|
448
I died for Beauty - but was scarce
Adjusted in the Tomb
When One who died for Truth,
was lain
In an adjoining Room -
He questioned softly "Why
I failed"?
"For Beauty", I replied -
"And I - for Truth - Themself
are One -
We Bretheren, are", He said
-
And so, as Kinsmen, met a Night
–
We talked between the Rooms
–
Until the Moss had reached
our lips -
And covered up - Our names
-
This little fable, stemming ultimately from the
motto "Beauty is Truth, Truth Beauty" spoken by Keats's Urn, is
one of many poetic attempts to reconcile the Good, the True, and
the Beautiful (traditionally known as the "Platonic Triad"). Perhaps
no poet has been able to give equal weight to all three concerns. Keats
himself was in fact beginning to put new emphasis on the Good in his
last works, but he had spent most of his short life thinking about
the relation of Beauty (aesthetic creation and its product) to Truth
(both philosophical and representational). Dickinson resolves the
old quarrel between the truth of Beauty and the truth of Reason by
letting Reason deny the existence of the quarrel: '''We Bretheren,
are; He said - ". How is it that these "Bretheren," if they are indeed
brothers, have never met until the grave unites them? Dickinson allows
the person who died for Beauty, who is the "lead speaker" of the poem,
to revise the relationship a little: they are "Kinsmen,” but have strayed
into a shared domain only now. "Truth" is male in this narrative, as
the pronouns tell us; it seems probable that Dickinson intend "Beauty"
to be female. Each a hemisphere, together they make a whole.
Why have Truth and Beauty died?
Truth puts the question first, to Beauty: "Why did you fail?" (in
the sense of "weaken and die"). "For Beauty:' she replies. "And I
- for Truth:' he says, but continues with his declaration of their
intimate relationship (as though Beauty would not know, unless he told
her, that Truth is her Brother). Beauty had apparently never thought
about her relation to Truth; she was self-sufficient. But Truth had thought
about his relation to Beauty-he had ascertained what his complement must
be. This interesting asymmetry has separated them until now; but Truth has
convinced Beauty that a near-relation of hers, a Kinsman, lies in the Room
adjoining hers in the Tomb. Dickinson will not attempt a complete fusion.
A wall separates Beauty from Truth, and it does not disappear.
When we use an expression such
as "He died for God and Country,' we envisage a battle; when we
say, "She died for her faith:' we envisage a martyrdom. Apparently,
Beauty and Truth have died in affirmation of the values they endorse;
society will not permit their continued existence. Yet there is no
recrimination in these two who have been so steadfast, nor any indictment
of the values opposed to their own. They were not executed; they merely
"died" or "failed" for Beauty or Truth. The idiom "I died [failed] for
Beauty" substitutes a weak verb of nonaction for a strong verb of action,
as in “I fought for Beauty" or "I spoke for Beauty." In the Tomb, the
adversary no longer matters; to "fail" in the service of a cause places
agency within the self, rather than in the hands of an enemy ("I was martyred
for Beauty").
In any case, what seems to be-astonishingly-the
first mutual recognition of Truth and Beauty softens the impact
of the grave, to which Beauty is “scarce/Adjusted" (as though it were
a new climate). She is "Adjusted"; he is “adjoining": Dickinson's graphic
and phonetic "matches" confirm the relationship of the two ideals. Beauty's
"Tomb" matches Truth's "Room." They are Kinsmen indeed. Their warm
talk continues, until-in one of Dickinson’s startling flashes of metaphor-they
metamorphose into their own Tombstones.
Eventually, but mercifully only
after some time, the moss on the stone will grow high enough to
obliterate the names of these Kinsmen, as, in a second flash-forward
to the future, the lips that were enabling speech in the Tomb fall
silent when the moss covers their names. It is not the attrition of
the time and weather that obliterates the names, as it would be in an
ordinary cemetery; rather, in Dickinson's gentle close, it is the beneficent
green of nature that eventually resolves all distinctions. As "Tomb" rhymed
with "Room" in the first instance, now "Rooms" rhymes with "names" as
even the highest Platonic concepts gradually disappear under the Moss.
The simplicity of both fable
and diction has made "I died for Beauty - "none of Dickinson's
best-known poems, but under the simplicity lies a real inquiry into
the relations of Truth and Beauty. The fact remains that they can
never occupy the same room, however much their lips can express kinship
in words.
Helen Vendler: Dickinson, Selected Poems and
Commentaries
Đọc cái còm của
nữ phê bình gia Thụy Khuê-Yankee mũi lõ,
thì hoá ra là, bài thơ này, “mắc
mớ” tới bài thơ Phượng Hoàng & Bồ Câu, của
Shakespeare, TTT dùng làm đề từ cho Một Chủ Nhật Khác,
và xoay quanh thứ tình yêu “Chiêm Ngưỡng
& Kính Trọng”, tức tam giác tình lý tưởng,
the Platonic-triad, mà em BHD đã từng phán, thứ
tình yêu đó cũng làm Hương... sợ!
Nếu như thế, TTT, đọc/dịch Dickinson, và
hiểu, bài thơ, đúng như Vendler cắt nghĩa?
Thảo nào BHD…. sợ!
Phượng Hoàng và Bồ Câu
Cái đẹp, sự thật, sự hiếm quí
Ân sủng rất mực giản dị
Táng tro cốt nơi đây.
