"Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì… tội nghiệp quá."
Câu văn trên, trích từ "Một Thời Gió Bụi", tập truyện
ngắn của Nguyễn Khải (nhà xuất bản Lao Động Hà Nội 1993). Tác giả
không định nói về một miền đất, mà là một khí hậu văn chương, khi so
sánh anh nhà văn hiện nay với người dân làm cói ở xã N.
"Một Thời Gió Bụi" mở ra bằng câu chuyện một làng
làm cói. Thuở lẫm liệt, "vào thập niên 1970 có năm họ thu được
9 triệu tiền hàng. Tiền thu đã nhiều mà làm cói lại dễ hơn trồng lúa.
...
Giới thiệu
HÀNH TRÌNH CUỐI ĐÔNG
Bút ký về chuyến đi xuyên Việt năm 1988 đòi tự do
sáng tác, tự do báo chí, tự do, dân chủ và đổi mới thực sự.
Nhà xuất bản Văn ...
Đọc tên này, thì lại nhớ đến Jane Fonda, và câu than
của bà, tôi mang nỗi ân hận của tôi xuống mồ. Qua thế giới bên kia,
tiếp tục ân hận
Không có lũ khốn này, có thể tình hình Miền Nam đổi
khác.
Có vẻ như tên khốn này không biết ân hận là gì.
Viết văn, du Mỹ, làm đủ thứ chuyện nhơ bửn.
Phải 1 tên như tên già NN, cởi trần, bò ra nghĩa trang
Ngụy, quỳ, lạy, nói lời xin lỗi, tay tôi đầy máu… Mít, có thể tình
hình nước Mít sẽ khác.
Đòi tự do sáng tác? Viết như kít, viết làm khỉ gì?
Mà tại sao lại đòi? Thử hỏi, Vẹm đã từng “cho” cái
gì chưa?
Cuộc chiến Mít, bây giờ rõ như ban ngày. Một bên là
“thiện ý” của Mẽo, một bên là Cái Ác Ngàn Đời của Bắc Kít.
Đầu óc ngu dốt như tên này làm sao mà hiểu nổi những
chuyện như vậy.
Phải có 1 tên làm điều này, mà phải 1 tên, tay đầy máu Ngụy, cha
đẻ anh hùng Núp, thí dụ.
Lũ khốn này, phịa ra không biết bao nhiêu tội ác cho Ngụy, không
chỉ trong văn chương, mà còn ở trong sách giáo khoa dạy con nít.
Kevin Ruane, The Hidden History of Graham
Greene’s Vietnam War: Fact, Fiction and The Quiet American, History,
The Journal of the Historical Association, ấn hành bởi Blackwell Publishing
Ltd., tại Oxford, UK và Malden, MA., USA, 2012, các trang 431-452.
LỊCH SỬ ẨN TÀNG CỦA CHIẾN
TRANH VIỆT NAM CỦA GRAHAM GREENE:
SỰ KIỆN, HƯ CẤU VÀ QUYỂN THE QUIET AMERICAN (NGƯỜI MỸ TRẦM LẶNG)
Ngô Bắc dịch
ĐẠI Ý:
Nơi trang
có minh họa đằng trước trang nhan đề của quyển tiểu thuyết đặt khung
cảnh tại Việt Nam của mình, quyển The Quiet American, xuất bản
năm 1955, Graham Greene đã nhấn mạnh rằng ông viết “một truyện chứ không
phải một mảnh lịch sử”, song vô số các độc giả trong các thập niên kế tiếp
đã không đếm xỉa đến các lời cảnh giác này và đã khoác cho tác phẩm sự
chân thực của lịch sử. Bởi viết ở ngôi thứ nhất, và bởi việc gồm cả sự
tường thuật trực tiếp (được rút ra từ nhiều cuộc thăm viếng của ông tại
Đông Dương trong thập niên 1950) nhiều hơn những gì có thể được tìm
thấy trong bất kỳ tiểu thuyết nào khác của ông, Greene đã ước lượng thấp
tầm mức theo đó giới độc giả của ông sẽ lẫn lộn giữa sự thực và hư cấu.
Greene đã không chủ định để quyển tiểu thuyết của ông có chức năng như
sử ký, nhưng đây là điều đã xảy ra. Khi đó, làm sao mà nó đã được ngắm
nhìn như lịch sử? Để trả lời câu hỏi này, phần lớn các nhà bình luận
quan tâm đến việc xác định nguồn khởi hứng trong đời sống thực tế cho nhân
vật Alden Pyle, người Mỹ trầm lặng trong nhan đề của quyển truyện, kẻ đã
một cách bí mật (và tai họa) phát triển một Lực Lượng Thứ Ba tại Việt Nam,
vừa cách biệt với phe thực dân Pháp và phe Việt Minh do cộng sản cầm đầu.
Trong bài viết này, tiêu điểm ít nhắm vào các nhân vật cho bằng việc liệu
người Mỹ có thực sự bí mật tài trợ và trang bị vũ khí cho một Lực Lượng
Thứ Ba hay không. Ngoài ra, sử dụng các thư tín và nhật ký không được
ấn hành của Greene cũng như các tài liệu của Bộ Ngoại Vụ [Anh Quốc] mới
được giải mật gần đây chiếu theo Đạo Luật Tự Do Thông Tin Của Vương Quốc
Thống Nhất (UK Freedom of Information Act), điều sẽ được nhìn thấy rằng
người Anh cũng thế, đã có can dự vào mưu đồ Lực Lượng Thứ Ba sau lưng người
Pháp và rằng bản thân Greene đã là một thành phần của loại dính líu
chằng chịt thường được tìm thấy quá nhiều trong các tình tiết của các tiểu
thuyết của ông.
Note: Nguồn
của bài viết này, đa số lấy từ “Ways of Escape” của Graham Greene.
Và cái sự lầm lẫn giữa giả
tưởng và lịch sử, ở đây, là do GG cố tình, như chính ông viết:
Như vậy là đề tài Người Mỹ
Trầm Lặng đến với tôi, trong cuộc “chat”, về “lực lượng thứ ba” trên
con đường đồng bằng [Nam Bộ] và những nhân vật của tôi bèn lẵng nhẵng đi
theo, tất cả, trừ 1 trong số họ, là từ tiềm thức. Ngoại lệ, là Granger,
tay ký giả Mẽo. Cuộc họp báo ở Hà Nội, có anh ta, được ghi lại, gần như từng
lời, từ nhật ký của tôi, vào thời kỳ đó.
Có lẽ cái chất phóng sự của Người
Mỹ Trầm Lặng nặng “đô” hơn, so với bất cứ cuốn tiểu thuyết nào mà tôi
đã viết. Tôi chơi lại cách đã dùng, trong Kết Thúc một Chuyện Tình,
khi sử dụng ngôi thứ nhất, và cách chuyển thời [time-shift], để bảo đảm
chất phóng sự. Cuộc họp báo ở Hà Nội không phải là thí dụ độc nhất của cái
gọi là phóng sự trực tiếp. Tôi ở trong 1 chiến đấu cơ (tay phi công đếch
thèm để ý đến lệnh của Tướng de Lattre, khi cho tôi tháp tùng), khi nó
tấn công những điểm có Vẹm, ở trong toán tuần tra của lực lượng Lê Dương,
bên ngoài Phát Diệm. Tôi vẫn còn giữ nguyên hình ảnh, 1 đứa bé chết, bên
cạnh bà mẹ, dưới 1 con mương. Những vết đạn cực nét làm cho cái chết
của hai mẹ con nhức nhối hơn nhiều, so với cuộc tàn sát làm nghẹt những
con kinh bên ngoài nhà thờ Phát Diệm.
Tôi trở lại Đông Dương lần thứ tư và là lần cuối cùng vào năm 1955,
sau cú thất trận của Tẩy ở Bắc Việt, và với tí khó khăn, tôi tới được Hà
Nội, một thành phố buồn, bị tụi Tẩy bỏ rơi, tôi ngồi chơi chai bia cuối
cùng [may quá, cũng bị tụi Tẩy] bỏ lại, trong 1 quán cà phê, nơi tôi thường
tới với me-xừ Dupont. Tôi cảm thấy rất bịnh, mệt mỏi, tinh thần sa sút.
Tôi có cảm tình với tụi thắng trận nhưng cũng có cảm tình với tụi Tẩy
[làm sao không!] Những cuốn sách của những tác giả cổ điển Tẩy, thì vưỡn
thấy được bày ở trong 1 tiệm sách nhỏ, chuyên bán sách cũ, nơi tôi và
ông bạn nói trên cùng lục lọi, mấy năm về trước, nhưng 100 năm văn hóa
thằng Tây mũi lõ thì đã theo tín hữu Ky Tô, nhà quê, Bắc Kít, bỏ chạy
vô Miền Nam. Khách sạn Metropole, nơi tôi thường ở, thì nằm trong tay
Phái Đoàn Quốc Tế [lo vụ Đình Chiến. NQT]. Mấy anh VC đứng gác bên ngoài
tòa nhà, nơi Tướng De Lattre đã từng huênh hoang hứa nhảm, ‘tớ để bà xã
ở lại, như là 1 bằng chứng nước Tẩy sẽ không bao giờ, không bao giờ….’
Ngày lại qua ngày, trong khi tôi
cố tìm cách gặp Bác Hát….
GCC
đang hăm he/hăm hở dịch tiếp đoạn, Greene làm “chantage” - Day after day
passed while I tried to bully my way into the presence of Ho Chi Minh,
I don't know why my blackmail succeeded, but I was summoned suddenly to
take tea with Ho Chi Minh meetin -, để Bác hoảng, phải
cho gặp mặt.
Trong thế giới văn chương, có lẽ không có cuốn nào khủng như “Người
Mỹ Trầm Lặng” [NMTL].
Viết về cuộc chiến Mít, ngay khi nó chưa kết thúc mà đã tiên tri ra
được số phận của xứ Mít, cuộc lưu vong sau đó, không phải chỉ của Ngụy,
mà Bắc Kít sau đó ăn theo, mà còn của những cô Phượng, như là tài nguyên
giàu có của 1 đất nước bị Vẹm biến thành địa ngục.
Vậy mà cái tên khốn kiếp nằm vùng này không cảm thấy 1 chút ân hận,
thay vì vậy, viết văn, đi Mỹ du hí, tự hào, suốt đời đối kháng quyền lực!
Không chỉ thế, mà NMTL còn tiên tri ra được những cuộc chiến sau đó,
như ở Iraq, hay bây giờ, với Nhà Nước Hồi Giáo.
An American comes into a foreign place full of ideas
of democracy and how he will teach an ancient culture a better — in fact,
an American — way of doing things. An Englishman awaits him there, protecting
himself against such foolishness by claiming to care about nothing at all.
And between them shimmers a young local woman who seems ready to listen to
either suitor, and certain to get the better of both.
The Quiet American, by Graham Greene, was written in 1955 and set
in Vietnam, then the site of a rising local insurgency against French colonial
rule. In its brilliant braiding together of a political and a romantic tangle,
its characters serve as emblems of the American, European and Asian way,
and yet ache and tremble as ordinary human beings do. It also is a typically
Greenian prophecy of what would happen 10 years later when U.S. troops would
arrive, determined to teach a rich and complex place the latest theories
of Harvard Square. Lyrical, enchanted descriptions of rice paddies, languorous
opium dens and even slightly sinister Buddhist political groups are a lantered
backdrop to a tale of irony and betrayal.
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet American,
like many of Greene's books, and have it always with me in my carry-on,
a private bible. Certainly it's true that if you walk through modern Saigon,
as I have done, you can see Greene's romantic triangle playing out in every
other hotel. And if you think about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see
the outline of the same story.
Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại, đầu đầy
ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa
cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn - thì cứ nói huỵch toẹt ra
ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh
ta ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như thế,
bằng cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái gì hết.
Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ
khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai
Người Mẽo trầm lặng của GG, được viết năm 1955, và đặt để ở Việt
Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống
lại chế độ thực dân thuộc địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác
tình, là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và Á, với những nhân vật, như là
những biểu tượng, những con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với những
đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet American,
like many of Greene's books, and have it always with me in my carry-on,
a private bible. Certainly it's true that if you walk through modern Saigon,
as I have done, you can see Greene's romantic triangle playing out in every
other hotel. And if you think about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see
the outline of the same story.
Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”,
như nhiều cuốn khác của GG, và luôn có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh
kinh cá nhân. Rõ rang là, nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon
hiện đại, như tôi đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác tình của GG diễn ra
ở mọi khách sạn khác.
Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere, bạn
thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.
Trên Người Kinh Tế, có bài thần sầu
về Albert Einstein, (1) và về những khám phá mới mẻ từ luật tương
đối.
Bài này, cũng thực thú vị.
Bạn đọc TV chắc là đã đọc.... "Sóng Từ Trường"
[Sóng Từ, đúng hơn] của nữ phê bình gia số 1 hải ngoại, Thụy
Khê.
Nay biết thêm Sóng Hấp Dẫn của Einstein, há chẳng
thú sao!
Cả 1 thế kỷ trước đây, Einstein đã tiên đoán
ra được sự hiện hữu của Sóng Hấp Dẫn. Bây giờ, nó trở thành hiện
thực.
Einstein vẫn bị coi là nhân vật của "nửa" đầu thế
kỷ, vì ông tin vào định mệnh thuyết, nghĩa là có 1 ông Trời,
nói nôm na.
Big Bang, và thuyết cơ may, cho thấy, làm gì
có ông Trời.
Bây giờ, có lẽ phải đặt lại vấn đề. TV sẽ đi bài
này.
"...Người ta thường cắt nghĩa sai câu của Nguyễn Du,
chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Câu này phải được
hiểu là, cái tâm chính là cái tài, nhưng được nhân lên gấp ba.
Phải hiểu như vậy mới hiểu được câu châm ngôn, vỉa hè địa
ngục làm bằng thiện ý của những thằng cha bất tài mà cứ muốn làm
trời. Cái tâm [của một nhà văn], bằng ba lần cái tài là vậy. Mấy
ông nho nhoe có được tí tên, trong số tí độc giả, thường là thân
quen bằng hữu, tưởng rằng mình có tài, bèn quẳng mẹ cái tâm, là
ô hô ai tai!
Bởi vì, chỉ một khi bạn luyện cho cái
tài làm sao tăng lên gấp ba để được gọi là cái tâm,
thì tới lúc đó, văn của bạn mới ngửi được". Quoc Tru Nguyen
Note: Cái câu phán “nhảm” của GCC, được
1 bạn văn, đưa lên FB, gây 1 trường tranh luận.
Tks all.
Đây là 1 nhận xét, chỉ liên quan tới vấn
nạn, “viết như thế nào”. Nó giống như 1 thai đố, có tính ngược
ngạo, và chỉ những ai quan tâm đến văn chương, quan tâm.
Xin kể vài câu, trong số đó.
Kỹ thuật là linh hồn (être: hữu thể) của văn
chương. (Kafka)
Mỹ là mẹ của đạo hạnh (Brodsky, trong “Diễn văn
văn chương”)
Kiểm duyệt là mẹ của ẩn dụ (Borges)...
Từ từ, GCC lèm lèm thêm ra, về từng trường
hợp….
Khủng nhất, là câu phán của Kafka. Nó vứt
mẹ cái thứ văn chương hiện thực Xạo Hết Chỗ Nói vô thùng rác,
luôn cả 1 lô những vấn nạn mà Sartre nêu ra, tại sao viết, viết cho
ai, viết để làm gì…
Và, khai sinh ra 1 tên nhà văn cà chớn,
là… Gấu, khi ngộ ra được nó, khi đọc Roland Barthes, khi ông
giải ra được câu của Kafka.
... but we make no mistake: Kafka is not Kafka-ism...
For the [sterile] old question: why write? Marthe Robert's Kafka
substitutes a new question: how write? And this how exhausts
the why: all at once the impasse is cleared, a truth appears. This
is Kafka's truth, this is Kafka's answer [to all those who want to
write]: the being of literature is nothing but its technique.
(1)
(1) Tạm dịch:... Nhưng chớ có lầm: Kafka
không phải là chủ nghĩa Kafka.... Đối với câu hỏi cũ kỹ, kiệt
mọi đường sinh đẻ, "tại sao viết"?, [tác phẩm] "Kafka" của Marthe
Robert thay bằng câu hỏi mới,"viết thế nào"? Và chính cái "thế
nào" quật cho cái "tại sao" một trận mê tơi, đến kiệt thở. Và thế
là cùng tắc thông, sự thật xuất hiện. Sự thật của Kafka, câu trả
lời của Kafka [cho tất cả những ai muốn viết]:
Hữu thể [Linh hồn] của văn chương, chẳng là
gì mà chính là kỹ thuật của nó.
Roland Barthes: Kafka's Answer.
Câu văn trên, Hai Lúa đọc, bằng nguyên
bản tiếng Tây, ngay vào lúc chập choạng bước vào cõi văn,
quả là một câu văn mặc khải.
Về già, Hai Lúa hiểu thêm ra là, cái
mà Kafka gọi là kỹ thuật đó, chính là đạo, đạo ở đời.
Viết, đối với mấy tên nhà văn nhà thơ, là
một đạo ở đời.
Theo nghĩa đó, Nguyễn Du viết, chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài.
"Chữ tâm kia", chính là kỹ thuật của nhà
văn, vậy.
Một vị bằng hữu, GCC chẳng hề biết là ai, trên
1 tờ báo chợ ở Los Angeles, cũng đã ưu ái chỉ ra điều này:
Roland Barthes, ngộ ra câu của Kafka,
và cùng lúc, ngộ ra lẽ sống ở đời, khi lấy 1 câu của Kafka,
làm tiêu đề cho bài viết của ông:
In the duel between you and the world, back the
world.
Kafka
Trong cuộc “duel” [đấu sinh tử, tay đôi], giữa
bạn và thế giới, hãy hỗ trợ thế giới.
TTT, hiểu câu này, theo nghĩa, tớ viết ra sự
thực, và nếu bạn không tin, thì tớ chỉ có cái mạng chó
của tớ, đem trình ra, để bảo đảm, đó là sự thực!
Berlin có 1 thời là
người yêu của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova,
thi sĩ, nhà tiên tri", có nhắc tới
mối tình của họ.
Berlin là nguyên mẫu của “Người khách từ tương
lai”, "Guest from the future", trong “Bài thơ không
nhân vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp gỡ của cả hai, được báo cáo cho Xì,
và Xì phán, như vậy là nữ tu của chúng
ta đã gặp gián điệp ngoại quốc, “This mean our nun
is now receiving visits from foreign spies”.
Cuộc gặp gỡ của họ đậm mùi chiến tranh lạnh. Và
thật là tuyệt vời.
Vào ngày Jan 5,
1946, trước khi về lại Anh [Berlin khi đó
là Thư ký thứ nhất của Tòa ĐS Anh ở Moscow],
Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả là chùm thơ “Cinque”, làm giữa Nov
26, 1945 và Jan 11, 1946. Những bài thơ tình
đẹp nhất và bi đát nhất của ngôn ngữ Nga.
Bài dưới đây, viết ngày 20 Tháng Chạp,
Akhmatova ví cuộc lèm bèm giữa đôi ta như là
những cầu vồng đan vô nhau:
Sounds die away in the ether,
And darkness overtakes the dusk.
In a world become mute for all time,
There are only two voices: yours and mine.
And to the almost bell-like sound
Of the wind from invisible Lake Ladoga,
That late-night dialogue turned into
The delicate shimmer of interlaced rainbows.
(II, p. 237)
Tiếng buồn nhạt nhòa
vào hư vô
Và bóng tối lướt lên cõi
chạng vạng
Trong một thế giới trở thành câm
nín đời đời
Vưỡn còn, chỉ hai giọng, của anh
và của em
Và cái âm thanh giống như tiếng
chuông
Của gió, từ con hồ Ladoga vô
hình
Cuộc lèm bèm muộn trong đêm
– hay, trong đêm muộn –
Biến thành hai cái cầu vồng
Lù tà mù, mờ mờ ảo ảo, lung
la lung linh
Quấn quít – hay, cuống quít -
cuộn vào nhau.
The last poem of the cycle,
written on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:
We hadn't breathed the poppies'
somnolence,
And we ourselves don't know our sin.
What was in our stars
That destined us for sorrow?
And what kind of hellish brew
Did the January darkness bring us?
And what kind of invisible glow
Drove us out of our minds before dawn?
Bài thơ chót
trong chuỗi thơ, hoá ra còn tiên tri hơn nhiều, so với
dự đoán của Anna Akhmatova:
Chúng ta
không thở cái mơ mơ màng của 1 tên phi xì ke
Và chúng ta, chính chúng ta,
chẳng biết tội lỗi của mình
Điềm triệu nào, ở những vì sao của
chúng ta
Phán, đây là nỗi u sầu phiền muộn
của tụi mi?
Thứ men bia quỉ quái nào
Bóng tối tháng giêng mang tới cho
chúng ta?
Nhiệt tình vô hình nào
Kéo chúng ta ra khỏi thần trí,
trước rạng đông?
(II, p. 239)
In 1956, something unexpected
happened: the man who was to become
"Guest from the Future" in her great work Poem
Without a Hero-Isaiah suddenly returned to Russia.
This was the famous "meeting that never took place”.
In her poem, "A Dream" (August 14, 1956), Akhmatova writes:
This dream was prophetic or
not prophetic . . .
Mars shone among the heavenly stars,
Becoming crimson, sparkling, sinister-
And that same night I dreamed of your arrival.
It was in everything ... in the Bach Chaconne,
And in the roses, which bloomed in vain,
And in the ringing of the village bells
Over the blackness of ploughed fields.
And in the autumn, which came close
And suddenly, reconsidering, concealed itself.
Oh my August, how could you give me such news
As a terrible anniversary?
(II, p. 247)
Vào năm 1956, một điều
không đợi chờ, xẩy ra. “Người Khách từ Tương Lai” bất thình lình trở lại.
Đây là cuộc “gặp gỡ chẳng hề xẩy ra” nổi tiếng.
Trong bài thơ “Một giấc mơ” (Tháng Tám 14, 1956), Anna Akhmatova
viết:
Giấc mơ này,
tiên tri hay không tiên tri…
Hỏa Tinh chiếu sáng giữa những vì sao trên trời,
Trở thành đỏ rực, lấp lánh, xấu xa –
Và trong đêm đó, tôi mơ thấy bạn tới
Nó thì ở trong
mọi thứ, mọi điều… ở Bach Chacome.
Và ở trong những bông hồng, vô ích nở rộ
Và ở trong tiếng chuông làng
Trên màu đen của những cánh đồng đã cày
Và trong mùa thu, tới cận kề
Và bất thình lình, suy tính lại, bèn tự giấu, chính nó.
Ôi Tháng Tám của ta ơi, làm sao mà mi lại đem đến cho ta những
tin như thế đó
Như là 1 sinh nhật khủng khiếp?
Another poem, "In a Broken Mirror"
(1956), has the poet compare Petersburg
to Troy at the moment when Berlin came before,
because the gift of companionship that he brought
her turned out to poison her subsequent fate:
The gift you gave me
Was not brought from altar.
It seemed to you idle diversion
On that fiery night
And it became slow poison
In my enigmatic fate.
And it was the forerunner of all my misfortunes-
Let’s not remember it! ...
Still sobbing around the corner is
The meeting that never took place.
(II, p. 251)
Một bài thơ khác, “Trong cái gương bể” (1956), thi sĩ so sánh
St. Petersburg với Troy, vào lúc mà Berlin tới, trước đó, bởi là vì món
quà bạn bè mà chàng mang đến cho nàng hóa ra là thuốc độc đối với số
phận của nàng sau đó.
Món quà anh đem cho tôi
Không phải từ bàn thờ.
Mà có vẻ như từ cơn đãng trí uể oải của anh
Vào cái đêm lửa cháy đó
Và nó trở thành thuốc độc chậm
Trong cái phần số bí ẩn của tôi
Và nó là điềm báo cho tất cả những bất hạnh của tôi-
Đừng thèm nhớ nó!...
Vẫn xụt xùi ở nơi góc nhà, là,
Cuộc gặp gỡ chẳng hề xẩy ra
Vargas Llosa, trong "Wellsprings", vinh danh I. Berlin, gọi ông
là “vì anh hùng của thời chúng ta, a hero of our time”. Bài viết này,
thật quan trọng đối với Mít chúng ta, do cách Berlin diễn giải chủ nghĩa
Marx, cách ông ôm lấy, embrace, những tư tưởng thật đối nghịch... TV tính
đi bài này, lâu rồi, nhưng quên hoài.
Trong "Nửa Thế Kỷ Của Tôi",
tuyển tập văn xuôi của Anna Akhmatova, có trích mấy đoạn, trong
Nhật Ký, bà viết về thành
phố của bà.
Post lên đây như “chim
mồi”, lấy hứng, viết về Sài Gòn Của Gấu ngày nào.
Và Hà Nội ngày nào, vì Saigon không có
mùa đông!
Rạp Cao Đồng Hưng, gần hẻm Đỗ Thành
Nhân, nhà Bạn Chất
Downtown Pleiku 1970-71 - PHỐ NÚI PLEIKU
source: Gary Cantrell's Gallery [manhhai]
Tôi nhìn thấy Pleiku lần
đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong. Tôi ở trong dãy nhà gỗ
trải dài trên đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng không ngăn được gió
lùa vì hai mặt trước sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà này có chừng ba
hay bốn dãy, lâu quá tôi không còn nhớ. Tôi ở dãy cao nhất trên đồi. Đứng
trước nhà tôi nhìn thấy rừng cây cao chớn chở bên trái. Ngóng cổ một
chút, bên phải, tôi nhìn thấy biển mênh mông. Trước khi thấy biển tôi thấy
cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn. Đứng phía sau
nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn thấy dãy nhà phía dưới.
Phố núi cao phố núi mù sương.
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . .Tiếng nhạc
vọng từ dãy nhà bên dưới, có một người đàn bà vừa nhóm bếp vừa nghe
nhạc từ máy cassette. Khói củi ướt nhóm trong lò bốc lên màu xám trong
buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương.
Bất giác lại nhớ đến lần gặp 1 nữ văn sĩ ra
đi từ Miền Bắc.
Bà nói, trong bài viết của cháu,
được ông nhắc tới, có 1 câu, cháu rất thích, và cháu không hề nghĩ, có người
tìm thấy nó, vậy mà ông tìm đúng câu đó, để mà lọc ra. (1)
Ghi chú ở Trại tị nạn Thái
Lan.
Hóa ra câu phán của Camus,
Gấu đọc hồi mới lớn, tiếng Tẩy ăn đong, là ở trong “Énigme” [Bí ẩn]: Tớ
lớn lên cùng với những người cùng tuổi, cùng tiếng trống Đệ Nhất Thế Chiến,
và lịch sử của chúng tớ, từ đó, không ngừng chỉ là, sát nhân, bất công,
hay bạo lực.
Vậy mà tìm hoài!
16.5: SN [chắc là dởm] Bác
Hồ. Gấu tới Bangkok đúng ngày này, cc 1990. Khi điền lý lịch UNHCR, Gấu
đẩy lui lên, hai hay ba ngày, cho khỏi xui, vì, những ngày như thế đó,
VC biến đau thương thành hành động, dâng xác chết Mỹ Ngụy làm quà
SN Bác!
Chắc là dởm, vì đó là ngày
Sainteny tới Bắc Kít, tính hoà đàm. Hồ bèn phịa, SN tớ, để nhân dân
kết hoa chào mừng!
Có hai nơi, ở Việt Nam, Gấu chưa được “đi”, là
Hội An, và Pleiku. Nhiều nơi chưa đi, như Qui Nhơn, thí dụ, nhưng chỉ thèm,
tự hỏi, và tự trách mình, tại làm sao mà chưa “đi” Pleiku và Hội An.
Huế cũng chưa, nhưng lại có 1 kỷ niệm thật thê
luơng về Huế. Lần bỏ chạy quê hương, trên đường từ Sài Gòn tới Lao Bảo,
có nghỉ 1 đêm ở Huế. Buổi chiều, xe chạy trên 1 con cầu, ngó xuống, thấy
xa xa, dưới bãi sông, 1 anh chạy xích
lô, dừng cái xế, chìa cái tay ra cho 1 anh bán ken chích cho 1 phát.
Ui chao, nhớ hoài.
Ði, ở đây, có 1 “gia nghĩa”,
connotation, thật thú vị, và liên quan tới 1 nhà thơ, bạn của Gấu từ hồi
còn đi học. Anh học sư phạm, ra trường, được bổ về Pleiku. Tuổi trẻ, xa
nhà, làm thơ, sống rất bụi, chẳng có tí giáo sư nào trong cách sống cả.
Nghe truyền tụng, giường anh nằm, nơi nhà trọ, chăng đầy nội y
của bướm. Mỗi 1 lần đi là xin bướm nội y về treo quanh giường làm kỷ niệm.
Một lần có 1 anh bạn, trưởng 1 cái tầu hải quân, ghé thăm. Thì lại rủ đi
thăm bướm. Trong câu chuyện anh có nói cho anh bạn biết, học trò tao có
1 em làm nghề này, 1 lần tao gặp, thầy trò đều ngượng. Anh trưởng tầu vô
ý kể lại cho 1 anh bạn, dân Pleiku. Anh này lại có 1 đứa con gái học ông
thầy, thi sĩ cà chớn.
Thế
là ầm lên. Ông bạn nhà giáo thi sĩ sau phải đưa đi tỉnh khác.
Lần ghé Tuy Hòa, tuyệt thú. Đi cùng 1 đệ tử, ra sửa máy. Sửa hoài,
không chạy. Chạy, nhưng yếu quá, không làm sao liên lạc với Saigon được.
Gần Noel rồi. Thế là bèn xin về. Ông Trùm Bưu Điện miền Trung, cũng 1 ông
Thầy, hồi học Bưu Điện, đánh cái điện, ra lệnh, sửa máy OK mới dược về.
Thế là đành yêu cầu Cơ Xưởng Trung Ương, số 11 Phan Đình Phùng,
gửi 1 cái máy ra. Và nằm chờ.
Năm đó, ăn Tết Noel ở Tuy Hoà.
Nhớ, có 1 cái núi. Đài VTD Bưu Điện, Đài Khí Tượng ở trên đó.
Nhớ, có lần lang thang bãi biển Tuy Hoà, gặp 1 em thường đi, những
ngày ở Tuy Hoà.
Em cũng lang thang bãi biển như Gấu.
Chắc là ban ngày, vắng khách.
Downtown Pleiku 1970-71 - PHỐ NÚI PLEIKU
source: Gary Cantrell's Gallery [manhhai]
Tôi nhìn thấy Pleiku lần
đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong. Tôi ở trong dãy nhà gỗ
trải dài trên đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng không ngăn được gió
lùa vì hai mặt trước sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà này có chừng ba
hay bốn dãy, lâu quá tôi không còn nhớ. Tôi ở dãy cao nhất trên đồi. Đứng
trước nhà tôi nhìn thấy rừng cây cao chớn chở bên trái. Ngóng cổ một
chút, bên phải, tôi nhìn thấy biển mênh mông. Trước khi thấy biển tôi thấy
cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn. Đứng phía sau
nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn thấy dãy nhà phía dưới.
Phố núi cao phố núi mù sương.
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . .Tiếng nhạc
vọng từ dãy nhà bên dưới, có một người đàn bà vừa nhóm bếp vừa nghe
nhạc từ máy cassette. Khói củi ướt nhóm trong lò bốc lên màu xám trong
buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương.
Bất giác lại nhớ đến lần gặp 1 nữ văn sĩ ra
đi từ Miền Bắc.
Bà nói, trong bài viết của cháu,
được ông nhắc tới, có 1 câu, cháu rất thích, và cháu không hề nghĩ, có người
tìm thấy nó, vậy mà ông tìm đúng câu đó, để mà lọc ra. (1)
Ghi chú ở Trại tị nạn Thái
Lan.
Hóa ra câu phán của Camus,
Gấu đọc hồi mới lớn, tiếng Tẩy ăn đong, là ở trong “Énigme” [Bí ẩn]: Tớ
lớn lên cùng với những người cùng tuổi, cùng tiếng trống Đệ Nhất Thế Chiến,
và lịch sử của chúng tớ, từ đó, không ngừng chỉ là, sát nhân, bất công,
hay bạo lực.
Vậy mà tìm hoài!
16.5: SN [chắc là dởm] Bác
Hồ. Gấu tới Bangkok đúng ngày này, cc 1990. Khi điền lý lịch UNHCR, Gấu
đẩy lui lên, hai hay ba ngày, cho khỏi xui, vì, những ngày như thế đó,
VC biến đau thương thành hành động, dâng xác chết Mỹ Ngụy làm quà
SN Bác!
Chắc là dởm, vì đó là ngày
Sainteny tới Bắc Kít, tính hoà đàm. Hồ bèn phịa, SN tớ, để nhân dân
kết hoa chào mừng!
Có hai nơi, ở Việt Nam, Gấu chưa được “đi”, là
Hội An, và Pleiku. Nhiều nơi chưa đi, như Qui Nhơn, thí dụ, nhưng chỉ thèm,
tự hỏi, và tự trách mình, tại làm sao mà chưa “đi” Pleiku và Hội An.
Huế cũng chưa, nhưng lại có 1 kỷ niệm thật thê
luơng về Huế. Lần bỏ chạy quê hương, trên đường từ Sài Gòn tới Lao Bảo,
có nghỉ 1 đêm ở Huế. Buổi chiều, xe chạy trên 1 con cầu, ngó xuống, thấy
xa xa, dưới bãi sông, 1 anh chạy xích
lô, dừng cái xế, chìa cái tay ra cho 1 anh bán ken chích cho 1 phát.
Ui chao, nhớ hoài.
Ði, ở đây, có 1 “gia nghĩa”,
connotation, thật thú vị, và liên quan tới 1 nhà thơ, bạn của Gấu từ hồi
còn đi học. Anh học sư phạm, ra trường, được bổ về Pleiku. Tuổi trẻ, xa
nhà, làm thơ, sống rất bụi, chẳng có tí giáo sư nào trong cách sống cả.
Nghe truyền tụng, giường anh nằm, nơi nhà trọ, chăng đầy nội y
của bướm. Mỗi 1 lần đi là xin bướm nội y về treo quanh giường làm kỷ niệm.
Một lần có 1 anh bạn, trưởng 1 cái tầu hải quân, ghé thăm. Thì lại rủ đi
thăm bướm. Trong câu chuyện anh có nói cho anh bạn biết, học trò tao có
1 em làm nghề này, 1 lần tao gặp, thầy trò đều ngượng. Anh trưởng tầu vô
ý kể lại cho 1 anh bạn, dân Pleiku. Anh này lại có 1 đứa con gái học ông
thầy, thi sĩ cà chớn.
Thế
là ầm lên. Ông bạn nhà giáo thi sĩ sau phải đưa đi tỉnh khác.
Lần ghé Tuy Hòa, tuyệt thú. Đi cùng 1 đệ tử, ra sửa máy. Sửa hoài,
không chạy. Chạy, nhưng yếu quá, không làm sao liên lạc với Saigon được.
Gần Noel rồi. Thế là bèn xin về. Ông Trùm Bưu Điện miền Trung, cũng 1 ông
Thầy, hồi học Bưu Điện, đánh cái điện, ra lệnh, sửa máy OK mới dược về.
Thế là đành yêu cầu Cơ Xưởng Trung Ương, số 11 Phan Đình Phùng,
gửi 1 cái máy ra. Và nằm chờ.
Năm đó, ăn Tết Noel ở Tuy Hoà.
Nhớ, có 1 cái núi. Đài VTD Bưu Điện, Đài Khí Tượng ở trên đó.
Nhớ, có lần lang thang bãi biển Tuy Hoà, gặp 1 em thường đi, những
ngày ở Tuy Hoà.
Em cũng lang thang bãi biển như Gấu.
Chắc là ban ngày, vắng khách.
Nhà hoạt động trẻ tuổi Nguyễn Phương Uyên có thể đang bị
câu lưu tại đồn công an phường Cầu Kho thành phố Hồ chí Minh.
Đó là thông tin mà các bạn của Phương Uyên cho đài RFA biết
vào tối ngày hôm qua.
Vào khuya hôm qua Ông Huỳnh Công Thuận, một nhà hoạt động
dân sự tại Sài gòn cho chúng tôi biết:
“Khoảng trưa thì tôi được tin nhắn là Phương Uyên bị bắt
tại một quán cà phê là Chiêu Anh Nguyễn. Phương Uyên đang ngồi uống cà
phê với bạn bè thì bị một số người ập vào bắt một mình Phương Uyên
thôi. Những người đó đa số là mặt thường phục, ngoài ra còn có cả xe và
công an phường. Sau đó thì mời thêm chị chủ quán, tới giờ này chưa có người
nào về hết. Chúng tôi biết chắc là cô Chiêu Anh chủ quán bị giữ ở công an
phường Tân Định, còn Phương Uyên thì ở phường Cầu kho. Chúng tôi biết chắc
là gì khi anh em đến đó thì thấy một anh mặc thường phục cầm một quyển sách
trong ba lô của Phương Uyên hồi sáng. Anh em đòi người thì người ta nói
là không có. Chúng tôi có khoảng hai mươi mấy ba chục người, bây giờ còn
một số ít ở đó. Chúng tôi làm một cái đơn yêu cầu trả lời tại sao lại giữ
người như vậy? Lệnh ở đâu? Có lệnh của ai không, hay tự động làm sai luật?”
PARABLE
Some fishermen pulled a bottle
from the deep. It held a piece of paper, with these words: "Somebody save
me! I'm here. The ocean cast me on this desert island. I am standing on
the shore waiting for help. Hurry! I'm here!"
"There's no date. I bet it's already too late anyway. It could
have been floating for years," the first fisherman said.
"And he doesn't say where. It's not even clear which ocean,"
the second fisherman said.
"It's not too late, or too far. The island Here is everywhere,"
the third fisherman said.
They all felt awkward. No one spoke. That's how it goes with
universal truths.
Wistawa Symborska
Ngụ ngôn dành cho cô bé Phương Uyên
Mấy
tay ngư phủ kéo một cái chai từ đáy biển. Trong có mẩu giấy:"Hãy cứu
tôi, Mít ơi! Tôi ở đây nè! VC thẩy tôi xuống biển, sóng đánh tôi vô đảo
xa, đảo lạ.
Tôi đứng ở bãi biển, đợi dân Mít kíu. Lẹ lên!”
“Chẳng thấy ghi ngày. Chắc là quá trễ rồi!” Đấng ngư phủ thứ
nhất phán
“Cũng chẳng thấy ghi, ở đâu, đảo nào, biển nào”. Đấng thứ nhì
lắc đầu, lèm bèm.
"Chẳng quá trễ, chẳng quá xa. Đảo "Đây Nè" ở mọi nơi, mọi thời."
Đấng thứ ba tuyên bố
Cả bọn giật nẩy mình, chưng hửng. Đếch ai lên tiếng. Đó là chuyện
xảy ra với sự thực phổ cập, muôn đời.
Một câu hỏi được đặt đi đặt lại không chỉ trong làng
văn VN, là tại sao chúng ta không có tác phẩm lớn? Quanh đi quẩn
lại bao nhiêu năm vẫn cứ đội một cô điếm Tàu hàng mã lên đầu mà
thờ. Còn làng văn hiện đại, theo như lời Nguyễn Huy Thiệp, thì:
Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người
ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng,
sáng tạo và hầu hết đều… "vô học", tự phát mà thành danh. Trong
số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức ...
Tên Bất Thiên Lương này, Gấu đọc stt trên net,
hoàn toàn là do tình cờ, đúng hơn, do bạn văn như TV “like”.
Và nhân đây, có tí nhận xét, không phải cho
hắn, mà cho… TV.
Bà này, có vài đầu sách, mà đúng là nhà văn,
tại sao mà ưa nổi 1 tên ngu si dốt nát như tên này, thật là khó
hiểu.
Gấu chưa từng thấy tên này khen ai. Mỗi lần viết
là 1 lần lên giọng dậy đời. Và điều này, thật quan trọng, hắn
đâu phải là nhà văn, và gần như mù tịt về văn học Mít, cũng như thế
giới.
Cái sự kiện hắn chê nhà văn Mít ngu si dốt nát,
thì cũng có phần đúng, nhưng trong văn học Mít hiện đại, không phải
không có tác phẩm hay, quan trọng, vì viết văn, nói cho cùng, chưa
chắc đã cần đến tri thức, sự hiểu biết, uyên bác, mà cần 1 tấm
lòng. Rõ ràng là những tác phẩm của Cô Tư, thí dụ, đâu có tầm thường.
Tên này, do dốt quá, ngu quá, Gấu tin chắc, chưa từng đọc Cô Tư. Trên
thế giới, những nhà văn vô học - nói như tên này - thì đầy rẫy, mà
viết ra tác phẩm bậc thầy, cho người khác theo đó, để mà viết.
Faulkner, thí dụ. Học hành có ra gì đâu?
Một nhà văn vô học như Faulkner, không chỉ được
Noel văn chương, mà còn đẻ ra 1 lô nhà văn được Nobel văn chương,
nào Claude Simon, nào Garcia Marquez, nào Vargas Llosa… Không chỉ thế,
mà còn đẻ ra… vài lý thuyết văn học, cho… vị lai, như Coetzee từng
ca ngợi
Bản Yoknapatawpha
của Faulkner.
Hua Tát của NHT.
Macondo của Garcia Marquez.
Mê Thảo của Nguyễn Tuân, Greene, và Hai Lúa.
Camus nói, con người,
sinh nhằm một thế giới phi lý, có mỗi một phận sự thực sự, là sống,
âu o về đời sống, về cuộc loạn, cuộc tự do của mình đó. Ông còn nói,
giải đáp độc nhất cho nan đề sống, là chết. Và chết, là thuộc con
đường sai lầm. Con đường đúng, là phải dẫn tới đời sống. Con người không
thể cứ thế tiếp tục rên rỉ vì đau thương lạnh lẽo. Chính vì thế mà
ông nổi loạn. Ông từ chối rên rỉ vì lạnh lẽo. Ông từ chối đi theo con
đường dẫn đến cái chết...
