở
“đúng phía” của câu chuyện. Đi 1 đường cao hứng trữ
tính, mỗi trang vọng lên 1 giọng nói độc nhất, nhức
nhối, quen thuộc, nó từ chối không cho chúng ta quên
rằng thì là, những con người dám làm gì
với những con người. Trong 1 cú phôn tháng rồi, Nguyen
và tôi nói về, viết 1 cuốn sách đầy sự căm phẫn
chống lại chủ nghĩa đế quốc của Hoa Kỳ, như thế nào những người Việt
có thể ĐM mày, và cá nhân từng con người
trong sự trỗi dậy của những cuộc cách mạng thất bại.
Paul Tran: Growing up in San Diego, California,
which is a setting in your book, I was the only one in my family who
could read and write in English. My mother grew up in central Vietnam.
She was born in 1954 and came to the United States in 1989 after spending
nine years in a Viet Cong prison and being re-educated in the Philippines.
I spent much of my childhood trying to find literature about Vietnamese
people. It wasn't until I went to college and left home that this dream
began to be realized. I want to begin this conversation this way because
I have read interviews in which you express a similar sentiment: where you,
as a child growing up in the United States, looked for narratives of Vietnam
in literature and in Hollywood. One of the reviews of your book from the
New York Times says that it "fills a void in the literature, giving voice
to the previously voiceless while it compels the rest of us to look at the
events of 40 years ago in a new light:' What void do you believe The Sympathizer
fills?
Viet Thanh Nguyen: I think that when the New York Times
Book Review says The Sympathizer gives voice to the voiceless,
it is inaccurate. There is, by now, a significant body of Vietnamese
American and Vietnamese literature translated into English. The
Vietnamese people and Vietnamese Americans have voices. It's simply
that Americans as a whole tend not to hear them. Nevertheless, even
given that body of writing by Vietnamese and Vietnamese Americans, I
do think that The Sympathizer fills a gap in what that literature
talks about.
When I was imagining the novel into
being, I felt that there still wasn't a novel that directly confronts
the history of the American war in Vietnam from the Vietnamese American
point of view. Much of the Vietnamese literature that's available in
translation focuses on the perspective of the Northern Vietnamese or Communist
Vietnamese or formerly-Communist Vietnamese. Vietnamese American literature
tends to focus on the refugee experience, what happens to the Vietnamese
once they come to the United States. We really have to turn to memoirs
by first-generation Vietnamese people like Le Ly Hayslip and Mai Elliott
to confront the war itself.
Even so, what was missing was literature
with a more critical take on what the US did in Vietnam. That was
the first instinct of the book -I wanted to be very critical of the
role of the Americans in Vietnam and not adopt the usual position of
Vietnamese Americans, which is either to be grateful to be rescued by
Americans, or conciliatory, not directly confrontational in the literature.
I was also responding to a lot of Asian
American literature, which I read a great deal of be cause that's
part of what my research is about. One of the things that characterizes
both Vietnamese and Asian American literature is that it's often times
not very angry. There's not a lot of rage, at least not in the past few
decades. And if there is anger or rage, it has to be directed at the ignorant:
the Asian country of origin or Asian families or Asian patriarchs. While
all that is important, I sensed a reluctance to be angry at American culture
or at the United States for what it has done. That's why, in the book,
I adopt a much angrier tone towards American culture and the US.
Finally, I didn't want to let anybody
off the hook, so the book is also very critical of South Vietnamese
culture and politics and Vietnamese communism. Instead of choosing
its targets selectively- only being critical of one group-it decides
to hold everyone accountable.
Đem tiếng
nói đến cho người không có tiếng nói. Tờ
Điểm Sách Nữu Ước Thời Báo viết thế là không
đúng.
Viết
1978: Bucharest
GOVERNMENT OVERSIGHT
According to careful estimates, in the last earthquake
to strike Bucharest 2,500 people lost their lives; exact calculations,
however, have shown that some 4,000 people perished beneath the ruins.
This number would have been reduced by 500 if the city had acted contrary
to the express orders of the official of the Bucharest administration
responsible for these things to bulldoze the rubble of the hotel
that was totally destroyed rather than to clear it away, and had
actually cleared the rubble away. For a whole week after the earthquake,
people could still hear the cries of hundreds of those who had been
buried coming from the rubble. The official of the city administration
had the area around the hotel cordoned off until he received reports
that absolutely nothing more was stirring beneath the rubble and not
a single sound was still to be heard from the rubble. Not until two and
a half weeks after the earthquake were the people of Bucharest permitted
to view the heap of rubble, which was completely bulldozed in the third
week. The official is said to have refused, on grounds of expense, to
rescue some 500 guests of the hotel who had been buried. Rescuing them
would have cost a thousand times more than bulldozing, even without taking
into account the fact that probably hundreds of severely injured people
would have been brought out from the rubble who would then have had to be
supported by the state for the rest of their lives. According to reports,
the official had, in the nature of things, assured himself of the support
of the Romanian government. His promotion to a higher position in the civil
service is said to be imminent.
Thomas Bernhard, ''Decision.'' Bernhard grew up in Salzburg,
where as a teenager he dropped out of school and went to work in
a grocery store. This report on the aftermath of the Romanian earthquake
of March 4, 1977, was included in his 1978 collection, The Voice Imitator.
When Bernhard died in 1989 his will forbade any publication or performance
of his work in his native Austria, which he once called 'a common hell
in which the intellect is incessantly defamed and art and science are
destroyed. "
Note: Báo cáo
ngắn này, về 1 trận động đất, và thái độ của nhà
nước sở tại, xem ra thật giống xứ Mít hiện nay, trước Họa Biển.
|
|