Cõi chết Phượng Hoàng nương náu
Và ngực Bồ Câu đoan trinh
Trong thiên thu an nghỉ.
Không lưu truyền tông tích
Chẳng bởi tật nguyền
Vì chưng hôn phối thanh khiết.
Vẻ thật không sao thật
Dáng đẹp phô, hão huyền
Sự thật cùng cái đẹp đã mai
một.
Trước quanh quách đôi linh điểu
Hằng chân thật hoặc mỹ miều
Vọng gửi khúc kinh cầu ngưỡng mộ.
Thanh Tâm Tuyền dịch
The Phoenix and the Turtle
Beauty, truth, and rarity,
Grace in all simplicity,
Here enclosed'd in cinders lie
Death is now the phoenix' nest,
And the turtle's royal breast
To eternity cloth rest,
Leaving no posterity -
"Twas not their infirmity,
It was married chastity.
Truth may seem but cannot be;
Beauty brag, but 'tis not she;
truth and beauty buried be.
To this urn let those repair
That are either true or fair;
For those dead birds sigh a prayer.
William Shakespeare
Tứ tấu khúc
Tình yêu, tình yêu, anh
mơ tưởng hạnh phúc còn em nghĩ hạnh phúc không
có, "Je t’aime parce que tu veux l’impossible", và
chàng trả lời, "Muốn hưởng hạnh phúc thì ít
nhất phải tin hạnh phúc có." Nhưng hạnh phúc ở đâu,
ở trên trời, hay ở dưới đất, hay ở địa ngục? Chúng tôi
sẽ phải làm một điều thiện vĩ đại để có vé vào
thiên đàng, hay một điều ác thật ghê rợn,
để chiếm lấy địa ngục, cho chỉ hai đứa?
(Thứ tình yêu chỉ gồm có chiêm
ngưỡng và kính trọng, thứ amour platonique mà
anh nói đó cũng làm Hương sợ).
BHD không nhắc tới ngôi mộ, nhưng mà
là địa ngục, còn khủng hơn cả Dickinson!
The Phoenix And The Turtle poem by Shakespeare is
perhaps his most obscure work, verging on the metaphysical as
an allegorical poem about the death of a perfect love. The Phoenix
And The Turtle was published untitled in 1601 as one of the Poetical
Essays appended to Robert Chester’s ‘Love’s Martyr’.
http://www.nosweatshakespeare.com/shakespeares-poems/the-phoenix-and-the-turtle/
Phượng Hoàng & Bồ Câu là
1 bài thơ cực kỳ u tối, khó hiểu. Chúng ta
tự hỏi, tại làm sao TTT lại dùng nó làm
đề từ cho cuốn tiểu thuyết?
Bây giờ, lại thêm 1 cú bí
hiểm thứ nhì, là bài thơ dịch Dickinson.
Tin Văn sẽ đi 1 đường tiếng Mít, và
sau đó, độc giả tùy nghi....
Bài ngụ ngôn nho nhỏ, bắt nguồn từ
“Cái Đẹp là Sự Thực, Sự Thực Cái Đẹp” của
Keats’s Urn, là 1 trong nhiều toan tính thi ca nhằm
hòa giải Cái Tốt, Cái Thực và Cái
Đẹp - hiểu theo truyền thống như là tam giác [tình]
lý tưởng. Có lẽ chưa có ai đem đến một sức nặng
đồng đều cho cả ba. Keats, chính ông, thực ra đã
bắt đầu coi trọng Cái Tốt, trong những tác phẩm sau
cùng, nhưng ông trải qua hầu hết cuộc đời ngắn ngủi để
suy tư về liên hệ của Cái Đẹp (sáng tạo mỹ học
và những sản phẩm của nó) với Sự Thực (cả về triết lý
lẫn trình diễn). Dickinson giải quyết cuộc lèm bèm
cũ rích này, về sự thực của Cái Đẹp và
sự thực của Lý Lẽ, bằng cách, để Lý Lẽ chối bỏ sự
hiện hữu của 1 cuộc lầu bầu như thế, Chúng ta là bằng
hữu, là bạn quí, là tín hữu, là…
Anh ta phán. Bạn quí như thế nào, gặp nhau ở đâu
(chắc ở Quán Chùa, “Chúa Ơi!”- thuổng NDT), cho
đến khi nấm mồ kết nối họ. Dickenson để cho nhân vật chết vì
Cái Đẹp, làm phát ngôn viên dẫn đạo
của bài thơ, xì ra tí ti, về liên hệ, chúng
là là đạo hữu, bị nhốt chung vào 1 nấm mồ. “Sự Thực”
là “đực”, trong dòng kể, như đại danh từ “he” cho thấy. Nếu
như thế, thì có thể, Dickinson coi “Cái Đẹp” là
“cái”. Mỗi bên nửa trái cầu, cùng nhau, họ làm
thành trọn ổ.
[Trong MCNK, nhân vật Hiền sau cùng
biến mất, và Duy, có lần tính hỏi Kiệt, Hiền
đâu rồi. Khi dịch bài thơ của Dickinson, có thể
TTT nhắm trả lời Duy, Hiền ở chỗ đó đó, chỗ mà
Kiệt đưa cô tới, rồi trở về với vợ con. Và cái truyền
thuyết về 1 miền đã mất, sản sinh ra những tác phẩm như
Anh Môn, Gatsby, MCNK, sau cùng, do Dickinson trả lời:
Nấm Mồ.]