Ông nói, "Tôi không thích tin rằng cái chết mở
ra một cánh cửa khác. Với tôi, nó là cái cửa đóng lại." Ông cố tin
như vậy. Nhưng thất bại.
Khi ông được Nobel, tôi gửi điện cho ông, "Chào
mừng một tâm hồn không bao giờ ngừng nghỉ, trong việc tự tìm kiếm,
tự hỏi mình", "On salue l'âme qui constamment se cherche et se demande".
Faulkner viết về Camus
Thời gian là chiến thắng
vượt quá sự thất trận, và chiến thắng này là một điều mà những
kẻ thắng trận không thể nào tiên đoán, hay hiểu được. Một chốn tới,
một bãi biển lánh nạn ở bờ bên kia của sự bại trận, những cái tên
trên những nấm mồ chỉ đường, được nâng niu, gìn giữ không phải
bởi vinh quang chiến thắng, bởi vị nữ thần chiến tranh với cành cọ vàng
và lưỡi gươm, nhưng mà là bởi một con hầu, một đầy tớ gái, của chính
sự thất vọng chán chường. Và cô bé đứng trầm ngâm, bất động.
Con người thực ra đâu cần sự thành đạt, cho lắm.
Điều này lại càng đúng, ít ra là, đối với cả một quốc gia, một
dân tộc. Về cái chuyện này, thất bại có khi lại là một điều tốt, cho
nó.
William Faulkner đọc Con Đường Trở Lại, The Road Back, của
Erich Maria Remarque, trong W. Faulkner: Tiểu luận, Diễn văn, Công Thư [Public Letters],
nhà xb The Modern Library, NY, ấn bản 2004.
Tôi đọc những dòng mở
ra bài điểm sách trên, mà cứ tưởng tượng ra rằng thì là, đây là những
lời tưởng niệm, ở một bãi biển có những cái thuyền, cái bè tị
nạn người Việt đã từng ghé.
Ba mươi năm rồi, có vẻ như chúng ta, những người Việt
đã từng bỏ chạy quê hương Miền Nam, đã cảm nhận ra, cái gọi là sự
chiến thắng vượt quá sự thất trận, mà những kẻ thắng trận chẳng thể
nào hiểu nổi, hay tiên đoán ra được.
Có khi bây giờ, chúng đã hiểu ra điều này, khi
cố tình cho hạ những tấm bia tưởng niệm?
Ngư Ông và Biển Cả
Cuốn hay nhất của hắn ta. Thời
gian còn chứng minh thêm, nó sẽ là cuốn độc nhất, duy nhất,
và hay nhất, so với bất cứ một cuốn nào khác, của lũ chúng ta, tức
những kẻ đồng thời với hắn. Lần này, trong cuốn sách đó, hắn ta khám
phá ra Thượng Đế. Ông Trời. Kẻ Sáng Tạo.... Nhưng cũng lần này, trong
cuốn sách đó, hắn ta nói về sự thương hại...
W. Faulkner
"A book is the writer's secret
life, the dark twin of a man: you can't reconcile them."
William Faulkner: Mosquitoes [1927] (1)
Một cuốn sách là cuộc
đời bí ẩn của nhà văn, cái thằng anh em sinh đôi u tối của hắn ta:
bạn đừng hòng hoà giải hai thằng chả này.
(1) Coetzee trích dẫn
trong bài viết trên tờ Điểm sách Nữu Ước, Thời Vô Song
*
Thời gian là chiến thắng
vượt quá sự thất trận, và chiến thắng này là một điều mà những
kẻ thắng trận không thể nào tiên đoán, hay hiểu được. Một chốn tới,
một bãi biển lánh nạn ở bờ bên kia của sự bại trận, những cái tên
trên những nấm mồ chỉ đường, được nâng niu, gìn giữ không phải
bởi vinh quang chiến thắng, bởi vị nữ thần chiến tranh với cành cọ vàng
và lưỡi gươm, nhưng mà là bởi một con hầu, một đầy tớ gái, của chính
sự thất vọng chán chường. Và cô bé đứng trầm ngâm, bất động.
Con người thực ra đâu cần sự
thành đạt, cho lắm. Điều này lại càng đúng, ít ra là, đối với cả
một quốc gia, một dân tộc. Về cái chuyện này, thất bại có khi lại là
một điều tốt, cho nó.
William Faulkner đọc Con Đường
Trở Lại, The Road Back,
của Erich Maria Remarque, trong W. Faulkner: Tiểu luận, Diễn văn, Công Thư [Public
Letters], nhà xb The Modern Library, NY, ấn bản 2004.
Tôi đọc những dòng mở
ra bài điểm sách trên, mà cứ tưởng tượng ra rằng thì là, đây là những
lời tưởng niệm, ở một bãi biển có những cái thuyền, cái bè tị
nạn người Việt đã từng ghé. NQT
Ba mươi năm rồi, có vẻ
như chúng ta, những người Việt đã từng bỏ chạy quê hương Miền Nam,
đã cảm nhận ra, cái gọi là sự chiến thắng vượt quá sự thất trận, mà
những kẻ thắng trận chẳng thể nào hiểu nổi, hay tiên đoán ra được.
Có khi bây giờ, chúng
đã hiểu ra điều này, khi cố tình cho hạ những tấm bia tưởng niệm?
*
Chuyện nghề.
Ngài thân mến,
Bản thảo gửi trả Ngài
bữa nay, tốc hành.
Lý do không ngửi được, [the reason they have not been
accepted], là:
...
Hoa Lan Đen nặng phần sử thi, nhưng thừa
mứa, cần thu vén lại, thiếu hẳn một xen trung tâm, kịch tính
cao.
Tôi tính ngưng phán, nhưng không
thể. Cho dù có phải làm ông bực. Tôi coi cái nghề viết lách quá cao, nên
đếch cần cái chuyện ông bực hay không bực. Tôi không chịu nổi Hoa Lan Đen.
Câu chuyện mà ông kể cho tôi nghe về gia đình đó, được lắm. Nhưng ông có
viết nó ra đâu...
Nếu ông không định viết nó, tại sao lại gửi cho
tôi?
Tôi nghĩ là ông đọc chưa đủ. Tôi không định nói
tới ba cái tào lao, là tìm kiếm, là sự kiện, research, facts. Ba thứ
cứt đái đó ai cần [Who in the hell cares for facts] ?
Ông chưa đọc đủ, những câu chuyện của những con người,
họ kể chúng ra thật là tuyệt vời.
Hãy đọc những cuốn sau
đây, rồi sau đó, hãy viết lại Hoa Lan
Đen:
Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky. Buddenbrooks
của Thomas Mann. Tess of
the d'Urbervilles của Thomas Hardy.
Bất cứ một cuốn nào khác của Hardy mà ông thích.
Lời tôi phán có thể làm
ông bực mình, làm ông quê một cục, This may offend you. Nếu đúng như
thế, tôi thành thực khuyên ông, chớ bao giờ hăm he viết lách gì
nữa.
Yours sincerely,
William Faulkner
[Trích Harper's Sept 2006]
*****
Tên này, đúng là đại bất [thiên] lương. Tâm địa cực kỳ khốn nạn.
Lần Paris bị khủng bố, cả thế giới cùng đau với Tẩy, hắn phán, nó là tên
thực dân, cướp bóc không biết bao nhiêu tài sản của xứ Mít, tại sao
mà lại đau thương vì nó?
Tên này, đã từng dịch “Lolita”, để chứng tỏ dịch đúng hơn, hay
hơn bản của Dương Tường, cùng lúc mạt sát DT hết lời. Chỉ nội việc làm
này, là đã cực kỳ khốn nạn, về cả hai, tâm địa và trình độ dịch thuật.
Trong bài viết về Thơ, khi được hỏi, tại sao in thơ, Borges phán,
bạn không in, là cứ sửa hoài, sửa hoài, vì chẳng bao giờ bạn bằng
lòng với bất cứ 1 bài thơ nào.
In, để còn làm bài khác.
Dịch thuật, 1 cách nào đó, cũng rứa, hoặc hơn thế rứa. Mỗi bản
dịch có thời của nó. Độc giả đòi 1 bản dịch khác, cho thời của họ. “Người
xa lạ” của Camus, mới có bản dịch mới. Anh Môn, cũng thế. Thay vì “Đại
Gia Môn”, theo kiểu Trịnh Lữ dịch “Gasby”, thì là “Môn Tuyệt Vời”, “The
Wonderful Meaulnes”.
Ngoài ra, còn có 1 số tác phẩm, phải nói là, không thể dịch được,
và “Lolita” là 1 trong số đó. Bạn dịch hoài, dịch hoài, không làm sao
có bản vừa ý. Đọc nguyên tác tiếng Anh, bản có tiểu chú "The Annotated
Lolita" mà không ớn sao?
Với DT, thì còn vấn đề bướng nữa. Gấu có gặp 1 lần, lần về Hà
Nội. Hỏi, tại sao lựa “Cái Trống Thiếc” dịch, cuốn này tác giả sử dụng
nhiều phương ngữ, vô phương dịch, ông nói, ông thích dịch những cuốn khó
như thế!
Cái sự chê bai cõi văn Mít, của tên này, thì chỉ là lập lại Nguyễn
Huy Thiệp, mà NHT, khi chê bai như thế, là do bị chạm nọc, theo GCC. Nhật
Tuấn, khi chưa đi xa, đã từng vẽ chân dung Thiệp, từ cái bóng của mấy
ông Tẫu. Có phần đúng, cả ở cái giọng văn bỗ bã nữa. Nhưng trường hợp ra
đời của truyện ngắn NHT, thì đúng như Lukacs nhận xét, theo đó, vào lúc đó,
cõi văn Mít cần thứ đó. Đẩy đến tận cùng lập luận của Lukacs, giả như không
có NHT, thì lịch sử cũng kiếm ra được 1 NHT khác, ở đúng vào chỗ của anh.
Cái vụ tên này lôi DT ra để mà sỉ vả, khi vạch ra những chỗ dịch
sai, theo Gấu, quá tởm, y chang vụ cái tay Sài Lang gì đó, lôi CVD ra chê,
khi thông báo, kiếm ra được mấy ngàn chỗ dịch sai.
Thường, người ta vạch ra một hai lỗi, lớn, do dịch sai, làm hư bản
dịch, và đề nghị sửa, hay thu hồi, nếu quá nặng. Rõ ràng là tay Bất Lương
này thù gì DT hay giới dịch thuật ở trong nước. Hoặc là tranh ăn, như trường
hợp anh Tẩy mũi tẹt.
Trường hợp hắn chửi ông chủ cũ của Mít, là Tẫy mũi lõ, thì có câu
trả lời của Hannah Arendt, thật là tuyệt, cả về tình lẫn lý. Nếu không
có vụ ăn cướp, chiếm đất của thực dân da trắng, không hiểu bộ mặt thế
giới sẽ như thế nào.
Rõ ràng là, với xứ Mít, giả nhưVẹm không “nằng nặc” đánh Tây, để
nhân tiện làm cỏ các đảng phái khác, thì bây giờ dã không phải chịu cái
họa Tầu phù.
Không lẽ tên này mù, nên không thấy 1 nước Mít VC bây giờ, khổ vì
Vẹm, mà còn khổ vì Tẫu.
Cái chết của xứ Mít, như Gấu đã chỉ ra, là đúng vào lúc ông Hồ trốn
thoát sự canh chừng của cớm Tẩy, tới Moscow, và sau đó, làm Cớm Đỏ, và
được phái về hoạt động ở TQ. Có người nói, giả như Tẩy cho ông Hồ đi học
làm thông ngôn gì đó, ở Trường Bảo Hộ, thì thoát. Làm gì có chuyện này,
ông Hồ dốt quá, trên rang dưới dế, bằng cấp có gì đâu, mà vô học Trường
Bảo Hộ?
G. Lukacs, trong “Solzhenitsyn:
Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” (1969) [William David Graf, dịch
từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971] viết:
Liên hệ mỹ học giữa truyện
ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường được phân tích,
nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai thể loại,
trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their interrelationship
throughout the course of literary development]. Tuy nhiên, đây là một
vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học hiện thời [the
present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện ngắn
[novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên văn:
tiền thân, precursor] chosự ra đời của hùng ca, sử
thi, hay những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard],
một cách viết ở tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như
là một Sẽ Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer,
Nichtmerhr].
Áp dụng nhận xét trên vào
Một Ngày...của Solz., Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta
có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời đã từ bỏ truyện dài để
cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng,
về một cách thế đạo đức của con người.
[With this reservation, one can
say of contemporary and near-contemporary fiction that it often withdraws
from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of man’s
moral stature…..]
“Không phát hiện quá khứ thì
sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của
Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến trình lại khám phá ra cái tôi,
cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ nghĩa.”
[Lukacs].
Truyện
ngắn của NHT có gì tương tự với Một
Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenisyn. Nó báo hiệu sự suy
tàn của một chế độ, sự tận cùng của một thời kỳ [a termination at the end
of a period, a No-Longer], và đồng thời nó đăng quang con người, như một
cá nhân [lại khám phá ra một cái tôi, thí dụ như của NHT, của Bùi Ngọc
Tấn, và nhất là, của Nguyễn Chí Thiện, một cái tôi như là tôi dám tự
chọn cho tôi: nhà thơ ngục sĩ đời đời!
Poppies in July
Little poppies, little hell flames,
Do you do no harm?
You flicker. I cannot touch you.
I put my hands among the flames. Nothing burns.
And it exhausts me to watch you
Flickering like that, wrinkly and clear red, like the
skin of a
mouth.
A mouth just bloodied.
Little bloody skirts!
There are fumes that I cannot touch.
Where are your opiates, your nauseous capsules?
If I could bleed, or sleep! -
If my mouth could marry a hurt like that!
Or your liquors seep to me, in this glass capsule,
Dulling and stilling.
But colorless. Colorless.
“Queen of Sorrows, the spokeswoman for our
most private, most helpless nightmares.” This is Sylvia Plath, as seen by
Joyce Carol Oates. Of nightmares and sorrows, Plath was too well learned.
Born in Boston in 1932, she published her first poem at the age of eight,
soon after her father’s death. Her collections “The Colossus” and “Ariel”
still attract new readers, as does her only novel, “The Bell Jar”, which
follows a whip-smart woman’s spiral into depression. Her work has never gone
away: in 2017 the Smithsonian will devote an exhibition to her at the National
Portrait Gallery.
At 30, Plath took her own life, setting herself up
to be seen through the lens of tragedy, but there is tremendous
spark in her poems. She did not always deal in despair, and if she
did, it was with supreme, and silver-tongued, awareness. “If neurotic
is wanting two mutually exclusive things at one and the same time,”
she said, “then I’m neurotic as hell.”
Key decisions Two educational, one existential.
(1) Going to Smith, a private women’s college where Plath was thrilled
to be surrounded by “free-thinkers”. (2) Moving on to Cambridge on
a Fulbright scholarship. There she met Ted Hughes; four months later,
they were married. (3) Taking a leaf out of William Ernest Henley’s
book. Plath wrote in high school, “I am the one who creates part of
my fate, and I’ll fight destiny all the way. So!”
Strong points (1) A dry wit, lending itself to the
morbid. “Dying/Is an art, like everything else./I do it exceptionally
well” (“Lady Lazarus”). (2) Subverting the tender, and reclaiming
it, against her own intentions. “The moon is my mother. She is not
sweet like Mary./Her blue garments unloose small bats and owls./How
I would like to believe in tenderness” (“The Moon and the Yew Tree”).
(3) The direct address. No other poet uses the second person as well
as Plath does – the “you” is dynamic and unresolved. (4) A rhythm
of repetition. Echoes become an obsession: “I shall not be accused,
I shall not be accused./The clock shall not find me wanting, nor these
stars” (“Three Women”). (5) Spotting double standards, and calling
them out. Plath could not allow for men “to have a double life, one pure
and one not” (“The Bell Jar”).
Golden rule Never be perfect, never be predictable.
Not that she found it easy: she doubted her abilities, striving
to be faultless. And she often felt a stranger, saying in an early
diary entry, “I still do not know myself. Perhaps I never will.”
But Plath did recognise she could be more than others expected, imperfect
or otherwise: “I am too pure for you or anyone./Your body/Hurts me as
the world hurts God. I am a lantern --” (“Fever 103°”).
Favourite tricks (1) Rhetorical questions, to which
she even replied, scathingly. “Is it a penny, a pearl –/Your soul,
your soul?/I’ll carry it off like a rich pretty girl” (“Stopped Dead”).
(2) Unnerving similes. “He hands her the cut-out heart like a cracked
heirloom” (“Two Views of a Cadaver Room”). (3) Going from a shriek
to a hush, and back. Plath sears and burns, but she falls quiet in the
briefest, and most poignant, of moments. See “Nick and the Candlestick”
for a striking balance.
Role models Emily Dickinson, for a strong first-person
persona and a love of paradox. Anne Sexton, for sheer guts and
a weakness for anaphora. Fyodor Dostoyevsky, for fervour and streaks
of the macabre.
Starter pack “Ariel” (1965) is a sure-fire introduction.
Once you’ve devoured it, try “Three Women: A Poem for Three Voices”,
a haunting radio play set in a maternity ward.
Typical lines These, from “The Colossus”, for their
wave-like rhythms and unapologetic tone. “The sun rises under the
pillar of your tongue./My hours are married to shadow./No longer do
I listen for the scrape of a keel/On the black stones of the landing”.
Sáng ngày 10/12, Hội Nhà văn TP.HCM làm buổi tọa
đàm "Nhà văn, anh là ai?", đồng thời giới thiệu tập tiểu luận
và bút ký cùng tên của Ma Văn Kháng.
Ma Văn Kháng (sinh 1936) là một cây bút dạt dào
nam tính trong tác phẩm. Nhìn lại quá trình viết lách của ông, nhiều
nhân vật nam được ông xây dựng sinh động và thành công hơn
nhân vật nữ.
Nhân phát hành ấn bản tiếng Pháp tác phẩm mới
nhất của bà, Ham Hố [Avidité, nhà xb Seuil], Elfriede Jelinek, nhà
văn Nobel 2004 đã trả lời cuộc phỏng vấn ngắn [Bảng câu hỏi Proust,
Questionnaire de Proust] của tờ Đọc, số tháng 11, 2004.
-Hạnh phúc hoàn toàn, theo bà?
Cho phép mình những lúc cô đơn và trầm lắng.
-Điều gì làm bà thức giấc mỗi buổi sáng?
Ý nghĩ đưa mình vào công việc, nhất là thứ
công việc mà mình thích. Đó là điều mang đến cho tôi rất nhiều
thích thú. Tôi cũng thích buông mình vào những cuốn tiểu thuyết
trinh thám hay coi truyền hình, ba thứ phim nhiều kỳ loại dở, nhưng
nhờ vậy, có được những phim mà tôi thích.
-Lần mới nhất, bà bật cười?
Tôi còn nhớ rất rõ, đó là lần người ta hỏi
ông tân bộ trưởng tư pháp, thuộc đảng hữu phái FPO, phải chăng
nước Áo đang trở thành một nhà nước công an theo kiểu Metternich,
đúng như lời khẳng định từ bao lâu nay của Jorg Haider, ông ta trả
lời: “Bữa nay, tôi không thể nói về điều đó.” Nghe ông ta trả lời,
tôi không những cười phá lên mà còn giậm chân.
-Lần chót, khóc?
Bữa hôm qua, tôi đọc một lá thư trên nhật báo
Suddeutsche Zeitung, nói, nếu sinh ra sớm hơn, bà ta đã trở thành
một kapo [một trưởng kíp tù, trong trại tù Nazi].
-Tính hay nhất của bà?
Tôi là một người trung trực, trọng chữ tín [loyal].
-Tính dở nhất?
Nóng nảy, không kiên nhẫn. Tôi phán đoán, và
hành động quá mau lẹ.
-Nhân vật lịch sử bà muốn được như vậy?
Pallas Athéna [nhưng đây đâu phải là một nhân
vật lịch sử]
-Những người hùng hiện nay của bà?
Tất cả những người yêu thích săn sóc những người
bịnh, và những người già.
-Nhân vật tiểu thuyết bà thích?
Người nữ, nhân vật kể chuyện, trong tiểu thuyết của
Sylvia Plath, Chuông Tuyệt Vọng, La Cloche De Détresse.
-Chuyến du lịch thích thú?
Khổ thay, tôi ít đi du lịch. Nhưng Paris là nơi
tôi thích đến.
-Tính tình nào bà thích nhất, ở người đàn
ông?
Sự dịu dàng.
-Ở đàn bà?
Bản năng thực tiễn, pratique, trong mái ấm gia đình.
-Những nhà văn bà thích?
Robert Walser. Frank Kafka, Djuna Barnes, Walter Serner.
-Những nhà soạn nhạc?
Franz Schubert, Alban Berg, Luigi Nono, Olga Neuwirth.
-Những họa sĩ?
Vermeer, Pollock, và những plasticiens [những nhà
tạo hình bằng chất dẻo] Mike Kelly và Paul McCarthy.
-Những ca khúc bà thích?
Trong tất cả những tác phẩm của Schubert: Winterreise.
-Cuốn sách gối đầu giường?
L’Institut [Học Viện] Benjamenta, của Robert Walser.
-Bà thích mầu gì?
Xanh [Vert]
-Bà thích đồ uống nào?
Soda à la framboise [Nước xô đa trái cây phúc
bồn tử].
-Theo bà, thành công lớn lao nhất của bà, là
gì?
Săn sóc bà cụ thân sinh ra tôi, cho tới khi
cụ mất, thọ 97 tuổi, vì những cơn bệnh nặng nề của chứng hoang tưởng.
-Điều ân hận lớn nhất?
Đã không săn sóc tận tình ông cụ thân sinh
cũng mắc bịnh tâm thần.
-Cái gì bà ghét thậm tệ?
Thói kiêu căng và ngạo mạn ở nơi những người đàn
ông.
-Nỗi sợ lớn nhất?
Những kẻ cuồng tín.
-Châm ngôn của của bà?
Để cho mình hãi người hơn là người hãi mình.
[Je suis plus effrayée par les autres qu'ils ne le sont par moi:
Tôi sợ người ta hơn là người ta sợ tôi].
-Bà thích chết như thế nào?
Một cách bất chợt và không đợi chờ.
-Câu viết trên mộ bia?
Lưỡi hái trong nhà tha cho thợ mộc [Schiller: La
hache dans la maison économise le menuisier].
-Nếu gặp Thượng Đế, bà sẽ nói gì?
Chào Thượng Đế, rất tiếc đã không quen biết Người
sớm hơn.
Mỗi đàn bà lấy một tên
phát xít.
[Chaque femme épouse un fasciste].
Sylvia Plath: Chuông Tuyệt Vọng [Cloche
de détresse. Nhà xb Denoel].
Trong bài phỏng vấn ngắn, Jeninek, Nobel 2004, cho
biết, bà thích nhân vật nữ, người kể chuyện, trong Chuông
Tuyệt Vọng, của Sylvia Plath.
Tình cờ Gấu đọc trên tờ Lire một bài ngắn về bà
này, một nữ thi sĩ, tác giả hai tập thơ, một xuất bản sau khi bà
mất.
"Pauvre Sylvia Plath", nàng Sylvia Plath đáng thương,
bài viết trên tờ Lire, số tháng 11, 2004.
Sylvia Plath [1932-1963]: Một thứ Virginia Woolf của
thập niên 1960, và cũng tự huỷ mình như Woolf, nhưng chán đời
theo một kiểu hoang dại, sauvage, hơn nhiều.
Ngôi sao băng trên nền trời thi ca Mẽo, tuy thoáng
hiện rồi mất tích, nhưng để lại dấu ấn trên rất nhiều nhà
văn, rất ư là khác biệt trong số họ, như: Adrienne Rich, Erica Jong,
hay Philip Roth.
Tên miền của bà [Son territoire]: Sự tự thú [la
confession].
Khí giới của bà: Sự hung bạo bất thần [la violence
pulsionnelle]
Chuông Tuyệt Vọng: Một thứ tiểu thuyết nửa nhật ký
riêng tư, nửa giả tự thuật về mình [mi-journal intime, mi-autofiction],
một cuốn sách thờ, và câu văn nổi tiếng, trên, đã trở thành tuyên
ngôn của phong trào giải phóng phụ nữ.
I told you @TIME Magazine would never pick me as person of the
year despite being the big favorite. They picked person who is ruining
Germany.
Đừng chọn tớ, dù tớ quá xứng đáng.
Thay vì tớ họ chọn người làm điêu tàn nước Đức
Donald Trump called Merkel “insane” and called the refugees
“one of the great Trojan horses.” German protesters called her a traitor,
a whore; her allies warned of a popular revolt, and her opponents warned
of economic collapse and cultural suicide. The conservative Die Welt
published a leaked intelligence report warning about the challenge of
assimilating a million migrants: “We are importing Islamic extremism,
Arab anti-Semitism, national and ethnic conflicts of other people as well
as a different understanding of society and law.” Her approval ratings
dropped more than 20 points, even as she broadcast her faith in her people:
“Wir schaffen das,” she has said over and over. “We
can do this.”
At a moment when much of the world is once more engaged in a
furious debate about the balance between safety and freedom, the Chancellor
is asking a great deal of the German people, and by their example, the
rest of us as well. To be welcoming. To be unafraid. To believe that
great civilizations build bridges, not walls, and that wars are won both
on and off the battlefield. By viewing the refugees as victims to be rescued
rather than invaders to be repelled, the woman raised behind the Iron
Curtain gambled on freedom. The pastor’s daughter wielded mercy like a
weapon. You can agree with her or not, but she is not taking the easy road.
Leaders are tested only when people don’t want to follow. For asking more
of her country than most politicians would dare, for standing firm against
tyranny as well as expedience and for providing steadfast moral leadership
in a world where it is in short supply, Angela Merkel is TIME’s Person of
the Year.
Đây là lần thứ hai tôi đến Mỹ, bắt
đầu lúc 5 giờ sáng ở phi trường TL ở Berlin đợi chờ làm thủ tục
bay sang Anh. Chuyến bay bắt đầu lúc 7 giờ 30 phút, mãi đến 6 giờ
thủ tục xuất vé, gửi hành lý mới bắt đầu. Thì ra cửa lên máy bay
ngay đằng say quầy làm thủ tục, khách không phải đi xa tìm cửa lên
máy bay như lần khác. Chẳng biết cuốn hộ chiếu Việt Nam được làm như
thế nào, người của hãng hàng không quệt đến mấy lần tấm hộ chiếu trên
máy kiểm tra, anh ta nhíu mày vẻ khó hiểu, gọi người khác đến xem cùng.
Họ chỉ trỏ trên màn hình máy tính gì đó, mãi rồi họ cũng xuất vé cho
tôi vào cửa kiểm tra lê...
Bây giờ thì tôi không những chỉ cảm
thấy mình là người ngoại quốc ở Mỹ, mà ngay tại khu trung tâm toàn người
Việt này, tôi hoàn toàn xa lạ với họ như tôi cũng là một người ngoại quốc
với họ. Ở đây chẳng mấy người quan tâm đến chính trị Việt Nam, một cô gái
rất xinh và cao đến gần 1,8 mét hỏi tôi
- Anh ơi, thế ông Nguyễn Tấn Dũng
em hay nghe nói, thì ở Việt Nam ông ấy làm gì. ?
Khi Xứ Mít được Nobel
Toán, Gấu đã tưởng tượng ra cái cảnh trên: NBC, đứng giữa Ba Ðình, một
tay giơ quả đấm chỉ chỉ về Lăng Bác [cái này thuổng Kỵ Sĩ
Ðồng của Pushkin], một tay cầm cái bửu bối Nobel, phán: DM, cái
chế độ khốn kiếp này đi chỗ khác chơi!
Hóa ra, cảnh xẩy ra ở Buenos Aires, dưới sự chứng kiến và
ban phước lành của Borges.
Và Bùi Chát, chuyên chửi tục, thì lại ăn mặc rất chỉnh tề,
và phán rất là thật nhã nhặn, thật lịch sự!
Tuyệt!
Anh đến ăn mừng với bạn bè
vì anh vừa được thả. Trên đường về nhà, có bốn người đàn ông đi xe máy
bám theo anh. Anh dừng xe, hỏi vì sao. Không một lời đáp, họ đánh anh
vào ngực, vào lưng và rất nhiều lần vào đầu. Vài ngày sau, Bùi Chát
gửi email cho tôi, thông báo. Một trong số những người đó bảo: “Mày
còn thò mặt đến con hẻm này thì chúng tao giết.”
Art puts history
on show and makes the historian into a writer.
[Nghệ thuật đưa lịch sử ra trình làng, và biến
sử gia thành nhà văn].
Roland Barthes viết,
Michelet, một tay xực lịch sử, Michelet, eater of history. Ở đoạn
"Michelet as predator", kẻ ăn thịt sống, ông coi sử gia người Pháp
này, giống Pascal, Rimbaud, là những người viết tới đâu ăn văn
mình tới đó, [Michelet is one of those predatory writers (Pascal, Rimbaud)
who cannot write without constantly devouring their discourse].
[Bản tiếng Anh của Richard Howard, nhà xb Hill and
Wang, New
York]
Michelet nhận lịch sử như một món dinh dưỡng ông,
bù lại, ông từ bỏ đời mình vì nó.
[Michelet receives History
as a nutriment, but in return he abandons his life to it].
Cái cú VC vứt mẹ môn Lịch Sử vô
thùng rác, theo GCC, thật là tuyệt vời, dù bị hải ngoại chửi tưng
bừng.
Chúng viện cớ, con nít đếch chịu học môn này
nữa.
Ui chao, có hai môn con nít cực mê là
lịch sử và địa lý, nhưng cái môn lịch sử của Vẹm chúng quá tởm,
vì toàn là bịa đặt, chúng hết chịu nổi rồi, hà, hà!
Vương Đại Gia, nhà phê gia nhớn nhất ở trong
nước, hình như cũng cảm thấy nhột, vì cái sự không lẽ bịp con
nít hoài, nên đề nghị, hay là tạm hoãn cái vụ học sử, 1 thời gian.
Hoãn cái con khỉ, cho đi tầu suốt cho được việc!
Trong bài viết về NHT, và cái cú Nguyễn
Huệ ra Bắc, nhét kít vô miệng tầng lớp tinh anh Bắc Hà, Gấu
có nhắc tới Brodsky, và cái sự khi còn bé, ông quá mê môn lịch
sử:
Trên Hợp Lưu, 6/92, sau khi đọc Mùa Mưa Gai
Sắc, của Trần Vũ, và Phẩm Tiết, của Nguyễn Huy Thiệp, Trương
Vũ đã đặt câu hỏi, tại sao phải là Nguyễn Huệ? "Hai truyện ngắn
đó là những sáng tác phong phú, xuất sắc, cá biệt. Những sáng
tác 'không' và 'không thể' "bôi nhọ anh hùng dân tộc". Người
đọc tinh ý thừa sức thấy rõ điều đó. Chẳng những vậy, nhân vật được
gọi tên là Nguyễn Huệ được xây dựng với những nét rất sắc, rất mạnh,
và rất độc. Nhưng người đọc cũng 'táng đởm' vì những nét đó. Không
vì đó là những nhân vật a-b-c của truyện, mà vì đó là một nhân vật
có thật và có như mọi người được biết. Ở đây, người đọc không thấy được
sự công bình cũng như không hiểu được sự gán ghép để có một cách hư
cấu như vậy. Câu hỏi do đó, vẫn là: Tại sao phải là Nguyễn Huệ?"
Đụng vào một nhân vật lịch sử cỡ như Nguyễn
Huệ, không phải chuyện chơi! Ngoài lý do như Trương Vũ đưa ra,
"mà vì đó là một nhân vật có thật, và có như mọi người được biết",
còn một lý do liên can đến cả một thời thơ ấu của mỗi con người.
Joseph Brodsky, trong bài viết "Homage to Marcus Aurelius", kỷ
niệm lần đầu ông tới Rome, pho tượng vị hoàng đế La Mã làm ông nhớ
đến cô giáo dậy môn sử, và cùng với cô giáo, những âm thanh
huyền hoặc Caesar, Augustus, Flavius... toàn những âm thanh có thể
đánh thức quỉ sứ dưới địa ngục! Đó là lý do, theo ông, trẻ con mê môn
sử. Một Nguyễn Huệ, áo bào còn đen kịt, sặc mùi thuốc súng, vào
Thăng Long đúng ngày Tết, sông Hồng nghẹt xác giặc, đã ăn sâu vào
bộ óc non nớt của chúng ta, không dễ gì bôi xoá. Và cái trách nhiệm
"trồng người" không dễ dàng, khi cố tình xuyên tạc lịch sử. Cho dù vậy,
đây là "nhiệm vụ" của nhà nước, không phải của nhà văn.
Nhưng thôi, chán VC rồi, GCC bèn giới thiệu
“Michelet” của Barthes.
Cuốn này, cục tuyệt, vậy mà có vẻ ít ai
để ý, khi đọc Barthes.
Mỗi
một người đàn ông chết để lại một tài sản nho nhỏ, hồi ức của
người đó, và yêu cầu được chăm sóc. Với những người không có
một người bạn, thì ông quan tòa sẽ cung cấp một người…
Tòa này là Lịch Sử. (1)
Each soul, among vulgar things, possesses certain
special, individual aspects which do not come down to the same
thing, and which must be noted when this soul passes and proceeds
into the unknown world.
Suppose we were to constitute a guardian of graves,
a kind of tutor and protector of the dead?
I have spoken elsewhere of the duty which concerned
Camoens on the deadly shores of India: administrator of the property of the deceased.
Yes, each dead man leaves a small property, his
memory, and asks that it be cared for. For the one who has no
friends, the magistrate must supply one. For the law, for justice
is more reliable than all our forgetful affections, our tears so
quickly dried.
This magistracy is History. And the dead are,
to speak in the fashion of Roman Law, those miserabiles
personae with whom. the magistrate must be concerned.
Never in my career have I lost sight of that duty
of the Historian. I have given many of the too-forgotten dead
the assistance which I myself shall require. I have exhumed them for a second life.
Some were not born at a moment suitable to them. Others were born
on the eve of new and striking circumstances which have come to erase
them, so to speak, stifling their memory (example, the Protestant
heroes dead before the brilliant and forgetful epoch of the eighteenth
century, the age of Montesquieu and of Voltaire).
History greets and renews these disinherited glories;
it gives life to these dead men, resuscitates them. Its justice
thus associates those who have not lived at the same time, offers
reparation to some who appeared so briefly only to vanish. Now they
live with us, and we feel we are their relatives, their friends. Thus
is constituted a family, a city shared by the living and the dead.
1872. Histoire
du XIXe siècle, II, Le Directoire, Préface
Roland Barthes: Michelet Tòa án lịch sử.
Mỗi linh hồn, trong những tầm phào của nó,
có tí ti ‘đặc sản’ khiến chúng phân biệt với nhau, và cần
được ghi nhận, khi nó từ bỏ cõi đời này đi vô cõi vô biên, biền
biệt.
Giả như chúng ta lập ra một thứ ông từ, của
những đền đài, là những ngôi mộ?
Một thứ giám hộ chuyên lo bảo vệ những người
chết? Tôi có lèm
bèm ở đâu đó, về trách nhiệm mà Camoen quan tâm tới, ở trên
những bến bờ chết người ở Ấn độ: Người lo quản lý những
tài sản của những người đã chết.
Đúng như thế, mỗi người chết để lại tí ti tài
sản, là hồi ức của người đó, và yêu cầu được chăm sóc. Với
người không bạn bè, quan tòa phải cung cấp một người như vậy.
Nước mắt của chúng ta thì khô ráo thật
lẹ, và luật lệ, công lý thì đáng tin cậy hơn là ba thứ tình
cảm rất mau phai nhạt của chúng ta.
Thứ tòa này là Lịch sử.
MEMORANDUM
MICHELET (Jules), French historian, born in Paris.
His liberal opinions twice caused his lectures at the College
de France to be suspended. In his Histoire de France and his Histoire
de la Revolution, he managed to effect a veritable resurrection of
our national life (1798-1874).
-Petit Larousse illustré, 1906-34
CHRONOLOGY
"I was born during the great territorial revolution,
and I shall have seen the dawn of the great industrial revolution.
Born under the Terror of Babeuf, I see, before I die, the Terror
of the Internationale. "
OEDIPUS
The historian is neither Caesar nor Claudius, but
he often sees in his dreams a weeping, lamenting crowd, the host
of those who have not lived enough, who wish to live again . . . It
is not only an urn and tears which these dead ask of you. It is not enough
for them that we take their sighs upon ourselves. It is not a mourner
they would have, it is a soothsayer, a vates. So long
as they have no such person, they will wander about their ill-sealed
graves and find no rest.
They must have an Oedipus who will explain
to them their own enigma, of which they have not had the meaning, who
will teach them what their words, their acts meant, which they did
not understand. They must have a Prometheus, so that, at the fire
he has stolen, the voices which floated like snowflakes in the air
might rebel, might produce a sound, might begin to speak. There must
be more; the words must be heard which were never spoken, which remained
deep in their hearts (search your own, they are there); the silences
of history must be made to speak, those terrible pedal points in which
history says nothing more, and which are precisely its most tragic accents.
Then only will the dead be resigned to the sepulcher. They are beginning
to understand their destiny, to restore the dissonances to a sweeter
harmony, to say among themselves, and in a whisper, the last words
of Oedipus: Remember me. The shades greet each other and subside in
peace. They let their urns be sealed again. They scatter, lulled by
friendly hands, fall back to sleep and renounce their dreams. That precious
urn of bygone times-the pontiffs of history bear it and transmit it
to each other with what piety, what tender care! (no one knows how pious
but themselves), as they would bear the ashes of their father or of their
son. Their son? But is it not them
selves?
1842. Quoted in Monod, Vie et pensée de Michelet,
II, 6
Sử gia đếch phải là Caesar mà cũng phải là Claudius.
Nhưng, anh ta thường nhìn thấy, ở trong những giấc mơ của mình,
một đám đông khóc nức nở, than van, những con người sống chưa đủ,
chưa đủ sống, ước mong sống nữa, sống lại.... Không phải là cái bình
đựng tro cốt và những giọt nước mắt mà những người chết – thí dụ, thì
cứ nói đại ra ở đây, những oan hồn của cuộc chiến Mít - đòi hỏi
ở chúng ta... Cũng không đủ là cái chuyện chúng ta coi những tiếng
thở dài của họ là của chúng ta. Không phải 1 kẻ cầu nguyện, một
thứ kinh cầu, RIP /RIẾC gì đó, họ muốn có, nhưng mà là 1 vì thầy
bói. Một khi chưa có 1 một cô đồng, thì họ cứ bèn lang thang vất vưởng,
vẫn cứ lèm bèm về những ngôi mả không được chôn cất tới nơi tới chốn,
và chưa cảm thấy được an nghỉ đời đời.
Phải là 1 tay Oedipus, người sẽ giải thích cho
họ về cái bí ẩn của chính họ…
“I collect the life of my time. I’m
interested in the history of the soul. The everyday life of the
soul, the things that the big picture of history usually omits,
or disdains. I work with missing history. I am often told, even now,
that what I write isn’t literature, it’s a document,” she said.
“I’m interested in little people. The little, great
people, is how I would put it, because suffering expands people.
In my books, these people tell their own, little histories, and
big history is told along the way … I have collected the history of
‘domestic,’ ‘indoor’ socialism, bit by bit. The history of how it played
out in the human soul. I am drawn to that small space called a human
being … a single individual. In reality, that is where everything happens.”
Svetlana Alexievich: Diễn văn Nobel văn chương
Tớ quan tâm tới thứ lịch sử của linh hồn, chuyện
thường ngày, mọi ngày, của linh hồn, thứ mà lịch sử lớn lao láo
toét vờ, hoặc ghê tởm, hoặc coi thường...
Nobel laureate Svetlana Alexievich at the Swedish
Academy in Stockholm. Photograph: Fredrik Sandberg/TT Photography/EPA
The Belarusian journalist said in her Nobel lecture
that former Soviet countries were ‘again living in an era of power’,
and recounted her time reporting the Chernobyl disaster from the
radiation zone
The 2015 Nobel literature laureate Svetlana Alexievich
has said that Russia “missed the chance” it had in the 1990s
to become a country “where people can live decently”, choosing
instead to become “a strong country”.
During her Nobel lecture on Monday, the Belarusian
journalist said “a time full of hope has been replaced by a time
of fear”. Alexievich, whose oral histories tell the stories of
thousands of individuals from the Soviet Union, said that “the era
has turned around and headed back in time. The time we live in is
secondhand.”
“I will take the liberty of saying that we missed
the chance we had in the 1990s. The question was posed: what kind
of country should we have? A strong country, or a worthy one, where
people can live decently? We chose the former – a strong country.
Once again, we are living in an era of power. Russians are fighting
Ukrainians. Their brothers … Russian planes are bombing Syria,”
she said.
“Sometimes I am not sure that I’ve finished writing
the history of the ‘Red’ man … I have three homes: my Belarusian
land, the homeland of my father, where I have lived my whole life;
Ukraine, the homeland of my mother, where I was born; and Russia’s
great culture, without which I cannot imagine myself. All are very
dear to me. But in this day and age it is difficult to talk about
love.”
Alexievich was praised by the Swedish Academy
for her “polyphonic writings, a monument to suffering and courage
in our time” when it announced her as the winner of the 2015 Nobel
prize in literature last October. During her lecture on Monday she
said she sets out to “collect the everyday life of feelings, thoughts,
and words”.
I have been shocked and frightened by
human beings … [but] I have seen the sublime in people, and wanted
to cry.
“I collect the life of my time. I’m interested
in the history of the soul. The everyday life of the soul, the
things that the big picture of history usually omits, or disdains.
I work with missing history. I am often told, even now, that what
I write isn’t literature, it’s a document,” she said.
“I’m interested in little people. The little,
great people, is how I would put it, because suffering expands
people. In my books, these people tell their own, little histories,
and big history is told along the way … I have collected the history
of ‘domestic,’ ‘indoor’ socialism, bit by bit. The history of how it
played out in the human soul. I am drawn to that small space called a
human being … a single individual. In reality, that is where everything
happens.”
But Alexievich noted that she had not “always
been up to following this path”. “The road to this podium has been
long – almost 40 years, going from person to person, from voice
to voice,” she said. “Many times I have been shocked and frightened
by human beings. I have experienced delight and revulsion. I have
sometimes wanted to forget what I heard, to return to a time when
I lived in ignorance. More than once, however, I have seen the sublime
in people, and wanted to cry.”
Few English editions of her work were available
when Alexievich won the Nobel, although her work has been widely
translated into other languages. Penguin Modern Classics has since
acquired four of her books, and will release a new translation of
the title it called her “masterpiece”, Voices from Chernobyl, to mark
the 30th anniversary of the Chernobyl disaster, on 26 April 1986. The book,
based on more than 500 interviews with eyewitnesses of the incident,
will be called Chernobyl Prayer and will be published next April.
In her Nobel lecture, Alexievich spoke of how
in Chernobyl, “you couldn’t see the radiation, or touch it, or
smell it … The world around was both familiar and unfamiliar. When
I travelled to the zone, I was told right away: don’t pick the flowers,
don’t sit on the grass, don’t drink water from a well … Death hid everywhere,
but now it was a different sort of death.”
She added: “For me the world parted: inside the
zone I didn’t feel Belarusian, or Russian, or Ukrainian, but a
representative of a biological species that could be destroyed,”
she said. “Two catastrophes coincided: in the social sphere, the
socialist Atlantis was sinking; and on the cosmic – there was Chernobyl.”
A new translation of Alexievich’s Zinky Boys,
drawn from voices from the Afghan war, is due out from Penguin
Press in November 2016 , with War’s Unwomanly Face and Last Witnesses
to follow in 2017.
“By charting a new history of feelings, she
has shown that non-fiction is more important than ever,” Ionita
added. “She is an inspiration to many writers around the world,
and British readers will finally be able to read her works in
brilliant translations.
Bài diễn văn Nobel năm nay, đọc theo kiểu THNM,
của GCC, thì đúng là nói về cái cơ hội của xứ Mít, thay
vì có cái nhà to đùng, thì có 1 thứ đời mạt hạng, secondhand life,
tếu thế. Tin Văn sẽ đi 1 đường chuyển ngữ liền tù tì, để hầu quí
độc giả của nó, để cùng đau nỗi đau thắng trận, với lũ Nam Kít,
và nỗi nhục của nó đối với lũ Bắc Kít, hà hà!
I have three homes: my Belarusian land, the homeland of my
father, where I have lived my whole life; Ukraine, the homeland
of my mother, where I was born; and Russia's great culture, without
which I cannot imagine myself. All are very dear to me. But in this
day and age it is difficult to talk about love.
Tìm đọc lại bài này thấy hay quá, copy nguyên văn ra đây
cho ai không vượt tường lửa được... Bài này ai là đảng viên cộng sản
thì nên đọc, ai hiểu cộng sản rồi thì có thể bỏ qua... #DMCS
Một thời lịch sử với Nguyễn Hộ
Chia rẽ về tư tưởng trong hàng ngũ những người
cộng sản sau 1975 đã đưa đến sự ly khai hơn 10 năm sau đó của ông
Nguyễn Hộ, một nhà cách mạng kỳ cựu của miền Nam Việt Nam.
Nhắc lại giai đoạn từ bỏ con đường cộng
sản của ông Nguyễn Hộ cuối những năm 1980.
bbc.com
Note: CLB Khiến Chán của đám Miền Nam, đã từng được Xịa phịa ra,
trong thời kỳ chiến tranh.
Cũng hội họp, ra mắt, tuyên bố ly khai với VC Bắc Kít. Tẩy mắc bẫy.
Tờ Le Monde đi trang nhất. Tờ Time, chắc là nhờ Cao Bồi, không. Nhưng lộng
giả thành chân. Sau 1975, quả có, với Nguyễn Hộ. Với VC, chống nó là nó
thịt, đơn giản có vậy
Hannah Arendt, theo GCC là người có
thẩm quyền nhất, theo nghĩa, rất rành, về chủ nghĩa toàn trị.
Hannah Arendt, trong cuốn Từ Dối Trá đến Bạo Lực, chương
Về Bạo Lực, Sur la Violence,
có đưa ra 1 nhận xét, thật tuyệt, nếu áp dụng vào cái cảnh
VC đánh chủ của VC, là nhân dân, như đang xẩy ra.
Bà viết:
Bạo lực càng trở nên
một khí cụ đáng ngờ và không đi đến đâu trong những liên hệ quốc
tế, thì nó lại càng trở nên thật quyến rũ, và thật hữu hiệu ở bên
trong cái gọi là cách mạng…
Marx không phải không
ý thức đến bạo lực trong lịch sử, nhưng ông chỉ ban cho nó 1
vai trò thứ yếu, cái xã hội cũ đi đến mất tiêu thì không phải do bạo
lực mà là do những mâu thuẫn nội tại… cái gọi là “chuyên chính
vô sản” chỉ có thể được dựng lên sau Cách Mạng và chỉ trong 1
thời kỳ ngắn…
Plus la violence est devenue
un instrument douteux et incertain dans les relations internationales,
plus elle a paru attirante et efficace sur le plan intérieur,
et particulièreement dans le domaine de la révolution. La rude
phraséologie marxiste de la Nouvelle Gauche s'accompagne des progrès
incessants de la conception non marxiste proclamée par Mao Tsé-toung,
selon laquelle « le pouvoir est au bout du fusil ». Certes, Marx
était parfaitement consscient du rôle de la violence dans l'histoire,
mais ce rôle lui paraissait secondaire; la société ancienne est
conduite à sa perte non par la violence, mais par ses contradictions
internes. L'apparition d'un nouveau type de société est précédée,
mais non provoquée, de convulsions violentes qu'il compare aux
douleurs de l'enfantement qui précèèdent la naissance, mais qui,
naturellement, n'en sont pas la cause. Dans la même ligne de pensée,
il estimait que l'Etat constituait un instrument de violence au service
de la classe dominante, mais cette classe n'exerce pas son pouuvoir
en ayant recours aux moyens de la violence. Il réside dans le rôle
de la classe dirigeante dans la société, ou, plus exactement,
dans le processus de production. On a souvent remarqué, et parfois
déploré, que, sous l'influence des théories de Marx, la gauche révolutionnaire
se refusait à utiliser les moyens de la violence; la« dictature du
prolétariat» qui, selon Marx, devait être ouvertement répressive,
ne devait être instaurée qu'après la Révolution, et ne durer, comme
la dictature romaine, qu'une période de temps limitée; l'assassinat
politique, à l'exception de quelques actes de terrorisme individuel
accomplis par de petits groupes d'anarchistes, fut surtout utilisé
par la droite, tandis que les soulèvements armés et organisés demeuraient
principalement une prérogative militaire. La gauche restait néanmoins
convaincue que « toutes les conspirations sont non seulement inutiles
mais nuisibles. Elle [savait] trop bien que les révolutions ne se font
pas d'une façon intentionnelle et arbitraire, mais qu'elles sont partout
et toujours le résultat nécessaire de circonstances entièrement indépendantes
de la volonté et de la direction des partis et de classes entières
de la société.»
Thực vậy, đây là nỗi khốn khó của thời
đại chúng ta, mắc míu lung tung, đan xen lạ lùng giữa xấu và tốt,
đến nỗi, nếu không có "bành trướng để bành trướng" của những tên đế
quốc, thế giới chẳng bao giờ trở thành một; nếu không có biện pháp
chính trị "quyền lực chỉ vì quyền lực" của đám tư sản, cái sức
mạnh vô biên của con người chắc gì đã được khám phá; nếu không có thế
giới ảo vọng, thiên đường mù của những phong trào toàn trị, qua đó,
những bất định thiết yếu của thời đại chúng ta đã được bầy ra một cách
thật rõ nét, như chưa từng được bầy ra như vậy, thì làm sao chúng ta [lại
có cơ hội] bị đẩy tới mấp mé bên bờ tận thế, vậy mà vẫn không hay, chuyện
gì đang xẩy ra?
Và nếu thực, là, trong những giai đoạn tối hậu của chủ
nghĩa toàn trị, một cái ác triệt để xuất hiện, (triệt để bởi vì
chúng không thể suy diễn ra, từ những động cơ có thể hiểu được, của con
người), thì cũng thực, là, nếu không có chủ nghĩa toàn trị, chúng ta
có thể chẳng bao giờ biết được bản chất thực sự cơ bản, thực sự cội rễ,
của cái ác.
Chủ nghĩa bài Do Thái (không phải chỉ có sự hận thù
người Do Thái không thôi), chủ nghĩa đế quốc (không chỉ là chinh phục),
chủ nghĩa toàn trị (không chỉ là độc tài) – cái này tiếp theo cái
khác, cái này bạo tàn hơn cái kia, tất cả đã minh chứng rằng, phẩm
giá của con người đòi hỏi một sự đảm bảo mới, và sự đảm bảo mới mẻ này,
chỉ có thể tìm thấy bằng một nguyên lý chính trị mới, bằng một
lề luật mới trên trái đất này; sự hiệu lực của nó, lần này, phải được
bao gồm cho toàn thể loài người, trong khi quyền năng của nó phải
được hạn chế hết sức nghiêm ngặt, phải được bắt rễ, và được kiểm soát
do những thực thể lãnh thổ được phân định mới mẻ lại.
Chúng ta không còn có thể cho phép chúng ta giữ lại
những cái gì tốt trong quá khứ, và đơn giản gọi đó là di sản của chúng
ta, hay loại bỏ cái gì là xấu, giản dị coi đó là một gánh nặng chết
tiệt mà tự thân chúng sẽ bị thời gian chôn vùi trong lãng quên. Cái
mạch ngầm của lịch sử Tây phương sau cùng đã trồi lên trên mặt
đất, và soán đoạt phẩm giá của truyền thống của chúng ta. Đây là thực
tại chúng ta sống trong đó. Đây là lý do tại sao mọi cố gắng chạy
trốn cái u ám của hiện tại, bằng hoài vọng một quá khứ vẫn còn trinh
nguyên, hay bằng một sự lãng quên có dự tính về một tương lai tốt
đẹp hơn: tất cả những cố gắng như vậy đều là vô hiệu.
Trong
Nửa Thế Kỷ Của Tôi, tuyển tập văn xuôi của Anna Akhmatova,
có trích mấy đoạn, trong Nhật Ký, bà viết về thành phố
của bà.
Post lên đây như “chim mồi”, lấy hứng, viết
về Sài Gòn Của Gấu ngày nào.
Nữ văn sĩ Bắc Kít, Lờ Mờ Hờ, khi mới viết,
cũng có những dòng thật đẹp về Hà Nội.
Nhưng Hà Nội của Gấu khác, và Sài Gòn,
thì tất nhiên, khác, vì bà này làm gì có!
"Suốt khoảng phố gần trường
toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa, lọt vào một nhà cửa sổ chấn song
sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày nào đi học tôi cũng
thấy treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối.
Nhưng tiếng hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng
thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán
hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc đẹp hơn tôi, chân đi dép nhựa ra vào.
Chúng đến đó học đàn. Chúng làm tôi tủi thân nhiều hơn là thẹn.
Có một lần tôi bị tụt quai dép cao su và tôi chẳng còn cách nào
hơn là lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi bộ trên hè
phố trước mặt chúng nó.
Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những
hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim giống
như nùi cỏ rối (....) Nhưng không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi
nghe tiếng dương cầm vang lên lập cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ
con không quen biết..."
"Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn.
Tôi không biết đó là bản gì. Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối
thành phố lên đèn ấy tôi nhớ lập tức. Tiếng đàn mới cao sang làm
sao. Trong vắt. Róc rách. Dường như những thân sao đen cao vút đang
từ từ vướn lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu trời đen thẫm, mịn màng
như một đĩa thạch và chi chít sao."
"Chiến tranh đánh phá lần thứ hai. Có
vẻ ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là vì tôi lớn hơn
và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để lại Hà Nội
những hầm công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước
ngày mưa. Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động nghe
hết hồn hết vía rú lên từ phía Nhà Hát Lớn..."
".... Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa
khi đi qua Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm
hết nhà nó thì dừng và hôm đó là hôm nó về lấy gạo
nuôi em."
(Những giọt trầm, truyện ngắn Lê Minh Hà)
Và phấp phỏng như
nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố.
không một tờ báo nào đăng tin linh mục Chân Tín
qua đời. đấy là vị Chủ tịch ủy ban cải thiện chế độ lao tù
miền Nam Việt Nam.Người công bố cho thế giới biết chế độ chuồng
cọp Côn Đảo đã vi phạm nhân quyền như thế nào.
Lịch sử để lịch sử phán xét, người trí
thức chế độ nào cũng vậy nếu vi phạm quyền con người thì họ
lên tiếng
tôi khinh bọn ăn cháo đá bát của ngày
xưa nếu không có linh mục Chân Tín , Linh mục Nguyễn Ngọc Lan
các ông đã rũ xương trong tù,nay các ông [ trừ người đã
chết ] ăn cháo đá bát.
Thưa người tôi xem là thầy đang ở nước
ngoài và các anh em. tôi không hoàn tất được việc thầy
nhờ để tên trong việc cậy nhờ chia buồn. vì không báo nào chịu
đăng dù tôi sẵn sàng trả đăng tin tiền sòng phẳng
kwan
RIP
Đây là 1 phần của cái giá phải trả của
đám được coi là Lực Lượng Thứ Ba, tức đám nằm vùng
Tất cả đám này, số phận tên nào cũng
thế, than thở cái nỗi gì nữa
Bạn Mark Zuckerberg, người tạo ra mạng xã hội
Facebook giúp thế giới kết nối, giúp con người gần gụi nhau hơn.
Bạn Mark Zuckerberg và công ty của bạn đã
phủ sóng Internet miễn phí cho các nước châu Phi và sắp
tới là cả thế giới giúp người nghèo có thể tiếp cận với tri thức
nhân loại.
Bạn Mark Zuckerberg viết lá thư cho con gái
nhân dịp cô bé chào đời với đầy đủ lời lẽ yêu thương và
trách nhiệm mà các bậc cha mẹ khác trên toàn thế giới nên học
hỏi để yêu con mình hơn.
Bạn Mark Zuckerberg
đã góp rất nhiều tiền cho việc thiện nguyện. Bạn ấy cũng cam
kết sẽ góp 99% tài sản trị giá nhiều tỷ đô la và còn tăng
nhiều hơn nữa về sau, với mong muốn làm cho thế giới trở nên tốt
đẹp hơn.
...
Trong khi đó chúng ta (không phải tất cả,
chỉ là một bộ phận không nhỏ) ngồi phân tích xem bạn Mark
làm như vậy thì tránh được bao nhiêu thuế với tâm trạng "ồ, tưởng
thế nào, nó cũng thường thôi".
Chúng ta thật là sáng suốt quá đy!
Note: Tuyệt!
Nhưng, liệu hai sự kiện trên, có gì liên
quan?
Hàng Noel mới về. Nhân dịp, Tin Văn
bèn đi hai đường về nhà thơ Nobel, đều của Robert Hass, nhà thơ
Mẽo. Một, đã post trên TV nhưng chưa có bản tiếng Mít. Một, trong
Now & Then, 1 mục về thơ, do tác giả phịa ra cho 1 tờ báo văn
học, giống mục “Thơ mỗi ngày” của TV. Trong bài viết này, Hass viết
về lần đi giang hồ vặt xứ Tẫu, và những vần thơ về Thượng Hải của Transtromer:
…..
Behind each one walking here hovers a cross that
wants to catch
up to us, pass us, join us.
Something that wants to sneak up on us from behind
and cover
our eyes and whisper, "Guess who?"
We look happy out in the sun, while we bleed to
death from
wounds we know nothing about.
Tomas Transtromer: Streets in Shangai
Rereading these final lines also surprised me. Is
it a Christian cross? The metaphorical cross that we, each of
us, have to bear of our own forms of private suffering?
Transtromer is always interested in the individual soul, not the
public face. "We visited their home, which was well-appointed," one
of his poems goes, "Where is the slum?" But a Christian metaphor in this
context-given the entangled history of missionary activity and Western
imperialism? It seems unlikely. This is one of those cases where we are
brought up against the limits of translation. One wants to know what that
"cross" is in Swedish and what its resonances are.
Robert Hass. A Swedish Poet: Tomas Transtromer.
[in Now & Then]
SECRETS ON THE WAY
Daylight touched the face of a man who slept.
He had a livelier dream
but didn't wake up.
Darkness touched the face of a man who walked
among the others under the sun's strong
impatient rays.
It darkened suddenly as if from a rainstorm.
I stood in a room that contained every moment-
a butterfly museum.
And still the sun was as intense as before.
Its impatient paintbrushes painting the world.
Ánh sáng mơn trớn mặt một người đàn ông
đang ngủ
Thằng chả đang mơ giấc mơ bảnh hơn ánh sáng
nhiều
Hắn đếch thèm thức giấc
Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's
tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.
You can still shuffle along
on skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still
hang.
They are like pages torn from old telephone
directories-
the names are eaten up by the cold.
It is still beautiful to feel
your heart throbbing.
But often the shadow feels more real than the
body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết của Ai Đó
Một lần, có 1 cú
sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái đuôi sao
chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm những hình
ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh phịch 1 phát,
như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt băng
trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá
năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé ra từ
1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái lạnh giá đợp
mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp như mơ, cảm thấy
trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì lại cảm
thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có thịt.
Tên samurai thì là cái chó gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.
Note: Bài thơ thần sầu.
Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác thân nào còn,
linh hồn thì cũng có khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu
nơi miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng ngày càng
lớn, dội cả về Đất Cũ:
VC bi giờ coi bộ trân trọng cái bóng của
ông cùng cái áo giáp, mấy cái vảy rồng đen thui, còn hơn
cả đám bạn quí hải ngoại của ông!
Hai cuốn tiểu thuyết của TTT,
Bếp Lửa và Một Chủ
Nhật Khác, thần sầu ở chỗ là, tác giả “làm thơ” chứ không
“viết văn”, và thơ thì cũng không phải là những từ hoa [hình
tượng tu từ, figure rhétorique] mà là ảnh tượng.
Ảnh tượng, image poétique, không cần đến tri
thức, cho nên nó khác hẳn mọi hình thức tu từ khác, như
ẩn dụ, ám dụ…
Volkov: Viết về Stravinsky,
Auden cho rằng chính cái gọi là tiến hoá tách biệt một nghệ sĩ
bậc thầy với thứ cà mèng. Đọc hai bài thơ của một thi sỡi cà mèng,
bạn không thể nào nhận ra, bài nào viết trước, bài nào sau.
Nói như vậy có nghĩa, khi tới một độ chín nào đó, nhà thơ
cà mèng bèn dừng lại, và cứ thế dậm chân tại chỗ. Còn thứ nghệ sĩ
lớn lao đếch bao giờ hài lòng với đỉnh trời này, bèn leo lên đỉnh
trời cao hơn...
Brodsky: Trời hỡi, bạn nói đúng quá đi mất.
Người Nhật nói tới sự mạnh khoẻ trong tiến trình sáng tạo.
Khi một nghệ sĩ đạt đến sự trưởng thành, anh ta bèn đổi văn phong,
thay cả tên của mình. Hokusai chẳng hạn, có chừng ba chục thời kỳ
khác nhau.
Bạn nhìn ra một vô cùng cách biệt giữa Thơ Ở Đâu Xa và những tập thơ
trước đó của TTT.
Điều này dễ hiểu, một trước, một sau, Trại Tù.
Nhưng lạ nhất, là sự vô cùng cách biệt,
giữa Một Chủ Nhật
Khác và những tác phẩm trước đó.
Có lần, một anh bạn cho biết, anh không thích Một Chủ Nhật Khác bằng Bếp Lửa.
Và anh giải thích: không có đám mình
trong đó.
Cái anh chàng Kiệt bỏ chạy, rồi vội vàng
bò về, vừa kịp để... chết, làm sao lại là một trong đám
mình được?
*
Ở đầu truyện có cảnh Kiệt, đang
học trong quân trường Thủ Đức, chắc vậy, được ngày phép cuối tuần, thay
vì như mọi người, về hú hí với vợ con, chàng bèn nhẩy xe lô, ra bến xe
đi một lèo xuống Mỹ Tho, có thể Cai Lậy, kiếm khách sạn ngủ, đêm thèm
chết quá, bèn cứa mạch máu tay, sao không chết, bèn lủi thủi về nhà, bị
vợ tra vấn quá, phịa chuyện gặp người tình cũ, cả hai đồng ý cùng chết,
nhằm trốn tránh ba cuộc: Cuộc đời, cuộc tình, cuộc chiến.
Tới cuối chuyện, cảnh này mới thực sự xẩy ra,
như trên cho thấy.
Độc giả tự hỏi: Khi tác giả viết đoạn đầu, liệu
ông đã nhìn ra đoạn sau?
Lạ, cảnh trên Hai Lúa
cũng đã từng trải qua. Ấy là cái chuyện một ngày cuối tuần
về Mỹ Tho, Cai Lậy, để kiếm một cô gái, chỉ mới nghe được tên.
Những ngày đó, Sài
Gòn chưa hế biết đến chiến tranh.
Tôi biết anh còn
muốn kể lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con
lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi
khu bắn đi nghe chát chúa bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận ra
chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh tưởng tượng về cô bạn
đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ của thiên nhiên,
vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự thông
cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt
khác, một cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...
Tự Truyện
Joseph Brodsky lại đưa ra
một lời giải thích khác, khi được hỏi, tại sao thiếu vắng cái gọi là
"cảm xúc nói ra lời hung bạo" (biểu hiện bạo động của cảm xúc, violent
expression of emotion), trong thơ của những nghệ sĩ phổ cập, đại chúng,
như Pushkin, Mozart, thí dụ vậy.
"Không có biểu hiện hung bạo của cảm xúc
ở Mozart, bởi vì ông vượt lên trên cõi đó."
-Nhưng như vậy là thi sĩ muốn nhắm tới một thứ
thơ "trung tính", vượt lên trên mọi cảm xúc?"
Nhà thơ trả lời, đây là vấn đề thời gian.
"Cội nguồn của âm điệu [của thơ], là thời gian. Bạn chắc còn
nhớ, tôi đã từng nói, bất cứ một bài thơ đều là thời gian được
sắp xếp lại?… "Thời gian nói với từng cá nhân chúng ta bằng những
giọng điệu thay đổi. Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó…"
Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó.
Điều này giải thích những dòng thơ "thiền"
trong Thơ Ở Đâu
Xa với những dòng thơ trước đó của Thanh Tâm Tuyền.
Khi biết được người ngồi bên trái tôi là Hoàng Ngọc Hiến.
Tô Thùy Yên nói: “”Xin lỗi Thấm Vân, anh phải đi ra ngoài một lát.” Tôi
tôn trọng quyết định của ông.
Hoàng Ngọc Hiến đã tạm trú nhà tôi vài ngày trong thời
gian ông đến Bắc California.
Thú thực, GCC không làm sao hiểu được câu
văn bình thường của TV, “Tôi tôn trọng quyết định của ông"
Giả như không tôn trọng, thì sự tình nó sẽ ra sao?
Căng thiệt!
Trong những còm, có một, cho biết, hai người lại gặp nhau.
Cũng thật khó hiểu.
HNH du Mẽo, là để lấy tiền của Mẽo, viết về đề tài vẽ khuôn
mặt lưu vong Mít. Tình cờ hai đấng gặp nhau, 1 đấng tránh mặt.
Nếu gặp lại, thì ở đâu?
Không lẽ TTY về trong nước, xin gặp, như GCC, khi về Hà Nội,
được Đỗ Minh Tuấn đèo xe gắn máy, tới gặp, và được ông ký tặng bản thảo
bài viết “Miễn xong 1 sô".
Có thể ông muốn nhờ Gấu lăng xê bài viết, ở hải ngoại.
Và GCC đã làm điều này.
Đọc bài viết của NY, thì GCC bỗng nhớ đến cuốn
trên, 1 trong những cuốn tuyệt vời, thần tiên của thời mới lớn. Tất cả
những giấc mơ văn chương, những khuôn mặt vĩ đại mà sau này Gấu hân hạnh
được quen [qua tác phẩm, tất nhiên], những lý thuyết văn học ăn ở gần như
suốt đời với Gấu, thì đều có ở trong đó.
Borges và "không tưởng văn chương", Barthes, thì rất
nhiều, nào ký hiệu học, nào cơ cấu luận. Tel Quel. Blanchot.
Borges, trong bài viết về Thơ, trước sinh viên, khi
được hỏi về thơ tự do, có phán 1 câu trứ danh, "Nếu không có
thơ vần, chúng ta đều trở thành thiên tài".
Câu này, có thể thể áp dụng cho NY, khi viết ba
thứ tào lao, bá láp này.
Chứng cớ rõ ràng nhất, ông gọi thứ ký hiệu học mà ông
đang lèm bèm, là, ký hiệu học “giải tích”.
GCC đành phải lên tiếng, vì thú thực, đụng vô những đấng
như ông, ngại lắm.
Giải tích, là từ của toán học. Chúng ra có môn hình
học, rồi có môn hình học giải tích, géométrie analytique, tức là,
chuyển hình thành chữ, thành con số.
Thay vì vẽ 1 đường thẳng, thì chúng ta viết, 1 phương
trình đường thẳng, y=ax+b.
Cái kinh nghiệm viết những bài bá láp như thế này,
Gấu gặp rồi, nhưng mà là với phương trình đường thẳng và cũng đã
kể ra rồi, trên TV.
Hồi học trung học, nhà nghèo quá, không có tiền
mua sách, bèn tự mình mầy mò, khám phá ra phương trình đường thẳng.
Sướng đến tận trời, chạy đi gặp anh bạn cùng học là Ngô
Khánh Lãng, khoe, anh nhìn Gấu với cặp mắt rất ư là thương hại,
rồi biểu Gấu đứng chờ, anh vô nhà, lấy cuốn sách, trong có bài giải
thích phương trình đường thẳng, dí vào mắt Gấu!
Đọc, Gấu ngớ người.
Rõ ràng hơn, ngắn gọn hơn cách của Gấu nhiều, tất
nhiên!
Bạn không thể hiểu, nỗi thất vọng khủng khiếp của Gấu
đâu!
Mình tới trễ quá! Cái đéo gì thì thiên hạ cũng
đã khám phá ra rồi!
Q: Về thơ vần, ông có nghĩ là, tất cả tùy thuộc
vào loại thơ mà ông đã trưởng thành?
Borges: Câu hỏi thật kỳ cục. Có vẻ như ông có
quá ít tò mò, về quá khứ. Nếu ông viết bằng tiếng Anh, thì đó
là một truyền thống. Ngôn ngữ, tự thân, là một truyền thống. Tại
sao không theo truyền thống thật dài, thật xuất sắc của những nhà
thơ sonnet, thí dụ vậy? Tôi nhận thấy thật lạ lùng, khi bỏ qua thể
thơ (form). Nói cho cùng, ít nhà thơ làm thơ tự do hay, nhưng rất
nhiều nhà thơ bậc thầy, ở những thể thơ khác. Ngay cả Cummings cũng có
nhiều bài sonnet thật tuyệt. Tôi có thuộc một số bài.
Tôi không nghĩ ông có thể gạt bỏ tất cả quá khứ. Nếu làm vậy, ông
sẽ gặp rủi ro khi khám phá ra những điều đã được khám phá rồi. Điều
này là do sự thiếu tò mò. Chẳng lẽ ông hết tò mò về quá khứ? Không tò
mò về những bạn thơ thế kỷ này? Thế kỷ trước? Thế kỷ 18? John Donne chẳng
là gì đối với ông? Hay là Milton?
Thật sự tôi không thể, ngay cả để "bắt đầu", trả lời câu hỏi
của ông.
Q: Liệu chúng ta có thể đọc những nhà thơ quá
khứ, rồi diễn giải những gì học được, bằng thơ tự do?
Borges: Điều tôi không hiểu được, đó là, tại
sao ông lại muốn bắt đầu, bằng một điều thật khó, thí dụ như thơ
tự do?
Q: Nhưng tôi thấy không khó.
Borges: Well, tôi không biết thơ bạn làm, thật
khó mà nói. Vấn đề có thể là, làm thì dễ, nhưng đọc thì khó.
Trong hầu hết trường hợp, có sự lười biếng. Lẽ dĩ nhiên, có những
ngoại lệ. Thí dụ Whitman, Sandburg, Edgar Lee Masters. Một trong những
lập luận của thơ tự do, đó là người đọc biết, đừng trông mong lấy ra
được từ đó một thông tin nào; hoặc phải tin vào một điều gì đó
- khác với một trang thơ xuôi, vốn thuộc về văn chương của tri thức,
chứ không phải văn chương của quyền lực.
Q: Ông có nghĩ, có thể tạo ra những thể thơ mới?
Borges: Lý thuyết có thể đúng. Nhưng điều tôi
muốn nói, và chưa nói ra được, đó là bắt buộc phải có một cấu trúc;
và nếu bắt đầu bằng một cấu trúc hiển nhiên, như vậy vẫn dễ dàng hơn.
Phải có cấu trúc thôi. Mallarmé có nói: "Chẳng có cái gọi là thơ xuôi
(prose); đúng vào lúc bạn lo tới nhịp điệu, nó trở thành thơ (verse)."
Stevenson cũng nói đại khái như vậy: "Sự khác biệt giữa thơ và thơ
xuôi là do khi bạn đang đọc" - ông muốn nói những thể thơ cổ điển -
"bạn mong một điều, thế là bạn có".
Nói ngắn gọn, sự khác biệt giữa một sonnet của Keats,
với một trang thơ tự do của Whitman, thí dụ vậy, đó là bài sonnet,
cấu trúc của nó hiển nhiên - thành ra dễ làm - trong khi nếu bạn
thử làm một bài thơ như "Children of Adams" or "Song of Myself",
bạn phải tự mình bịa đặt ra một cấu trúc của riêng bạn. Không có
cấu trúc, bài thơ sẽ chẳng có hình dạng, và tôi nghĩ, nó chẳng thể
chịu nổi một chuyện như thế đâu.
Đọc bài viết của NY, Gấu gặp cái Gấu đã gặp rồi,
ấy là nói về ký hiệu học, khi đọc Genette.
GCC có nhớ từng viết gì về cơ
cấu luận và đăng tờ nào không? Thời ấy GCC đọc Trần Thiện Đạo về CCL không?
TTD, tôi chỉ đọc ông
ta khi dịch Sa Đọa. Ông này mà văn chương cái con khỉ
gì.
Lạ, là làm sao mà ông ta lại chọn đúng cuốn
Sa Đọa để dịch?
Không lẽ ông ta đã ngửi ra cái thân phận 1 tên
bỏ chạy cuộc chiến, trốn qua Tây, và tự rủa xả mình, như nhân vật của
Camus?
Vô lý quá! (1)
Hồi đó đó, TTD, đám học
trường Tây, như Mít Butor mà GCC bé cái lầm, cứ đinh ninh “bạn quí”,
hay những đấng giáo sư Triết…đều được Xìn
Phóng, tức TPG, “biệt nhãn”, so với GCC.
GCC vẫn còn nhớ cái nhìn khinh khỉnh của TPG khi
thấy Gấu cầm cuốn Lịch sử và Ý
thức giai cấp của Lukacs, cậu mua thứ này tính nhát ma ư?
Cũng cái nhìn đó, là của Mít Butor, mỗi lần ghé
Quán Chùa, nhưng Gấu lại không nhận ra, vì nghĩ, "bạn quí" vốn thế!
Ui chao phải đến khi về già,
nhìn lại, thì GCC mới thật sự cám ơn ông Giời, cho mình được
đi học, mà học trường Mít.
Nếu không, thì cũng như lũ mất gốc đó rồi.
Bởi vì, bạn chỉ có thể học ngoại ngữ để rành tiếng
mẹ đẻ của bạn.
Một khi bạn học ngoại ngữ, để mong đặc quyền, cơ hội...
là vứt đi.
Tất cả cái đám tinh anh hồi đó, học tiếng Tây,
chỉ để mong có dịp bỏ chạy.
Đó là sự thực.
GCC học tiếng Tây chỉ để mong sẽ
có ngày viết được 1 cái thư bằng tiếng Tây, cám ơn 1 ông Tây
thuộc địa, chồng bà cô của Gấu, Cô Dung, một me Tây, nhờ ông chồng
của bà cô - GCC còn nhớ cái nick của ông, Ông Tây - Gấu có cơ
hội đi học.
Thế rồi khi biết tiếng Tây rồi, thì mới đọc hiện
sinh, đọc Camus, đọc Sartre, đọc Lukacs, đọc Lefebvre, đọc Nguyễn
Đình Thi… là để tìm ra lời giải cho cuộc chiến.
Nhờ đọc Koestler mà thoát được nọc độc CS.
Nhưng chỉ đến khi đọc Barthes, đọc cơ cấu luận, thì
mới thoát ra được cái thứ văn chương dấn thân, xuống thuyền, viết
cho ai…
Nhờ Barthes mà Gấu hiểu ra được, "viết như thế nào"
mới là vấn đề.
(1)
NB 2. Có một câu nói ác, bảo
Camus là triết gia của học sinh cấp ba, và Cioran bảo văn chương
Camus là thứ văn chương tỉnh lẻ :p (đồng thời Sartre chẳng có gì đáng
quan tâm cả). Cioran cũng là một cục đen hiểm ác, cực hiểm ác.
Blog NL
Sự kiện Cioran không
khoái Camus, thì cũng đúng thôi, vì 1 bên là mặt trời, 1 bên là
đêm đen; cả chuyện coi ông là triết gia của lớp chót bậc TH cũng
đúng, vì cái thái độ đạo đức của ông, chỉ đám học sinh may ra còn
chịu nổi, hay tin được.
Điều làm GNV điên
cái đầu, là, cái ông Tẩy mũi tẹt, tại làm sao lại chọn cuốn La
Chute để dịch ?
Chỉ đến khi thấy ông
ta "về", và phán nhảm, thì Gấu mới vỡ ra là Người chẳng có thú
tội gì hết :
Sự thú tội của Clamence
vẽ lên chân dung 1 con người bị cắn rứt bởi tuyệt vọng, tội
lỗi và ân hận vì đã vờ 1 em tự trầm.
Nhưng Clamence còn đưa 1 tấm gương cho những người muốn
dòm vào đó, theo cái kiểu mà Nguyễn Huệ của NHT đã từng làm :
Hãy nhét cứt vào miệng chúng, để chúng nhận ra
thân phận của chúng.
Trong NHT có cả ba, Clamence
& Tướng Về Hưu & Nguyễn Huệ, là vậy !
Hà, hà !
1956: Cuộc chiến Mít chưa hứa hẹn
những điều khủng khiếp, và ông Tẩy thì chắc cũng mới chuồn qua Paris,
hẳn thế?
Với riêng Gấu, phải đến khi ra được hải ngoại, thì
mới nhìn ra sự thân quen giữa Clamence và Tướng Về Hưu!
Sa Đọa gióng lên hồi chuông
báo tử cho những kẻ tưởng là giải phóng, hóa ra là ăn cướp, tưởng
xây dựng thiên đàng, hóa ra địa ngục, là 1 nước Mít hậu chiến.
GNV
Mô phỏng:
La Chute sonne comme un adieu
de l'auteur à ses propres illusions: Sa Đọa gióng lên lời vĩnh biệt
của tác giả với những ảo mộng của chính ông.
Hình, từ Guardian Weekly
Có thể, Trần Thiện Đạo, vào lúc này, ngồi bàn kế bên, dịch Sa Đọa,
ở tiệm cà phê trứ danh ở Paris, Café de Flore, nơi cặp tình nhân thường
ngồi, để viết văn.
Berlin có 1 thời là
người yêu của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova, thi sĩ, nhà
tiên tri", có nhắc tới mối tình của họ.
Berlin là nguyên mẫu của “Người
khách từ tương lai”, "Guest from the future", trong “Bài
thơ không nhân vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp gỡ của cả hai, được báo
cáo cho Xì, và Xì phán, như vậy là nữ tu của chúng
ta đã gặp gián điệp ngoại quốc, “This mean our nun is now
receiving visits from foreign spies”.
Cuộc gặp gỡ của họ đậm mùi chiến
tranh lạnh. Và thật là tuyệt vời.
Vào ngày Jan 5,
1946, trước khi về lại Anh [Berlin khi đó là Thư ký thứ
nhất của Tòa ĐS Anh ở Moscow], Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả là chùm thơ “Cinque”,
làm giữa Nov 26, 1945 và Jan 11, 1946. Những bài thơ
tình đẹp nhất và bi đát nhất của ngôn ngữ Nga.
Bài dưới đây, viết ngày 20
Tháng Chạp, Akhmatova ví cuộc lèm bèm giữa đôi ta
như là những cầu vồng đan vô nhau:
Sounds die away in the ether,
And darkness overtakes the dusk.
In a world become mute for all
time,
There are only two voices: yours
and mine.
And to the almost bell-like sound
Of the wind from invisible Lake
Ladoga,
That late-night dialogue turned
into
The delicate shimmer of interlaced
rainbows.
(II, p. 237)
Tiếng buồn nhạt nhòa vào
hư vô
Và bóng tối lướt lên cõi chạng vạng
Trong một thế giới trở thành câm nín đời đời
Vưỡn còn, chỉ hai giọng, của anh và của em
Và cái âm thanh giống như tiếng chuông
Của gió, từ con hồ Ladoga vô hình
Cuộc lèm bèm muộn trong đêm – hay, trong đêm muộn –
Biến thành hai cái cầu vồng
Lù tà mù, mờ mờ ảo ảo, lung la lung linh
Quấn quít – hay, cuống quít - cuộn vào nhau.
The last poem of the cycle, written
on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:
We hadn't breathed the poppies'
somnolence,
And we ourselves don't know our
sin.
What was in our stars
That destined us for sorrow?
And what kind of hellish brew
Did the January darkness bring
us?
And what kind of invisible glow
Drove us out of our minds before
dawn?
(II, p. 239)
In 1956, something unexpected
happened: the man who was to become "Guest from the Future"
in her great work Poem Without a Hero-Isaiah suddenly returned
to Russia. This was the famous "meeting that never took place”.
In her poem, "A Dream" (August 14, 1956), Akhmatova writes:
This dream was prophetic or not
prophetic . . .
Mars shone among the heavenly stars,
Becoming crimson, sparkling, sinister-
And that same night I dreamed of
your arrival.
It was in everything ... in the
Bach Chaconne,
And in the roses, which bloomed
in vain,
And in the ringing of the village
bells
Over the blackness of ploughed
fields.
And in the autumn, which came close
And suddenly, reconsidering, concealed
itself.
Oh my August, how could you give
me such news
As a terrible anniversary?
(II, p. 247)
Another poem, "In a Broken Mirror"
(1956), has the poet compare Petersburg to Troy at the
moment when Berlin came before, because the gift of companionship
that he brought her turned out to poison her subsequent fate:
The gift you gave me
Was not brought from altar.
It seemed to you idle diversion
On that fiery night
And it became slow poison
In may enigmatic fate.
And it was the forerunner of all
my misfortunes-
Let’s not remember it! ...
Still sobbing around the corner
is
The meeting that never took place.
(II, p. 251)
David Williams/Corbis
The grave of Karl Marx, Highgate Cemetery, London,
March 2014
Mộ Mác:
W[V]C thế giới, hãy đoàn kết lại!
Note: Berlin là 1 trong vị thầy của Vargas Llosa.
Sau khi được Nobel, ông viết 1 cuốn sách nhỏ, Giếng Khôn, vinh danh những người &
tác phẩm ảnh hưởng lên ông, trong có Berlin.
I speak with particular feeling,
for I am a very old man, and I have lived through almost
the entire century. My life has been peaceful and secure,
and I feel almost ashamed of this in view of what has happened
to so many other human beings. I am not a historian, and so I cannot
speak with authority on the causes of these horrors. Yet perhaps
I can try.
Isaiah Berlin
Viết đàng
hoàng đi... Độc giả TV
Tớ già rồi, sống
trọn thế kỷ rồi, sóng gió cũng nhiều, nhưng vưỡn cảm thấy
hổ thẹn, so với sóng gió của những người khác, nhưng tớ sẽ cố,
viết về… tớ, như là viết về... họ!
Vừa nhận được tin Ls Nguyễn Văn Đài, Vũ Văn Minh và Lý
Quang Sơn bị côn đồ đi trên hai xe ô tô và một số xe máy đuổi đánh
tại tp Vinh. Các anh em Nghệ xin liên số điện thoại của Minh: 01266079666
để hỗ trỡ. Luật sư Đài đã bị đánh gãy tay nhưng hiện vẫn đang bị
truy đuổi, đánh!
Berlin có 1 thời là
người yêu của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova, thi sĩ, nhà
tiên tri", có nhắc tới mối tình của họ.
Berlin là nguyên mẫu của “Người
khách từ tương lai”, "Guest from the future", trong “Bài
thơ không nhân vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp gỡ của cả hai, được báo
cáo cho Xì, và Xì phán, như vậy là nữ tu của chúng
ta đã gặp gián điệp ngoại quốc, “This mean our nun is now
receiving visits from foreign spies”.
Cuộc gặp gỡ của họ đậm mùi chiến
tranh lạnh. Và thật là tuyệt vời.
Vào ngày Jan 5,
1946, trước khi về lại Anh [Berlin khi đó là Thư ký thứ
nhất của Tòa ĐS Anh ở Moscow], Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả là chùm thơ “Cinque”,
làm giữa Nov 26, 1945 và Jan 11, 1946. Những bài thơ
tình đẹp nhất và bi đát nhất của ngôn ngữ Nga.