Thơ Mỗi Ngày
Marina
Tsvetaeva
12.
One great poet of her generation Tsvetaeva did meet;
in 1916, she met young Osip Mandelstam. They had a brief affair
during the Civil War. Mandelstam visited her so often-by train from
St. Petersburg-that one friend joked, "I wonder if he is working for
the railways." Years later, Nadezhda Mandelstam, the poet's widow,
recalled:
The friendship with Tsvetaeva, in
my opinion, played an enormous role for Mandelstam 's work. It was
a bridge on which he walked from one period of his work to another.
With poems to Tsvetaeva begins his second book of poems, Tristia.
Mandelstam's first book, Stone, was the restrained,
elegant work of a Petersburg poet. Tsvetaeva's friendship gave him
her Moscow, lifting the spell of Petersburg's elegance. It was a magical
gift, because with Petersburg alone, without Moscow, there is no freedom
of full breath, no true feeling of Russia, no conscience. I am sure that
my own relationship with Mandelstam would not have been the same if on
his path he had not met, so bright and wild, Marina. She opened in him
the love of life, the ability for spontaneous and unbridled love of life,
which struck me from the first minute I saw him.
According to Mme. Mandelstam, "Tsvetaeva had a generosity
of soul and a selflessness which had no equal. It was directed
by her willfulness and impetuosity, which too, had no equal."
13.
A fact: the Revolution brought Tsvetaeva poverty
and the five-year-long absence of her husband, who joined the White
Army and fought the Revolutionaries in Crimea and elsewhere. A
fact: after the Revolution, Tsvetaeva almost starved. She left both
of her daughters in an orphanage where it was said they would be better
fed, and one of them, the younger, Irina, died of starvation.
When my child died in Russia from
hunger and I learnt of this- simply on the street from a strange
person-("Little Irina your daughter?- Yes-She died. Yesterday died.
Tomorrow we will bury her.")-and I kept silent three months-not a
word of death-to anyone-so she [the child] did not die finally, and
still (in me)- lived. This is why your Rilke did not mention my name.
To name [call/speak] -is to take apart: to separate self from thing.
I don't name anyone-ever.
This too, is a lesson found in her poetics: Marina
Tsvetaeva, the poet so obsessed with the Russian language, the
Russian poet of her generation, the poet who wrote elegies for everyone
else-including the living-at her own elegiac moment, chose not to speak.
12
Một nhà thơ lớn của thời
của bà, Tsvetaeva đã từng gặp; vào năm 1916, bà
gặp Osip Mandelstam trẻ. Họ có 1 cuộc tình ngắn ngủi
trong thời kỳ Nội Chiến.
Mandelstam thường xuyên thăm bà - bằng
hoả xa từ St. Petersburg – một người bạn thân nói
đùa, hay là anh ta là nhân viên
hỏa xa.
Những năm sau đó, bà vợ góa của
Mandelstam nhớ lại:
Tình bạn với Tsvetaeva theo
tôi, đã ảnh hưởng lớn lên thơ của Mandelstam.
Nó là cây cầu mà nhờ nó mà
nhà thơ bước từ một giai đoạn của mình, qua 1 giai đoạn
khác. Với những bài thơ với Tsvetaeva, bắt đầu cuốn thơ
thứ nhì của anh, Tristia. Tập thơ đầu, Stone,
là 1 tác phẩm câu thúc, thanh nhã,
của nhà thơ của St. Petersbug. Tình bạn với Tsvetaeva
cho anh, Moscow của bà, thoát ra khỏi lời nguyền của
sự lịch lãm của St. Petersburg.
Đúng là 1 món quà thần
kỳ, bởi là vì với chỉ Petersburg không thôi,
không có Moscow, thì sẽ thiếu khí trời,
thiếu sự tự do của hơi thở trọn vẹn, đếch có tình
tự thực, cảm nghĩ thực, về Nga xô, đếch có luôn
lương tâm, ý thức…
Ui chao, đọc, thì lại nghĩ đến Gấu Cà
Chớn: Giả như đếch có Xề Gòn?
Phan Thiền Sư & kiêm nhà báo,
nhận ra điều này, khi viết về GCC:
Tác giả Nguyễn Quốc Trụ đã nổi tiếng
từ thập niên 1960s tại Sài Gòn, với các
thể loại truyện ngắn, tạp ghi và biên khảo văn học.
Ra hải ngoại, ông viết bài cho nhiều báo, chuyên
khảo về văn học Việt Nam và thế giới, đang thực hiện trang
web riêng ở địa chỉ tanvien.net. Với ngôn ngữ rất là
Bắc Kỳ, và gần suốt một đời trưởng thành và
sống tại Miền Nam, văn của NQT đã trở nên đa dạng và
phức tạp hơn hầu hết những người cầm bút cùng thời.
Penguin
Russian
Poetry
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
The lake
I woke at night. Some said:
"The sea of holy Baikal is dead."
Someone's eyes are on me.
As if I had murdered and stolen the sea.
And hear-the Irkutskian is wide awake in the dark.
He's smoking. The ancestor has wakened in the earth.
When you are sick, we are sick.
Baikal, the country's crystal liver!
And from the deep someone added:
"Baikal, the inner eye of our world."