Bài dưới đây, viết ngày 20
Tháng Chạp, Akhmatova ví cuộc lèm bèm giữa đôi ta
như là những cầu vồng đan vô nhau:
Sounds die away in the ether,
And darkness overtakes the dusk.
In a world become mute for all
time,
There are only two voices: yours
and mine.
And to the almost bell-like sound
Of the wind from invisible Lake
Ladoga,
That late-night dialogue turned
into
The delicate shimmer of interlaced
rainbows.
(II, p. 237)
Tiếng buồn nhạt nhòa vào
hư vô
Và bóng tối lướt lên cõi chạng vạng
Trong một thế giới trở thành câm nín đời đời
Vưỡn còn, chỉ hai giọng, của anh và của em
Và cái âm thanh giống như tiếng chuông
Của gió, từ con hồ Ladoga vô hình
Cuộc lèm bèm muộn trong đêm – hay, trong đêm muộn –
Biến thành hai cái cầu vồng
Lù tà mù, mờ mờ ảo ảo, lung la lung linh
Quấn quít – hay, cuống quít - cuộn vào nhau.
The last poem of the cycle, written
on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:
We hadn't breathed the poppies'
somnolence,
And we ourselves don't know our
sin.
What was in our stars
That destined us for sorrow?
And what kind of hellish brew
Did the January darkness bring
us?
And what kind of invisible glow
Drove us out of our minds before
dawn?
(II, p. 239)
In 1956, something unexpected
happened: the man who was to become "Guest from the Future"
in her great work Poem Without a Hero-Isaiah suddenly returned
to Russia. This was the famous "meeting that never took place”.
In her poem, "A Dream" (August 14, 1956), Akhmatova writes:
This dream was prophetic or not
prophetic . . .
Mars shone among the heavenly stars,
Becoming crimson, sparkling, sinister-
And that same night I dreamed of
your arrival.
It was in everything ... in the
Bach Chaconne,
And in the roses, which bloomed
in vain,
And in the ringing of the village
bells
Over the blackness of ploughed
fields.
And in the autumn, which came close
And suddenly, reconsidering, concealed
itself.
Oh my August, how could you give
me such news
As a terrible anniversary?
(II, p. 247)
Another poem, "In a Broken Mirror"
(1956), has the poet compare Petersburg to Troy at the
moment when Berlin came before, because the gift of companionship
that he brought her turned out to poison her subsequent fate:
The gift you gave me
Was not brought from altar.
It seemed to you idle diversion
On that fiery night
And it became slow poison
In may enigmatic fate.
And it was the forerunner of all
my misfortunes-
Let’s not remember it! ...
Still sobbing around the corner
is
The meeting that never took place.
(II, p. 251)
David Williams/Corbis
The grave of Karl Marx, Highgate Cemetery, London,
March 2014
Mộ Mác:
W[V]C thế giới, hãy đoàn kết lại!
Note: Berlin là 1 trong vị thầy của Vargas Llosa.
Sau khi được Nobel, ông viết 1 cuốn sách nhỏ, Giếng Khôn, vinh danh những người &
tác phẩm ảnh hưởng lên ông, trong có Berlin.
I speak with particular feeling,
for I am a very old man, and I have lived through almost
the entire century. My life has been peaceful and secure,
and I feel almost ashamed of this in view of what has happened
to so many other human beings. I am not a historian, and so I cannot
speak with authority on the causes of these horrors. Yet perhaps
I can try.
Isaiah Berlin
Viết đàng
hoàng đi... Độc giả TV
Tớ già rồi, sống
trọn thế kỷ rồi, sóng gió cũng nhiều, nhưng vưỡn cảm thấy
hổ thẹn, so với sóng gió của những người khác, nhưng tớ sẽ cố,
viết về… tớ, như là viết về... họ!
Vừa nhận được tin Ls Nguyễn Văn Đài, Vũ Văn Minh và Lý
Quang Sơn bị côn đồ đi trên hai xe ô tô và một số xe máy đuổi đánh
tại tp Vinh. Các anh em Nghệ xin liên số điện thoại của Minh: 01266079666
để hỗ trỡ. Luật sư Đài đã bị đánh gãy tay nhưng hiện vẫn đang bị
truy đuổi, đánh!
Vẫn 1 đòn, chỉ 1 đòn, từ hồi “lập nước” 1945, “một mùa thu
năm qua, cách mạng tiến ra”… Mỗi lần đọc 1 cái tin như vầy, là Gấu
lại thầm cám ơn ông bố Gấu 1 phát. Ông như biết trước, những sự kiện
như vầy, khi tránh cho lũ con không bị mang cái nhục, là con của 1 tên
Vẹm! Ông chết vì nạn đảng phái, đúng thời kỳ này, nhưng vì quá tin
1 tên học trò.
The valley resounds
With the sound of the stars
With the vast stillness
Over snow and forest.
The cows are in their byre.
God is in his heaven.
Child Jesus in Flanders.
Believe and be saved.
The Three Wise Men
Are walking the earth.
W.G. Sebald: Across
the Land and the Water
Thơ Mùa Đông
Thung lũng dội,
Bằng âm thanh của những vì sao
Bằng sự tĩnh lặng bao lao
Lên tuyết và rừng.
Bò thì về chuồng rồi
Chúa thì ở thiên đàng
Chúa Hài Đồng ở Flanders
Tin và Được Cứu Rỗi.
Ba Vì Hiền Giả
Đang lang thang trên mặt đất.
Il ritorno d'Ulisse
Returning from a lengthy trip
he was astonished to find
he had strayed to a country
not his place of origin
For all his encounters in scattered
spots
with the black paper hearts of men
shot by the arquebuse
his bow-and-arrow story
did not happen
Then there was Penelope's
Castilian grandmother
blocking his entry at the garden gate
wordless and busy with embroidery
Sure, the grandchildren
are smiling in the background
apparently better disposed
towards foreigners
Their furtive hopes
still almost too small
for the naked eye
(But the idea is good
and the noise far away
even the building)
Note: Bài thơ này làm
nhớ một, hai bài thơ trong Thơ Ở Đâu Xa, tả cảnh
anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít, về quê Bắc Kít ngày nào,
và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ của TTY, Ta Về.
Ta Về
Trở về sau 1 chuyến dài
dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc khi thấy mình lạc vô 1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra
Trong tất cả những cú
gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái tim giấy đen của những người bị bắn
bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại, kéo cây cung thần sầu, bắn mũi
tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra.
Và rồi thì có bà ngoại
Tây Bán Nhà của Penelope
Bà chặn đường dẫn vô vườn
Đếch nói 1 tiếng, và tỏ ra bận rộn với cái trò
thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận vượt Trường Sơn kíu nước,
Này khăn tay này, này thơ này,
Đường ra trận mùa này đẹp nắm!
Hà, hà!
Tất nhiên rồi, chắc chắn
có lũ con nít
– không phải nhếch nhác kéo nhau coi tù Ngụy
qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có vẻ rất tự nhiên, mỉm
cười với khách lạ
Những hy vọng ẩn giấu của chúng
vẫn hầu như quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi
(Nhưng ý nghĩ thì tốt
Và tiếng động thì xa
mặc dù tòa nhà)
Allow me to offer an example
that will take us into the heart of the difficulty of translating
Sebald's poetry. Many of the poems in this volume-which opens with
a train journey-reenact travel "across" various kinds of land and
water (even if the latter is only the fluid of dreams). Indeed, several,
as the writer's archive reveals, were actually written "on the road,"
penned on hotel stationery, menus, the backs of theatre programs, in
cities that Sebald visited. Train journeys constitute the most frequently
recorded mode of travel. The following poem may refer to one such journey.
"Irgendwo," translated in English as "Somewhere," was probably written
in the late 1990s and originally belonged to the sequence of "micropoems"
that provided the material for Sebald's posthumous collection Unerzdhlt
(Unrecounted), published in 2003:
Somewhere
behind Turkenfeld
a spruce nursery
a pond in the
moor on which
the March ice
is slowly melting
Cho phép tôi đưa ra 1
thí dụ dẫn chúng ta tói trái tim của sự khốn khó trong việc dịch thơ
Sebald. Rất nhiều thơ trong tập này- mở ra bằng
1 chuyến đi xe lửa – tái tạo, tái kích hoạt,cuộc
lữ “qua” những vùng đất đai, sông nước (ngay cả nếu thứ sông nước
này chỉ là dòng mộng mị). Thực sự, một vài bài thơ, như thư khố của
nhà thơ bật mí, đúng là đã được viết “trên đường", được gắn, ghim vào
những tờ tiêu đề của khách sạn, thực đơn, đằng sau những tờ chương
trình kịch nghệ, trong những thành phố mà Sebald từng thăm viếng. Những
chuyến đi bằng xe lửa thường được nhắc tới, trong số những phương thức
du lịch. Bài thơ sau đây, có thể là từ 1 trong những chuyến đi như thế.
"Irgendwo," dịch qua tiếng Mít là “Đâu đó” có thể đã được in ấn vào cuối
thập niên 1990, nguyên thuộc một chuỗi những “vi thơ”, chúng là chất liệu
cho tác phẩm được xb sau khi tác giả mất, Unerzdhlt
(Unrecounted), 2003:
Đâu
đó
Đằng sau Turkenfeld
Một vườn ương
cây thông (1)
Một ao
Vùng truông,
Băng Tháng Ba trên mặt ao
Đang chầm chậm tan
(1) Tuy dịch là "vườn" chứ thực ra, những vườn
ương thông này rộng bạt ngàn, như rừng .
K
Tks. NQT
The unadmitted reason why traditional
readers are hostile to e-books is that we still hold the superstitious
idea that a book is like a soul, and that every soul should have
its own body.
ADAM KIRSCH
Cái lý đo đếch làm sao chấp nhận được e búc,
e thơ, là, chúng ta vẫn khư khư giữ tục mê tín, 1 cuốn sách thì
giống như 1 linh hồn , và mỗi linh hồn nên có riêng 1 cơ thể của
nó.
in
Thắp Tạ
Note: Trong cuốn này,
có 1 bài "y chang" bài thơ của TTY tặng TTT!
Cả bài thơ của TTY, là nói về cú đi ẩn của Lão
Tử. Khi qua Ải Tây, người gác cổng năn nỉ, trước khi đi ẩn, cố để lại
cho đời bộ Đạo Đức Kinh.
Bài của Sebald thì mắc mớ đến 1 địa danh của Lò
Thiêu
Ải Tây kể chuyện Lão Tử, đi ẩn, người
gác cửa đời năn nỉ, làm ơn để lại cho đời 1 cái gì đó, rồi hãy đi.
Nhờ vậy đời có bộ Đạo Đức Kinh
Cũng thế, là Thơ Ở Đâu Xa.
Berlin có 1 thời là người
yêu của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova, thi sĩ, nhà tiên tri", có nhắc
tới mối tình của họ.
Berlin là nguyên mẫu của “Người khách từ tương lai”, "Guest
from the future", trong “Bài thơ không nhân vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp gỡ của cả hai, được báo cáo cho Xì, và Xì phán,
như vậy là nữ tu của chúng ta đã gặp gián điệp ngoại quốc, “This mean
our nun is now receiving visits from foreign spies”.
Cuộc gặp gỡ của họ đậm mùi chiến tranh lạnh. Và thật là tuyệt
vời.
Vào ngày Jan 5, 1946, trước
khi về lại Anh [Berlin khi đó là Thư ký thứ nhất của Tòa ĐS Anh ở Moscow],
Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả là chùm thơ “Cinque”, làm giữa Nov 26, 1945 và Jan
11, 1946. Những bài thơ tình đẹp nhất và bi đát nhất của ngôn ngữ Nga.
Bài dưới đây, viết ngày 20 Tháng Chạp, Akhmatova ví cuộc
lèm bèm giữa đôi ta như là những cầu vồng đan vô nhau:
Sounds die away in the ether,
And darkness overtakes the dusk.
In a world become mute for all time,
There are only two voices: yours and mine.
And to the almost bell-like sound
Of the wind from invisible Lake Ladoga,
That late-night dialogue turned into
The delicate shimmer of interlaced rainbows.
(II, p. 237)
The last poem of the cycle, written
on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:
We hadn't breathed the poppies'
somnolence,
And we ourselves don't know our sin.
What was in our stars
That destined us for sorrow?
And what kind of hellish brew
Did the January darkness bring us?
And what kind of invisible glow
Drove us out of our minds before dawn?
(II, p. 239)
In 1956, something unexpected
happened: the man who was to become "Guest from the Future" in her great
work Poem Without a Hero-Isaiah suddenly returned to Russia. This was
the famous "meeting that never took place”. In her poem, "A Dream" (August
14, 1956), Akhmatova writes:
This dream was prophetic or not
prophetic . . .
Mars shone among the heavenly stars,
Becoming crimson, sparkling, sinister-
And that same night I dreamed of your arrival.
It was in everything ... in the Bach Chaconne,
And in the roses, which bloomed in vain,
And in the ringing of the village bells
Over the blackness of ploughed fields.
And in the autumn, which came close
And sddenly, reconsidering, concealed itself.
Oh my August, how could you give me such news
As a terrible anniversary?
(II, p. 247)
Another poem, "In a Broken Mirror"
(1956), has the poet compare Petersburg to Troy at the moment when Berlin
came before, because the gift of companionship that he brought her
turned out to poison her subsequent fate:
The gift you gave me
Was not brought from altar.
It seemed to you idle diversion
On that fiery night
And it became slow poison
In may enigmatic fate.
And it was the forerunner of all my misfortunes-
Let’s not remember it! ...
Still sobbing around the corner is
The meeting that never took place.
(II, p. 251)
Mộ Mác: W[V]C
thế giới, hãy đoàn kết lại!
Note: Berlin là 1 trong vị thầy của Vargas Llosa.
Sau khi được Nobel, ông viết 1 cuốn sách nhỏ, Giếng Khôn, vinh danh những người &
tác phẩm ảnh hưởng lên ông, trong có Berlin.
I speak with particular feeling,
for I am a very old man, and I have lived through almost the entire
century. My life has been peaceful and secure, and I feel almost ashamed
of this in view of what has happened to so many other human beings. I
am not a historian, and so I cannot speak with authority on the causes
of these horrors. Yet perhaps I can try.
Viết đàng
hoàng đi... Độc giả TV
Tớ già rồi, sống trọn thế
kỷ rồi, sóng gió cũng nhiều, nhưng vưỡn cảm thấy hổ thẹn, so với sóng
gió của những người khác, nhưng tớ sẽ cố, viết về… tớ,
như là viết về... họ!
Note: Bài này tuyệt lắm. Người
viết là Trùm tờ Harper's, chuyên gia về tiếng Ý,
đã từng được giải thưởng dịch thuật. Cái tít mới chướng,
mới gây sự làm sao, free, có giấy ra trại [Lò Thiêu,
Lò Cải Tạo], nhưng chưa được cứu rỗi.
Cho đọc free.
GCC mua tờ báo rồi
mới biết!
Carolyn Lieberg, reply by Tim Parks
December 17, 2015 Issue
In response to:
The Mystery of Primo Levi from the
November 5, 2015 issue
Primo Levi, Turin, 1985; photograph by René
Burri
Magnum Photos
To the Editors:
Tim Parks’s engaging review of The Complete Works of Primo
Levi [NYR, November 5] is satisfying on a number of levels, but I was
disheartened to see the piece bookended by the “suicide.” Parks’s phrase
that Levi “threw himself down the stairwell to his death” is not, in
any case, an accurate way to describe a tumble over a railing. But the
larger issue is that thoughtful and important people close to Levi,
who first thought it was a suicide, have reconsidered the event. These
people include his cardiologist and friend David Mendel, his lifelong
friend Nobel laureate Rita Levi Montalcini, and Fernando Camon. Levi was
in a whirl of activities—he’d scheduled an interview for the following
Monday, he was considering the presidency of the publishing house Einaudi,
he’d just submitted a novel, and that very morning he mailed a plan-filled
letter. Add to that the tight dimensions of the stairwell, a railing lower
than his waist, recovery from surgery (lowered blood pressure), the number
of people who survived Auschwitz and did not kill themselves, and a number
of other factors, and the suicide doesn’t make sense.
It has been a useful symbol for critics and other writers
to hold on to as they imagine the why and how, but it is grossly unfair
to the man and to his work. If this crutch is removed, his material can
be examined in fresh light—an examination that he deserves.
I hope the editors of The New York Review will help discourage
the story, which, in the cycling of Internet sites, already holds
a terrifically strong grip. I would strongly urge you to see this 1999
essay, “Primo Levi’s Last Moments” by Diego Gambetta.
Carolyn Lieberg
Washington, D.C.
Tim Parks replies:
“1987—April 11: Levi dies, a suicide, in his apartment building
in Turin.”
I quote not from a rogue website but from the author chronology
provided in The Complete Works of Primo Levi, the book under review.
These words, in turn, are a translation of the chronology prepared
by Il Centro Internazionale di Studi Primo Levi in Turin, the most
authoritative source of information on Levi; they were actually written
by Ernesto Ferrero, for many years Levi’s editor at Einaudi, a close
friend who knew the author well and spoke to him regularly right through
to the end.
The three biographers—Ian Thomson, Carole Angiers, and Myriam
Annissimov—who worked intensely on Levi’s life, interviewing most
of those who knew him, all speak of his suicide as fact. The police
on the scene concluded that the death could only have been suicide, this
for the simple reason that one does not take a “tumble over a railing”
in a Turin apartment block. The Turin law court that heard the evidence
surrounding the death agreed and gave its verdict accordingly. In any
event it is unthinkable that Levi, a cautious man, would have brought
up children and maintained his infirm mother in a building where one could
simply tumble over bannisters.
Diego Gambetta’s Boston Review article, to which Carolyn
Lieberg refers me, is an extended exercise in wishful thinking, sometimes
disingenuous (as when it claims, for example, that the biographies do
not back up their claim that the death was suicide, or omits to mention
the family’s immediate acceptance of the suicide verdict, or suggests
that the height of the railing was abnormally low), sometimes plain wrong,
as when it claims that Levi never wrote in favor of suicide. In the story
“Heading West” (published in 1971, but interestingly republished shortly
before the suicide in 1987), he sympathetically describes a remote tribe
who refuse a drug that will put an end to an epidemic of suicides. The chief
of the tribe writes, and they are the final words of the story, that the
tribe’s members “prefer freedom to drugs, and death to illusion.” Freedom
is always a positive word for Levi.
As early as 1959 Levi had written to his German translator,
Heinz Reidt, that “suicide is an act of will, a free decision.” In
1981 when Levi’s German teacher, Hanns Engert, hanged himself, Levi
was asked to sign a petition claiming it was murder. But the evidence
was so overwhelming that he refused: “Hanns killed himself,” he said.
“Suicide is a right we all have.”
This brings us to the moral issue at stake here. Levi was
a sworn enemy of denial in all its forms. In If This Is a Man he
is dismayed when at Auschwitz his friend Alberto convinces himself
that his father, just “selected,” will not actually be sent to the
gas chambers. It is a renunciation of reality, of sanity. Later, he
would be equally dismayed that Alberto’s parents continued to deny
the obvious truth that their son had died in the march away from Auschwitz,
preferring to believe that he was somehow safe and well in Russia. In The
Drowned and the Saved Levi attacks all attempts to find solace in pieties
and “convenient truths,” in particular the notion that Auschwitz victims,
himself included, were somehow sanctified by their experience, their courage
and goodness becoming almost a consolation for the awfulness of what had
happened: “It is disingenuous, absurd and historically false,” he writes,
“to argue that a hellish system such as National Socialism sanctifies
its victims.”
Given that Levi’s instinct was always to encourage the reader
to confront the hardest of facts and not take refuge in any comfort
zone, we owe it to him to acknowledge the overwhelming evidence of
the way he died. His suicide does not diminish his work or his dignity.
He was not obliged to his readers to behave in a reassuring way or protect
the illusions they had built around his person. “In my work I have portrayed
myself…as…well-balanced,” he remarked. “However, I’m not well-balanced
at all. I go through long periods of imbalance.”
Whatever his reasons for doing what he did, and clearly
in the last months of his life he oscillated between deep depression
and rare moments of enthusiasm for new projects, Levi was a free man,
exercising “a right we all have.” “He’s done what he’d always said he’d
do” were reportedly his wife’s words on returning home to discover what
had happened.
Một người bạn vừa email hỏi:
"Ông biết câu này trong bài thơ nào không?" và viết tiếp "Bia
lên tìm chỗ ta nằm / Non cao duỗi cẳng, em còn thấy đâu", là sao?...
Anh bạn cho biết: câu thơ đọc được trong 1 bài báo
của 1 tờ báo "chợ" tại địa phương. Báo "chợ" là báo tặng miễn phí,
thường phát hành tại các chợ người Việt tại Mỹ. Đây là những tờ báo
địa phương, sống bằng quảng cáo của các cơ sở thương mại trong vùng.
Trở lại câu hỏi của người bạn. 'Bia' trong câu này
không phải là bia ... uống, bia hơi. "Bia lên" không hề là nâng
bia lên để cùng uống. Và, "bia lên" càng không hề là bia ...ôm.
Bia, ở đây, là tấm bia nơi trường bắn. Là mục tiêu
tác xạ của những người lính mới.
Câu thơ trên là 1 câu trong bài thơ "Sân bắn" của
nhà thơ Nguyên Sa, mà câu kết là 1 câu thơ đẹp:
"Hầm bia buồn đến mộ sâu
ngàn cây nến thắp trên đầu đạn bay..."
Tôi nghĩ, đây có thể là
bài khởi đầu trong mạch lục bát của Nguyên Sa. Và cũng nên nói thẳng
rằng: Nguyên Sa làm rất ít lục bát, ngay cả những năm tháng sống ngoài
nước. Và cũng nói luôn, theo tôi, lục bát không phải là điểm
mạnh của ông, dù rằng trong số những bài lục bát ấy, có nhiều câu thơ
đẹp.
Xin chép lại bài "Sân Bắn"
Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch thấy đời lãng du,
Thấy tay dư, thấy thân thừa,
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không...
Một đời phơ phất hình nhân
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau,
Bia lên thấy mẹ u sầu
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta...
Trời cao ngó xuống thịt da
Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh,
Bia lên tìm chỗ ta nằm
Non cao duỗi cẳng, em còn thấy đâu...
Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay...
Bài này ông làm năm 1966,
thời kỳ ông bị động viên theo học khóa 24 Thủ Đức. Chuyện bị động
viên của ông cũng rất .. hài hước. Ba mươi mấy tuổi, đang dạy học ngon
lành, ông nhận giấy lên đường. Lúc đó, Tổng Trưởng giáo dục là
ông Bùi Tường Huân. Nhưng NS tin rằng: sau ông Huân phải có "đại ca thủ
lãnh". Đại ca mượn ông BTH mà xuống tay với ông. Dĩ nhiên, trước khi
vào Thủ Đức NS cũng đã nhờ những tên tuổi khác, chống lưng một thời gian,
để sắp xếp công việc nhà. Và khi mọi việc đã sắp xếp xong, ông "phơi phới
lên đường".
Và ở quân trường Thủ Đức,
"Sân Bắn" đã ra đời. Nó ra đời từ những mệnh lệnh:
- Hầm bia chuẩn bị
-Xạ thủ chuẩn bị!
-Mở khóa an toàn!
-Bia lên
-Bắn
Và thi sĩ (chứ không phải
xạ thủ) đã bật ra:
"Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay..."
Note: Chuyện động viên thì
ai cũng dính hết, khó mà… “hài hước” được. Sở dĩ NS "ba muơi mấy tuổi
đang dạy học ngon lành", bị gọi động viên, theo như Gấu suy nghĩ, trước
đó, ông đã được ai đó vờ đi. Và BTH đã làm đúng việc của ông, nghĩa
là hỏi thăm sức khoẻ của NS.
Ðây là 1 cái may lớn của
NS, thực sự là vậy. Về già ông phải cám ơn BTH. Nhờ đi lính, ông làm
thơ, bài thơ trên, viết văn, không phải thứ “dễ dãi và sung sướng”,
mà là thứ có mùi người chết [những ngày ông phục vụ ở chung sự vụ).
Mấy thằng bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC làm sao có
được cái may như NS. Bị gọi, ông sợ lắm, phải đưa đi nhà thương tâm
thần, TPG nhân đó, đi một đường vấn an thật xỏ lá, để đáp lễ cái cú
NS đánh ông, khiến 1 phần nào làm ông mất job!
Trên TV có cái Tin Văn Vắn ký tên Thư Trung, tức
TPG nhưng không làm sao kiếm ra.
Trong đời viết văncũng cả nửa thế kỷ đâu có ít, Gấu chưa từng có ý nghĩ
nhìn lại những trang viết cũ, và cũng chẳng hề mong có ai viết về
mình, theo cái kiểu nhà văn của thế kỷ, như Thầy Cuốc phán về VP. Gấu
thực sự mong có người viết về mình, như "tri
âm tri kỷ", kẻ thù càng tốt, như trong Ngư Ông và Biển Cả.
Một nhà phê bình, khi đưa
ra 1 nhận xét "chìa khoá" về 1 tác phẩm, hay 1 tác giả, thì chẳng khác
gì 1 anh học trò phải chứng minh một định lý, hay giải 1 bài toán.
Giải 1 bài toán thì phải dựa vào những giả thiết, ở đầu bài. Bài toán
phán, cho 1 tam giác cân, lập tức anh học trò biết ngay, anh ta có 1
tam giác, tam giác đó có 1 đỉnh, hai đáy, hai cạnh bằng nhau, hai góc
đáy bằng nhau. Và anh ta sẽ phải dựa vào đó để chứng minh. Giả thiết không
thể thừa, không thể thiếu. Thiếu, không giải được. Thừa vô nghĩa, bài toán
ra trật.
Với nhà phê bình, khi phán, là phải dựa vào những
giả thiết như thế. Nhưng với anh ta, giả thiết do anh ta tìm ra, không
ai cho, và có thể, càng nhiều giả thiết, thì càng dễ thuyết phục người
đọc. Câu phán cũng chỉ có tính thuyết phục thôi, chứ không phải là
chân lý.
Chúng ta lấy câu phán của Thầy Cuốc về Võ Phiến,
nhà văn của thế kỷ 20, để bàn thử.
Bất cứ nhà văn nào sống
cùng thời với VP, đều có thể nói ta là nhà văn của thế kỷ 20 được.
Một độc giả sau khi đọc câu phán, nếu như quan tâm,
thì bèn tìm hiểu, thế kỷ 20 có cái gì, và VP có mắc mớ tới cái gì
đó không, thì sẽ nảy sinh 1 số vấn đề, thế kỷ 20 là thế kỷ của bạo
lực, của cái ác ngự trị, của Lò Thiêu, Trại Cải Tạo, Gulag…
VP có mắc mớ tới những thứ
đó không?
“Hình như” không.
Nói ông là nhà văn của
thế kỷ 20 do chống Cộng cũng sai, vì tác phẩm của VP không chống Cộng.
Ðặt ông vào cái thế đó là hạ thấp tác phẩm của ông. Tụi VC đã
làm như thế, thành ra chúng đếch cho ông về, phong cho ông là Tổ Sư
Chống Cộng cả trước 1975, và sau đó, ở hải ngoại. Bữa trước, Gấu đọc
đâu đó 1 bài về ông, hình như của PLT thì phải, ông này về trong nước
và có hỏi ý VC, liệu VP có về được không, VC lắc đầu, và PLT rất lấy
làm buồn cho VP.
Quá nhảm.
Một người như VP mà phải
năn nỉ xin về ư?
Nếu sự thực VP ướm lời, thì VC phải sướng điên lên,
trải thảm đỏ mời ông về thì mới đúng chứ, sao lại lắc đầu.
Bởi thế, chúng đâu có thực sự hoà giải. Coi trường
hợp PD, Kỳ Râu Kẽm là biết. Chúng tìm đủ cách dụ hai ông này về. PD
thì dùng tiền nhử. Nửa triệu đô chứ đâu có ít. Kỳ Râu Kẽm, thì
chỉ mong nắm xương tàn sẽ được nằm ở xứ Ðoài mây trắng lắm, sau khi
hoàn tất cái công trình của thế kỷ ở Vịnh Hạ Long! Về, là chúng chửi
như chửi chó. PD thì bị chính 1 ông nhạc sĩ, bố của ông ta bị VC
làm thịt, chửi. Kỳ bị một đấng cùng quê Sơn Tây. Tên khốn này chửi xong,
phán, thôi tha cho tên tội đồ!
Cô con gái đâu thấy đau, lại quay qua chửi đám hải
ngoại, mấy ông thầy chùa ở Cali đã nhận tiền tụng kinh cho Râu Kẽm,
sau lắc đầu!
Khốn nạn thế.
Monday, October 10, 2011 2:23
PM
Hà Nội 1954
Không biết mày đã từng xuống
tàu này để vào Nam năm 1954 hay không.
Không được thư mày trả lời thư tao thăm hỏi sức khỏe
mày. Tuy nhiên, tao cứ cho rằng mày vẫn an lành mọi mặt. Nhân tiện,
tao nêu mấy chi tiết không quan trọng đọc thấy trong 'Nơi Người Chết
Mỉm Cười' mà thư trước tao quên không nói tới. Vụ biểu tình chống Văn
Tiến Dũng năm xưa, mày và tao có tham dự, xảy ra ở khách sạn Galie'ni (?)
chứ không phải Majestic. Trường của ông Nguyễn Khắc Kham ở đường Ngô Tùng
Châu có tên là Văn Hóa, không phải Văn Lang của ông Ngô Duy Cầu. Ngoài
ra, về chữ dịch, mày dịch Hope abandoned là Hi vọng rã rời thì không biết
có phải mày định nói 'hi vọng đã rời xa hay hi vọng xa rời hay không. Một
ý khác, .....vấn đề có liên quan đến đất cát (Câu này tao muốn trích nguyên
văn nhưng tìm thoáng qua lại không thấy. Có phải mày định nói ... có liên
quan đến nơi sinh, sống?)
Lủng
Tao trả lời mày liền rồi, cả ở trên
Tin Văn.
Tao và mày biểu tình ở cả hai khách sạn.
Ở Galliéni trước, sau quay qua Majestic. Ở Majestic, mày
phá cửa phòng của 1 em đầm, nó khóc thảm thiết, sợ bị giết. Tao
nhớ rõ lắm, làm sao quên được?
Có tí mùi đầm, ngay đầu
đời nữa, làm sao quên?
Tao đi tầu Marine Serpent, Rắn Biển của Ðệ Thất
Hạm Ðội. Ðúng chuyến có Ðức Hồng Y Spellman lên tầu thăm dân di
cư.
V/v tên trường Văn Hóa.
Tks. NQT
Hope abandoned: Hy vọng tan
hoang, rã rời, tao dịch theo ý của tao, không theo nguyên ý của câu
tiếng Anh, hope abandoned, hy vọng bị bỏ rơi.
V/v Hình di cư xin coi Blog
Tin Văn. NQT
Một trong
những Chợ Giời như thế này, mở ra ngay trước nhà của Gấu, villa số 60 đường
Nguyễn Du, Hà Nội, vòng quanh 1 phần bờ hồ Hallais. Trộm cắp như rươi. Gấu
thủ một khúc gậy, đêm nằm ngay hành lang căn trộm. Trộm vô thật. Nhè khúc
bờ tường thấp, đúng nơi Gấu, những lần đi ciné về muộn, cổng đóng, leo tường
vô nhà. Nhưng, vì bên nhà Gấu đâu có gì ngoài hai cái bếp, và 1 hồ nước,
nhà trên thì khoá, thế là chúng leo qua nhà hàng xóm, một bảo sanh viện,
dinh đâu mớ quần áo, tã lót, bàn ủi, mấy cái phích đựng nước sôi cho
con nít. Nghe động, mấy bà đẻ thức giấc, chúng bỏ chạy. Gấu nghe tiếng
hô hoán, bật dậy, vác gậy đuổi theo, chúng leo tường thoát ra ngoài,
đánh rớt lại 1 cái bàn ủi. Gấu đứng dưới bờ tường với đưa lên cho 1 mụ
đàn bà. Bà này lại nghĩ Gấu là đồng bọn, mở cổng cho chúng vô nhà Gấu,
rồi theo đường đó leo qua nhà bảo sanh, vì có cái thang lộ thiên kế bên
tường.
Sáng hôm sau, lũ đàn bà đẻ lào xào sao đó tới tai
bà cô Gấu. Buổi chiều, bà đứng ngay sân chửi cho một trận thật tàn khốc.
Ui chao ơi, tới khi đó, Gấu mới biết tài chửi của bà cô của mình.
Mấy đứa nhỏ, con taybác sĩ chủ nhà bảo sanh hình
như cũng học Nguyễn Trãi. Chúng nói với bố. Hôm sau đích thân ông bác
sĩ sang gặp bà cô của Gấu xin lỗi.
Không
phải bà chỉ chửi mấy con mụ đàn bà mà chửi luôn cả Gấu. Sao mà
mày ngu đến như thế, may mà không mất mạng!
Nhìn
cái hình DTH đứng giữa Paris, trong 1 số báo ML,
thì lại nhớ đến bà cô của Gấu, đứng giữa sân nhà xỉa xói qua nhà kế bên.
May có thằng cháu kế đó, không thì bà cũng dám vỗ đồm độp như SCN một lần mất vịt!
Paroles – Jacques Prévert
(trích I n r a s a r a, S A M Ạ C L A N D Ầ N… [lãng du
văn chương & chữ nghĩa Việt])
Tôi không hiểu làm sao tôi có được trong tay tập
thơ Paroles của Jacques Prévert vào thời buổi quân quản khắc nghiệt
ấy. Sách báo phản động và đồi trụy bị truy quét không còn miếng nào.
Cả từ điển tiếng Anh, tiếng Pháp cũng bị.
Vậy mà tôi có nó, để được giải khuây mùa cách mạng.
Các anh chị sinh viên Chakleng bỏ thành phố về quê, vô
công rồi nghề. Thêm công nhân viên chức chế độ cũ bổ sung vào lực
lượng thất nghiệp. Ruộng đất bị sung vào tập đoàn sản xuất, gia đình
tôi được cấp phát hai sào, làm một loáng là xong. Đám bạn lơn tơn làng
xóm, hay túm tụm để tán gẫu chuyện bao đồng.
Tôi đã từng biết nhà thơ này qua các Cours de Langues
thuở Trung học, nhưng chưa bao giờ đọc tập nào của ông. Mà đây là tập
nổi tiếng nhất. Thơ Prévert ngôn từ giản đơn với những điệp: điệp từ,
điệp câu, nên dịch nhanh và khá dễ.
Tôi dịch nó sau những buổi cày.
Viết mực cạ lên loại giấy pơ-lua mỏng còn dính rơm. Tôi
chỉ có thể viết lên một mặt giấy. Giấy vàng ố nhập nhoạng dưới ánh
mặt trời vàng ố đổ bóng xuống cánh đồng Chakleng buồn trơ. Tôi cắm cúi
dịch.
Kéo dài mãi sang mùa rét, thì xong. Hiện tập ố vàng kia
vẫn còn lưu, như kỉ niệm một thời.
[một trang nháp, lời ngây ngô được viết bằng ngòi, mực
cách mạng trên giấy pơ-luya cách mạng]
Note: Note: GCC sợ “la petite seconde”, có nghĩa, giây
phút nhỏ bé, và câu thơ, hàng triệu triệu năm không đủ để “thổi”
giây phút vĩnh cửu này, khi anh hun em 1 phát!
Làm gì có “qua đi”, "đủ lời…."
Lâu nay, để biện hộ cho chính sách nhường
nhịn đến nhu nhược trước những hành động xâm lấn ngang ngược của
Trung Quốc, chính phủ Việt Nam thường nêu lên ba lý do chính: Thứ
nhất, về địa lý, Việt Nam nằm cạnh Trung Quốc nên ít nhiều phải chịu
đựng Trung Quốc để có được hoà bình; thứ hai, về ý thức hệ, Việt Nam
và Trung Quốc đều theo chủ nghĩa xã hội, và do đó, đều là “đồng chí”
của nhau; và thứ ba, về lịch sử, Việt Nam từng chịu ơn Trung Quốc rất nhiều
t...
Bài viết này, Gấu đọc qua
1 tác giả hay đọc, nghe thật hữu lý, vì vị này “like &
share”, nhưng… nhảm.
Chính cái gọi là hiện thực phản bác nó: Rõ
ràng là VC sợ Tẫu, tới 1 mức độ khủng khiếp, chứng tỏ, giữa hai nước
cùng đỏ, hữu nghị môi hở răng lạnh này, có 1 mắc míu ngầm cũng cực
kỳ khủng khiếp.
Rõ ràng nữa, là, nếu đúng như Thầy Kuốc lập
luận, sợ chó gì nó, thì, tại sao lại sợ đến như thế?
Nên nhớ cả 1 lịch sử dựng nước Mít, suy ra, chỉ
là 1 cuộc chạy thằng Tẫu.
Bước ngoặt vĩ đại, xẩy ra, khi Bác Hồ trốn thoát
Cớm Tẩy, qua Moscow, cúi đầu lạy Xì, và, thay vì làm thịt
như mọi tên cựu trào, thì Xì tha chết, và cho về Tẫu hoạt động.
VC vẫn chửi Gia Long, cõng rắn cắn gà nhà. Nhưng
chính Bác Hồ, xứng đáng hơn Gia Long nhiều, trong cái hành động
này, ông không cõng rắn, mà cõng Tẫu vô giường Mít, đúng hơn.
Nên nhớ, do quá sợ Tẫu mà Bắc Kít mở ra cú
CCRD, và chính nhờ cú này mà có vụ di 1954.
Chúng ta tự hỏi, giá CCRD được phát động trễ
hơn, thì không có vụ di cư, và như 1 hệ quả, không có cuộc chiến
Mít lần thứ hai.
Nói một cách tóm tắt, việc
Trung Quốc tận lực giúp miền Bắc trong cuộc chiến chống lại miền Nam
chủ yếu xuất phát từ quyền lợi của chính Trung Quốc. Đó không phải là
một ân nghĩa để khiến Việt Nam bây giờ phải nhường nhịn trước những
hành động lấn chiếm hay gây hấn ngang ngược của Trung Quốc trên biển
và đảo của Việt Nam. Hơn nữa, ngay cả đó là ân nghĩa thật, không ai có quyền
đem độc lập và chủ quyền quốc gia để đền đáp.
NHQ
Nếu đúng như thế, thì tại sao VC sợ TQ đến như thế?
Cái chuyện đem đất đem biển trả nợ này, đã xẩy ra
rồi, nhưng trong giả tưởng, của Garcia Marquez, thời gian ông viết
cho điện ảnh đã cho ông ý tưởng, người Mỹ đã bắt một nhà độc tài
Mỹ châu La tinh phải đem biển cả trả cho họ, thay cho những món nợ còn
thiếu, trong Mùa Thu của Trưởng Lão (L'Automne du Patriarche).
Lần trở lại Đất Bắc, coi gia phả họ, Gấu hỡi ơi vì cái
sự xâm lăng ngầm của Tẫu, khi đào tạo ra nhiều thế hệ Bắc Kít liên
tiếp thần phục Tầu. Tiểu sử của bất cứ 1 viên sĩ quan Bắc Kít nào,
những ông chú, ông bác của GCC, trong họ, thì đều có những chi tiết,
thí dụ, đã từng qua TQ tập huấn.
Giả như không có sự giúp đỡ khủng khiếp của Tẫu,
làm sao thắng thằng Mỹ, và đồng minh sau lưng của nó?
Làm sao đất nước thống nhất, làm sao 1 tên chăn trâu,
học lớp 1 ngồi lên đầu lên cổ cả 1 đất nước?
Một bài viết mị độc giả net, thực chất rỗng tuếch. Đọc
thì kêu như chuông, nhưng toàn là chuyện đã biết rồi.
Phải nhìn cuộc chiến Mít như là 1 cuộc tranh chấp
quyền lợi ảnh hưởng giữa hai khối, sau Miền Bắc, là cả 1 hậu cần XHCN,
Miền Nam, tư bản, và 1 khi Mẽo bỏ chạy tán loạn, là thế giới tự
do thua keo đầu, và bây giờ xứ Mít chịu hậu quả của chiến thắng!
Solz, ngay những ngày 1975, khi trả lời 1 đài truyền
hình Tẩy, không coi cuộc chiến Mít là giải phóng dân tộc, mà chỉ
là tranh chấp quyền lực, ảnh hưởng giữa giữa các đế quốc, và đã tiên
đoán Bắc Kít sẽ chiếm đoạt Miền Nam.
Octavio Paz phản bác Solz. Nhưng bây giờ chúng ta nhận
ra cái nhìn của Solz mới xác đáng.
TV đã lèm bèm về chuyện này rồi
• Đối với một nhà văn, ngoại ngữ
là một loại phiêu lưu mới: For a writer, a foreign language
is a new kind of adventure (New Yorker 7-12-15) -- Bài rất hay của
nhà văn nữ gốc Ấn Jhumpa Lahiri
Nguồn: Việt xì tốp đi thôi, Viet-Studies
Một loại mới của phiêu lưu, không phải, 1 loại
phiêu lưu mới.
Gấu đã nói rồi, đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy,
bợ đít VC, không tên nào rành tiếng Mít.
GCC coi lại rồi. Cái tít của nó là,
Hãy tự dạy mình tiếng Ý,
Teach Yourself Italian.
Câu phán ghê gớm nhất của em này, là,
Oddly, I feel more protected when I write in Italian,
even though I’m also more exposed. It’s true that a new language
covers me, but unlike Daphne I have a permeable covering—I’m
almost without a skin. And although I don’t have a thick bark,
I am, in Italian, a tougher, freer writer, who, taking root again,
grows in a different way. ♦
Thường ra, khi làm link, thì phải để cái tít gốc,
rồi thêm 1 cái tít, hay những dòng người làm link "tâm đắc", thí
dụ. Đấng này, cực nhảm, đọc loáng thoáng bài viết, rồi dán mẹ 1
cái tít khác.
“The West didn’t understand how difficult it would
be for Russia to make the transition to economic
and political freedom.” Besides, “American elites
do not understand historical and psychological trends very
well—they’re not good at reading historical patterns.”
There has been a vacuum since the fall of the Soviet Union.
It takes time for a “new mindset” to be established. And, as
Alexander Solzhenitsyn said 20 years ago, “the West will eventually
need Russia as an ally.”
Note: Bài này tuyệt lắm. Người
viết là Trùm tờ Harper's, chuyên gia về tiếng Ý,
đã từng được giải thưởng dịch thuật. Cái tít mới chướng, mới
gây sự làm sao, free, có giấy ra trại [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo], nhưng
chưa được cứu rỗi.
Cho đọc free.
GCC mua tờ báo rồi mới biết!
Lâu nay, để biện hộ cho chính sách nhường nhịn đến nhu
nhược trước những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc, chính
phủ Việt Nam thường nêu lên ba lý do chính: Thứ nhất, về địa lý, Việt
Nam nằm cạnh Trung Quốc nên ít nhiều phải chịu đựng Trung Quốc để có
được hoà bình; thứ hai, về ý thức hệ, Việt Nam và Trung Quốc đều theo
chủ nghĩa xã hội, và do đó, đều là “đồng chí” của nhau; và thứ ba, về
lịch sử, Việt Nam từng chịu ơn Trung Quốc rất nhiều t...
Bài viết này, Gấu đọc qua 1 tác
giả hay đọc, nghe thật hữu lý, vì vị này “like & share”, nhưng…
nhảm.
Chính cái gọi là hiện thực phản bác nó: Rõ ràng là VC
sợ Tẫu, tới 1 mức độ khủng khiếp, chứng tỏ, giữa hai nước cùng đỏ,
hữu nghị môi hở răng lạnh này, có 1 mắc míu ngầm cũng cực kỳ khủng khiếp.
Rõ ràng nữa, là, nếu đúng như Thầy Kuốc lập luận, sợ chó
gì nó, thì, tại sao lại sợ đến như thế?
Nên nhớ cả 1 lịch sử dựng nước Mít, suy ra, chỉ là 1 cuộc
chạy thằng Tẫu.
Bước ngoặt vĩ đại, xẩy ra, khi Bác Hồ trốn thoát Cớm Tẩy,
qua Moscow, cúi đầu lạy Xì, và, thay vì làm thịt như mọi tên cựu trào,
thì Xì tha chết, và cho về Tẫu hoạt động.
VC vẫn chửi Gia Long, cõng rắn cắn gà nhà. Nhưng chính
Bác Hồ, xứng đáng hơn Gia Long nhiều, trong cái hành động này, ông
không cõng rắn, mà cõng Tẫu vô giường Mít, đúng hơn.
Nên nhớ, do quá sợ Tẫu mà Bắc Kít mở ra cú CCRD, và chính
nhờ cú này mà có vụ di 1954.
Chúng ta tự hỏi, giá CCRD được phát động trễ hơn, thì
không có vụ di cư, và như 1 hệ quả, không có cuộc chiến Mít lần thứ
hai.
Nói
một cách tóm tắt, việc Trung Quốc tận lực giúp miền Bắc trong cuộc
chiến chống lại miền Nam chủ yếu xuất phát từ quyền lợi của chính Trung
Quốc. Đó không phải là một ân nghĩa để khiến Việt Nam bây giờ phải nhường
nhịn trước những hành động lấn chiếm hay gây hấn ngang ngược của Trung
Quốc trên biển và đảo của Việt Nam. Hơn nữa, ngay cả đó là ân nghĩa
thật, không ai có quyền đem độc lập và chủ quyền quốc gia để đền đáp.
NHQ
Nếu đúng như thế, thì tại sao VC sợ TQ đến như thế?
Cái chuyện đem đất đem biển trả nợ này, đã xẩy ra rồi, nhưng
trong giả tưởng, của Garcia Marquez, thời gian ông viết cho điện ảnh
đã cho ông ý tưởng, người Mỹ đã bắt một nhà độc tài Mỹ châu La tinh phải
đem biển cả trả cho họ, thay cho những món nợ còn thiếu, trong Mùa Thu
của Trưởng Lão (L'Automne du Patriarche).
Lần trở lại Đất Bắc, coi gia phả họ, Gấu hỡi ơi vì cái sự xâm
lăng ngầm của Tẫu, khi đào tạo ra nhiều thế hệ Bắc Kít liên tiếp thần
phục Tầu. Tiểu sử của bất cứ 1 viên sĩ quan Bắc Kít nào, những ông chú,
ông bác của GCC, trong họ, thì đều có những chi tiết, thí dụ, đã từng
qua TQ tập huấn.
Giả như không có sự giúp đỡ khủng khiếp của Tẫu, làm sao thắng
thằng Mỹ, và đồng minh sau lưng của nó?
Làm sao đất nước thống nhất, làm sao 1 tên chăn trâu, học
lớp 1 ngồi lên đầu lên cổ cả 1 đất nước?
Một bài viết mị độc giả net, thực chất rỗng tuếch. Đọc thì
kêu như chuông, nhưng toàn là chuyện đã biết rồi.
Phải nhìn cuộc chiến Mít như là 1 cuộc tranh chấp quyền lợi
ảnh hưởng giữa hai khối, sau Miền Bắc, là cả 1 hậu cần XHCN, Miền Nam,
tư bản, và 1 khi Mẽo bỏ chạy tán loạn, là thế giới tự do thua keo đầu,
và bây giờ xứ Mít chịu hậu quả của chiến thắng!
Solz, ngay những ngày 1975, khi trả lời 1 đài truyền hình Tẩy,
không coi cuộc chiến Mít là giải phóng dân tộc, mà chỉ là tranh chấp quyền
lực, ảnh hưởng giữa giữa các đế quốc, và đã tiên đoán Bắc Kít sẽ chiếm
đoạt Miền Nam.
Octavio Paz phản bác Solz. Nhưng bây giờ chúng ta nhận ra cái
nhìn của Solz mới xác đáng.
TV đã lèm bèm về chuyện này rồi
• Đối với một nhà văn, ngoại ngữ là một
loại phiêu lưu mới: For a writer, a foreign language is a new kind
of adventure (New Yorker 7-12-15) -- Bài rất hay của nhà văn nữ gốc
Ấn Jhumpa Lahiri
Nguồn: Việt xì tốp đi thôi, Viet-Studies
Một loại mới của phiêu lưu, không phải, 1 loại phiêu
lưu mới.
Gấu đã nói rồi, đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy, bợ đít
VC, không tên nào rành tiếng Mít.
GCC coi lại rồi. Cái tít của nó là,
Hãy tự dạy mình tiếng Ý,
Teach Yourself Italian.
Câu phán ghê gớm nhất của em này, là,
Oddly, I feel more protected when I write in Italian, even
though I’m also more exposed. It’s true that a new language covers
me, but unlike Daphne I have a permeable covering—I’m almost without
a skin. And although I don’t have a thick bark, I am, in Italian,
a tougher, freer writer, who, taking root again, grows in a different
way. ♦
Thường ra, khi làm link, thì phải để cái tít gốc, rồi thêm 1
cái tít, hay những dòng người làm link "tâm đắc", thí dụ. Đấng này, cực
nhảm, đọc loáng thoáng bài viết, rồi dán mẹ 1 cái tít khác.
“The West
didn’t understand how difficult it would be for Russia
to make the transition to economic and political freedom.”
Besides, “American elites do not understand historical
and psychological trends very well—they’re not good at
reading historical patterns.” There has been a vacuum since
the fall of the Soviet Union. It takes time for a “new mindset” to
be established. And, as Alexander Solzhenitsyn said 20 years
ago, “the West will eventually need Russia as an ally.”
What is fate, in a culture of free will and
self-determination? Where do we project our doom, that ancient
and evolving belief in predestination? In this issue of Granta,
twenty-two writers meditate on fate, in all its many forms.
Introduction
The last time I wrote about fate was in an
article for the Guardian on addiction, two years ago: 'There
is some evidence for a genetic disposition,' I wrote, 'but it's
not straightforward. Genes do not map out one's fate; they map
out possibilities of fates.' But perhaps, as in the classic fate
narratives, I am deluding myself, blithely unaware of how narrow
our choices are, how genetically and socially predetermined our
lives.
The pieces in this issue are concerned with
fate in its most serious manifestations: love, sexuality, identity,
death, illness, religion and war. We have new writers, S.J. Naudé
and Sam Coll, alongside established ones, Will Self, Cynthia Ozick,
Louise Erdrich, Tim Winton and Kent Haruf. We are publishing four
poems, by Mark Doty, Adam Fitzgerald, Barbara Ras and Mary Ruefle,
chosen by our new poetry editor, Rachael Allen.
We also have a piece by a writer long since
dead: an essay on Sarajevo by Joseph Roth, written in 1923, translated
here by Michael Hofmann. Given the centenary, I wanted something
in the issue about 1914 and the war that was supposed to end all
wars. We read Roth's description of Sarajevo, aware that he is
thinking backwards, to the war, while we think forwards, to the
second war, to the Bosnian war, to the atrocities and the occupation.
That hidden kernel of the future, our knowledge of what is to come,
speaks to fate.
…
Sigrid Rausing
WHERE THE WORLD WAR BEGAN
Joseph Roth
TRANSLATED FROM THE GERMAN
BY MICHAEL HOFMANN
The World War began in Sarajevo, on a balmy
summer afternoon in 1914. It was a Sunday; I was a student at
the time. In the afternoon a girl came round; girls wore plaits
in those days. She was carrying a large yellow straw hat in her hand,
it was like summer coming to call with hay, grasshoppers and poppies.
In her straw hat was a telegram, the first special edition I had then
seen, crumpled and terrible, a thunderbolt on paper. 'Guess what,'
said the girl. 'They've killed the heir to the throne. My father came
home from the cafe. We won't stay here either, will we?'
I didn't manage to be quite as deadly
serious as her father who had left the cafe. We rode on the back
platform of a tram. Out in the suburbs there was a place where the
tram brushed past some jasmine bushes that grew close to the track.
We drove along, jingle-jangle, it was like a sleigh ride in summer.
The girl was light blue, soft, close, with cool breath, a morning
on an afternoon. She had brought me the news from Sarajevo, the name
was visible over her, picked out in dark red smoke, like an inferno
over a clueless child.
A year and a half later - strange how
durable love could be in peacetime! - there she was again, surrounded
by smoke, on the goods station, platform 2, music was blaring out,
wagons screeched, locomotives whistled, little shivering women hung
like withered wreaths on green men, the brand-new uniforms smelled
of finish, we were an infantry company, destination secret, but
thought to be Serbia. Probably we were both thinking of that Sunday,
the telegram, Sarajevo. Her father hadn't been to a cafe since, he
was in a mass grave.
Today, thirteen years after that first
shot, I am seeing Sarajevo. Innocent, accursed city, still standing!
Sorry sheath of the grimmest catastrophes. Unmoved! No rain of fire
has descended on it, the houses are intact, girls are just going
home from school, though plaits are no longer in fashion. It's one
o'clock. The sky is blue satin. The station where the Archduke arrived,
Death waiting for him, is some way outside the city. A wide, dusty,
part -asphalted, part-gravel road
leads left into the city. Trees, thickly crowned,
dark and dusty, leftovers from a time when the road was still
an avenue, are now irregularly sprinkled along its edge. We are
sitting in a spacious courtesy bus from the hotel. We drive through
streets, along the riverbank - there, that corner is where the World
War began. Nothing has changed. I am looking for bloodstains. They
have been removed. Thirteen years, innumerable rains, millions of people
have washed away the blood. The young people are coming home from
school; did they learn about the World War? I wonder.
The main street is very quiet. At the
top end of it is a small Turkish cemetery, stone flowers in a
small garden for the dead. At its lower edge an oriental bazaar
begins. Just about the middle of it, facing one another, are two
big hotels, with cafe terraces. The wind browses indifferently through
old newspapers and fallen leaves. Waiters stand by at the doors,
more to verify than to assist the tourist trade. Old policemen lean
against the walls, recalling peace, the pre-War. One
has whiskers, a ghost of the old double monarchy.
Very old men, probably retired notaries, speak the Army German
of Austrian days. A bookseller deals in paper and books and literary
journals - mostly for symbolic purposes. I pick up a Maupassant from
him (although he has Dekobra in stock as well) for a night ahead on
a train without a wagon-lit. We get to talking. I learn that literary
interest has ebbed in Sarajevo. There is a teacher who subscribes to
a couple of literary weeklies. (It's good to know that such teachers still
exist!)
In the evening, there's the passeggiata
of the lovely, chaste women. It's the passeggiata
of a small town. The beautiful women walk in twos and threes,
like convent girls. The gentlemen are continually doffing their
hats, people here know one another so well that I feel a threefold
stranger. I might almost be watching a film, a historical costume
drama, where the people don't know one another, the scenes of their greetings
have been left in the cutting room, one is a stranger among strangers,
the auditorium is dark; only the bright, garish intervals frighten
me. It might be good to read a newspaper, to discover something about
the world that I have left behind in order to see something of the world.
By ten o'clock everything is quiet, there's
the distant glimmer of a single late bar down a side street;
it's a family gathering. Across the river, on the Turkish side,
the houses climb up in flat terraced trays, their lights dissolve
in the fog, they remind me of the wide staircase to a lofty wide
altar.
There is a theatre, opera is performed,
there is a museum, hospitals, a law court, police, everything a
city could want. A city! As if Sarajevo were a city like any other!
As though the war to end all wars hadn't begun here in Sarajevo! All
the heroes' graves, all the mass graves, all the battlefields, all the
poison gas, all the cripples, the war widows, the unknown soldiers: they
all came from here. I don't wish destruction upon this city, how could
I? It has dear, good people, beautiful women, charming innocent children,
animals that enjoy their lives, butterflies on the stones in the Turkish
cemetery. And yet the War began here, the world was destroyed, and Sarajevo
has survived. It shouldn't be a city, it should be a monument to the
terrible memory. _
Joseph Roth
World War I
1914
Archduke Franz Ferdinand assassinated
In an event that is widely acknowledged to
have sparked the outbreak of World War I, Archduke Franz Ferdinand,
nephew of Emperor Franz Josef and heir to the Austro-Hungarian Empire,
is shot to death along with his wife by a Serbian nationalist in
Sarajevo, Bosnia, on this day in 1914.
[net]
Cái cú làm thịt viên quận công thừa
kế ngai vàng, mở ra cuộc chiến 1914, làm GCC nhớ đến cú Văn Cao
làm thịt bạn ghiền của GCC, Đỗ Đức Phin, mở ra cuộc chiến Mít, nhảm
thế.
Đúng là THNM!
Theo tờ Granta, "số mệnh", với chúng ta bây
giờ, thì là cái phóng chiếu, “trời kêu ai người đó dạ”,
tức cái bất hạnh của đời mình, our doom; với người xưa, là niềm
tin vào cái tiền định. Có tí khác.
Trong bài intro, tác giả viết, cái gọi
là gene - cái gene ác Bắc Kít, thí dụ - không vẽ nên bản
đồ số phận, nhưng chúng đề ra những khả thể của nó.
Nhưng, vẫn theo tác giả, ông không nhận
ra, hạn hẹp làm sao, những chọn lựa của chúng ta, và như thế
nào, xã hội và gene, phán, về cuộc đời của chúng ta.
Bài viết của Joseph Roth, vẽ lại thành phố
Sarajevo, bữa ông nghe tin cú ám sát xẩy ra, và như tác
giả bài intro viết, ông [ Roth], nhìn lại cuộc chiến chấm dứt
mọi cuộc chiến, trong khi với chúng ta, nhìn tới cuộc chiến thứ
nhì, tới cuộc chiến Bosnia, tới những điều tàn bạo, xâm lăng, đô
hộ. Cái lõi ẩn giấu của tương lai, tri thức về cái sắp tới của chúng
ta - nói với số mệnh.
Note: Bài này tuyệt lắm. Người viết
là Trùm tờ Harper's, chuyên gia về tiếng Ý, đã từng được giải
thưởng dịch thuật. Cái tít mới chướng, mới gây sự làm sao, free,
có giấy ra trại [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo], nhưng chưa được cứu rỗi.
Cho đọc free.
GCC mua tờ báo rồi mới biết!
Note: Có hai tay, viết truyện trinh thám mà
cứ như làm thơ, hoặc ít ra, thật khó mà sửa 1 câu văn của họ, theo GCC.
Đó là Raymond Chandler và Ian Fleming.
Còn mấy tay nữa, không chỉ hai tay này. Thí dụ, Len Deighton.
Mít, viết câu nào là phải sửa câu đó, chán thế, "nhất là"
mấy đấng có tên tuổi, có đấng có cả chục đầu sách.
Nếu không sửa văn, thì sửa lỗi chính tả.
Sến phán, đọc vài dòng, là vứt thùng rác, chắc là do đó?
Thí dụ, Nguyễn Đăng Thường, hay Nguyễn Văn Lục, chẳng hạn?
The Daily Books
Art is stronger than propaganda
Nghệ thuật mạnh hơn tuyên truyền
How European literature can help the migrant
crisis
Bằng cách nào văn học Âu Châu có thể
cứu trợ cơn khủng hoảng di dân
When art fails,” she [Kennedy] declared, “there
is cruelty, because cruelty is caused by a lack of imagination.”
Khi nghệ thuật thua, thì độc ác xuất hiện, vì
độc ác là do thiếu tưởng tượng mà ra.
Oscar Wilde famously told a customs officer
that he had nothing to declare but his genius. He would certainly
have approved of Atiq Rami, a writer and film-maker who had migrated
from Afghanistan to France via India: when presented with an application
form for political asylum, he had crossed out “political” and written
“cultural” instead. But, he warned, “The term the French use –
naturaliser – also means to stuff an animal.
I have only one country, and that’s the Earth.”
Oscar Wilde hiển hách phán, khi bị quan thuế
hỏi, mi có gì khai báo, tao có con củ xê [thiên tài, his
genius]. Ông hẳn hài lòng, khi biết, khi Tẩy đưa cho nhà văn Atiq
Rami, cái đơn xin tị nạn chính trị, ông phán, làm đéo gì có cái
gọi là tị nạn “chính trị”, mà phải là “văn hóa”.
Ông vặc lại, Tẩy xài từ naturaliser
[quốc tịch hoá] hảm quá, "từ" đó, dùng cho loài vật thì được.
Ta chỉ có 1 xứ sở và đó là trái đất.
General
relativity
The most beautiful theory
A century
ago Albert Einstein changed the way humans saw the universe. His
work is still offering new insights today
manhhai
Thanksgiving in Vietnam, 1967
Spec. 4 Fred Gutierrez makes the grab for
the mess hall table at the 9th Inf. Div.'s Bear Cat base camp.
John Olson/Stars and Stripes
Ta nợ một đời làm sao trả Ngập ngừng
dăm tiếng "cảm ơn" suông Chỉ như giọt
nước vào biển lớn Lòng thêm
xấu hổ lúc soi gương
Ta nợ thịt
da từ cha mẹ Máu chảy
bao năm mãi chẳng ngừng Biết lấy
gì đong, công gì trả Lửa nợ âm
thầm lấp yêu thương
Ta nợ người
từ ngàn năm trước Trả hoài
từng phút vẫn chưa xong Vốn lời như
sóng mùa động biển Vỗ mãi vào
bờ đá rêu phong
Ta nợ trời
trăng, ta nợ mây Những chiều
hiu gió, những đêm dài Ngươi vỗ
về ta bằng ánh sáng Bằng tiếng
thì thầm, rất nhỏ thôi
Ta nợ từng
xuân, từng thu biếc Từng hè êm
ả, khúc đông sang Nợ mưa lất
phất trên vai áo Nợ nắng chan
hòa trải bước chân
Ta nợ đường
đi, hoa cỏ dại Nợ màu tím
ngát, nhạc êm êm Nợ luôn những
giấc mơ không tưởng Lãng đãng
muôn nghìn kỷ niệm riêng
Ta nợ thời
gian bao dung quá Trôi hoài,
cuốn hết đám rêu rong Rêu của vấn
vương, rong phiền muộn Đưa về bát
ngát một trời không
Công nợ đời
này xin tạm khất Tháng năm
mòn nhẵn trắng mất rồi Vạn năm sau
nữa đầu thai tiếp Dã tràng
xe cát mãi không thôi
Đặng Lệ Khánh
NOVEMBER 21
[1999]
Thanksgiving: Daniel Halpern
Anyone who has had a newborn arrive in their
life knows how powerful and hard to describe the emotions
are. Twentieth-century poets have mostly stayed away from them.
They are too frail. They are not mammal grief and rage, even though
they can turn into grief and rage. (That's what King Lear is about.)
And the example of the tradition of domestic and familial poetry
in Victorian America has not encouraged us. It made the subject seem
impossible to approach without sentimentality. Language makes the
distinction: we speak of anger and desire as "feeling," the tender and
uneasy stuff around the helplessness of infants, and the impulse to protect
children we call "sentiment." And it's probably well that we do. Because
they are frail emotions, and they are capable of turning into something
quite savage. Nevertheless it is a deep thing, the wonder (and fear) at
the arrival of a newborn child, and the process of-hard to know how else
to say it-falling in love that parents go through with this creature given
into their care. How do you talk about it?
Daniel Halpern, in his new book Something
Shining (Knopf), takes the subject on. He's my editor, and
an old friend, and a poet I've been reading for twenty years
or more. I've always thought of him as a poet on the model of the
Roman poet Horace, with a poised and immensely civilized mind
for the life we live, its large and small panics and decorums, and
a civilized balance in his verse, in which orderliness can sometimes
seem sinister and wry, and sometimes seem a gift, the kind of gift
social beings can give to one another, like a well-set table. Reading
him has, over the years, made for very good company, this intelligence
that is reasonably disenchanted, keeps an eye on the decades as they
pass, the telling particulars in the social habits of a generation, its
ardors, suavities, and defeats.
And now this book that requires another
kind of poise. How do you write about the whole business of
becoming a parent, and about the way this attachment, this
profound and life-defining tenderness and wonder, grows in us.
He goes straight to it, and succeeds, I think. Have a look:
After the Vigil
They turn up, no longer nameless,
their bodies clear, so nearly pure
they appear in morning light transparent.
They turn up and one day look at you
for the first time, their eyes sure now
you are one of theirs, surely here to stay.
They turn up wearing an expression of yours,
imitating your mouth, the smile perfected
over years of enduring amusing moments.
They turn up without a past, their fingers,
inexact instruments that examine what carpets
their turf, what they inherit through blood.
They turn up with your future, if not in
mind
very much in the explosive story of their
genes,
in gesture foreshadowing the what's-to-come.
They turn up with your hair-albeit not much
of it-something in the color, the curl of
it
after the bath, its bearing after sleep.
They turn up already on their own, ideas
of their own, settling on their own limits,
their particular sense of things.
They turn up and we have been waiting,
as they have without knowing. They turn
into this world, keeping their own counsel.
Dù tôi không phải là người làm việc chuyên môn với
dịch thuật, nhưng tôi luôn luôn chú ý về chủ đề này. Thấy có
bạn nhắc đến quyển sách của David Bellos, "Is That a Fish in Your
Ear?" tôi tìm đọc. Càng đọc càng thấy thú vị vì quyển sách này
để cập đến nhiều điều tôi nghĩ đến nhưng ý tưởng chưa thành hình
rõ ràng để tôi có thể vượt cơn lười mà viết cho đàng hoàng thành
một bài tản mạn về dịch thuật. [ 475 more words. ]
GCC đã có lần phán cực kỳ cá chớn, phải
cực kỳ rành tiếng Mít, thì mới đọc nổi Beckett.
Nhưng đó chính là sự thực, như 1 hệ quả,
hệ luận, phản ứng ngược, contre-réaction, của câu phán cực
kỳ bảnh tỏng của Kafka, tớ nói được tất cả thứ tiếng, bằng tiếng…
Do Thái!
Một hệ quả nữa, là, bạn dốt tiếng Mít, thì
viết bằng bất cứ thứ tiếng nào, thì cũng như kít.
Thì cứ coi cái đám Mít [Bắc Kít] ở
Paris, thì rõ.
Có thể coi là hệ quả, đám tinh anh Miền
Nam được Ngụy cho đi du học, chẳng tên nào ra hồn, ấy là nói
về viết lách, dù bằng thứ tiếng gì.
Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản tiếng Anh của chính tác
giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn tình Gấu chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu
John Montague,
ngưòi điểm tập thơ, cũng là bạn của Beckett, có 1 lý thuyết [an almost-theory],
về Beckett làm thơ: Thay vì cố gắng làm thơ mới, Beckett trải qua
hầu hết thì giờ để dịch thơ của ông, một việc làm mà chính ông than,
nặng quá, đếch chịu nổi, a burden he often found intolerable.
Đang loay hoay viết về Nguyễn Tuân,
được tin Tố Hữu mất, tôi cứ lẩn thẩn tự hỏi,
không hiểu có bức hình nào chụp tác giả
Tàn Đèn Dầu Lạc, tức Nguyễn Tuân, đứng kế bên Mặt Trời
Chân Lý Chói Qua Tim, tức Tố Hữu, trong một dịp đại lễ
nào đó?
Hay "tệ"
hơn nữa, đứng kế bên ông Hồ?
*
"Ông ta
đúng là không nên đứng kế bên Khrushchev".
Câu này của Volkov, khi phải nhận
định về nhà soạn nhạc lừng danh Shostakovich, trong một lần trò chuyện
với nhà thơ Brodsky, xung quanh đề tài nhà
thơ đưa ra: Khi bạn bắt đầu chơi trò "biên tập"
[editing] đạo hạnh, đạo đức của bạn – rằng cái này được
phép, cái kia không được, vào những ngày như thế đó
– như vậy là bạn đã đánh đu với tinh, đã mấp mé bên
bờ thảm họa.
Volkov kể lại, một lần ông
cần vài bức hình nhà soạn nhạc, từ thư khố
nhà nước. Tuy đã phải trả tiền trước, nhưng một "phu
nhân sắt" (an iron lady) vẫn kiểm tra từng tấm, và chừa
lại ba, hình nhà soạn nhạc đứng kế bên Khrushchev. Phu
nhân sắt cũng chẳng thèm mất công giải thích. Tôi
[Volkov] bắt buộc phải hiểu rằng nhà soạn nhạc không
nên đứng kế bên lãnh tụ, vào thời gian mà ông ta là một
người không thể chấp nhận được (persona non grata).
Đọc bài
viết của Trần Dần, về thơ Tố Hữu, (được đăng lại trên
talawas.org), vào đúng thời của ông ta – tức là
không thể chấp nhận được đó – tôi mới thấy thế nào
là hào khí Nhân Văn Giai Phẩm, và cùng với
nó, cái gọi là sĩ khí Bắc Hà.
Note: "Ý kiến ngắn", trên,
Gấu viết cho ta là gì nhân nghe tin
Tố Hữu ngỏm. Ta là gì cho biết,
sẽ đăng.
Khi đăng, Gấu đọc, thấy bị thiến
mấy chữ "tệ" hơn nữa.
Cáu quá,
meo hỏi. Bà chủ quán xin lỗi, nói, đệ tử tự
ý thiến.
Đúng ra,
bà phải đăng trên ta là gì,
xin lỗi độc giả ta là gì.
Gấu đâu
cần bà xin lỗi?
Nay, post
lại, và xin lỗi độc giả ta là gì,
về cái phần sơ sót của Gấu. NQT
Khủng bố, chiến tranh, dù thế nào thì cuộc sống vẫn
không dừng.
Vừa ký hợp đồng dịch tiểu thuyết "Les mots" (Ngôn
từ) của Jean-Paul Sartre cùng dịch giả Lê Ngọc Mai.
Đã dịch được kha khá phần mình. Công nhận là khó
mà hè đã phải xong frown emoticon
Paris bây giờ, uớc gì có được cái bất chấp rồ dại
của những nhân vật này !!!
--------------------------------
Theo GCC, Les Mots nên dịch là "Những chữ",
ngôn từ, sợ lầm, hoặc, bị lệch pha, nói theo Thầy Cuốc.
Cuốn này, cũng khó gọi là “tiểu thuyết".
Tự thuật, có thể. Nhưng GCC đọc từ thời còn mặc quần thủng đít,
thì cứ cuờng điệu ra như thế, nên không dám chắc.
Hơn nữa, ai đọc Sartre, the mandarin, chữ của
Vargas Llosa, bây giờ nữa?
Tôi đọc ông [Sartre] lần đầu, vào mùa hè
năm 1952, khi làm phụ biên tập, a copy editor, cho một tờ nhật
báo, Đó là thời gian độc nhất, tôi đóng vai nhà văn nhà báo,
theo cái kiểu mà nhiều người vẫn còn nghĩ về họ: một cuộc đời lãng
du. Khi công việc tòa báo xong xuôi, thường là muộn, trời đã
khuya, tay ký giả là tôi bèn chạy vội đến những quán, những ba, ánh
đèn mờ, hay những ổ nhện, những xóm đêm, và, với một đứa trẻ 15 tuổi,
thì đúng là một cuộc phiêu lưu lớn.
Và tôi đã gặp cuộc phiêu lưu thực sự, vào
một buổi sáng, khi anh bạn, Carlos Ney Barrionuevo, giúi vào
tay tôi cuốn Bức Tường. Những truyện ngắn ở trong đó, cùng với Buồn
Nôn, và những vở kịch - Những con ruồi, Huis Clos, Một bướm đáng kính
trọng, Những bàn tay bẩn - những tập đầu của bộ “Những Con đường của
sự tự do”, và những tiểu luận của Satre đã làm cho rất nhiều người trong
đám chúng tôi khám phá ra văn chương hiện đại của đầu thập niên
1950.
Chúng già đi, lão hoá, một cách thật
là khủng khiếp. Ngày nay, chúng ta tìm thấy, chỉ một tí ti,
cái gọi là hàng nguyên, hàng xịn, the originality, ở trong những
tác phẩm đó. Sự không thể bắt nối, incommunication, sự phi lý, the
absurd, được diễn tả bởi Kafka, bằng một đường hướng dữ dằn hơn,
nhức nhối hơn, kỹ thuật viết từng mảng, the technique of fragmentation,
thuổng của John Dos Passos, và Malraux viết những đề tài chính trị
sống động như chưa bao giờ sống động đến như thế. Ngay cả thứ bảnh
nhất của Sartre, là Tuổi thơ của một ông Sếp, cũng không bén gót.
Llosa: The Mandarin
Gunter Grass, đã chọn Camus, thay vì Sartre,
và mừng hết lớn, vì chọn đúng.
GCC chọn Camus, cũng quá đúng, bảnh hơn cả Vargas
Llosa, vì lúc đầu, mê chính trị, chọn Sartre, chỉ đến khi
nghe Sartre phán, "Trước đứa trẻ chết đói, cuốn Buồn Nôn [của ông]
không đáng đồng xu teng", bèn bye bye, vì nhớ Sartre đã từng phán,
chữ là hành động.
Nhưng sau đó, có dịp sửa sai, khi khủng bố
rớt trúng ông.
Dịch là “Những chữ”, là đúng ý Sartre,
vì GCC nhớ là, trong đó, Sartre tiên đoán về mình, sẽ chết
giữa những con chữ.
TTT cũng chê Camus, và không có dịp để
sửa sai như Vargas Llosa.
Trước một đứa trẻ chết đói,
cuốn "Buồn Nôn" chẳng là gì cả.
Phụ trang văn học báo Thế Giới, số
tháng Tư 2001, đặc biệt về triết gia người Pháp, Jean-Paul Sartre
("Người ta đã xong chưa, với Sartre?"), đã ghi lại câu trên,
được phát biểu trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo này, vào năm
1964: "En face d’un enfant qui meurt, la Nausée n’a pas de poids":
Trước đứa trẻ đang chết…. Nhưng cũng chính trong phụ trang văn học
nói trên, trong cuộc phỏng vấn nhà văn Peru,
Mario Vargas Llosa, câu trên lại là: "… La Nausée
ne fait pas de poids ‘face à un enfant qui meurt de faim’: cuốn
Buồn Nôn chẳng có ký lô nào ‘trước một đứa trẻ chết đói’.
Sartre đã ảnh hưởng tới "một vài" thế hệ những
nhà văn, trong số đó, có Llosa. Khi được hỏi, phải chăng, "Sartre
ảnh hưởng rất nhiều ở nơi ông, cả hai mặt tích cực và tiêu
cực", Llosa đã trả lời, "Đúng như vậy, Sartre quan trọng số một trong
thời trẻ của tôi, cho tới khi tôi dãn ra, tới độ phủ nhận ông…. Cú
sốc đưa đến chuyện đoạn tuyệt vô phương hàn gắn, đó là từ câu tuyên
bố của Sartre, trong cuộc phỏng vấn trứ danh trên tờ Le Monde và năm
1964, như trên. Sartre còn nói thêm, đối với những nhà văn thuộc thế
giới thứ ba, họ nên từ bỏ viết, lo những công tác giáo dục hay chính
trị. Đây đúng là một sự phản bội, từ một con người đã từng dậy tôi
(Llosa) rằng, "những chữ là những hành động." (les mots sont des actes).
Thật khó mà nói, "đã xong
rồi", với một tác giả khổng lồ như Sartre. Khổng lồ, cả về hai
mặt vinh quang và lỗi lầm. Dấn thân hết mình, về cả hai mặt, sống
và viết. Như câu tuyên bố của ông cho thấy, Sartre không tin tưởng
cho lắm vào văn chương. Ở một chỗ khác, ông viết, "Ham viết, thèm viết,
một cách nào đó, là chối từ sống." ("L’appétit d’écrire enveloppe
un refus de vivre."). Tuy nhiên, số lượng tác phẩm của ông thật khổng
lồ, hầu hết do Gallimard xuất bản: Tưởng tượng (L’Imagination, 1936);
Buồn Nôn (1938) Bức Tường; Phác họa một lý thuyết về cảm xúc (1939);
Giả tưởng (L’Imaginaire,1940); Những Con Ruồi (kịch); Hữu Thể và Hư
Vô (1943); Phê bình lý luận biện chứng (1960)… Ông đã ảnh hưởng tới
rất nhiều nhà văn của hậu bán thế kỷ 20, thường thường, lúc đầu họ
đều mê ông, như trường hợp nhà văn người Peru
kể trên. Hoặc như trường hợp nhà văn người Đức, Guenter
Grass Nobel văn chương. Grass cho rằng, khi chọn Camus thay cho
Sartre, một cách nào đó, ông đã đúng, ít ra là đối với riêng
ông: như là một nhà văn. Llsosa, trong một bài tiểu luận nhan đề
"Giữa Sartre và Camus", đã chọn Camus.
Koestler, qua cuốn tiểu sử của ông, coi Bức Tường
là truyện ngắn hay nhất viết về Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha.
The Mandarin
Of all the
writers of my time, there were two that I preferred above all
others and to whom I was most indebted in my youth. One of them,
William Faulkner, was well chosen for he is an author that any aspirant
novelist should read. He is perhaps the only contemporary novelist
whose work can be compared, in volume and in quality, with the great
classics. The other, Sartre, was less well chosen: it is unlikely that
his creative work will last and although he had a prodigious intelligence
and was, on balance, an honest intellectual, his ideas and his position
on issues were more often wrong than right. Of him we can say what Josep
Pla said of Marcuse: that he contributed, with more talent than anyone
else, to the confusion of our times.
Mario Vargas Losa
Trong tất
cả những nhà văn của thời của tôi, có hai đấng mà tôi mê
nhất, mang nợ nhiều nhất, vào thời trẻ.
Một, William Faulkner, chọn đúng bong, quá bảnh,
bởi ông là một tác giả mà bất cứ thằng chó nào lăm le viết
văn, viết tửu thiết, cũng nên đọc! Ông có lẽ là tiểu thuyết gia
đương thời độc nhất mà tác phẩm có thể so sánh, về bề dầy cũng như
phẩm chất, với những đấng sư phụ cổ điển nhớn nhao, vĩ đại.
Một, Sartre, chọn lựa không khấm khá: có vẻ
như tác phẩm mang tính sáng tác của ông không trường thọ, mặc
dù ông thông minh có thừa, và ông, nếu có nói đi thì phải nói lại,
là một tay trung thực, lương thiện, những tư tưởng và vị trí của
ông, thì trật nhiều hơn trúng.
Về Sartre, chúng ta có thể lấy câu của Josep
Pla, nói về Marcuse, để nói về ông, trúng ngay bong:
Bằng tài năng Sartre đóng góp, nhiều hơn bất
cứ một ai, vào cái phần, làm nhiễu nhương thêm, cho thời của
chúng ta!
Tuyệt!
Vargas Llosa: Quan
Sartre [The Mandarin]
TV post 1 đoạn trong tiểu sử của Koestler,
trong có nhắc tới Bức Tường.
KOESTLER WAS REASONABLY SURE that most
of his literary and political allies in France were to be found
among that small group of writers known as existentialists. He
considered Sartre's short story "The Wall" to be "the profoundest
thing ever written" on the Spanish Civil War, and was aware
that Sartre had coined the term existentialism to describe a philosophy
of the cosmic loneliness and freedom of the individual that obligated
him, in a cold and unfeeling world, to shoulder his ethical responsibilities
and commit to some form of political activism. Sartre in turn had
been influenced by Koestler's Dialogue with Death; and Andre Gide
had noted of Scum of the Earth
that it was "the best possible illustration of Sartrism - if not
of existentialism proper." Sartre was its acknowledged prophet, and
his recently published novel, The Age of Reason, one of existentialism's
bibles. Another prophet was Albert Camus, whose "absurdist" works,
The Stranger
and The
Myth of Sisyphus, were obligatory reading for French intellectuals
of the period; and the third, decidedly junior, musketeer of existentialism
was Sartre's lifelong partner, Simone de Beauvoir, nicknamed "Castor,"
or "the Beaver," whose novel The Blood of Others, along with her
essays, had helped to popularize the new philosophy among the young.
Michael Scammell: Koestler
Cũng trong đoạn này, tác giả
kể là, de Beauvoir thức suốt đêm đọc ngấu nghiến Đêm Giữa
Ban Ngày, và cảm thấy rất ấn tượng, hớp hồn, 'enthrallling'.
Anne Applebaum nhận xét về nó mới khủng: Chỉ
nó, và bạn của nó, là Trại Loài Vật, tránh
cho Âu Châu không bị nhuộm đỏ.
Note: Gõ Bác Gúc.
Quả đúng như GCC phán, Les Mots, tự thuật, autobiography. https://en.wikipedia.org/wiki/The_Words_%28book%29
Bản tiếng Anh, cũng đúng như GCC phán, The Words.
Ngôn từ cái con khỉ!
Hay ngôn tình, nhe, chịu không?
NQT
Viết thứ văn chương rửa rau như rửa bướm mà cũng bày đặt dịch
Sartre!
Cái môn sử mà VC nhồi nhét vô đầu con nít, sở
dĩ giờ này lâm đại họa, vì nó quá nhảm. Làm đếch gì có Lê Văn Tám,
thí dụ, và gần đây nhất, là cuộc chiến Mít: Từ trẻ con tới người
lớn xứ Bắc Kít bây giờ thì mới ngã ngửa ra rằng thì là, hóa ra Ngụy
chúng sướng hơn Cách Mạng nhiều, và rõ ràng là chúng “người” hơn
nhiều so với thứ được trồng bằng Cái Ác Bắc Kít.
Không chỉ sử, mà có thể nói cả 1 nền giáo dục
Bắc Kít cần phải xóa sổ, vì đó là 1 nền giáo dục dậy con nít hận
thù.
Cái chết của Bắc Kít, là dậy con nít thù hận.
Borges bị Naipaul chửi là cả đời mân mê cái bất
tử, đếch thèm để ý đến đời thực.
Không đúng. Cả đời Borges, bất cứ khi nào ông
quan tâm đến đời thực, là thực sự quan trọng, hết sức cần thiết.
Ông phán, Lò Thiêu, sở dĩ xẩy ra, là vì nước
Đức dậy con nít thù hận. Cái thù hận sắc dân chỉ là cái cớ, dậy
con nít thù hận mới là cái chết của nước Đức.
Hai phát giác thần sầu của Borges liên quan tới Nazi,
đều có gì mắc mớ tới Bắc Kít, và cuộc chiến vừa qua, theo GCC.
Thứ nhất, là nền giáo dục hận thù gây họa.
Thứ nhì, Borges tin rằng Hitler không hề muốn thắng,
mà muốn thua, muốn bại trận.
Gấu chẳng đã từng kể câu chuyện anh bạn cùng học
thời trung học NKL, đi tù cải tạo, 1 lần chuyển trại, đói quá,
được 1 bà già Bắc Kít lén cho ăn. Nhìn anh ăn vội vàng, lén lút,
bà than, các cháu đánh đấm ra làm sao mà để thua giặc dữ. Già
này đêm ngày cầu nguyện cho Miền Nam giải phóng Đất Bắc.
Nguyễn Chí Thiện mà chẳng thế sao. Ở tù VC, khi
nghe tin Miền Nam thua trận, ông quá đau lòng.
That crowded day gave me three
heterogeneous surprises: the physical happiness
I experienced when they told me that Paris had been liberated; the
discovery that a collective emotion can be noble; the enigmatic and
obvious enthusiasm of many who were supporters of Hitler. I know that
if I question that enthusiasm I may easily resemble those futile hydrographers
who asked why a single ruby was enough to arrest the course of a river;
many will accuse me of trying to explain a chimerical occurrence. Still,
that was what happened and thousands of persons in Buenos Aires can bear
witness to it.
From the beginning, I knew that it was useless
to ask the people themselves. They are changeable; through their practice
of incoherence they have lost every notion that incoherence should
be justified: they venerate the German race, but they abhor "Saxon"
America; they condemn the articles of Versailles, but they applaud
the marvels of the Blitzkrieg; they are anti-Semitic, but they profess
a religion of Hebrew origin; they laud sub-marine warfare, but they vigorously
condemn acts of piracy by the British; they denounce imperialism, but
they vindicate and promulgate the theory of Lebensraum;
they idolize San Martin, but they regard the independence of America
as a mistake; they apply the canon of Jesus to the acts of England, but
the canon of Zarathustra to those of Germany.