I drifted in a boat along the Baikal shore.
Evening had a lustre.
So, did science actually tell lies
Before the unflinching eye of Baikal?
And will we really be known as-
"Those who wrecked Baikal"?
We must send out a bulletin,
About how salmon and seal feel.
It's not only the increasing sediment-
The country's conscience has got to be cleared.
This is why, as they ferret out the flim-flam,
Dancers expert in diatribe vs dialogue wrestle
To preserve the lake as a reserve,
So its waters won't turn to cellulose,
So no one will ever say:
"The sea of holy Baikal is comatose."
30.4.2016
GCC có gần như tất cả
sách của David Remnick, nhưng thiếu cuốn đầu, tức cuốn
trên, Ngôi Mộ Lenin, Những ngày
sau cùng của Đế Quốc Xô Viết
GCC tính mua cuốn này
lâu rồi, chờ thứ second-hand, bữa nay, giở đọc sơ bài
Bạt thấy được quá,
bèn tặc lưỡi, OK. Vả chăng, đây cũng là ấn bản rẻ tiền.
GCC biết ông này, khi đọc bài
ông viết về Brodsky, trên The New Yorker, (1) những ngày đầu viết cho Văn Học. Bèn chôm liền.
Sau in thành sách, bèn mua, và bèn chôm
bài viết về Oe, (2) được 1 vị độc giả mail, khen, bài
viết được quá!
Hà, hà!
… 10-5-2005
… Cám ơn bác rất nhiều về vốn quý
hiểu biết của bác, tôi đã học được rất nhiều
về những bài giới thiệu của bác. Bác không
giới thiệu thì tôi cũng chẳng biết gì... về G.
Steiner, cũng không hiểu sâu thêm về S. Weil, không
biết chuyện “Cha và Con” của Oé – Ui chao, cả một trời
hiểu biết mà không hiểu biết thêm về “Cha và
Con” là cả một thiếu sót lớn trong cuộc đời!
Tks. Take Care Both of U
NQT
Đoạn
mở ra bài Tựa,
cũng thú
PREFACE
Long before anyone had a reason
to predict the declide and fall of the Soviet Union, Nadezhda
Mandelstam filled her notebooks with the accents of hope. She was
neither sentimental nor naive. She had seen her husband, the great
poet Osip Mandelstam, swept off to the camps during the terror of
the 1930s; she described in ruthlessly clear terms how the regime
left its subjects in a permanent state of fear. The people of the
Soviet Union had been made, as she put it, "slightly unbalanced mentally-not
exactly ill, but not normal either." But Mandelstam, unlike so many
scholars and politicians, saw the signs of the Soviet system's inherent
weakness and believed in the resiliency of the people.
Trước rất lâu bất cứ một
ai có thể tin rằng, Đế Quốc Đỏ sẽ sụm, Nadezhda Mandelstam
đã viết Sổ Ghi bằng 1 thứ âm thanh của hy vọng. Bà
không phải thứ người tình cảm, hay ngây thơ,
ngù ngờ. Bà đã chứng kiến chồng mình,
nhà thơ vĩ đại Osip Mandelstam, chết trong tù thập niên
1930, thời kỳ khủng bố. Bà đã mô tả, bằng 1 giọng
cực rõ ràng, không chút thương xót,
nhà nước đối xử với nhân dân của nó, như thế
nào: bằng cách đẩy tất cả vào tình trạng
lo sợ, rằng tai họa sẽ giáng xuống bất cứ lúc nào.
Người dân Xô Viết, bà viết, thì được làm
ra, “hơi mất thăng bằng về tâm thần 1 tị - không hẳn là
bịnh, nhưng cũng không thể nói, là những con người
bình thường”. Nhưng, Mandelstam, không như những nhà
học giả hay chính trị gia, nhìn ra những dấu hiệu của sự
yếu đuối nội tại, cố hữu, gắn liền với chế độ, của hệ thống Xô Viết,
và tin tưởng ở khả năng dẻo dai, sức bật, sự phục hồi mau lẹ của
dân chúng.
Bài ngắn, TV sẽ post và
dịch.
Biết đâu, nhờ đó tìm ra gót
chân Achilles của VC!
Thú, là đọc, thì lại như đang chứng
kiến những cuộc xuống đường ôn hòa, bị VC đàn
áp cực kỳ dã man, và chính sự tàn
nhẫn của chúng, thì lại làm cho cái tít
trở thành 1 lời tiên tri sắp sửa trở thành hiện thực,
trong 1 tương lai rất gần cho xứ Mít: Những ngày cuối
cùng của Đế Quốc Vẹm!
PREFACE
Long before anyone had a reason
to predict the decline and fall of the Soviet Union, Nadezhda Mandelstam
filled her notebooks with the accents of hope. She was neither sentimental
nor naive. She had seen her husband, the great poet Osip Mandelstam,
swept off to the camps during the terror of the 1930s; she described
in ruthlessly clear terms how the regime left its subjects in a permanent
state of fear. The people of the Soviet Union had been made, as she put
it, "slightly unbalanced mentally-not exactly ill, but not normal either."
But Mandelstam, unlike so many scholars and politicians, saw the signs
of the Soviet system's inherent weakness and believed in the resiliency
of the people.
On August 20, 1991, a rainy, miserable
afternoon, I walked among the crowds protecting the Russian parliament
from a potential invasion by the leaders of a military coup. We all
saw that day what so few could have predicted: Soviet citizens-workers,
teachers, hustlers, children, mothers, grandparents, even soldiers-all
standing up to a group of ignorant men who believed themselves yet
another improved version of the Bolshevik regime and possessed of a power
to freeze, even turn back, time. In their hurried calculations, the
conspirators assumed "the masses" were too exhausted and indifferent
to fight back. But tens of thousands of ordinary Muscovites were ready
to die for democratic principles. It was said then and is said even
now that the Russians know little or nothing of civil society. How strange,
then, that so many were willing to give up their lives to defend it.
I do not usually have a great memory
for the things I have read, but that afternoon of the coup, hours
before it came clear that there would be no attack and the putsch
would fail, I thought of a short passage, bracketed in black, in my paperback
copy of Nadezhda Mandelstam's Hope Against Hope: "This terror could
return, but it would mean sending several million people to the camps.
If this were to happen now, they would all scream-and so would their
families, friends and neighbors. This is something to be reckoned with."
The leaders of the August coup had not reckoned with the development of
their own people. They understood nothing. They were jailed for the miscalculation,
and the struts of the old regime collapsed.
******
As I write, the euphoria of
those August days is past and Russian democracy is a delicate thing.
There are days when it seems that little has changed, that the fate
of Russia hinges, once more, on the skills, inclinations, and heartbeat
of one man. This time it is Boris Yeltsin: heroic during the coup,
flexible, clever, but also, at times, reckless with language, careless
with the bottle. No one knows what would happen should Yeltsin fall
from power, the result of a stroke or an uprising of the hardline nationalists,
neofacists, and nostalgic Communists who dominate parliament. As this
book goes to press in April 1993, the power struggle between Yeltsin
and parliament is unresolved and has underscored the lack of a clear and
workable constitution, legal system, and system of authority. The institutions
of this new society are embryonic, infinitely fragile.
In January 1993, Yeltsin's program
of economic shock therapy has resulted in only fitful progress, much
pain, and, everywhere, anxiety. Food and other supplies are in some
places more plentiful, but prices are out of control. The inflation
rate is beginning to look Latin American. The heads of the vast military
plants show little interest in converting to a peacetime economy, and
the absurd subsidies they receive make a mess of Russia's finances. A brash
new class of young hustlers and even some honest businesspeople are thriving,
but the old, the weak, and the poor are despondent. The crime rate is
out of control. And everywhere there is a new demagogue-Communist, nationalist,
or simply mad-ready to exploit the failures, vanities, and misfortunes
of the elected government. The danger of the authoritarian temptation
still lurks in Russia. So far, nearly all the potential successors to
Yeltsin promise to be less inclined to radical economic reform and more
likely to carry out an aggressive anti-Western foreign policy.
Elsewhere in the former Soviet Union,
the situation is at least as worrisome. There are unlovely little
wars in the Caucasus, coups d'état in Central Asia. Moldova,
Latvia, Estonia, and Lithuania charge Russia with imperialism
for leaving behind its troops. The Russians, for their part, complain
that the leaders of the Baltic governments treat non-Baits as second-class
citizens. Armenia is broke and on the edge of breakdown, Georgia is
consumed in civil war. Despite a series of historic treaties with the
United States, the unresolved conflicts over arms stockpiles between
Russia, Ukraine, Belarus, and Kazakhstan trouble our sleep with dreams
of what James Baker once called "Yugoslavia with nukes."
Despite it all, I am partial to
Mandelstam's brand of hardheaded optimism. This book, after all,
chronicles the last days of one of the cruelest regimes in human
history. And having lived through those final days, having lived in
Moscow and traveled throughout the republics of the last empire, I
am convinced that for all the difficulties ahead, there will be no
return to the past. In the West, we cannot afford to look away from
this process. To refuse help will endanger Russia, the former Soviet
Union, and the security of the globe.
It will take many books and records
to understand the history of the Soviet Union and its final collapse.
We are, after all, still debating the events of 1917. To write history
takes time. When asked what he thought of the French Revolution, Zhou
Enlai said, "It's too soon to tell." To understand the Gorbachev period
will require a new library covering an immense range of subjects: U.S.-Soviet
relations, economic history, the uprisings in the Baltic states, the
Caucasus, Ukraine, and Central Asia, the "prehistory" of perestroika,
the psychological and sociological effects of a long-standing totalitarian
regime.
I went to Moscow in January 1988
as a reporter for The Washington Post and saw the revolution from
that peculiar angle. Like a lot of reporters in Moscow, I was filing
three and four hundred stories a year to editors who would certainly
have taken more. Even then, in the midst of that feverish work, it
seemed that the multiple events of the Gorbachev-Sakharov- Yeltsin era
followed a certain logic, a pattern: once the regime eased up enough
to permit a full-scale examination of the Soviet past, radical change
was inevitable. Once the System showed itself for what it was and had
been, it was doomed. I begin in Part I with that essential moment-the
return of history in the Soviet Union-and then move on in Part II to
the beginnings of democracy and in Part III to the confrontation between
the old regime and the new political forces. Part IV is an attempt to
describe, from multiple points of view, the August putsch-that most bizarre
and climactic of episodes-and its aftermath. In Part V, we see the final
attempt of the Communist Party to justify itself while, all around, a
new country is being born. Throughout, I tell the story largely through
the eyes of a few representative men and women, some well known, others
not.