I also reflected that every other uncertainty
was preferable to the uncertainty of a dialogue with those siblings
of chaos, who are exonerated from honor and piety by the infinite repetition
of the interesting formula I am Argentine.
And further, did Freud not reason and Walt Whitman not foresee that
men have very little knowledge about the real motives for their conduct?
Perhaps, I said to myself, the magic of the symbols Paris and liberation is so powerful
that Hitler's partisans have forgotten that these symbols mean a
defeat of his forces. Wearily, I chose to imagine that fickleness
and fear and simple adherence to reality were the probable explanations
of the problem.
Several nights later a book and a memory enlightened
me. The book was Shaw's Man and Superman; the passage
in question is the one about John Tanner's metaphysical dream, where
it is stated that the horror of Hell is its unreality. That doctrine
can be compared with the doctrine of another Irishman, Johannes Scotus
Erigena, who denied the substantive existence of sin and evil and declared
that all creatures, including the Devil, will return to God. The memory
was of the day that is the exact and detested opposite of August 23,
1944: June 14, 1940. A certain Germanophile, whose name I do not wish
to remember, came to my house that day. Standing in the doorway, he
announced the dreadful news: the Nazi armies had occupied Paris. I felt
a mixture of sadness, disgust, malaise. And then it occurred to me that
his insolent joy did not explain the stentorian voice or the abrupt proclamation.
He added that the German troops would soon be in London. Any opposition
was useless, nothing could prevent their victory. That was when I knew
that he too was terrified.
I do not know whether the facts I have related
require elucidation. I believe I can interpret them like this: for
Europeans and Americans, one order-and only one is possible: it used
to be called Rome and now it is called Western Culture. To be a Nazi
(to play the game of energetic barbarism, to play at being a Viking,
a Tartar, a sixteenth-century conquistador, a Gaucho, a redskin) is,
after all, a mental and moral impossibility. Nazism suffers from unreality,
like Erigena's hells. It is uninhabitable; men can only die for it, lie
for it, kill and wound for it. No one, in the intimate depths of his
being, can wish it to triumph. I shall hazard this conjecture:
Hitler wants to be defeated. Hitler is collaborating
blindly with the inevitable armies that will annihilate him, as the metal
vultures and the dragon (which must not have been unaware that they
were monsters) collaborated, mysteriously, with Hercules.
J.L. Borges
Borges kể là ngày 14 June
1940, một tay nói tiếng Đức mà tên của người này, ông không muốn
nói ra, tới nhà ông. Đứng tại cửa, anh ta báo tin động trời: Quân
đội Nazi đã chiếm đóng Paris.
Tôi [Borges] thấy trong tôi lẫn
lộn một mớ cảm xúc, buồn, chán, bịnh.
Thế rồi Borges bỗng để ý tới 1
điều thật lạ, là, trong cái giọng bề ngoài tỏ ra vui mừng khi báo tin
[30 Tháng Tư, nói tiếng Bắc Kít, mà không mừng sao, khi Nazi/VC chiếm
đóng Paris/Sài Gòn!], sao nghe ra, lại có vẻ như rất ư là khiếp
sợ, hoảng hốt?
Hà, hà!
Thế rồi anh ta phán tiếp, Nazi/VC
sẽ không tha London. Và không có gì ngăn cản bước chân của Kẻ
Thù Nào Cũng Đánh Thắng!
Và tới lúc đó, thì Borges hiểu,
chính anh ta cũng quá khiếp sợ!
Cũng tới lúc đó, Borges hiểu
ra "chân lý": Hitler muốn thua trận: Hitler wants to be
defeated.
Đọc tới đó, thì Gấu nhớ ra
cái bà già nhà quê Bắc Kít đã từng lén VC cho bạn của Gấu, sĩ quan
cải tạo 13 niên, tí ti đồ ăn, trong 1 lần chuyển trại tù. Bà lầm bầm,
khi nhìn bạn của Gấu nuốt vội tí cơm, các cháu đánh đấm ra làm
sao mà để thua giặc dữ. Già này ngày đêm cầu khẩn các cháu ra giải
phóng Đất Bắc Kít!
Displays of hatred are
even more obscene and denigrating than exhibitionism. I defy pornographers
to show me a picture more vile than any of the twenty-two illustrations that
comprise the children's book Trau keinem Fuchs auf gruener Heid und
keinem Jud bei seinem Bid [Don't Trust Any Fox from a Heath or Any
Jew on his Oath] whose fourth edition now infests Bavaria. It was first
published a year ago, in 1936, and has already sold 51,000 copies. Its
goal is to instill in the children of the Third Reich a distrust and animosity
toward Jews. Verse (we know the mnemonic virtues of rhyme) and color
engravings (we know how effective images are) collaborate in this veritable
textbook of hatred.
Take any page: for example, page 5. Here I find, not without
justifiable bewilderment, this didactic poem-"The German is a proud
man who knows how to work and struggle. Jews detest him because he is
so handsome and enterprising" -followed by an equally informative and
explicit quatrain: "Here's the Jew, recognizable to all, the biggest scoundrel
in the whole kingdom. He thinks he's wonderful, and he's horrible." The
engravings are more astute: the German is a Scandinavian, eighteen-year-old
athlete, plainly portrayed as a worker; the Jew is a dark Turk, obese and
middle-aged. Another sophistic feature is that the German is clean-shaven
and the Jew, while bald, is very hairy. (It is well known that German
Jews are Ashkenazim, copper-haired Slavs. In this book they are presented
as dark half-breeds so that they'll appear to be the exact opposite of the
blond beasts. Their attributes also include the permanent use of a fez, a
rolled cigar, and ruby rings.)
Another engraving shows a lecherous dwarf trying to seduce
a young German lady with a necklace. In another, the father reprimands
his daughter for accepting the gifts and promises of Solly Rosenfeld,
who certainly will not make her his wife. Another depicts the foul body
odor and shoddy negligence of Jewish butchers. (How could this be, with
all the precautions they take to make meat kosher?) Another, the disadvantages
of being swindled by a lawyer, who solicits from his clients a constant
flow of flour, fresh eggs, and veal cutlets. After a year of this, the
clients have lost their case but the Jewish lawyer "weighs two hundred
and forty pounds." Yet another depicts the opportune expulsion of Jewish
professors as a relief for the children: "We want a German teacher;' shout
the enthusiastic pupils, "a joyful teacher who knows how to play with us
and maintain order and discipline. We want a German teacher who will teach
us common sense." It is difficult not to share such aspirations.
What can one say about such a book? Personally I am outraged,
less for Israel's
sake than for Germany's,
less for the offended community than for the offensive nation. I don't know if the world can do without
German civilization, but I do know that its corruption by the teachings
of hatred is a crime.
[1937]
Jorge
Luis Borges: Selected Non-Fictions,
Penguin Books
Người dịch: Suzanne Jill Levine
*
Note: Tình cờ vớ được bài trên, Sư Phạm của Hận Thù, đọc, Gấu bỗng nhớ
đến bài viết Còn Lại Gì?của PTH,
thí dụ, những đoạn dậy toán bằng đếm xác Mỹ Ngụy...
I don't know if the world can
do without German civilization, but I do know that its corruption
by the teachings of hatred is a crime.
Tôi không biết thế giới làm ăn ra sao, nếu thiếu nền văn
minh Đức, nhưng tôi biết, cái sự sa đọa, hư ruỗng của nó, do dậy dỗ
hận thù, và đây là 1 tội ác.
Cái
việc dậy con nít hận thù là một tội ác. Cái sự thắng trận và băng hoại
sau đó, chính là do dậy con nít thù hận.We want a German
teacher who will teach us common sense: Chúng em muốn 1 ông thầy
dậy chúng em lương tri. (1)
Borges có mấy
bài viết, có tính "dấn thân, nhập cuộc", được gom lại thành 1 cục,
có tên là "Ghi chú về Đức & Cuộc Chiến", trong tuyển tập Selected Non-Fictions, Penguin Books.
Bài trên, như
tiên tri ra được Bắc Kít sẽ thắng cuộc chiến Mít, nhờ dạy con nít
thù hận.
Còn bài nữa, cũng tuyệt lắm: "Một cuộc triển lãm gây bực
mình", “A Disturbing Exposition”. Bài này thì lại mắc mớ đến cái vụ
khu trục đám nhà văn Ngụy ra khỏi nền văn học VC.
Bài dịch này, cũng là từ hồi mới
qua Canada, 1997. Ng. Tuấn Anh cũng là bút hiệu của Gấu Cà Chớn
Đọc bản tiếng
Anh 1 phát, là trúng đòn liền, vì Gấu cũng
1 thứ không thương Mẹ mình, và đây là độc hại di truyền từ
bà nội Gấu.
Bà rất thù cô con dâu, và
đổ diệt cho mẹ Gấu, vì ngu dốt quá, khiến chồng bị chúng
giết.
Bà
cụ Gấu do tham phiên chợ cuối năm 1946, tại Việt Trì, và
khi trở về làng quê bên kia sông, tay thủ lãnh băng đảng
chiếm Việt Trì lúc đó, là 1 tên học trò của ông cụ, đã
đưa cái thư mời dự tiệc tất niên, nhờ bà đưa cho chồng. Nhận
được thư, đúng bữa ba mươi Tết, ông cụ đi, và mất tích kể từ
đó. Gấu đã viết về chuyện này trong Tự Truyện.
Lần trở lại đất Bắc, Gấu muốn tìm
hiểu coi cụ mất đích thực ngày nào, và thắp 1 nén
hương cho bố mình.
Bãi
sông Việt Trì, nơi ông cụ Gấu mất. Khi Gấu về, cầu đang
thi công. Gấu xuống xe, thắp hương, cúng, khấn
Bố.
Bà chị Gấu không xuống xe. Hình
như Bà chưa lần nào cúng Bố.
Cúng Mẹ thì lại càng không.
Note: Bản trường ca, hoá
ra là trang Tin Văn, chỉ để tố cáo Cái Ác Bắc Kít.
Kincaid viết về quê hương
của Bà:
Bạn cứ tới những nơi chốn, nơi
cái xiềng thuộc địa thật sự bằng thép, và tỏ ra
hết sức hữu hiệu: Phi Châu, vùng Caribbean, hay một nơi nào
khác trên địa cầu. Phi Châu là một thảm họa. Tôi không hiểu
đất đai con người ở đây rồi có ngày lành mạnh trở lại, hay là không.
Thật khó có chuyện, những ông chủ thuộc địa bỏ qua, không đụng
tới cái phần tâm linh của con người Phi Châu. Bởi vậy, chuyện tiểu
thuyết hóa là đồ dởm. Những người Phi Châu đối xử với nhau thật là
độc ác; bạn chỉ việc nhìn tất cả những con người đói khát đó thì
thấy. Làm sao có chuyện những ngài thủ lãnh Phi Châu nhìn vào mặt
con dân của họ, và rớt nước mắt? Họ cứ tiếp tục duy trì, theo một
con đường tệ mạt khốn kiếp, cái điều đã xẩy ra khi còn chế độ thuộc
địa. Sự thực, là bất cứ đâu đâu, cái gọi là di sản của chủ nghĩa
thuộc địa, đó là: độc ác, tàn nhẫn, trộm cướp. Cách những tên
thực dân đối xử: mild way, nhẹ nhàng thôi, đôi lúc có xoa đầu
những người dân cô lô nhần, bây giờ chúng ta đối xử với nhau, theo
một cách cay độc hơn, khốn kiếp hơn. Và bạn biết không, chúng ta
cứ mắm môi mắm lợi, lấy hết sức lực ra, full force, để mà "chơi"
nhau. Bởi vậy, có thể dưới luật thuộc địa, người Phi Châu ăn rất
ít; dưới luật của người Phi Châu, họ chẳng ăn gì hết - và cứ như
thế.
Có
1 cái gì đó, y chang xứ Bắc Kít, thời Pháp
Thuộc.
Khi vô Nam, là Gấu nhận ra liền,
xứ này không giống xứ Bắc Kít, và Gấu mơ hồ hiểu ra, sự
khác biệt là do đâu.Gấu nhớ, hồi mới vô Sài
Gòn, lần đầu vô 1 quán ăn xã hội, chỉ phải mua đồ ăn,
cơm tha hồ ăn, khỏi trả tiền, thằng bé Bắc Kít sững người, ú a ú ớ…. Rồi những lần đi chơi Bình
Dương, vào vườn chôm chôm, cũng tha hồ ăn, nhưng
đừng mang về, rồi, rồi, chỉ đến khi vô tù VC, thì mới gặp
lại xứ Bắc Kít ngày nào.
Note: Tên này, bữa trước, GCC có đọc 1 stt, qua ai đó
trích dẫn, phán, Mít phải cám ơn Tẫu!
Cái thái độ thù hận da trắng, thời thực dân, nó không
đơn giản như tên này nghĩ.
Rõ ràng là nếu thiếu sự thống trị của da trắng, mũi lõ,
không hiểu bộ mặt thế giới sẽ như thế nào.
Hannah Arendt có viết về đề tài này, từ từ TV trình ra.
Vẹm lợi dụng lòng hận thù này, gây ra cả hai cuộc chiến,
để hưởng lợi, chỉ cho 1 thiểu số, vừa ngu, vừa dốt, vừa độc, vừa ác,
trong có những tên như tên này.
Đây là 1 vấn nạn lớn, và, phải có đầu óc của 1 tên rộng
lượng, vị tha, bao dung… mới dám đụng vô.
Chính là Cái Ác Á Châu gây nên, là 1 cách giải thích,
của những người, trong đó, có Tolstaya, khi đọc Conquest, hay Updike,
khi đọc Mạc Ngôn, hay bà da đen Mẽo, gốc Jamaica, tự dưng GCC quên tên.
Phạm Quỳnh, vào những giây phút cuối cùng của đời mình,
trước khi bị lũ Vẹm đập nát đầu, còn phán, thiếu thằng Tẩy, là lũ
Mít khốn nạn.
Quả đúng như thế!
V/v Vẹm đập nát đầu PQ: Chúng tiếc 1 viên đạn, y chang
lũ Vẹm, VC, Bắc Kít, trong vụ Mậu Thân, đập đầu dân Huế, trước khi
đạp xuống hố chôn tập thể.
Tên này tởm thực. Cả thế giới chia buồn với Paris, với Tẩy,
hắn cảnh cáo tội ác thực dân của mẫu quốc ngày nào của xứ Mít.
Nhưng rõ ràng là thằng Tẩy không độc bằng thằng Bắc Kít.
Tẩy trong khi ăn cướp, còn thí cho tên cô lô nhần 1 tí nhân phẩm, tự
do. Bắc Kít lấy sạch. Chỉ trong vòng 40 năm, nó biến xứ Mít 4 ngàn
năm văn hiến thành 1 địa ngục.
Có nước nào, 1 đứa con nít, bị bắt vô bót VC, bị đánh chết,
luật sư cũng bị đánh, bị bắt?
Tẩy cho phép tư nhân ra báo,Vẹm, NO.
Thực vậy, đây là nỗi khốn khó của
thời đại chúng ta, mắc míu lung tung, đan xen lạ lùng giữa xấu và tốt,
đến nỗi, nếu không có "bành trướng để bành trướng" của những tên đế quốc,
thế giới chẳng bao giờ trở thành một; nếu không có biện pháp chính trị
"quyền lực chỉ vì quyền lực" của đám tư sản, cái sức mạnh vô biên của
con người chắc gì đã được khám phá; nếu không có thế giới ảo vọng, thiên
đường mù của những phong trào toàn trị, qua đó, những bất định thiết yếu
của thời đại chúng ta đã được bầy ra một cách thật rõ nét, như chưa từng
được bầy ra như vậy, thì làm sao chúng ta [lại có cơ hội]
bị đẩy tới mấp mé bên bờ tận thế, vậy mà vẫn không hay, chuyện gì đang
xẩy ra?
Và nếu thực, là, trong những giai đoạn tối hậu của chủ nghĩa
toàn trị, một cái ác triệt để xuất hiện, (triệt để bởi vì chúng không
thể suy diễn ra, từ những động cơ có thể hiểu được, của con người), thì
cũng thực, là, nếu không có chủ nghĩa toàn trị, chúng ta có thể chẳng
bao giờ biết được bản chất thực sự cơ bản, thực sự cội rễ, của cái ác.
Chủ nghĩa bài Do Thái (không phải chỉ có sự hận thù người
Do Thái không thôi), chủ nghĩa đế quốc (không chỉ là chinh phục), chủ
nghĩa toàn trị (không chỉ là độc tài) – cái này tiếp theo cái khác,
cái này bạo tàn hơn cái kia, tất cả đã minh chứng rằng, phẩm giá
của con người đòi hỏi một sự đảm bảo mới, và sự đảm bảo mới mẻ này, chỉ
có thể tìm thấy bằng một nguyên lý chính trị mới, bằng một lề luật mới
trên trái đất này; sự hiệu lực của nó, lần này, phải được bao gồm cho toàn
thể loài người, trong khi quyền năng của nó phải được hạn chế hết sức nghiêm
ngặt, phải được bắt rễ, và được kiểm soát do những thực thể lãnh thổ được
phân định mới mẻ lại.
Chúng ta không còn thể cho phép chúng ta giữ lại những cái
gì tốt trong quá khứ, và đơn giản gọi đó là di sản của chúng ta, hay
loại bỏ cái gì là xấu, giản dị coi đó là một gánh nặng chết tiệt mà tự
thân chúng sẽ bị thời gian chôn vùi trong lãng quên. Cái mạch ngầm của
lịch sử Tây phương sau cùng đã trồi lên trên mặt đất, và soán đoạt phẩm
giá của truyền thống của chúng ta. Đây là thực tại chúng ta sống trong đó.
Đây là lý do tại sao mọi cố gắng chạy trốn cái u ám của hiện tại, bằng hoài
vọng một quá khứ vẫn còn trinh nguyên, hay bằng một sự lãng quên có dự
tính về một tương lai tốt đẹp hơn: tất cả những cố gắng như vậy đều là vô
hiệu.
Arendt
Bạn đọc, đọc đoạn trên đây, rồi áp
dụng nó, một cách ‘thông minh và thiên tài’ vào lịch sử lập quốc của
Mít, xem có 'ngay tắp lự', không?
Cái đoạn Gấu gạch dưới là điều Mít cần làm, vào thời điểm
Mít "chúng ta [lại có cơ hội] bị đẩy tới mấp mé bên bờ tận thế,
vậy mà vẫn không hay, chuyện gì đang xẩy ra?"!
2.45 chiều 12/11
tại đồn CA phường Xuân La. Luật sư Trần Vũ Hải đứng trên ban công
tầng 2 nói vọng xuống sân, với hàng chục dân oan và nhà hoạt động
nhân quyền: "Sáng nay họ bắt tôi trước mặt vợ tôi, con tôi, lôi tôi
lên xe như một con chó, con lợn. 10 người mặc thường phục, không giấy
tờ, không lệnh bắt. Tôi sẽ chờ ông Nguyễn Đức Chung để làm rõ việc
này. Tôi cần họ ký vào biên bản xác nhận họ bắt giữ người trái pháp luật,
làm rõ ai là người ra lệnh bắt tôi".
Bà con vỗ tay
hưởng ứng. Sau đó, CA và dân phòng bắt đầu bu lại, tìm cách xua mọi
người ra khỏi sân, với lý do: "Đây là trụ sở của chúng tôi, nhà riêng
của chúng tôi".
Note:
Nhà nước Vẹm hiện nguyên hình, nhà nước của 1 lũ côn đồ. Ở ngay
thủ đô của chúng, chúng muốn bắt ai là bắt.
Đây là hiện tượng giẫy chết, nhưng cho tới lúc chúng
chết, là cũng còn nhiều gian khổ.
Đây cũng là đòn nhơ bửn của Vẹm, từ khi “mới ra đời”,
thời kỳ 45. Bắt cóc, thủ tiêu, ám sát, sử dụng côn đồ… khi đổ bể
thì kêu là “quần chúng tự phát”.
Ui chao, như thể ông già của Gấu, trước khi bị tên học
trò làm thịt, đã nhìn ra cảnh tượng hiện tại, và để lại cho đám con
của ông, niềm hãnh diện, tự hào, tụi mi không phải là con của 1 tên
Vẹm!
Tks. Dad!
V/v ông Diệm bị làm thịt. Theo GCC, Diệm chết
vì không chịu cho Mẽo đổ quân, và làm trái ý Mẽo, là chúng
thịt.
GCC đã có kinh nghiệm vụ này, khi làm bồi
Mẽo, và đã kể ra rồi, trên TV. Chúng tới xứ Mít, đầy thiện ý, biểu
không nghe, là thịt.
Đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng.
Bắc Kít nắm được tẩy Mẽo, mới phịa ra cú đầu độc tù,
nhân đó, thành lập MTGP. Mẽo hoảng quá, nhảy vô, Diệm cản, thịt!
Pico, đệ tử của Greene,
giải thích: It points out that innocence and idealism
can claim as many lives as the opposite, fearful cynicism.
Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại,
đầu đầy ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta sẽ
dậy một nền văn hóa cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn
- thì cứ nói huỵch toẹt ra ở đây, đường lối, cách hành xử, lối
sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh ta ở đó, bảo vệ chính anh ta,
trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như thế, bằng cách khuyên anh
ta đừng để ý đến cái gì hết. Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít,
sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai
"Người Mẽo trầm lặng" của GG, được viết
năm 1955, và đặt để ở Việt Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra
cuộc nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc
địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác tình, là 1 tam
giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và Á, với những nhân vật, như là những biểu
tượng, những con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với những đau
thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc
đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác của GG, và
luôn có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh kinh cá nhân. Rõ ràng
là, nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi
đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác tình của GG diễn ra ở mọi khách
sạn khác. Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere,
bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.
Điều cuốn sách thọi tôi, sâu thẳm
hơn, riêng tư hơn nhiều. Cuốn tiểu thuyết đòi hỏi mọi người trong
chúng ta, muốn cái gì từ 1 nơi chốn hải ngoại, và toan tính gì
với nó. Nó chỉ ra, cái ngây thơ và cái lý tưởng
có thể làm thịt rất nhiều mạng người, như cái đối nghịch với nó,
cái đểu cáng đáng sợ. Và nó nhắc nhở tôi rằng, thế giới thì rộng
lớn nhiều so với những ý nghĩ tư tưởng của chúng ta về nó, và như
thế nào, người thiếu phụ ở trong cuốn sách, cái cô Phượng, sẽ luôn luôn
ở bên ngoài một vòng ôm của 1 tên mũi lõ. Nó còn ôm trọn những mảnh
miểng hiểu biết - cái nền của tôi - Á, Anh, Mẽo – vào trong cùng thai
đố.
Giấc
mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng bật
ra, khi Greene, trên đường trở về Sài
Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như
ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways
of Escape. "Cách đây
chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng
LeRoy, tham quan
vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay
vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên
mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ. Bản nhạc
đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh
tôi. Tôi dùng
chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là
CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members
were assumed by the French, probably correctly, to belong to the
CIA]. Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less
innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn,
về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam. Cho tới lúc
đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về
những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại
Phi Châu. Trong Người
Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding
– cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có
vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người
Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn
quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người
có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng,
một giải pháp, đối với Việt Minh CS." Greene rất chắc chắn, về nguồn của "Người Mỹ
trầm lặng": "Như vậy,
đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng
thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó,
những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm
thức bật ra."
Ways of escape
Nhân chuyện Miến Điện, Mít mong được như họ. Khó lắm.
Có thể vô phương. Miền Nam đã từng có dân chủ như Miến Điện, người
dân đi bầu, người họ chọn, y chang Miến Điện, còn hơn Miến Điện,
bởi vì Miến Điện còn khổ dài dài với vấn đề “nội thương” tôn giáo,
sắc dân. Nhìn như thế, mới ra tội ác của đám VC nằm vùng. Cái chết
của VC là còn do mắc míu với Tẫu. Bởi thế mà Tẩy vẫn khoe CS Mít có gốc
Tẩy. Chỉ 1 khi HCM trốn thoát sự canh chừng của Cớm Tẩy, qua Moscow, rồi
ăn lương Cớm Liên Xô, theo lệnh Xì về TQ, là kể như xong.
Quà Noel.
Tính đi Mẽo chơi, thăm bạn, vé mắc quá, Noel mà, Gấu Cái
lắc đầu, no money. Đành cầm tí tiền còm đi "sáchping".
Cuốn “microscripts” khủng lắm. Đây là 1 cách
viết do Walser phịa ra. Phương pháp “vi-viết”, micro-script method
Walter Benjamin không biết tới cách viết này,
khi viết về Walser.
Mới ra lò, 2012.
Từ từ, TV khoe hàng tiếp!
Note: “Ba tì”, sách cũ.
Cuốn này, chắc là trong nước chưa được đọc.
"Bóng Đêm giữa ban ngày", được, cả bản dởm, lẫn
bản thực.
Tin Văn post bài viết của… Nguyên Ngọc Niên
Xô, người khám phá ra Solz, mà như ông kể, đang nằm, đọc
vài dòng “Một Ngày”, bèn nhỏm dậy, tắm rửa 1 phát, đi 1 bộ đồ
lớn, rồi ngồi vô bàn...
Gấu đoán, NN chắc cũng làm như thế, khi phát
giác Tướng Về Hưu?
Thì NN cũng là 1… Tướng Về Hưu, suốt đời
sống bằng máu của kẻ khác, và bằng thịt lợn vỗ béo bằng
thai nhi!
Alexander
Tvardovsky, chủ biên tờ Novy Mir, vào năm 1961,
chỉ ít lâu trước khi trải qua trọn một đêm
không ngủ, đọc bản thảo của một tác giả vô danh
[Hình từ D.M Thomas: Solz. thế kỷ ở trong ta]
Nhưng câu chuyện của ông không phải của
chỉ đơn độc một thế kỷ. Khi Alexander Tvardovsky, chủ biên
tờ Novy Mir cho người vời nhà văn vô danh tới, để thảo luận
về bản thảo "Một ngày trong đời Ivan Denisovich", trên đường tới
gặp, Solz bèn ghé Quảng trường Strastnaya, đứng bên dưới tượng
Pushkin, chơi một pô hình, một phần, mong thi sĩ phù hộ [support:
hỗ trợ], một phần, hứa hẹn: Đàn em biết con đường phải đi theo.
Và sẽ đếch thèm xin thuận buồm xuôi gió! [I knew the path I must
follow and would not stray from it]. Một
thứ cầu nguyện, theo Thomas. Không
phải theo kiểu thường nhân ghé đứng chụp hình kế bên Shakespeare,
vừa tưởng niệm vừa hưởng tí vinh dự: Solz nhìn ở Pushkin như người
đồng thời của mình. Nhưng
cái cử chỉ, hành động ghé tượng Pushkin đã khiến Thomas có
một vision về cuốn sách mình sẽ viết. Nó làm ông nhớ đến bài
thơ hách xì xằng của Pushkin, Kỵ Sĩ Đồng, 1833.
Ui chao, lạ làm sao, nó làm Gấu nhớ tượng
Đức Thánh Trần và ngón tay của Người chỉ ra cửa biển Vũng Tầu!
NB. Dân trong nước đọc Một ngày trong
đời Ivan Denisovitch rất nhiều là khác, hoặc bản dịch trước 1975
của Sài Gòn, hoặc bản dịch gần đây của Đào Tuấn Ảnh.
Blog NL
Trở
lại huyền thoại “cục gạch hồng” của “Bác” người ta kể lại một
câu chuyện “tếu” như sau:
“Một phái đoàn Hà Nội được thành lập, lên
đường đi Paris, quyết tâm cao tìm cục gạch. Đến Pháp, họ tới
ngõ làm bánh mì ngày xưa, thăm hỏi, lục lọi nhiều nơi, nhiều ngày,
nhưng không ai nghe nói đến cục gạch của 'Bác.' Cuối cùng họ gặp
một bà đầm đầu tóc bạc, móm mém ở một góc phố. Kiên nhẫn, nhân viên
trong phái đoàn lập lại những câu hỏi về cục gạch.
-Các ông nói là các ông đi tìm cục gạch
để sưởi ấm những đêm Đông tại nhà trọ, ngõ này của ông Nguyễn?
-Vâng ạ, chúng cháu đang tìm cục gạch đó
ạ.
-Thế thì: Cục gạch, mà các ông đang đi tìm
chính là... tôi đây!
Note: Ông số 2, Trùm bộ lạc Cờ Lăng, thì thuổng
thơ của ông số 1
Nhân viết về ông Hồ thời kỳ đói
rét ở Paris ngày nào, Gấu sực nghĩ đến huyền thoại về viên
gạch đã từng mang lại chút ấm áp cho Bác.
Tình cờ , và thú vị làm sao, Gấu được đọc
một mẩu chát trên một diễn đàn, liên quan với vụ việc này. Xin
post lại, có bỏ đi một số chi tiết cá nhân.
-Bạn... ơi, bạn sang Pháp lâu chưa, hay bạn
đang ở nước nào thế? Mình chưa được đến thăm nhà Bác Hồ ở Paris,
nhưng cô giáo tiếng Pháp của mình bảo rằng tên phố Bác ở ngày
xưa là Compoint cơ, thế có đúng không hả bạn.
-Thế bạn TT có biết sự tích viên gạch sưởi
ở ngõ Công - Poăng không? Hay cực!
-Mình chỉ biết Bác Hồ dùng gạch để sưởi ấm
mùa đông thôi, mình không biết sự tích hòn gạch ấy thế nào bạn
ạ. Bạn có thể kể cho mình được không?
-Khéo bác... lại kể chuyện bác mang hòn
gạch lấy từ cái lò gạch sinh ra Chí Phèo sang Pháp cũng nên
-Ừ, vậy tớ kể chuyện viên gạch ngõ Công Poăng
cho các bạn nghe nhá.
Đầu những năm 70' của thế kỷ XX, sau khi Người
đã qua đời được vài năm, một tổ công tác chính trị được thành
lập. Đa số các thành viên của tổ là các khoa học gia về bảo tồn,
bảo tàng, lịch sử và khảo cổ học. Đó là tiền thân của Bảo tàng HCM
sau này.
Nhiệm vụ của tổ công tác là đi khắp đất nước,
và một số địa điểm ngoại quốc để sưu tầm tư liệu, vật dụng hàng
ngày... của Người trong thời gian Người bôn ba hải ngoại để tìm
đường cứu nước. Một nhóm công tác đặc biệt được cử sang Pháp
cũng không ngoài mục đích đó.
Một nhiệm vụ cụ thể của nhóm công tác là
tìm hiểu về sự thực chuyện viên gạch Người dùng để sưởi ấm mùa
đông khi Người đang là anh thanh niên 25 tuổi đẹp trai nhưng
nghèo khổ ở Paris, sống ở nhà số 9 ngõ Công Poăng. Nhà số 9 Công
Poăng tầng dưới là quán cà phê, tầng trên Người thuê ở, người làm
nghề rửa ảnh. Phòng kê vừa một cái giường, hai cái ghế một cái bàn con.
Nhóm công tác đã phỏng vấn nhiều người
dân sống trong khu vực này cùng thời với sự kiện viên gạch,
và kết quả là không có người dân nào biết về sự kiện này.
Đến ngày cuối cùng trong thời gian làm việc.
Nhóm công tác tình cờ gặp một bà cụ già 70-80 tuổi nhăn nheo
móm mém nhưng vẫn còn giữ lại một chút nhan sắc thời trẻ sống
tại nhà số 11 ngõ Công Poăng. Khi được hỏi về sự kiện viên gạch Người
dùng sưởi ấm trong mùa đông giá rét ở Paris, bà cụ già công
nhận là có biết chuyện này. Nhóm công tác mừng rỡ và đề nghị bà cụ
giúp đỡ để tìm lại viên gạch để mang về Việt Nam, bà cụ gật đầu mỉm
cười duyên dáng và nói:
- "Viên gạch đó chính là tôi đây!"
Thảo Trường, hồi chưa đi xa, mê giai thoại
lắm, anh mail, hỏi thăm bà đầm, Gấu trả lời, chắc là biệt kích
của Vẹm làm thịt rồi!
Gốc gác của giai thoại này, là từ 1 website
ở trong nước. Do Gấu chôm về Tin Văn, bài gốc bèn bị delete,
cái tay moderator bị bay chức, không hiểu có còn bị gì thêm không.
Bữa trước GCC có lèm bèm về đấng Trùm Tạp
Ghi hải ngoại này,
viết, bất cứ cái gì, là bèn giở giọng đạo đức, và quái làm
sao, làm Gấu nhớ tới Primo Levi, nhưng rõ ra là, 1 thật, 1 giả.
Tếu thế!
Thì cũng cùng giọng ông số 2.
“Perhaps the greatest danger
of our global community is that the person in LA thinks he knows
Cambodia because he's seen The Killing Fields on-screen, and
the newcomer from Cambodia thinks he knows LA because he's seen
City of Angels on video.”
Cái nguy hiểm nhất của cộng động toàn cầu,
là, ngồi ở LA phán, tớ biết Cam bốt, vì mới xem phim “Cánh đồng
giết người”. Và 1 tên Cam bốt mới nhập Mẽo phán, tớ biết LA,
vì mới coi video “Thành phố của những thiên thần”
Hình ảnh 1 người chết đói ở hông Chợ Bến Thành, GCC đọc
trong bài viết của ông số 2, khi vừa mới ra hải ngoại.
Thế là nhớ hoài.
Trên Tin Văn còn 1 giai thoại về Bác Hồ, và
cái này thì hoàn toàn của Gấu.
Hồi ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, Gấu
thoát chết nhờ mua được cái chân Y Tế Đội, chuyện này kể rồi.
Nhưng để sống, có tí văn nghệ thoải mái, thì là nhờ tài quay phim
[kể chuyện chưởng, chuyện tiếu lâm]. Tiếng đồn đến tay mấy đấng TNXP
chức sắc nông trường. Thế là 1 bữa mấy ảnh nhậu, cho người kêu Gấu.
Gấu ra điều kiện, kể thì kể, nhưng đừng bắt tội, nhe.
OK.
Cái chuyện tiếu lâm này, cũng đã từng kể trên
TV, thực sự, là từ 1 phim ngoại quốc, Gấu coi từ hồi nào, trong
có 1 nhân vật, thù ông bố quá, và anh ta, làm nghề sửa xe hơi, cứ
mỗi lần cầm cái búa gõ lên cái xe bị đụng méo mó, là bèn nghĩ, đang
gõ lên đầu ông già mình!
Có 1 đội banh Miền Bắc, thi đấu trận nào thắng
trận đó, và đám phóng viên mới hỏi ông bầu, sao hay vậy. Ông
bầu bèn trả lời, mỗi lần ra quân là tôi kêu cả đám tới, dặn, chỉ
1 câu.
Câu gì mà ghê vậy?
Tụi mi mỗi lần đá trái banh, thì cứ tưởng tượng,
đó là đầu Bác Hồ!
Chuyện này, thì cũng giống chuyện, giả như hồi
đó đó, Bác làm bồi tầu, rửa chén không sạch, bị đại bàng đánh
chết, như cháu ngoan Bác Hồ, Đỗ Đăng Dư, thì thật đỡ khổ cho dân
Mít, của NLT
Ông đã gả cô dâu là chủ nghĩa quốc gia cho chú rể chủ nghĩa
cộng sản
và hoàn thiện tới mức tối hảo nghệ thuật giết người, là
chiến tranh du kích.
Thời Báo, Time, số đặc biệt, “Những nhà lãnh đạo &
Những nhà cách mạng”
Tháng Tư 1998
Le philosophe André Glucksmann est mort
André Glucksmann,
thuộc trào lưu "triết học mới", trong những năm 1970; tác
giả cuốn "La Cuisinière et le mangeur d’hommes, Essai sur l'État,
le marxisme, et les camps de concentration" ("Bếp ăn và kẻ ăn thịt
người, Luận về Nhà nước, chủ nghĩa Marx, và những trại tập trung",
nhà xb Seuil, 1975). Ông còn là một trong những thành viên của Ủy
Ban kêu gọi "Một Chiếc Tầu Cho Việt Nam",
thời gian 1979, gồm Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, Raymon
Aron, và một số thành viên khác như Bernard Kouchner, người sáng
lập tổ chức "Y Sĩ Không Biên Giới".
Assistant de Raymond Aron à la Sorbonne, il participe aux
événements de mai 1968 et publie ses premiers ouvrages consacrés
à la géopolitique - "Le Discours de la Guerre" (L'Herne, 1967), "Stratégie
et Révolution en France" (1968). Il porte le courant maoïste
pendant les années 1970 avant de rompre avec le marxisme en 1975
après avoir lu "L'Archipel du goulag" de Soljenistyne. Vient alors
"La Cuisinière et le mangeur d’homme" (Seuil, 1975) qui se
vend à des dizaines de milliers d'exemplaires.
Classé parmi les "nouveaux philosophes", il devient
un visage connu du grand public et plaide auprès de Valérie
Giscard d'Estaing pour la cause des "boat people" en 1979.
1979: Ba triết
gia Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, và Raymon Aron trong cuộc
họp báo "Một con tầu cho Việt Nam" [Un bateau pour le Viêtnam].
[Hình từ báo Văn Học Pháp, Magazine Littéraire,
số đặc biệt 1966-1996: La passion des idées, đam mê tư tưởng.]
26 Tháng sáu,1979: Một Con Tầu Cho
Việt Nam.
Vô Elysée xin xỏ. OK. Trở ra.
Foreword: A Mix of Silk and Iron
Liu Xia's poems are inevitably lyrical
and inescapably documentary. They take her real life and
put it on poetic record. Their sentences oppress, their images
are both matter-of-fact and full of despair:
When the show is over,
I stay on stage with myself:
one of me is tearful
the other laughing loudly.
Or: "I've been looted."
Or: "My mind is filled with straw."
Or: "You love your wife and are proud
she stays with you."
Of course, we realize this woman
is the wife of Liu Xiaobo, the Nobel laureate from China and
that country's most famous political prisoner, now in his fifth
year of his eleven-year sentence. His crime: the Charter 08
manifesto, which far from making aggressive demands offered measured,
even cautious suggestions for converting China's communist, one-party
system into a free and humane society. For that, he was given eleven
years of prison, and his wife is subjected to constant surveillance,
house arrest, isolation. Day in and day out she is unable to take
a single step that goes unwatched. And this is the
merciless substance of these poems,
their point of departure.
Meanwhile, the regime is not content
to torment Liu Xia alone for her husband's outspokenness, but
has extended its retribution to other family members. To unsettle
her further, they have arrested Liu Xia's brother on a ridiculously
trumped-up charge. Despotism plain and simple.
I n her poem "Snow," the author evokes
her brother's birthday. I freeze on the inside when I read
the sentence:
it must be hard to be my brother.
Out of this pain come the pangs
of conscience, the creeping guilt, simply because nothing
can be done about the groundless punishment this big state
is inflicting on this small brother, this "little
brother" who was born on the "Day of
Great Snow." Simple contrasts on a steep poetic slope. Clear
in their helplessness, lapidary but still tender. A quiet imploring
is also a loud clamor. Liu Xia's poems are a mix of silk and iron.
Because while iron political despotism rules outside, intimacy
with all its hardships reigns within, the enigma of strong emotion.
Over and over we read about time,
"the ladder of time."
Or: "Death from twenty years ago
returns- / it comes and goes
like time."
Here in these poems, time is exactly
what it is in the everyday life of the author: stolen by the
state. No matter how many details we examine, the longer we look
at the particulars, we cannot escape the horrifying insight: the
full length of stolen time is nothing less than stolen life.
Liu Xia's poetry is about self-assertion
in a stolen life. Her poems possess a dignity that always manages
to arise anew whenever it is battered down.
It is only when a child is alone
that he starts to become an adult, and it is only when
a person is alone that he can achieve maturity. Loneliness
is essential for adults. It encourages independence, and needless
to say, the ability to endure loneliness is indispensable for
strengthening character within social situations.
Sở dĩ Gấu được NMG mời viết
cho Văn Học, trả nhuận bút, tháng tháng, một trăm đô Mẽo một đường
Tạp Ghi, là vì "Người" có lần gật gù xoa đầu Gấu, ông "được" lắm,
chưa từng bao giờ gọi đám trong nước là "văn nô"!
Đám nhà văn VC mừng là vậy. “Nhân
loại” vẫn còn cần đến chúng ta. Hãy viết sao, làm bật ra
nỗi đau của dân Mít, là OK.
Trong những lời khen Mạc Ngôn, Gấu mê
nhất của Updike, trong bài “Tre Đắng”.
Đúng là tri kỷ của Mạc Ngôn và của
cái phần nhân loại Á Châu đời đời bị Cái Ác Á Châu hành
hạ, dọc theo suốt lịch sử. Cả hai thế giới, cũ, và thế kỷ 20,
thì đều là những hắc điếm, nhà thổ, của làm thịt người, tra tấn,
đói khát, và - đối với tập thể dân quê, lao động quá độ, quá
sức con người, thật là dã man, tàn bạo. Cả hai loại nhân vật được
đưa vô tiểu thuyết thì đều là những con người yếu ớt, không trưởng
thành nổi. Tuy nhiên, không giống như ba thứ nhân vật can đảm hơn,
dấn thân hơn, ở trong những cuốn biên niên giả tưởng, họ sống sót
để kể ra những câu chuyện của họ. Sự yếu đuối của họ, tự buông xuôi,
và chất thơ ca tự nhiên mà cả hai đều có thể có được, thì bèn dõng
dạc nói "Không" với những xã hội đã làm cho cuộc sống trên trái đất
trở thành địa ngục.
Những xã hội tồi tệ không khuyến khích
con người trưởng thành, làm người.