I am sure if Nadezhda Mandelstam
were alive today she would not dwell long on celebration. She would
be ruthlessly critical of the inequities and absurdities of politics
in post-totalitarian Russia. She would warn of the problem of expecting
an injured and isolated people to make a rapid transfer to a way
of life that no longer promises cradle-to-grave paternalism. She
would, despite her own love of Agatha Christie novels, warn against
the new tide of junk culture-the sudden infatuation with Mexican soap
operas and American sneakers. She would not ignore the difficulties,
even disasters, ahead. But she would, I think, remain optimistic. Optimism
is a belief in a gradual and painful rise from the wreckage of Communism,
a confidence that the former subjects of the Soviet experiment are
too historically experienced to return to dictatorship and isolation.
Already there are signs all over Russia and the rest of the former Soviet
Union of new generations of artists, teachers, businesspeople, even
politicians on the rise. People "free of the old complexes," as Russians
say. A day may even come soon when getting from one day to the next in
Russia will no longer require the sort of miracles we witnessed in the
last several years of the old regime. Perhaps one day Russia might even
become somehow ordinary, a country of problems rather than catastrophes,
a place that develops rather than explodes. That would be something to
see.
Đi tìm phê bình gia Mít
Is That Kafka?
Sách
Báo
Kẻ
Phản Thùng
Viết
My Old Saigon
Washington Post,
một tờ báo lớn ở Mỹ vừa có bài dưới đây.
"OBAMA PHẢI NÓI GÌ Ở VIỆT NAM?". Xin mời bà
con xem bản dịch của FB Anh Hào Phạm:
(Đây là
1 dạng xã luận của báo WP):
"Tổng thống Obama
sẽ viếng thăm Việt Nam trong tháng này, và đây
là chuyến thăm lần thứ ba của các tổng thống Mỹ đến
đây kể từ khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc cách
đây hơn bốn mươi năm.
...Continue Reading
During his visit, the president should
speak out against its leaders’ abysmal human rights record.
Giữa
lúc các mối quan tâm giữa hai bên về giao
thương và an ninh ngày càng được cũng cố, TT.
Obama cần phải tập trung vào thành tích nhân
quyền không mấy sáng sủa của quốc gia này.
Câu tiếng Anh, bảnh hơn nhiều, nó phán
rằng, Ô Bá Mà phải chửi thẳng vào mặt VC về cái hố thẳm - chôm chữ
của PCT - về thành tích về nhân quyền của chúng.
Chửi, là còn may.
Bà DTH, khi bà tổng thống Pháp (?), đề nghị
cho tị nạn, lắc đầu, tôi phải về để ị vào mặt chúng!
Tính
kiếm số Văn Học Tẩy, chưa về, đành cầm lên số này,
trong có bài về Einstein, Đức và Do Thái,
malgré lui. Bài tuyệt lắm. Có 1 chi tiết, rất
quái, là khi còn nhỏ, bố mẹ ông bèn cho ông
đi học ở 1 trường Ky Tô, mà ông là 1 tên
Do Thái độc nhất! Ông & bà Einstein trong lễ
tuyên thệ trở thành công dân Huê Kỳ,
1940. Solz, lắc đầu không làm công dân Mẽo,
trong khi cả gia đình OK, vì ông tin rằng, ông
sống dai hơn chế độ Xô Viết. Quả thế thực.
Số VH
Tẩy mới, có bài sau đây:
Le Goncourt du premier roman refusé
http://www.magazine-litteraire.com/actualite/goncourt-du-premier-roman-refuse-14-05-2016-139389
Cho Goncourt, đếch thèm
nhận, mà là cuốn đầu tay!
Le
Goncourt du premier roman refusé
Actualité - 14/05/2016 par Amélie Cooper (309
mots)
Un inconnu, signant sous le pseudonyme de Joseph Andras, a refusé
le Goncourt du premier roman pour son livre De nos frères
blessés (éd. Actes Sud) qui lui a été
attribué mercredi.
L'Académie Goncourt avait surpris les lecteurs français
en décernant à Joseph Andras son prix du premier roman
: il n'apparaissait pas dans leurs sélections. L'auteur les a
surpris à son tour, en ne se rendant pas au déjeuner cérémonial
après la remise des prix. Puis finalement, en refusant sa récompense
trois jours après l’avoir reçue.
On ne sait rien de Joseph Andras, sinon qu’il vivrait en Normandie.
La question brûle les lèvres de tous - et peut être
était-ce le but recherché - pourquoi refuser ce prix,
ainsi que la prime de 5000 euros qui l'accompagne ? Il expliquait son
choix jeudi soir, dans une lettre adressée aux membres du jury
Goncourt, passée par les mains de son éditrice d'Actes
Sud.
« La compétition, la concurrence et la rivalité
sont à mes yeux des notions étrangères à
l’écriture et à la création. La littérature,
telle que je l’entends en tant que lecteur et, à présent,
auteur, veille de près à son indépendance et chemine
à distance des podiums, des honneurs et des projecteurs. Que
l’on ne cherche pas à déceler la moindre arrogance ni
forfanterie dans ces lignes : seulement le désir profond de s’en
tenir au texte, aux mots, aux idéaux portés, à la
parole occultée d’un travailleur et militant de l’égalité
sociale et politique. »
Joseph Andras affirme agir par conviction politique, mais cette
conviction a attendu trois jours avant de s’exprimer. Il pourrait s’agir
d’une stratégie de communication, mais l’hypothèse la
plus probable demeure celle de son souhait de préserver son identité
qu’il aurait dû divulguer s’il avait accepté le chèque
de l’Académie Goncourt.