Liu Xia, wife of 2010 Nobel
Peace Prize winner Liu Xiaobo, reacts emotionally to an unexpected visit
by journalists from The Associated Press at her home in Beijing, China, on
Thursday, Dec. 6, 2012. Liu trembled uncontrollably and cried Thursday as
she described how her confinement under house arrest has been absurd and
emotionally draining in the two years since her jailed activist husband was
named a Nobel Peace laureate. Photo: Ng Han Guan / AP
“We live in such an absurd place. It is so absurd. I felt I was
a person emotionally prepared to respond to the consequences
of Liu Xiaobo winning the prize. But after he won the prize,
I really never imagined that after he won, I would not be able
to leave my home. This is too absurd. I think Kafka could not
have written anything more absurd and unbelievable than this.”
"Chúng tôi sống ở 1 nơi cực phi lý. Quá phi lý. Tôi
cảm thấy mình là 1 con người được sửa soạn, về mặt cảm xúc, đáp ứng
với những hậu quả việc chồng tôi được Nobel. Nhưng sau khi ông được
Nobel, tôi thực sự không thể nào tưởng tượng tôi không thể
rời căn nhà của mình. Điều này quá phi lý. Tôi nghĩ Kafka cũng chẳng
thể viết 1 cái gì phi lý, không thể tin được như là điều này"
Note: Nhìn bức hình
thì GCC lại nhớ đến Gấu Cái, lần đi thăm nuôi ở Đỗ Hòa.
Do bặt tin nhà, nhớ nhà quá, hoảng
quá, Gấu Già bèn vượt Trại, và, tất nhiên, bị tóm, bị
tống vô Tổ Trừng Giới, ăn cơm hẩm với thịt cọp, bị phù thũng.
Gấu Cái, sau khi lo cho thằng lớn ra khỏi
khám Chí Hòa - vượt biên, thế chố Gấu, bị tóm vô Bình Triệu,
khi ghé Thủ Thiêm - đi thăm chồng lần đầu, vừa nhìn thấy thằng chồng
cà chớn, thấy mập mạp, tính cười, nhưng chợt hiểu ra, bèn
méo xệch, y chang bà Liu Xia, hình trên!
Hà, hà!
It is only
when a child is alone that he starts to become an adult, and it
is only when a person is alone that he can achieve maturity. Loneliness
is essential for adults. It encourages independence, and needless to
say, the ability to endure loneliness is indispensable for strengthening
character within social situations.
Chỉ một
khi đứa trẻ cô đơn thì nó mới bắt đầu trở thành người
lớn, và chỉ một khi 1 con người cô đơn thì nó mới có thể hoàn
tất cái trưởng thành. Cô đơn là cần thiết cho những kẻ trưởng
thành. Nó khuyến khích sự tự chủ, độc lập, và khỏi cần nói, cô
đơn là không thể thiếu, để làm mạnh mẽ, dẻo dai nghị lực, trong những
hoàn cảnh xã hội.
Ui chao, đọc
thì bèn nhớ tới bài này, của 1 vị độc giả thân hữu.
Re: Kierkegaard
Friday, November
20, 2009 4:27 AM
Bai nay tuyet qua di, toi thich lam...
trong bai nay co kho^i tu tuong de khai thac va viet rat
hay...
Tac gia Rolheiser thi sa^u sa+c qua
mu+c sau sa+c!
Gởi bác Gấu bài Cultivating Loneliness
nhé... người phàm tục như tôi phải chờ
tan vỡ “mộng” mới quý cô đơn. Người thấy xa, thấy sâu như Kierkegaard
thì quý cô đơn ngay từ đầu đời.
Viết đàng hoàng đi...
Độc giả TV
Tks. NQT
*
Nuôi dưỡng tâm hồn cô tịch
18-06-2006
Trong những thế
kỷ gần đây, ít ai chạm đến cõi lòng con người một
cách sâu xa như triết gia Đan-mạch, Soren Kierkegaard. Có nhiều
lý do, một số rõ nét và một số không rõ nét. Rất nhiều người
công nhận Kierkegaard là một người thông minh hiếm có.
Tuy nhiên lý do chính Kierkegaard
có thể chạm đến cõi lòng chúng ta một cách sâu xa và
khác thường có lẽ không phải do trí thông minh của ông mà
do nỗi đau khổ của chính ông, đặc biệt là nỗi cô đơn. Albert Camus
đã từng nói rằng chỉ trong cô độc cô đơn chúng ta mới tìm được
mối dây ràng buộc chúng ta lại với nhau trong cộng đoàn. Kierkegaard
thấu hiểu điều này và ông đã đi đến tận cùng tâm điểm của nó nên
ông nuôi dưỡng một cách tích cực nỗi cô đơn của mình
Khi còn trẻ, ông cũng đã rơi vào
lưới tình sâu đậm và, cũng đã có lúc ông dự định kết hôn
với một người phụ nữ mà ông yêu say đắm. Tuy nhiên đến một lúc,
khi cái giá cảm xúc đối với bản thân mình quá lớn và - (như câu
chuyện đời ông đã hé cho thấy) – cái giá cảm xúc đó đối với người
phụ nữ kia còn lớn hơn, ông đành từ hôn và quyết định sống độc
thân quãng đời còn lại của mình. Lý do của ông là gì?
Ông cho rằng những gì ông phải cống
hiến cho cuộc đời xuất phát nhiều từ nỗi cô đơn của chính
mình, và ông chỉ có thể chia sẻ sâu đậm nỗi cô đơn với những
người trong cô đơn khi ông cảm nhận được nỗi cô đơn đó. Ông trực
cảm, cô đơn sẽ cho ông chiều sâu. Dù quan niệm này có thể đúng
hay sai, nhưng ông cho rằng hôn nhân ở phương diện nào đó có thể
làm ông chệch hướng hay sao nhãng khỏi chiều sâu đó, dù chiều sâu
đó làm cho ông đau khổ.
Tôi ngờ nhiều người trong chúng ta
sẽ cười lập luận của ông. Hôn nhân thì khó là thần dược
để trị bệnh cô đơn, và một mình nó, nỗi cô đơn không bảo đảm
làm cho tâm hồn có một chiều sâu. Cũng thế, nhiều người trong
chúng ta sẽ phê phán điều tưởng chừng là ngụ ý của chuyện này,
rằng cách nào đó, về mặt nội tâm, đời sống độc thân cao hơn đời
sống hôn nhân, như thể đời sống hôn nhân là chướng ngại cho chiều sâu
tâm hồn.
Tuy nhiên, có một phần nào đó trong
tâm hồn chúng ta, trọng tâm huyền bí của chúng ta, mà,
tôi ngờ, sẽ hiểu rõ tại sao Kierkegaard làm điều này. Điều
Kiergaard hiểu - dĩ nhiên là không hoàn hảo, vì – điều này
luôn luôn có phần huyền bí nào đó, - là nối kết giữa nỗi cô
đơn và điều huyền bí, nỗi khát khao và tính mật thiết, tình chăn
gối.
Điều này có nghĩa là gì? Bằng cách
nào chúng ta nối kết với người khác trong cô đơn, khao khát?
Việc chúng ta được nối kết một cách huyền bí với nhau có nghĩa
là gì?
Thánh Tô-ma A-qui-nô đã gợi ý
có hai con đường để hợp nhất với một điều gì đó hay một ai,
đó là: qua chiếm hữu thực thụ và qua ao ước. Chiếm hữu thực thụ
thì dễ hiểu, là tiếp xúc cụ thể, hợp nhất thực sự, nhưng làm sao
chúng ta nối kết được với ai hay điều gì qua ao ước?
Trong cuốn tiểu thuyết đoạt giải Booker,
Con đường đói khổ cùng cực (The Famished Road), nhà văn
Ben Okri tả một người mẹ Ni-giê-ri-a mắng mỏ đứa con trai quá
bất an đã ám ảnh trong giấc mơ của bà: “Bước ra khỏi giấc mơ
của mẹ! Đó không phải là chỗ của con! Mẹ đã lấy ba rồi!” Thật là
một lời la mắng lạ lùng - rầy la người khác vì họ xuất hiện trong
giấc mơ của mình! Nhưng con người huyền bí trong chúng ta hiểu điều
này. Trong nỗi bất an và cô đơn, cũng như trong lời cầu nguyện cho
nhau, chúng ta thường ám ảnh giấc mơ và tâm trí người khác một cách
cũng sâu đậm như khi tiếp xúc qua thân xác.
Hơn thế nữa, khi thấu hiểu nỗi cô đơn
của mình, chúng ta sẽ thấu hiểu giấc mơ của người khác. Kierkegaard
hiểu điều này và lo ngại rằng nếu hôn nhân gây trở ngại cho
nỗi cô đơn của ông thì cũng sẽ gây trở ngại cho khả năng ông đi
vào giấc mơ của chúng ta. Dù lập luận của Kierkegaard có thể thiếu
sót, chúng ta cũng không thể cãi lẽ với kết quả. Ông thật sự đã đi vào
giấc mơ chúng ta và tiếp tục ám ảnh mạnh mẽ tâm thức nhiều người.
Lời của ông đã giúp chữa lành, mang lại sức mạnh, đức tin và can đảm
cho nhiều người.
Tại sao? Một phần vì nó có tính
cách huyền bí và chúng ta cảm nhận nó bằng – trái tim
nhiều hơn là bằng trí óc. Có thể hiểu được điều này, dù chỉ
một phần: Nỗi cô đơn của chúng ta là phương tiện đặc ân, để
qua đó chúng ta đi vào trái tim mình. Lắng nghe nỗi cô đơn của
chính mình là cách để chúng ta tiếp xúc tiếp xúc với chính mình.
Như cha Henri Noiwen nói, khi thấu hiểu được nỗi khát khao của
chúng ta mà ta nhận thấy thì chẳng còn điều gì xa lạ với chúng ta
(tầm cao cả, vĩ đại, lòng tham, lòng quảng đại, hụt hẫng, niềm vui,
khả năng sát hại, khả năng chết cho người khác, tính ích kỷ, lòng
thánh thiện.) Mọi cảm xúc và tiềm năng của con người nằm trong trái
tim phức tạp đầy khiếm khuyết của chúng ta. Trong nỗi cô đơn và khao
khát, chúng ta bắt đầu nhìn thấy chính mình.
Và khi thấm nhập sâu xa với chính
mình thì chúng ta mới thấm nhập được vào người khác. Khi
để nỗi cô đơn của chính mình ám ảnh mình thì khi đó chúng ta
mới bắt đầu, trong ý nghĩa đẹp nhất của câu này, ám ảnh giấc mơ
của nhau. Trong cô đơn và khát khao, lòng cảm thông được sinh
ra. Khi không có điều gì xa lạ với mình, thì lúc đó cũng chẳng
có ai là xa lạ với mình và lời nói chúng ta sẽ bắt đầu có sức
mạnh chữa lành người khác.
Khi được hỏi: “Thi sĩ là ai?” Kierkegaard
trả lời: “Thi sĩ là người bất hạnh, người giấu nỗi đau khổ
sâu xa trong tâm hồn, nhưng đôi môi được tạo ra để làm sao
khi cất lên lời than van hay kêu thét, nó nghe như một bản
nhạc hay.”
Cô đơn là những gì làm cho chúng
ta trở thành thi sĩ, nhà huyền bí, nghệ sĩ, triết gia,
nhạc sĩ, người chữa lành, người thánh thiện.
The poet imitates the voices
of birds
he cranes his long neck
his protruding Adam's apple
is like a clumsy finger on a wing
of melody
when singing he deeply believes
that he advances the sunrise
the warmth of his song depends on
this
as does the purity of his high notes
the poet imitates the sleep of
stones
his head withdrawn into his shoulders
he is like a piece of sculpture
breathing rarely and painfully
when asleep he believes that
he alone
will penetrate the mystery of existence
and take without the help of theologians
eternity into his avid mouth
what would the world be
were it not filled with
the incessant bustling of the poet
among the birds and stones
Zbigniew Herbert
Một câu chuyện
Thi sĩ bắt chước tiếng chim
anh ta dướn cái cổ dài
trái táo Adam lồi hẳn lên
như 1 ngón tay vụng về trên cánh
giai điệu
khi hát, anh thực tin
anh đi trước mặt trời mọc
bài ca ấm áp là nhờ vậy
cũng nhờ vậy, sự tinh khiết của những
nốt nhạc cao
thi sĩ bắt chước giấc ngủ của
những hòn đá
cái đầu của anh ta tụt vô vai
trông anh chẳng khác chi một mẩu
điêu khắc
thở, hiếm hoi và đau đớn làm sao
khi ngủ, anh ta nghĩ chỉ mình
anh ta
nhập vô được sự bí mật của hiện hữu
và đợp được vĩnh cửu vào trong
cái miệng thèm thuồng của mình
đếch cần sự trợ giúp của mấy đấng
thần học
thế giới sẽ ra làm
sao
nếu không được làm đầy bằng những
tiếng lèm bèm
không ngừng của thi sĩ Gấu Cà Chớn
Greene provided surprising support for colonialism,
suggesting the relativity of his political beliefs. Elsewhere
he wrote: 'the writer should always be ready to change sides
at the drop of a hat. He stands for the victims, and the victims
change? (1) In an article for Paris Match he took a
more Olympian view:
It is a stern and sad outlook and, when
everything is considered, it represents for France the end of an
empire. The United States is exaggeratedly distrustful of empires,
but we Europeans retain the memory of what we owe to Rome, just
as Latin America knows what it owes to Spain. When the
hour of evacuation sounds there will be many Vietnamese who will
regret the loss of the language which put them in contact with the
art and faith of the West. The injustices committed by men who
were harassed, exhausted and ignorant will be forgotten and the names
of a good number of Frenchmen, priests, soldiers and administrators,
will remain engraved in the memory of the Vietnamese: a fort, a road
intersection, a dilapidated church. 'Do you remember,'
someone will say, 'the days before the Legions left?'
Speaking of Pyle, Fowler says: 'What's
the good? he'll always be innocent, you can't blame the innocent,
they are always guiltless. All you can do is control them or eliminate
them. Innocence is a kind of insanity.'?" There is a fearful price
to pay for Pyle's righteous innocence, an innocence linked with power,
the power of America. In Greene's view, the innocent do harm to the
innocent: 'Is there any solution here the West can offer?' he wrote in
his Indo-China diary, and added, 'the bar tonight was loud with innocent
American voices, and that was the worst disquiet'.
Norman Sherry: The Life of Graham Greene
Volume 2: 1939-1955. Chương: Chằng ai ở giữa
được. No Man is Neutral
(1) The Portable Graham Greene, ed Stradfort
p. 609. [Ghi chú của Norman Sherry]
Nhà văn nên sẵn sàng đổi bên khi nón tai
bèo, cái cờ MTGP bị dục xuống bùn.
Phạm Quỳnh, ngay cả khi bị Vẹm làm thịt, vẫn
tin rằng xứ Mít rất cần thằng Tẩy mũi lõ, như GG, ở đây, ca ngợi
Tẩy.
Trở lại huyền thoại “cục gạch hồng”
của “Bác” người ta kể lại một câu chuyện “tếu” như sau:
“Một phái đoàn Hà Nội được thành lập, lên đường đi
Paris, quyết tâm cao tìm cục gạch. Đến Pháp, họ tới ngõ làm bánh
mì ngày xưa, thăm hỏi, lục lọi nhiều nơi, nhiều ngày, nhưng không ai
nghe nói đến cục gạch của 'Bác.' Cuối cùng họ gặp một bà đầm đầu tóc
bạc, móm mém ở một góc phố. Kiên nhẫn, nhân viên trong phái đoàn lập
lại những câu hỏi về cục gạch.
-Các ông nói là các ông đi tìm cục gạch để sưởi ấm
những đêm Đông tại nhà trọ, ngõ này của ông Nguyễn?
-Vâng ạ, chúng cháu đang tìm cục gạch đó ạ.
-Thế thì: Cục gạch, mà các ông đang đi tìm chính là...
tôi đây!
Nhân viết về ông Hồ thời kỳ đói rét ở Paris ngày
nào, Gấu sực nghĩ đến huyền thoại về viên gạch đã từng mang lại
chút ấm áp cho Bác.
Tình cờ , và thú vị làm sao, Gấu được đọc một mẩu
chát trên một diễn đàn, liên quan với vụ việc này. Xin post lại,
có bỏ đi một số chi tiết cá nhân.
-Bạn... ơi, bạn sang Pháp lâu chưa, hay bạn đang ở nước
nào thế? Mình chưa được đến thăm nhà Bác Hồ ở Paris, nhưng cô giáo
tiếng Pháp của mình bảo rằng tên phố Bác ở ngày xưa là Compoint
cơ, thế có đúng không hả bạn.
-Thế bạn TT có biết sự tích viên gạch sưởi ở ngõ Công
- Poăng không? Hay cực!
-Mình chỉ biết Bác Hồ dùng gạch để sưởi ấm mùa đông
thôi, mình không biết sự tích hòn gạch ấy thế nào bạn ạ. Bạn có
thể kể cho mình được không?
-Khéo bác... lại kể chuyện bác mang hòn gạch lấy
từ cái lò gạch sinh ra Chí Phèo sang Pháp cũng nên
-Ừ, vậy tớ kể chuyện viên gạch ngõ Công Poăng cho
các bạn nghe nhá.
Đầu những năm 70' của thế kỷ XX, sau khi Người đã qua
đời được vài năm, một tổ công tác chính trị được thành lập. Đa
số các thành viên của tổ là các khoa học gia về bảo tồn, bảo tàng,
lịch sử và khảo cổ học. Đó là tiền thân của Bảo tàng HCM sau này.
Nhiệm vụ của tổ công tác là đi khắp đất nước, và một
số địa điểm ngoại quốc để sưu tầm tư liệu, vật dụng hàng ngày... của
Người trong thời gian Người bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước.
Một nhóm công tác đặc biệt được cử sang Pháp cũng không ngoài mục
đích đó.
Một nhiệm vụ cụ thể của nhóm công tác là tìm hiểu
về sự thực chuyện viên gạch Người dùng để sưởi ấm mùa đông khi Người
đang là anh thanh niên 25 tuổi đẹp trai nhưng nghèo khổ ở Paris, sống
ở nhà số 9 ngõ Công Poăng. Nhà số 9 Công Poăng tầng dưới là quán cà
phê, tầng trên Người thuê ở, người làm nghề rửa ảnh. Phòng kê vừa một cái
giường, hai cái ghế một cái bàn con.
Nhóm công tác đã phỏng vấn nhiều người dân sống trong
khu vực này cùng thời với sự kiện viên gạch, và kết quả là không
có người dân nào biết về sự kiện này.
Đến ngày cuối cùng trong thời gian làm việc. Nhóm
công tác tình cờ gặp một bà cụ già 70-80 tuổi nhăn nheo móm mém
nhưng vẫn còn giữ lại một chút nhan sắc thời trẻ sống tại nhà số
11 ngõ Công Poăng. Khi được hỏi về sự kiện viên gạch Người dùng sưởi
ấm trong mùa đông giá rét ở Paris, bà cụ già công nhận là có biết
chuyện này. Nhóm công tác mừng rỡ và đề nghị bà cụ giúp đỡ để tìm lại
viên gạch để mang về Việt Nam, bà cụ gật đầu mỉm cười duyên dáng và
nói:
- "Viên gạch đó chính là tôi đây!"
Thảo Trường, hồi chưa đi xa, mê giai thoại lắm, anh
mail, hỏi thăm bà đầm, Gấu trả lời, chắc là biệt kích của Vẹm làm
thịt rồi!
Gốc gác của giai thoại này, là từ 1 website ở trong
nước. Do Gấu chôm về Tin Văn, bài gốc bèn bị delete, cái tay moderator
bị bay chức, không hiểu có còn bị gì thêm không.
Bữa trước GCC có lèm bèm về đấng này, viết bất cứ cái
gì, là bèn giở giọng đạo đức, và quái làm sao, làm Gấu nhớ tới Primo
Levi, nhưng rõ ra là, 1 thật, 1 giả.
Tếu thế!
Thì cũng cùng giọng ông số 2.
Writing is, in the end,
that oddest of anomalies: an intimate letter to a stranger.”
Viết, quái nhất trong những quái: Lá thư riêng tư cho...
một kẻ lạ, người dưng, nước lã!
― Pico Iyer
“Perhaps the greatest danger
of our global community is that the person in LA thinks he knows
Cambodia because he's seen The Killing Fields on-screen, and the
newcomer from Cambodia thinks he knows LA because he's seen City of
Angels on video.”
Cái nguy hiểm nhất của cộng động toàn cầu, là, ngồi
ở LA phán, tớ biết Cam bốt, vì mới xem phim “Cánh đồng giết người”.
Và 1 tên Cam bốt mới nhập Mẽo phán, tớ biết LA, vì mới coi video “Thành
phố của những thiên thần”
Hình ảnh 1 người chết đói ở hông Chợ Bến Thành,
GCC đọc trong bài viết của ông số 2, khi vừa mới ra hải ngoại.
Thế là nhớ hoài.
Trên Tin Văn còn 1 giai thoại về Bác Hồ, và cái này thì
hoàn toàn của Gấu.
Hồi ở công trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, Gấu thoát chết
nhờ mua được cái chân Y Tế Đội, chuyện này kể rồi. Nhưng để sống, có
tí văn nghệ thoải mái, thì là nhờ tài quay phim [kể chuyện chưởng, chuyện
tiếu lâm]. Tiếng đồn đến tay mấy đấng TNXP chức sắc nông trường. Thế
là 1 bữa mấy ảnh nhậu, cho người kêu Gấu. Gấu ra điều kiện, kể thì
kể, nhưng đừng bắt tội, nhe. OK.
Cái chuyện tiếu lâm này, cũng đã từng kể trên TV, thực sự,
là từ 1 phim ngoại quốc, Gấu coi từ hồi nào, trong có 1 nhân vật, thù
ông bố quá, và anh ta, làm nghề sửa xe hơi, cứ mỗi lần cầm cái búa gõ
lên cái xe bị đụng méo mó, là bèn nghĩ, đang gõ lên đầu ông già mình!
Có 1 đội banh Miền Bắc, thi đấu trận nào thắng trận đó,
và đám phóng viên mới hỏi ông bầu, sao hay vậy. Ông bầu bèn trả lời,
mỗi lần ra quân là tôi kêu cả đám tới, dặn, chỉ 1 câu.
Câu gì mà ghê vậy?
Tụi mi mỗi lần đá trái banh, thì cứ tưởng tượng, đó là đầu
Bác Hồ!
Chuyện này, thì cũng giống chuyện, giả như hồi đó đó, Bác
làm bồi tầu, rửa chén không sạch, bị đại bàng đánh chết, như cháu
ngoan Bác Hồ, Đỗ Đăng Dư, thì thật đỡ khổ cho dân Mít, của NLT
Trong
lời mở ra cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, D.M. Thomas nhớ lại cảnh
tượng, ngồi uống vodka với một tay mật vụ, cựu đại tá KGB, đã về hưu, và được nhà nước ban cho nhiệm
vụ 'đánh bóng' hình ảnh đất mẹ, ở hải ngoại.
Cả hai ngồi tại khách sạn Helsinki,
nhìn ra biển đóng băng phía bên ngoài. Khi được hỏi,
ông nghĩ sao về một hình ảnh mở ra cuộc cách mạng Nga.
"Hình
ảnh nào ư?", ông ta gật gù, nhìn ra Vịnh Phần Lan.
Vài
tuần trước đó, con tầu phà Estonia
đã chìm ở ngoài đó, đem theo cùng với nó hàng ngàn
người. "Crắc" một cách, rồi cứ thế chìm xuống, nhẹ nhàng, êm
ru bà rù. Cả hai cùng đồng ý, đó là hình ảnh tuyệt vời, để diễn
tả sự tận cùng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Nhưng hình ảnh khởi đầu?
Sự cứu rỗi
cuối cùng Hình ảnh mở ra Cách Mạng Nga là cái chết của
Rasputin, qua bình chọn của tay cựu
mật vụ KGB. (1) Hình ảnh mở ra Cuộc Cách Mạng Mùa Thu, của dân
Mít, có lần Gấu đề nghị, là cái chết của Đỗ Đức Phin, dưới
tay nhà thơ, nhạc sĩ, kiêm đao phủ thủ Văn Cao. Và Thiên Thai bặt tiếng kể từ sau đó.
****
Vẫn là nó. Nhưng
không phải là nó!”
Câu trên là của
ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện - và còn là một trong
những ông Thầy dạy Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện
- phán về sếp trực tiếp của GCC, sau khi ông ra khỏi bịnh
viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu
súng, trong vụ mìn Mỹ Cảnh, GCC đã lèm bèm nhiều
lần rồi. Sở dĩ nhắc lại, là
vì trong cái “memoir” viết về cuộc vây hãm Sarajevo,
có 1 anh chàng phóng viên, trở về lại Berlin, trở về
lại căn phòng của mình, và, xỏ vô quần, và, cái quần
tuột ra khỏi anh ta.
Thoạt đầu, anh ta nghĩ, đếch
phải quần của mình, nhưng nhìn lại thì đúng
là quần của mình. Và anh ngộ ra, mình thì vẫn
là mình, đếch mất cái chó gì cả - tất nhiên, súng vưỡn
còn – nhưng, một cách nào đó, về thể chất lẫn tinh thần, anh
ta đếch còn như xưa!
Đúng là tình
cảnh của Gấu. Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn nguyên,
nhưng có 1 cái gì đã mất đi, theo nó.
Suy nghĩ hoài cả tuần lễ , rồi chắc phải kêu gọi hiến
kế tùm lum mới tìm ra được cái lý do để đối phó với giới luật sư và
công luận đây. Ai là luật sư từ nay chạy xe ngoài đường đừng có gây bụi
nhé. Tổ cha cái bọn .....bụi.
Danh sách 7 người đánh 2 LS không có ai là công an xã
hết. Khà khà. Thách thức dư luận đến thế là cùng.
TPO - Liên quan đến việc 2 luật sư bị đánh
trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội sau khi rời
khỏi nhà bị hại Đỗ Đăng Dư. Tại buổi họp báo ngày…
manhhai
Vietnam war Photo - Fall of Saigon, April
1975
Marcus, gmp3157 and 5 more people faved this
ngao5 7h
13-4-1975, trực thăng CH-47 Chinook di
tản binh sĩ Sư đoàn 18 bộ binh và gia đình ra khỏi Xuân Lộc.
Ảnh: Dirck Halstead
GCC biết Dirck Halstead trở lại Việt Nam làm
phóng sự di tản cho Time, quá trễ, qua Nhung, cũng 1 chuyên viên
Bưu Điện, cũng làm part time cho tụi báo chí Mẽo, đúng ngày
Dương Văn Minh ra lệnh Mẽo cút khỏi Miền Nam. Đến khách sạn anh
ở, ở đường Nguyễn Huệ, anh nói, cầm cái camera theo tao, lên trực
thăng, ra hạm đội 7, hết C.130 rồi, Gấu không thể bỏ gia đình, lắc
đầu, anh móc túi lấy hết số tiền Ngụy còn lại giúi vô tay Gấu, miệng
nói bye, bye. Gấu xuống Ngã Sáu, làm 1 shot, chắc phải 2, rồi về nhà
nằm phê!
Mới nhận mail của Dirck, liền tức
thì:
From: Date: Thursday, July 21, 2005 11:36:18
PM To: Nguyen_Quoc_Tru Subject: Re: It's wonderful to hear
from you Tru. How are you? We missed you at the reunion
in Saigon in May.
Cuộc hội ngộ vào tháng
Năm, the reunion in Saigon in May, là vào năm 1985, khi VC kỷ
niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân. Mời mấy anh ký giả Mẽo tới, trong
có Dirck. Hai Lúa lúc đó ở trong
Trại Bà Bèo, sau chuyến đi Vàm Láng thất bại, như đã kể sơ sơ trong
một bài viết. Khi về được Sài Gòn thì
lễ lạc đã qua. Tình cờ gặp Tám, nhân viên phòng tối. Anh nói,
thằng Dirck hỏi thăm mày, nhưng tao với nó phải đứng xa nhau cả
mười mấy thước, ở ngay trước Tòa Đô Chính, chỗ bùng binh phun nước.
Sợ mấy ảnh, đầy đường
lúc đó. Tám nói, cũng là tình cờ
tao nhìn thấy thằng Dirck từ đằng xa. Chính nó kêu tao. Tám, nhân viên phòng tối,
trốn lính, suốt ngày đêm đóng đô tại văn phòng UPI. Bữa đó,
cuồng cẳng quá, mò ra ngoài, lang thang mấy snack bar kế bên
văn phòng tại đường Ngô Đức Kế, phía đi ra Nguyễn Huệ, bị tóm
liền. Bữa sau, Hai Lúa xuống
văn phòng, gặp Tư Râu, người chuyên đưa hình lên Đài cho HL chuyển
đi. Anh nói, mở mấy ngăn kéo riêng của thằng Tám, thấy toàn xú
chiêng, quần lót của bướm! Dirck cũng từng đề nghị
với Hai Lúa, mày có muốn đi làm tại văn phòng UPI Tokyo, tao lo
cho. Đó là lúc cuộc chiến "hứa hẹn những điều khủng khiếp". Lạ một điều, Hai Lúa chưa
từng có ý định rời bỏ Sài Gòn, chờ cho cuộc chiến qua đi, rồi
lại mò về. Đi tu nghiệp hai năm thì được. Nhưng do làm UPI, HL
từ bỏ một hai cơ hội tu nghiệp Huê Kỳ. Nhớ lại, lúc đó, chỉ mong
được đi Tây. Cho Gấu tí Paris Để Gấu làm thi sĩ! Đại khái vậy! Chuyến đi "liên can" tới
lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người CS. Người
bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin, những
tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học
tập, tình cảnh vợ con ở nhà, và ... MIA.
Bài Surprise là do một độc giả Tin Văn
[ĐLK, cộng tác viên thường trực của Tin Văn, đúng hơn], chuyển cho.
Nhờ vậy, liên lạc được với Dirck. Tks. Hai Lúa.
Số Mùa Thu, năm ngoái. Fate. Số mệnh. Cầm lên,
đọc loáng thoáng, vớ đúng bài Joseph Roth viết về “nơi cuộc
chiến bắt đầu”, Sarajevo, 1923.
Bài intro cũng tuyệt. Cả 1 thế kỷ đã qua, Roth
thì cũng chết từ đời tám hoánh. Ông chết, và bài essay thuộc
thứ, nhìn lại. Chúng ta nhìn tới, cuộc chiến thứ nhì, cuộc chiến
Bosnia, cuộc chiến chấm dứt mọi cuộc chiến…
Câu trên là của ông Tổng Giám
Đốc Bưu Điện - và còn là một trong những ông Thầy dạy Gấu, khi
học trường Quốc Gia Bưu Điện - phán về sếp trực tiếp của GCC,
sau khi ông ra khỏi bịnh viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu súng, trong vụ mìn Mỹ Cảnh, GCC
đã lèm bèm nhiều lần rồi. Sở dĩ nhắc lại, là vì trong
cái “memoir” viết về cuộc vây hãm Sarajevo, có 1 anh chàng phóng
viên, trở về lại Berlin, trở về lại căn phòng của mình, và,
xỏ vô quần, và, cái quần tuột ra khỏi anh ta.
Thoạt đầu, anh ta nghĩ, đếch
phải quần của mình, nhưng nhìn lại thì đúng là quần của mình.
Và anh ngộ ra, mình thì vẫn là mình, đếch mất cái chó gì cả - tất
nhiên, súng vưỡn còn – nhưng, một cách nào đó, về thể chất lẫn tinh
thần, anh ta đếch còn như xưa!
Đúng là tình cảnh của Gấu.
Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn nguyên, nhưng có 1 cái gì đã
mất đi, theo nó.
There was spring rain and pale
fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering
over the green foothills of Mount Igman. Through the frosted window
I could see the outline of the road we used to call Snipers' Alley,
above which Serbian sharpshooters would perch and fire at anyone
below. Twenty years had passed since I'd arrived in Sarajevo as a
war reporter. During the siege of the city, most foreign journalists
had lived in the Holiday Inn, and it was in that grotty hotel that the
man who was to become my husband and the father of my child professed
undying love. I met some of my best friends in Sarajevo and lost several
others-to alcoholism, drugs, insanity, and suicide. My own sense of
compassion and integrity, I think, was shaped during those years.
Janine di Giovanni has won four
major awards for her war reporting and is a member of the Council
on Foreign Relations. She is currently writing a book about Syria,
to be published by Norton. She lives in Paris.
Janine di Giovanni đợp bốn giải
thưởng bự nhờ phóng sự chiến trường và là thành viên của
"Council on Foreign Relations" [Hội Đồng Những Liên Hệ Ngoại].
Hiện đang viết 1 cuốn sách, sẽ do Norton xb. Sống ở Paris.
HARPER'S MAGAZINE / APRIL 2013
Tin Văn sẽ post bài này,
và dịch lai rai, song song với bài Novel, của Fuentes
Why was it that Sarajevo, and
not Rwanda or Congo or Sierra Leone or Chechnya-wars that all
of us went on to report-captured us the way this war did? One of
us, I think it was Christiane Amanpour, called it "our generation's
Vietnam." We were often accused of falling in love with Sarajevo because
it was a European conflict-a war whose victims looked like us, who sat
in cafes and loved Philip Roth and Susan Sontag. As reporters, we lived
among the people of Sarajevo. We saw the West turn its back and felt
helpless.
Đây là "Việt Nam của thế
hệ chúng tôi". Chúng tôi thường bị buộc tội tương tư Sarajevo,
bởi vì đây là cuộc xung đột Âu Châu - một cuộc chiến mà nạn nhân
trông giống chúng tôi, những kẻ ngồi trong những tiệm cà phê, mê
Philip Roth và Susan Sontag Khe Sanh,1968
MICHAEL HERR IN A BLOODSWARM
I looked and there was a pale
green horse! Its rider's name was Death, and Hades followed with
him. -Book of Revelations, c. 90
Tôi nhìn và thấy 1 con
ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần Chết, và Diêm Vương, đằng sau anh
ta.
Khe Sanh 1968, Sarajevo 1992,
Cõi Khác 1969... là cùng dạng “memoir”, kể cả "Nỗi Buồn Chiến
Tranh" của Bảo Ninh. Chúng có chung cái air "độc thoại". Đoạn mở
ra Sarajevo, đọc 1 phát là nhập vô liền:
There was spring rain and pale
fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering
over the green foothills of Mount Igman.
Có mưa Xuân và sương mù
lợt tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi chiếc phi cơ của tôi loay hoay
chọn hướng đáp xuống thành phố, bên trên những ngọn đồi thấp, màu xanh,
của núi Mount Igman.
Câu văn còn làm nhớ câu
thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận xác chồng”, cái gì gì, “phi
cơ đáp xuống một chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm vài kiếp nữa, chắc
vẫn chưa quên nổi cuộc chiến.
Mà quên làm khỉ gì không biết!
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ vết son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen
Chao ôi ! Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Em không nhìn được xác chàng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu !
Lê Thị Ý
[net]
Lần đầu tiên Gấu nghe,
1 buổi sáng Chủ Nhật không phải đi lao động, tại nông trường cải tạo Đỗ
Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng Sát cũ. Nghe 1 phát là rùng hết cả mình, nhớ
lần đi lấy xác đứa em trai tử trận tại Sóc Trăng.
Đó cũng là lần đầu Gấu biết được mùi thịt chuột,
và nó ngon đến cỡ nào, và phải cơ may [“máy trời” xoay chuyển]
như thế nào mới được thưởng thức!
Do you really think that hundreds of thousands
leave their home and embark on this difficult journey only because
of a selfie with the chancellor?" she asked Anne Will, a television
talk-show host, on October 7th. Since then, however, Mrs Merkel
has turned defiant and bold, as though inspired by a clear moral
purpose.
Không lẽ hàng trăm ngàn người bỏ nhà bỏ cửa
lao vào cuộc hành trình đầy gian nan, để chơi 1 cú "xeo phi"
với... tui?
Where are we going in the twenty-first
century? We should be going to a place where we can observe
reality with clarity. We need to see the problems of people's
lives, and the complicatedness of people and their weakness. We
are all mere witnesses, and the best thing we can do is see things
as they are.
You are not the creator, you can't
overcome the world, but you can bear witness. And when it
comes to art, to talk about a country is meaningless. A writer
is a witness to humankind, a witness to humanity.
ASIA LITERARY REVIEW
Về nhà văn như 1 chứng nhân
Thế kỷ 21 chúng ta đi đâu? Chúng ta đi
tới một nơi chốn mà chúng ta có thể quan sát thực tại với
sự rõ ràng. Chúng ta cần nhìn những vấn đề của những cuộc
sống của dân chúng, và sự rắc rối nhiêu khê của họ, sự yếu đuối
của họ. Tất cả chúng ta chỉ là những người chứng, và điều tốt nhất
chúng ta có thể làm là nhìn những sự vật như chúng là. Bạn đây
phải ông trời, đấng sáng tạo, bạn không thể vượt thế giới, nhưng
bạn có thể vô vai người chứng. Và khi nói đến nghệ thuật, lèm bèm
về 1 xứ sở là vô nghĩa. Nhà văn là chứng nhân của nhân loại.
Over the course of several decades and numerous books, Alexievich
has pursued a distinctive kind of narrative based on
journalistic research and the distillation of thousands
of firsthand interviews with people directly affected by
all the major events of the Soviet and post-Soviet period. She
has uncovered the unknown but crucial work that Soviet women
did in World War II, recounted the memories of children caught
up in the “Great Patriotic War,” documented the realities facing
soldiers in the Soviet-Afghan war, which were kept from the Soviet
public, and recorded the experiences of those who lived through
the Chernobyl nuclear disaster.
In her most recent book, she deftly orchestrates a great
chorus of diverse voices to chronicle the human toll—emotional,
physical, economic, and political—of the collapse of the USSR,
a country that once made up a sixth of the world’s land mass.1
Alexievich’s oeuvre comprises nothing less than a history
of epic proportions, which she has called “Voices of Utopia.”
This undertaking has brought the writer many awards and accolades
from Western European countries in particular, and from Russia,
where her books have been printed and reprinted many times; she
is a well-known critic of the Putin regime. In her home, Belarus, however,
under the dictatorship of Aleksandr Lukashenko, she has been subject
to the same political censorship and pressure as many of her colleagues
(as Timothy Snyder pointed out in the NYR Daily2).
For over a decade she lived in various European cities,
because it was not safe to return to Minsk (though she did
in 2011), and her books have not been published in Belarus since
1994.
Trong vài thập niên, với vài
cuốn sách, Alexievich theo đuổi một loại tự sự riêng biệt,
đặc biệt, dựa vào nghiên cứu mang tính ký giả, và sự chắt lọc,
từ hàng ngàn những cuộc phỏng vấn đầu tiên, mới tinh, nóng hổi,
thứ nhất, firsthand, với những người trực tiếp trúng đạn, trúng miểng,
do tham dự vào những biến động lớn, thời kỳ Xô Viết và Hậu Xô Viết.
Bà đã vén lộ, trình ra, những gì mà người phụ nữ Xô đã thực hiện,
từ trước đến giờ kể như chưa được biết, nhưng thật chủ yếu, trong Đệ
Nhị Chiến; thu gom, nhặt nhạnh hồi ức của những đứa trẻ bị mắc nạn, dính
trấu, của cái gọi là Cuộc Chiến Vệ Quốc Lớn; thu thập tài liệu Hồng
Quân xâm lăng A Phú Hãn, những sự thực được giấu nhẹm không cho dân
chúng biết tới, và ghi nhận, ghi âm những kinh nghiệm của những con
người trải qua tai ương lò hạt nhân ở Chernobyl
Trong cuốn sách mới nhất, bà đi 1 đường
đồng ca lớn, gồm nhiều giọng khác nhau, nhằm ký sự, biên niên
hồi chuông báo tử - cảm xúc, vật chất, kinh tế và chính
trị - của sự sụp đổ của Liên Xô, một xứ sở đã có thời bao gồm 1/6
đất đai thế giới. Tác phẩm của bà, được bà gọi là “Những tiếng/giọng
nói của Không Tưởng”.
In announcing the award, the
Swedish Academy called Alexievich’s “polyphonic writings…a
monument to suffering and courage in our time.” “By means
of her extraordinary method—a carefully composed collage of human
voices,” the Academy went on to say, “Alexievich deepens our
comprehension of an entire era.” As she writes:
I don’t just record a dry history
of events and facts, I’m writing a history of human feelings.
What people thought, understood and remembered during the
event. What they believed in or mistrusted, what illusions, hopes
and fears they experienced. This is impossible to imagine or
invent, at any rate in such multitude of real details. We quickly
forget what we were like ten or twenty or fifty years ago….
I’m searching life for observations,
nuances, details. Because my interest in life is not the
event as such, not war as such, not Chernobyl as such, not
suicide as such. What I am interested in is what happens to the
human being….
Svetlana Alexievich’s interest in
what happens to the human being is evident on every page
of her writing. Among other things, her work testifies to the
immense power of compassion to create understanding of our fellow
human beings.
The text below is from a collection
of more than a dozen tales of suicide that Alexievich published
in Russia in 1994 under the title Zacharovannye smert’iu
(Enchanted by Death). In the introduction she wrote that she sought
to “distinguish…the lonely human voice. They all sound different.
Each one has its own secret.”
—Jamey Gambrell
“Dzhugashvili [Stalin] is there,
preserved in a jar,” as the poet Joseph Brodsky wrote in 1968.
This jar is the people’s memory, its collective unconscious.
“Stalin ở trong đó, được gìn giữ ở trong 1 lọ sành”,
như Brodsky viết, vào năm 1968. Cái lọ sành là hồi ức của dân tộc,
cái vô thức tập thể của nó.
“Tẫu Cút Đi”: Trong cái
lọ sành đựng hồi ức của Bắc Kít, hình như đếch có chỗ dành cho Tẫu,
trong cả hai cuộc chiến thần kỳ, chống thực dân cũ, Pháp, và
mới, Mẽo.
“You were not who you were,
but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái chế độ tem
phiếu đó nắn khuôn.