À lire aussi sur La République des livres
Par Amélie Cooper
KHÔNG THỂ
SO SÁNH VỚI NGHỆ SĨ KIM CƯƠNG
Hôm nay
commt cho bài "góc khuất của giới nghệ sĩ "thế này:"Tôi
không tin đặt tên sách "cho gió cuốn đi" thì
gió sẽ cuốn đi tất cả những cái gì đã viết
thành sách mà sách ấy đã được xuất
bản và lại được quảng bá trên vài phương tiện
truyền thông một các kéo dài.Phải chăng đây
là một điều có gì ẩn ý KHÔNG TỐT.
Rất có thể sau này có những nhà nghiên
cứu,những luận án,luận văn và những nghị luận to tát
nào đó coi ý sau đây là câu
nói của ...
See More
"Trước đây cứ nghe nói đồng bào
miền Nam “bị Mỹ ngụy kìm kẹp” khổ lắm, rất cần sự giúp
đỡ từ miền Bắc, cứ hình dung dân Sài Gòn đói
khổ lắm. Mới vào Sài Gòn tôi rất ngỡ ngàng.
Chỉ cần nhìn cách ăn mặc, trang điểm, đi lại, ăn nói
nhẹ nhàng; chỉ cần ra chợ mua gì cũng có câu
cảm ơn và túi ni lông đựng đồ đủ biết mình
không cùng đẳng cấp văn minh với người ta rồi. Biết mình
bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc."
Note: TV sorry v/v viết nhảm về Ái Vân.
Sẽ delete, và thành thật xin lỗi.
NQT
Nếu chống cái
xấu thì đảng phái cơ sở hội đoàn cá nhân
nào cũng đều có thể vào cuộc!
TTO - Chiều 14-5, Công an
TP.HCM cho biết qua điều tra, thu thập thông tin đã…
Biểu
tình ôn hòa, biến thành bạo động, là
do VC cố tình, để mượn cớ đàn áp.
Sẽ là đàn áp tới chỉ, vì có
"dê tế thần" rồi.
Đây là giờ phút quyết định.
Chúng nó say giết người
như gạch ngói
Như lòng
chúng ta thèm khát tương lai
Thảo Trường
[Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ]
Thanh Tâm Tuyền
Riêng với
Thanh Tâm Tuyền, bài thơ Budapest mà tôi đọc được,
đã trụ lại trong tôi suốt từ bấy đến nay. Biến cố bi thảm ở
Budapest
năm 1956 mà truyền thông khắp thế giới đã nói
đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất mạnh mẽ, thì nhà thơ của chúng
ta đã chỉ dùng hình ảnh của đôi trẻ để mô
tả cuộc đàn áp dã man tàn nhẫn đó. Mấy
câu thơ giản dị đã gây xúc động và còn
lại mãi trong lòng người thưởng ngoạn. Xin đừng hỏi tôi
bài thơ ấy hay ở chỗ nào. Chịu. Xin chịu. Tôi không
có may mắn được đào tạo về những lý sự thế nào
là hay thế nào là không hay và điều đó
cũng đã thành thói quen trong tôi. Cho nên
tôi chỉ cần thấy được cái nào hay là đủ. Rồi về
sau, nhiều lúc, nhiều nơi (kể cả ở nhà tù) tôi
đã gặp nhiều người cũng rất thích bài thơ đó.
Có ai đó đọc lên một câu liền có người khác
phụ họa theo, chứng tỏ bài thơ rất phổ biến.
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình
duyên Budapest
Hãy cho anh khóc bằng
mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực
em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào
Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết
người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương
lai
Hãy cho anh run bằng má
em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán
em
Đau dấu đạn
Đêm không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Cục Báo
chí thuộc Bộ Thông tin & Truyền thông vừa có
quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức 140 triệu
đồng báo Nông thôn Ngày Nay về các bài
viết "Mãi mãi là người đến sau" (Tuấn Khanh) và
"Lời than thở của các loài cá" đăng trên
ấn phẩm Thế giới Tiếp Thị của NTNN, đồng thời đòi đóng
cửa vĩnh viễn ấn phẩm này. Tuy nhiên, sau đó Cục đã
chấp nhận văn bản của báo Nông Thôn Ngày Nay
tự đề nghị đình bản ấn phẩm TGTT ba tháng, kể từ hôm
nay 14.5. Thế Giới Tiếp Thị tiền thân ...
Continue Reading
Tuyên bố
Vào 16g
chiều ngày 14/5/2016, nhiều tờ báo của Nhà nước bất
ngờ đồng loạt đưa tin "Việt Tân" là kẻ xúi giục cuộc
xuống đường.
Bản tin chung
đưa ra mà không nói được nguyên cớ nào.
Mọi thứ chỉ là một lời đe dọa vu vơ, nhưng lại chuẩn bị cho tiền
đề của các trận trấn áp chà đạp lên hiến pháp.
... See More
Đúng ra, phải có 1 tên VC liều mình cứu...
Quỉ Đỏ, đưa ra trình
diện trước báo
chi, tự nhận, tớ là Việt Tân...
Trùng hợp làm sao, bài viết của David
Remnick, là đúng cho ngày chủ nhật sắp sửa xẩy ra:
PREFACE
Long before anyone had a reason
to predict the decline and fall of the Soviet Union, Nadezhda Mandelstam
filled her notebooks with the accents of hope. She was neither sentimental
nor naive. She had seen her husband, the great poet Osip Mandelstam,
swept off to the camps during the terror of the 1930s; she described
in ruthlessly clear terms how the regime left its subjects in a permanent
state of fear. The people of the Soviet Union had been made, as she put
it, "slightly unbalanced mentally-not exactly ill, but not normal either."
But Mandelstam, unlike so many scholars and politicians, saw the signs
of the Soviet system's inherent weakness and believed in the resiliency
of the people.
On August 20, 1991, a rainy, miserable
afternoon, I walked among the crowds protecting the Russian parliament
from a potential invasion by the leaders of a military coup. We all
saw that day what so few could have predicted: Soviet citizens-workers,
teachers, hustlers, children, mothers, grandparents, even soldiers-all
standing up to a group of ignorant men who believed themselves yet
another improved version of the Bolshevik regime and possessed of a power
to freeze, even turn back, time. In their hurried calculations, the
conspirators assumed "the masses" were too exhausted and indifferent
to fight back. But tens of thousands of ordinary Muscovites were ready
to die for democratic principles. It was said then and is said even
now that the Russians know little or nothing of civil society. How strange,
then, that so many were willing to give up their lives to defend it.
I do not usually have a great memory
for the things I have read, but that afternoon of the coup, hours
before it came clear that there would be no attack and the putsch
would fail, I thought of a short passage, bracketed in black, in my paperback
copy of Nadezhda Mandelstam's Hope Against Hope: "This terror could
return, but it would mean sending several million people to the camps.
If this were to happen now, they would all scream-and so would their
families, friends and neighbors. This is something to be reckoned with."
The leaders of the August coup had not reckoned with the development of
their own people. They understood nothing. They were jailed for the miscalculation,
and the struts of the old regime collapsed.
Trước rất lâu bất cứ một
ai có thể tin rằng, Đế Quốc Đỏ sẽ sụm, Nadezhda Mandelstam
đã viết Sổ Ghi bằng 1 thứ âm thanh của hy vọng. Bà
không phải thứ người tình cảm, hay ngây thơ,
ngù ngờ. Bà đã chứng kiến chồng mình,
nhà thơ vĩ đại Osip Mandelstam, chết trong tù thập niên
1930, thời kỳ khủng bố. Bà đã mô tả, bằng 1 giọng
cực rõ ràng, không chút thương xót,
nhà nước đối xử với nhân dân của nó, như thế
nào: bằng cách đẩy tất cả vào tình trạng
lo sợ, rằng tai họa sẽ giáng xuống bất cứ lúc nào.
Người dân Xô Viết, bà viết, thì được làm
ra, “hơi mất thăng bằng về tâm thần 1 tị - không hẳn là
bịnh, nhưng cũng không thể nói, là những con người
bình thường”. Nhưng, Mandelstam, không như những nhà
học giả hay chính trị gia, nhìn ra những dấu hiệu của sự
yếu đuối nội tại, cố hữu, gắn liền với chế độ, của hệ thống Xô Viết,
và tin tưởng ở khả năng dẻo dai, sức bật, sự phục hồi mau lẹ của
dân chúng
Vào ngày 20 Tháng Tám,
1991, một buổi chiều mưa, thê thảm, tệ hại, tôi đi bộ giữa những
đám đông bảo vệ nghị viện Nga, trước những đầu lĩnh hăm he xâm
chiếm, nhằm thực hiện 1 cú đảo chánh. Tất cả những gì
mà chúng ta nhìn thấy ngày hôm đó,
ít người có thể tiên đoán ra được: công
dân Xô viết - thợ thuyền, thầy giáo, những con người có
nghị lực, trẻ em, bà mẹ, ông nội, ông ngoại, ngay cả quân
nhân - tất cả đứng sừng sững trước lũ người ngu dốt, chúng tự
coi chúng là một ấn bản nghèo nàn thảm hại, khác,
của 1 chế độ Bôn Xê Vích ngày nào, có
quyền năng đóng băng, hoặc quá nữa, quay ngược thời gian, lịch
sử. Trong những toan tính vội vã của chúng, chúng
hy vọng rằng, quần chúng sẽ “lại nổi dậy”, như 1 một mùa thu
năm qua, cách mạng tiến ra, như bản nhạc của phù thuỷ Phạm
Duy đã từng ca ngợi, hoặc, đám đông, mệt nhoài,
và dửng dung, sẽ không chống cự lại.
Nhưng hàng ngàn người dân Mút Ku Vít,
đều sẵn sàng để chết cho những nguyên lý dân chủ.
Nó đã được nói vào lúc đó, và
nó được nói tới, ngay cả bây giờ, rằng, người dân
Nga biết rất ít, hoặc chẳng biết gì, về xã hội dân
sự.Lạ làm sao là
bao con người sẵn sàng bỏ mạng sống để bảo vệ nó.
|
|