Yiyun Li
Cái chuyện Miền Nam, tức Ngụy, chống Tẫu, thì rõ
như ban ngày.
Còn cái chuyện Bắc Kít chống Tẫu, thì có cái gì
đó cực kỳ vô ơn ở trong đó
Không có Tẫu, là cả hai cuộc chiến không có.
Nhìn rộng ra, nhìn suốt 1 cõi 4 ngàn năm văn hiến
của.. Bắc Kít, có hai yếu tố không có, lòng nhân từ và lòng biết
ơn.
Hai yếu tố làm nên con người "hoàn toàn" [từ này
của Mạc Xịt, l'homme total]
Vương Đại Gia, đại phê bình gia Bắc Kít phán, may
mà có [văn học] Ngụy, sau khi... phần thư nó.
Trên tờ Guardian số cuối tuần, có 1 bài viết về lòng
biết ơn, khi nó xẩy ra đúng vào thời kỳ Lò Thiêu, thật tuyệt.
TV post ở đây, và chuyển ngữ sau.
Di chúc Bác Hồ có câu, ta thà ngửi cứt Tây
5 năm, còn hơn là ngửi cứt Tầu cả đời. Cái tay viết tiểu sử Graham
Greene trích dẫn, nhưng anh ta thòng thêm 1 câu, Bác nói thì Bác
nói, gái Tẫu, Tẫu dâng, Bác không tha, khí giới Tẫu cung cấp để giết
Ngụy, Bác cũng nhận, gạo Tẫu viện trợ cho Bắc Kít khỏi chết đói, OK
hết.
Don't you realize what it means if the Chinese
stay? ... The last time the Chinese came, they stayed one thousand years!
The French are foreigners . . . Colonialism is dying
out. Nothing will be able to withstand world pressure for independence.
They may stay for a while, but they will have to go because the white
man is finished in Asia.
But if the Chinese stay now, they will never leave.
As for me, I prefer to smell French shit for five
years, rather than Chinese shit for the rest of my life.
Tháng
Ba, 1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam, Ho
[HCM] ký hòa ước với Tây, thừa nhận, sự ra đi của họ để lại một khoảng trống.
Viễn ảnh một Việt Nam
độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái.
Ông chửi đám bộ hạ phò Tầu:
Mấy
bồ có hiểu nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại? Lần chót tụi nó ở một ngàn
năm! Tây dù sao cũng mũi lõ, họ có thể ở một thời gian, và rồi sẽ cút, vì
tụi da trắng hết thời ở Á Châu rồi. Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi
cứt Tầu cả đời!
Norman Sherry: Tiểu sử Greene, chương 24: Bonjour
Vietnam [Sherry trích câu này từ Hồ Sơ Ngũ Giác Đài, The Pentagon
Papers, Senator Gravel Edition, vol 1, Beacon Press, 1979, trang
49-50]
Tẫu tiến vô Cao Bằng
Cái cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực
Bắc Bắc Việt không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi,
mà mô phỏng Gulag của Xì.
Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là Trại Tù,
Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng ra, thì chúng cũng không có nơi nào để
mà trở về.
Trên TV có dành 1 trang để viết về cú độc này, tất
nhiên của Thầy của VC, là Xì.
Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình
tàn độc này.
Lạ, là không chỉ não bị sứt một mẩu, mà hồi
ức VC cũng thủng 1 hố to tổ bố. Chúng chửi Tẫu ra rả, mà không hề nhớ,
cái lông chim ngày nào của chúng, cũng “made in China”!
GCC
mua số báo, vì hai bài điểm sách, một, đọc tiểu sử Le Carré, và
1, điểm cuốn Thần Phục, “Submission”, của Michel Houellebecq, “Cách
Mạng Pháp thế 21|. Bài này OK. Sẽ giới thiệu.
Và cái
hình bìa, làm nhớ “cô gái ở trong đầu của GCC”!
Cái hình
này, chụp trên xe buýt, cũng là do nhớ cô gái ở trong đầu, cái gì
gì đen, cao, như đêm đen, tựa hồn những năm xưa. Cô bé biết, như có
vẻ gật đầu, GCC bèn chụp 1phát, bằng cái ipod
"Entends, la douce
Nuit qui marche" [Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks].
The silent walking of the night should not be heard.
Baudelaire
She walks in beauty, like the
night
Byron: Hebrew Melodies
(1815):
She walks in beauty, like the
night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm
Borges phán:
Để chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra
một em, cao, tối, tall, dark, bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó,
là 1 người đàn bà cao, tối, và cứ thế, cứ thế.
Tưởng tượng đẩy tưởng tượng,
câu "hót" BHD, thần sầu, "không phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc
thần sầu của TCS, trong Phôi Pha:
Từ vườn khuya bước về Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
BHD ở ngoài đời, cao, đen, nhập
vào với đêm, y chang lời nhạc của TCS mô tả, những lần "bàn chân
ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!"
Gửi những cư dân của một thành phố có tên là Sài Gòn.
Gửi Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn.
Gửi theo Nguyễn Nhật Duật, Sĩ Phú, Joseph Huỳnh Văn
(NQT)
Trước 1975, tôi làm ở… bên trong Bưu Điện. Sau 1975,
tôi làm ở… bên ngoài, ở vỉa hè tòa nhà Bưu Điện, kế bên Nhà Thờ Đức
Bà. Viết mướn. Điện tín, thư từ tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Việt.
Thân chủ đa số là những người có bà con, thân nhân vượt biển, đang
ở trại tị nạn, hoặc đã định cư nơi nước ngoài.
Thời gian này cả Sài Gòn, nói rộng ra, cả nước đang
đói. Đám ngụy, lại càng đói. Một lần, một thân chủ tốt bụng cho
tôi địa chỉ một nữ tu viện Thiên chúa giáo ở Thái Lan. Ôi, quí giá biết
là chừng nào. Viết thư cầu cứu, mấy bà sơ gửi cho một thùng đồ, trị giá
gần một cây vàng. Đám viết mướn vỉa hè Bưu Điện chúng tôi cứ thế trao
đổi, chuyền cho nhau những địa chỉ tương tự. Tới tai nhà nước. Chúng tôi
được đặc biệt để ý, một phần là vậy: làm nhục nhà nước. Ngoài ra còn nhiều
tội khác nữa. Thành phần ăn bám xã hội. Trốn tránh đi vùng Kinh Tế Mới.
Khuyến khích nhân dân bỏ nước ra đi.
Chả là, trong số những thân chủ, có những người trước
đi lính hoặc làm việc cho Pháp, nay làm đơn xin tiền cấp dưỡng, tiền
truy lãnh những năm chiến tranh bị gián đoạn, hoặc xin bảo lãnh qua
Pháp.
Sau tới chương trình ODP.
Lần chót tụi tôi nhận được thư của mấy bà sơ, là những
lời ân hận, vì không thể tiếp tục gửi quà cứu trợ. Nhà nước Việt Nam
đã gửi thư cho mấy bà, yêu cầu đừng gửi đồ cho từng cá nhân. Hãy gửi
tới cơ quan nhà nước. Hãy gửi tới Hội Chữ Thập Đỏ.
Không thể gửi, nhưng chắc chắn mấy bà sơ vẫn không quên
cầu nguyện cho gia đình chúng tôi.
Chứng cớ là…
Nhờ viết muớn ở Bưu Điện, tôi gặp lại một anh bạn, trước
1975 làm nhiếp ảnh viên cho một hãng thông tấn Mỹ. Tôi là người gửi
những tấm hình chiến trường của anh, và của những nhiếp ảnh viên
khác trong hãng, bằng phương pháp vô tuyến viễn ảnh.
Anh tới Bưu Điện, tính gửi hồ sơ ODP qua Bangkok. Thời
gian đó, tụi tôi móc nối được với một vài nhân viên Bưu Điện, chỉ
để chuyển hồ sơ ODP. Tốn thêm tiền cho thân chủ, lẽ dĩ nhiên, nhưng
chắc chắn tới nơi. Những ngày tháng lê la bên vỉa hè, những địa chỉ
như văn phòng ODP ở Bangkok, văn phòng Hội Cựu Chiến Binh Pháp ở Paris…
là những cần câu cơm của tụi này. Còn những địa danh như Galand, Songkhla
(?), Panat Nikhom, hoặc quá xa hơn, những Wesminster CA, Santa Ana…
là những khung trời mơ ước của mấy tên viết mướn tụi tôi!
Khung trời mơ ước, ôi chao, xa vời quá! Chuyện trước
mắt, mì ăn liền: những thân nhân sau khi lãnh thùng đồ, ghé vội
mấy ông viết mướn, đánh giùm tôi cái điện tín: đã nhận đồ. Tôi nhớ
một lần, có hai anh chị hớn hở tới "order": viết giùm cái thư, nói
kheo khéo giùm: ở bên này em nhớ anh lắm, mau mau bảo lãnh em qua!
Tôi cứ nhìn hiện tại, để nói về quá khứ: những ngày anh còn ở bên em;
và cứ nhìn tương lai, khi anh và em tái ngộ nơi quê người, theo kiểu
hiện tại, của đôi nhân tình.
Bởi vì "nhiệm sở" ngay bên Vương Cung Thánh Đường, những
buổi sáng sớm "chợ chưa họp", chúng tôi thường vô hẳn bên trong
nhà thờ quỳ cầu nguyện. Buổi trưa, thay vì quì, chúng tôi nằm "ngơi"
ngay lối đi phía trước, dưới vòm cung, phía sau tượng Đức Mẹ, hay chạy
qua phía bên kia đường, khu nhà ở của mấy ông cha, có bữa ngủ quên
tới tận chiều, mấy ông cha lại phải cho người giúp việc ra đánh thức!
Đêm Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng tôi! Người cũng không quên
mấy đứa nhỏ: tụi nó đã sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ đầu
tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải để ném lên đầu nhau,
mà là để bán cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng trường Kennedy,
đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua côngfetti, vừa uống
ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung quanh
tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên đường Tự Do.
Trong không khí hân hoan "cả nước đang sửa soạn làm
lễ kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân 1985", tôi gặp lại anh bạn
Ng.
Trong chiến tranh Việt Nam, thời gian làm cho cơ quan
báo chí Nhật (Asahi Shinbum), anh đã từng vào chiến khu chứng kiến
cảnh Việt Cộng thả ba tù binh Mỹ, trong có một Mỹ đen, tại Bến Kéo,
Trà Xim (Củ Chi). Đây là lần thả tù binh đầu tiên. Chuyện xẩy ra trước
ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, vì vậy anh bị rút thẻ báo chí Mỹ,
MACVI. Anh cũng là người đầu tiên theo người Mỹ đổ quân tại Quảng Trị,
từ chiến hạm Okinawa thuộc Đệ Thất Hạm Đội, vào năm 1967. Phóng viên đầu
tiên về Châu Đốc, tham gia chiến dịch đổ quân Trà Keo, giải cứu thường dân
ở Kampuchia. Đã từng phỏng vấn tướng Đỗ Cao Trí tại Sawy Riêng. Tất cả những
sự kiện trên, là do anh kể cho tôi nghe. Quan trọng nhất, anh nhấn mạnh với
tôi, là hai chữ "đầu tiên".
Tôi quen anh những ngày anh bỏ tờ báo Nhật, qua làm
cho thông tấn xã UPI. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít. Có
lần trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào, về mấy ‘quí tướng’ của
anh. Anh chỉ ân hận, là đã bỏ cuộc quá sớm. Sau Mậu Thân, bà vợ rét
quá, bắt ông chồng ở nhà bế con, không cho vác máy hình nữa.
Anh nghĩ rằng, anh vẫn còn nợ chiến tranh một điều gì
đó. (Món nợ này, độc giả cho phép tôi nợ lại, vào một dịp khác sẽ
nói rõ hơn.)
Nhờ vậy, mà có chuyến vượt biển tại bãi biển Vàm Láng,
Gò Công vào đúng đêm ông Táo cưỡi cá chép lên chầu Trời.
Trên một số báo Văn, tôi đã viết về chuyến đi này, và
cái cảnh tượng bi hài: trong đêm tối, ghe gặp bão ngay bên ngoài cửa
biển Vũng Tầu; một anh chàng thanh niên đã lầm tôi với người yêu
của anh, và cứ thế vò đầu vò tóc "người yêu", lảm nhảm những lời cuối
cho cuộc tình, cho một tương lai tươi sáng ở nơi xứ người…
Sau khi ra tù, anh bạn tôi lại tìm cách đi nữa. Nhờ
vậy, có chuyến du lịch Bangkok.
Hai vợ chồng tôi tới Bangkok ngày 19 tháng Năm, năm 1990.
Đúng ngày sinh của ông Hồ. Sau này, tôi tăng thêm một ngày, trong
lý lịch Cao Uỷ.
Đó là một bữa thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong thành
phố tới rã người, trước viễn ảnh một buổi tối thật đen tối, chợt
nhớ tới cái địa chỉ đã từng là cứu tinh những ngày đói rã họng ở
quê nhà, tụi này bèn kêu tắc xi, nói "Vạt, vạt" (Vạt, tiếng Thái, có
nghĩa là chùa chiền, tu viện). Anh chàng tắc xi người Thái đưa, không
phải tới cái địa chỉ mà chẳng ai còn biết đó, mà là nhà thờ St. Francis,
tại một khu sang trọng thuộc trung tâm thành phố. Tới sân nhà thờ,
nhìn thấy một chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ Cao
Uỷ Tị Nạn, tôi la thầm trong bụng: Chúa cứu ta rồi!
Vị cha già trụ trì nhà thờ là người Pháp. Ông không
dấu vẻ ngạc nhiên, khi nghe gã đàn ông ốm đói, mệt lả, nhưng "thao
thao bất tuyệt" xổ ra hàng tràng tiếng Tây, (sau này, nghĩ lại, tôi
cũng không thể hiểu nổi tại sao bữa đó, mình lưu loát đến như thế!
Nhất là đây là lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975, tôi mới có dịp
"thực tập" tiếng Tây!)
Sau đó, Cha cho trú ngụ tại một căn phòng ở bên trường
học, kế ngay bên nhà thờ, do nhà thờ quản lý, bỏ qua tất cả những
lời khuyên nên báo cảnh sát để cho nhà thờ khỏi bị liên lụy.
Chúng tôi ở đây hết ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ
hai, Cha đưa tụi này tới cơ quan ODP, nằm bên trong tòa nhà khổng
lồ City Bank. Ông trình giấy tờ, yêu cầu được coi hồ sơ ODP của tụi
này. Chỉ tới khi đó, Cha mới thực sự tin tưởng, và có thể, hài lòng,
vì đã làm đúng ý Chúa!
Cha yêu cầu cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này khuyên,
chỉ có mỗi một cách: đưa mấy người này vào đồn cảnh sát. Sau khi
hết hạn tù, ông sẽ báo bên Cao Uỷ cho xe "rước’ về trại tị nạn.
Cha đưa tụi này tới một đồn cảnh sát Thái.
Trước khi từ biệt, Cha đã dịch cho tôi nghe những lời
cảnh cáo của viên cảnh sát: Tôi có thể bắt Cha, vì tội chứa chấp những
người nhập cảnh bất hợp pháp.
Sau đó, Cha còn tới nhà tù thăm tụi này, cho tiền, đưa
lại mớ "bản thảo", là mấy cuốn tập ghi vắn tắt một số sự kiện về những
ngày ở Đất Phật, và chuyến vượt sông Mekong vào đất Thái của tôi.
Tôi gặp lại Le Carré ở nhà tù Bangkok.
Trong cuộc chiến Việt Nam, vì quá sợ nó, tôi tìm đủ mọi
cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn núp "tương đối" an toàn,
là sách vở. (Ngoài sách vở ra, còn một mê cung khác, an toàn hơn, bởi
vì thê thảm hơn, tôi đã tưởng hết lối ra, may nhờ… nhưng thôi để dịp khác…)
Trong sách vở, có truyện trinh thám. Những cuốn tiểu
thuyết đen, série noire, với những tác giả như James Hadley Chase,
Georges Simenon… và John Le Carré, được coi là "ông vua" của tiểu thuyết
gián điệp, với bối cảnh là Cuộc Chiến Lạnh.
Tôi tình cờ khám phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm sách
Xuân Thu, ở đường Tự Do Sài Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh,
bản tiếng Pháp (L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "venait du froid"
đập ngay vào mắt. Như thể sợ, mà vẫn tò mò muốn biết, muốn thử! Y hệt
nỗi sợ cuộc chiến! Biết chắc chạy trời không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm
đủ mọi cách để kéo dài thời gian "hoãn dịch". Một cái sợ tiềm ẩn, ma quái,
đâu đó từ góc sâu quá khứ… Trong một thoáng, giữa không khí ấm áp của
Sài Gòn, tôi như sống lại nỗi buốt giá của một miền đất, của một tuổi
thơ, trong khi cuộc chiến đang rình rập, ngay… bên ngoài lề đường!
Chả là, tôi người Bắc, bố mất sớm, mẹ còn trẻ, một nách
bốn con, cứ phải gửi hết đứa này đứa nọ ăn nhờ ở đậu nơi bà con bên
nội bên ngoại… những chi tiết chẳng liên quan gì tới Gián Điệp Từ Miền
Lạnh, nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết của Le Carré.
Trong ba tháng nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, giữa
đủ thứ thành phần (trộm cướp, buôn lậu ma túy, giấy thông hành hết
hạn, kháng chiến quân chống nhà cầm quyền Miến Điện, chống nhà nước
Cộng Sản Việt Nam…); đủ thứ sắc dân (Anh, Pháp, Ấn Độ, Miến, Mã Lai,
Campuchia…), tôi gặp lại Call For The Dead của Le Carré trong mớ đồ lỉnh
kỉnh của một anh bạn Mã Lai nằm kế bên. Cuốn sách mỏng, chỉ trên trăm
trang, ghi chú tùm lum, nào số điện thoại, nào những con chữ lằng ngoằng…
Tôi đã đọc bản tiếng Pháp, L’appel du mort, nhưng không
bắt được cái mạch của nó.
Lần này, cuốn sách bắt được mạch của tôi.
Đúng hơn, lần này thành phố đã…
Như trên đã nói, tôi đọc Le Carré qua bản dịch tiếng
Pháp. Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến cốt truyện, đến cuộc đấu trí
giữa hai phe "chính tà’ qua hai nhân vật ở trong đó.
Đây là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau
khi bị sở cho người điều tra, vì nghi là "thân cộng". Để lại thư
tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra.
"Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhã,
mất danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp
bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại.
Tưởng của Sếp, anh nhắc nghe, nhưng của nữ điện thoại viên bưu điện,
do người đã chết tối hôm qua đã dặn, "tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi
nhé!"
Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã cõi
đời, lại nhờ người đánh thức?
Hoá ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà,
một điệp viên Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân
viên của Smiley. Một tay cộng sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng
chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"!
Smiley vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới
quyền. Anh thử làm theo, và thành công.
Anh cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân
viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng cớ,
bắt cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến
động. Hãy để cô cậu cuống cuồng, thất kinh… quýnh quá thể nào cũng
làm một điều gì đó. (Let them bolt, panic, anything… so long as they
do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh, khi
gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất
cả.
Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?
The Last Act, màn chót của vở hát và cũng là màn chót
của cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời
rạp hát cùng với khán thính giả.
Dieter và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương
mù dầy đặc, trên sông Thames. Nhớ lại những năm tháng cùng chống
Quốc Xã, Dieter tha chết cho tên bạn đế quốc, và chịu chết thay vì
đầu hàng.
Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey
và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong
truyện:
(Mendel hỏi Smiley):
-Bà ta có phải là cộng sản không?
-Tôi không tin bà ta thích những nhãn hiệu. Tôi tin
rằng, bà muốn xây dựng một thế giới có thể sống mà không có tranh
chấp… Hoà bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ,
bà muốn hoà bình.
(I don’t think she liked labels. I think she wanted to
help build one society which could live without conflict. Peace
is a dirty word now, isn’t it? I think she wanted peace.)
-Còn Dieter?
-Trời biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ vậy.
Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng
hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên
gián điệp."
-Trời đất!
Smiley im lặng một lát:
-Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy tận cùng
của anh ta. Tôi đã nhìn thấy khởi đầu. Anh ta là một trong những
người xây dựng thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật
ra là hủy diệt.
Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến những màn giật gân, những
câu đối đáp nẩy lửa như trên.
Lần thứ nhì, một chi tiết, đúng ra là một "cụm từ",
trong một câu văn, đập thẳng vào mắt tôi.
Bạn không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù quốc tế
Bangkok, tôi đã nhớ Sài Gòn tới mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó
"liên quan" tới… Sài Gòn!
Câu văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley
đang đêm bị sếp dựng dậy, bắt phải tới sở trình diện. Ngồi trên xe
tắc xi, anh cứ nghĩ, mình vẫn còn đang ngủ trên giường nệm ấm áp, đây
chỉ là hồn ma của mình đang run rẩy giữa thành phố London:
"Trong tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp.
Cái ấm là món hàng chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm
chống lại đêm tháng Giêng ẩm ướt. An toàn, vì không thực: đây là
hồn ma của mình đang lang thang trên đường phố Luân Đôn…"
(He felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth
was contraband, smuggled from his bed and hoarded against the wet
January night. Safe because unreal: it was his ghost that ranged
the London streets….)
Những từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương
trỗi dậy, gây trạng thái chập chờn nửa thức nửa ngủ. An toàn ở trong
một nhà tù, cách xa nhà tù quê hương. Không thực, vì chung quanh là
cả một khối hỗn độn người ngợm lạ hoắc… cứ thế, một đoạn văn ở trong
tôi lập đi lập lại, theo cùng với những con chữ: Trong những đêm chập
chờn mất ngủ… hồn ma… his ghost, không, không, đây là hồn ma của chính
mình đang lang thang ở Sài Gòn… không, không, không phải hồn ma của mình,
mà là… hồn thiêng, hồn thiêng của thành phố đang trỗi dậy… thế là tôi
ráp lại: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố
thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính mình đang lang
thang trên những đường phố cũ…". Tới đó tịt luôn.
Phải tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn, mãi mãi sau
đó, tôi mới kết thúc nổi câu văn:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành
phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình
đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời
đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."
Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại,
chỉ để kể về nó…
Theo GCC, cuốn Người
Mỹ Trầm Lặng được phát
sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm thức của Greene mách
bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn tiên tri ra
được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít cả trước và sau cuộc chiến, đúng
như lời anh ký giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng
thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái xứ sở khốn kiếp Mít
này đi!
ĐÁNH ĐẾN LUẬT SƯ ĐANG HÀNH NGHỀ LÀ CÙNG ĐƯỜNG RỒI
Điều đó càng chứng tỏ cái chết của em Đỗ Đăng Dư không
phải do bạn tù gây ra như công an Hà Nội thông báo.
Luật sư đoàn Hà Nội, hội luật sư Hà Nội, hội Luật Sư
VN không thể đứng ngoài cuộc khi hội viên của mình bị hành hung
đang lúc hành nghề
Cả hai luật sư đều bị đánh Ls Trần Thu Nam và LS Lê
Luân
Lũ cướp VC đi đến đỉnh cao của Cái Ác Bắc Kít rồi.
Ai chống nó, là nó thịt.
Một đất nước mà côn đồ làm chủ thì hết thuốc chữa!
VC, từ “một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra” [Phạm
Duy tán tỉnh kháng chiến, sau thua, về thành], sử dụng, một và chỉ
một mà thôi, đòn nhơ bửn này. Thủ tiêu, khủng bố, vu oan - Việt gian,
Ngụy, Tề - tất cả những ai chống lại chúng.
Ông cụ của Gấu, sở dĩ không theo chúng là vì vậy. Ông
quá tởm chúng, có thể do đã từng chứng kiến 1 vụ thủ tiêu, một người
lương thiện không chịu theo chúng. Ông cố tránh cho con cái, không
trở thành, con của 1 tên Vẹm. Gấu trở về lại Đất Bắc, và vỡ ra điều
này, và đây đúng là món quà tuyệt vời ông để lại cho con cái, sau khi
bị 1 tên học trò thủ tiêu, do quá tin tưởng vào nó.
Ui chao, lại nhớ đến Bà Trẻ của Gấu, người đã từng nuôi
Gấu cho đến khi ăn học thành tài. Khi Gấu đậu cái bằng Tú Tài Hai,
thấy Cảnh Sát Gia Định tuyển biên tập viên, bèn nạp đơn, bèn OK
liền, bèn về khoe với Bà Trẻ, bà quát, đến, lấy lại cái đơn xé bỏ,
nhà mày không có mả đánh người!
Ui chao, đọc chỉ cái tít, là bèn nhớ
ra liền cái cảm giác lần đầu tiên được ăn cái món thịt hun khói,
jambon parfumé, khi được bà cô, Cô Dung đem về nuôi, cho ăn học,
những ngày ở Hà Nội.
Nó ngon khủng khiếp đến nỗi Gấu quên con ốc nhồi ở ao
làng Thanh Trì, Quốc Oai Sơn Tây.
Chỉ đến khi đi làm Bưu Điện, có tí tiền còm rồi, thì
con ốc nhồi mới thức
giấc, phán, đi chứ.
Đọc bài viết của NL, thì GCC
lại nghĩ đến 1 trong những ẩn dụ, ở đầu cuốn dạy tiếng Anh, mà
cái tít của nó, là từ bài thơ của Frost, "Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ", trong
có câu, tôi còn những lời hứa, trước khi lăn ra ngủ, Promises To
Keep.
Một trong những lời hứa phải
giữ, là 1 ẩn dụ, mà GCC tóm tắt sau đây.
Ẩn dụ này khiến GCC tự hỏi, nếu Cái Ác Bắc Kít gây họa,
thì liệu, Cái Đói Bắc Kít, thay vì Cái Đẹp của Dos, sẽ cứu chuộc…
thế giới?
Có 1 anh chàng khi còn nghèo
khổ, được ăn 1 trái chuối, nhớ hoài, đến khi giầu có, tha hồ ăn
chuối, thì không làm sao thấy ngon như lần đầu.
Cái trái chuối đó, với GCC là
con ốc nhồi, vớt được ở cái ao, ở bên ngoài cổng nhà cô Hồng Con,
cô con gái địa chủ, sau này bị cả làng của GCC bỏ cho chết đói, và
trong đêm, đói, bịnh, khát nước[do sốt thương
hàn], bò ra khỏi nhà, tới ao, bò lết xuống, chết ngay ở bờ ao.
GGC nhớ hoài, con ốc nhồi nằm
dưới 1 đám bèo. Gấu gạt đám bèo, con ốc lộ ra, chưa kịp lặn, là
thằng cu Gấu hớt liền. Bèn nổi lửa ngay bên
bờ ao, chơi liền.
Sau này, vào Nam, Gấu quá mê
món bún ốc, nhất là của cái bà có cái sạp ở Passage Eden, 1 phần
là vậy.
Cũng là cái trái chuối trong ẩn dụ kể trên. Và từ đó,
là vấn nạn, cái đói BK cứu chuộc thế giới.
Còn 1 quán bún ốc, ở trong 1 cái hẻm, kế bên rạp chiếu
bóng ngay đường Lê Lợi, quán Ba Ba Bủng, hình như vậy, cũng ngon,
nhưng không bằng.
SAIGON 1967 - Đường Thủ Khoa Huân
Bên trái hình có quán bún chả và bún riêu của bà Ba
Bủng rất nổi tiếng thời xưa của giới Bắc Kỳ 54 ngày xưa trước 1975...!!!
Theo GCC, cuốn Người
Mỹ Trầm Lặng được phát
sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm thức của Greene mách
bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn tiên tri ra
được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít cả trước và sau cuộc chiến, đúng
như lời anh ký giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng
thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái xứ sở khốn kiếp Mít
này đi!
Passage Eden. Xe bún ốc, Gấu thường ghé mỗi
khi thèm, thay vì cái croissant, ở Quán Chùa, cũng khu này, ở mặt
đường Tự Do phía bên kia tòa nhà.
Xe bún ốc ở hành lang passage Eden. Ngồi ở đó, nhìn
ra khu vườn trước Tòa Đô Chính, nhìn quá tí nữa, tới Rạp Rex.
Lạ, đọc Một Chủ Nhật Khác, Gấu cứ đinh ninh, cú gặp
gỡ sau chót giữa cô học trò và trung uý Kiệt phải ở quanh quất đâu
đây, quái quỉ thế.
Gấu gặp BHD, lần chót, thì là ở 1 cái quán gần Chợ Bến
Thành. Em đi chợ, Gấu tình cờ chạy xe lang thang khu này, nhìn thấy
em, và cả hai kiếm 1 cái quán ngồi.
Có vẻ như do đọc cái cảnh gặp gỡ của Kiệt với cô học
trò làm Gấu nhớ ra lần gặp BHD của Gấu. Em nói, anh đưa em tí tiền,
em bù vô số tiền mẹ đưa đi chợ, em lỡ tiêu quá 1 chút, và không muốn
giải thích…
Bạn đọc đoạn MCNK, khúc này, thì tưởng tượng ra được
nỗi đau của Gấu.
Cô học trò, nói, trông anh như thằng ghiền….
****
Vào lúc không chờ đợi, Oanh gặp lại Kiệt.
Đó là buổi sáng thứ Năm, đầu tháng Tám. Oanh xuống phố
có hẹn với người bạn trai đi xem chiếu bóng. Người bạn quen đã lâu,
từ năm nàng còn học trung học, nài nỉ nàng dành cho buổi sáng ấy trước
ngày nàng lên đường. Chủ nhật, Oanh đi. Anh ta học quân y, vừa thi
ra trường xong và đang chờ ngày chọn đơn vị. Anh ta bảo: Anh có thể
ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá
vậy, để Oanh đi cho yên mà. Nói vậy, nhưng rồi Oanh cũng nhận lời một
cách bình tĩnh. Những ngày còn lại quá trống trải, nhàn rỗi.
Tình cờ xui khiến Oanh không xuống taxi ở nơi hẹn trước
rạp chiếu bóng mà lại xuống cách hai ba phố xa. Tự dưng nàng nẩy
ý muốn đi bộ thong thả một đoạn đường dưới hàng me xanh mướt rào rạt
những gió của một ngày ẩm. Nàng hài lòng vì đã nhận lời mời của bạn.
Buổi sáng tình tứ, dễ thương. Nếu không có hẹn chắc nàng cũng chẳng thể
ở trong nhà, nàng sẽ phải xuống phố một mình hoặc mất công rủ bạn.
Vừa đi vài bước Oanh giật mình vì bàn tay ai thình lình
chụp giữ cánh tay đang buông xuôi của nàng. Nàng há hốc, trông Kiệt
đứng kế bên.
Nàng như bị trám miệng. Trời đất chông chênh trước mắt.
Bao nhiêu phản ứng Oanh thường tưởng tượng nếu chẳng may đụng mặt
Kiệt, đều không diễn ra. Nàng lạnh toát như một hình nộm tuyết đắp
đang tan rã nhưng đôi mắt lại hoen ấm. Nàng không nghe không thấy gì
nữa, bước đi bên Kiệt mặc dù chàng không còn nắm giữ cánh tay.
Sự thay đổi của ánh sáng, mầu sắc, tiếng động bao quanh
giúp Oanh hồi tỉnh dần. Oanh rùng mình, rợn óc. Nàng bắt đầu nghe
lọt nửa câu hát nỉ non:… gió lộng gọi mùa sang.
Nàng nhìn thấy Kiệt ngồi trước mặt trong một quán nước sâu hoắm. Bên ngoài
trời xỉn, xa lắc.
Nhớ, hồi mới quen BHD, khoe với bạn Chất, anh
đi nói với đám Thất Hiền, mỗi lần em của nó nói, nó coi như là sấm
ngôn.
Về già, ngẫm lại, quả thế thực.
Thê lương nhất, là đúng thời kỳ Mậu Thân, lần đầu có
số điện thoại nhà em, nhờ Cô Nga, nữ điện thoại viên trên Đài gọi
giùm, biết chắc là sẽ gặp ông bố.
Cật vấn 1 hồi khá lâu, rồi mới cho người gọi BHD.
Gấu hỏi thăm boyfriend. Bạn cùng học Y Khoa. Em nói,
OK lắm, được lòng bố em lắm. Mỗi lần Sài Gòn dục dịch đảo chánh là
khệ nệ vác mấy bao gạo tới…
Im thật lâu, rồi nói, Gấu không làm thế được đâu!
Cái vụ đưa tí tiền còm, thì cũng thế.
Thê thảm hơn nhiều, như thể, làm gì có dịp như thế nữa
đâu.
[Cái gì gì, hai người yêu nhau rất tình cờ
Như tình cờ gặp nhau giữa đám người xa lạ]
Cuốn MCNK là quà tặng của Nguyễn Đông Ngạc, trước
khi mất.
Khi anh mất, chị Ngọc, bà vợ anh trao cho Gấu, luôn
cả cái kính mát anh vẫn đeo
Không có nó, chắc Gấu cũng chịu chết, không làm sao
đọc được, nói gì độc giả Tin Văn.
Tất nhiên có đọc, trưóc 1975. Nhưng làm sao nhớ.
Nhớ làm sao nổi,1 câu văn rất đỗi tình cờ, như "Nàng
lạnh toát như một hình nộm tuyết đắp đang tan rã nhưng đôi mắt lại
hoen ấm."
manhhai
SAIGON 1967 - Đường Nguyễn Du, cổng Vườn Tao Đàn
Cổng vô vườn Tao Đàn, phía đường Nguyễn Du. Lần
đầu tiên, Gấu đậu cái xô lếch bên hè đường, phía bên trong vườn.
Em đi bộ, phía bên kia đường, vô vườn, Gấu vòng xe hoa, em thản nhiên
ngồi lên, đúng như em viết trong 1 lá thư sau đó. Những lần sau, không
dám đón ở đây nữa, vì quá gần nhà, bèn rời qua phía cổng Hồng Thập Tự.
Chạy xe được 1 quãng, thì tới 1 cái quán cà phê, hủ tíu, như Gấu viết
trong Tứ Tấu Khúc.
Nhớ là thời gian đó, cuối năm, lạnh, Gấu dậy sớm, chắc
là do lạnh, nên nhớ Hà Nội, xứ Bắc Kít, thế rồi bất thình lình, nhớ
Em khủng khiếp, và thế là lấy cái xô lếch phóng 1 mách…
Chiếc xô lếch, là của bạn Chất. Bà cụ Chất nói, mày
lấy cái xe, đi làm, đừng đi xe đạp nữa, có tiền rồi. Tao mua chiếc
xe Nhật cho nó....
1967, đúng thời gian này.
Gấu, căn nhà ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức Phú Nhuận,
chiếc solex ngày nào, và...
"Làm sao có thể quên được một người đã nói yêu mình,
lần đầu tiên trong đời. Cái lần anh đón H. trên đường tới trường
Gia Long, ngay lối vào vườn Tao Đàn, buổi sáng sớm sau bao năm trời
xa cách, H. đã tự nhiên ngồi lên xe. Vậy là anh đã hiểu."
Thứ tình yêu đầy những passion mà anh có đó, em không
có, hay thứ tình yêu gồm một phần ba là confiance, một phần ba
là respect, một phần ba là "je ne sais quoi" , có lẽ, hình như em
đã yêu anh như vậy..
Chàng nhớ lời nàng nói, khi phải trả lời tại sao nàng
yêu chàng: "Tại vì anh yêu em nhiều quá." Tình yêu của nàng giống
như một sự đáp ứng, một sự dội lại tình yêu của chàng. Một lần khác,
nàng trả lời: "Tại vì anh hơn em mười một tuổi." Nàng tỏ vẻ tin cậy
chàng, tin tưởng mối tình của chàng đối với nàng, tình yêu đồng nghĩa
với sự tin cậy, tin tưởng, và kính trọng. Nàng là một cô gái thông minh,
học giỏi, mới lớn lên, đứng ngập ngừng ở ngưỡng cửa đời sống, tò mò ngắm
nghía đời sống, những người khác, thế giới, tò mò ngắm nghía xen lẫn chút
e dè sợ sệt, và nàng hy vọng ở chàng, mong có chàng ở bên cạnh trong đoạn
đường đầu tiên khó khăn, nguy hiểm, và đầy bất trắc đó, như vậy nàng sẽ
yên tâm hơn.
Cái vụ mấy năm trời xa cách, là cũng do đi làm, có
tiền, và có liên can tới bà cụ Chất.
Nhà BHD lúc đó rời lên Gia Long, 1 toà building, không
còn là cái nhà nhỏ ở đường Phan Đình Phùng, nơi có cái máy nước
ở trước nhà, nhà có cái lan can, có cái biển đề nhà sách gì đó, Gấu
quên mất tên, và cũng đã viết về nó rồi, trong Tứ Tấu Khúc.
Hai gia đình bà cụ Chất và BHD quen biết nhau từ Hà
Nội, mà hình như có tí bà con xa, Gấu không rõ lắm.
Bữa đó, bà cụ C tới nhà chơi, và gia đình BHD thấy
Gấu đi làm, có tiền, công nhân viên chính ngạch, bèn vơ vào, thế
là bèn nói với bà cụ C, cho nó làm cháu trong gia đình, tức là làm
chồng cô chị họ của BHD.
Cụ buột miệng, nó không muốn làm cháu ông bà đâu, mà
muốn làm con rể!
Thế là cấm cửa!
Nhớ ra rồi. Nhà sách ABC.Một cái tên mang đi
từ Hà Nội. Ông già BHD, hóa thân thành ông già Kiệt trong MCNK. Kiệt
thù bố, có thể được "mặc khải" từ sự thù hận của BHD với ông via của
em. Một mình ta gọi ông ta là bố, là quá lắm rồi. Ta không muốn mi phải
gọi ông ta là bố.
Tất nhiên, còn giống Kafka. Có thể vì thế mà Sến coi
Kafka, là Mít.
Là Bắc Kít, đúng hơn
Patrick Modiano: ‘I became a prisoner of
my memories of Paris’
The Nobel prizewinning writer on his new
novel, the phantoms of his past and the destruction of the old quartiers
Sao không hóa trang lũ Ngụy, quấn cái cờ ba que, hoặc
đang chọc tiết Cách Mạng, như Tạ Duy Anh mô tả, nhỉ?
NQT
Ukraine Cuộc thảm sát ở Odessa.
Đếch có tên cớm nào cả, les policiers sont les grands absents de
la journée. Ils ont disparu pendant les combats. Paris Match. 7-14 Mai, 2014
Trong hình,
1 anh pro… Bắc Kít cầm gậy tính
đập 1 anh pro… Ngụy, quấn trong lá cờ ba que!
Đấng Vương Đại Gia này, có thể do không đọc được tiếng của
tụi mũi lõ, cho nên lấy con mắt người bây giờ đọc truyện cổ tích
ngày xưa.
Những câu chuyện dành cho con nít của Lã Phụng Tiên,
mà chẳng đầy cái xấu ư, và chính vì thế Tẩy phải sửa đi, cho hợp
với thời nay.
Những câu chuyện dành cho con nít của bà Ségur, thì
đầy những xác chết, ấy là vì vào thời của bà, yêu đương thầm lén,
nhưng chết chóc thì lại công khai.
Tây có câu độc ác, dữ dằn như 1 câu chuyện thần tiên
dành cho con nít, là vậy.
Nhưng, khi Miền Bắc dậy con nít học toán, bữa nay anh
giải phóng mũ tai bèo làm thịt được 3 tên Ngụy, bắn rớt ba Thần
Sấm, sau này, thiên hạ cắt nghĩa thế nào?
Do cái tâm đen thui nên đọc cái gì cũng đen thui.
Bữa trước, đọc 1 bài ông viết về Nguyễn Tuân, mới hỡi
ơi.
Đọc bài viết của Vương Đại Gia, thì cái nền của xã hội Mít
mà ông nói tới, theo Gấu, là xã hội Miền Bắc.
Và nếu như thế, thì cái xấu nhất của nó, là thèm khát.
Bèn nhớ ra mảng sau đây:
INTELLIGENCE
THE BIG QUESTION
What is the deadliest sin? Richard Holloway makes the case
for envy, Will Self for pride, Ann Wroe for ingratitude, Jesse
Norman for greed and Aminatta Forna for gluttony, while Camila Batmanghelidjh
says it is sloth and Robert Guest chooses lust
Tờ Intel, Intel Life, số mới nhất, đưa ra câu hỏi, tội lỗi
khốn kiếp nhất, là tội gì?
Một độc giả/tác giả chọn "envy".
Đọc bài viết, liên tưởng khùng, thì ngộ ra là, Cuộc Chiến
Mít, là do thèm muốn mà ra.
Đói quá, thấy cái gì của Nam Kít, cũng thèm.
Bốn ngàn năm đói, làm sao tha tụi chúng cho được!
Hà, hà (1)
“... Đối với riêng vấn đề Biển Đông, Trung Quốc có hai lợi
ích: Một là muốn có một chỗ đứng chân chiến lược để phát triển
vào Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương, và nói chung là đi ra thế giới. Hai
là thèm khát năng lượng. Hai yếu tố đó – mong muốn có chỗ đứng chân
trong khu vực cộng với thèm khát năng lượng – trở thành động cơ cho
chiến lược chung của Trung Quốc, cả toàn cầu lẫn khu vực. Và Trung Quốc
đã có nhiều hoạt động nhằm thực thi chiến l...
I had a small, nonspeaking part
In a bloody epic. I was one of the
Bombed and fleeing humanity.
In the distance our great leader
Crowed like a rooster from a balcony,
Or was it a great actor
Impersonating our great leader?
That's me there, I said to the
kiddies.
I'm squeezed between the man
With two bandaged hands raised
And the old woman with her mouth open
As if she were showing us a tooth
That hurts badly. The hundred
times
I rewound the tape, not once
Could they catch sight of me
In that huge gray crowd,
That was like any other gray crowd.
Trot off to bed, I said finally.
I know I was there. One take
Is all they had time for.
We ran, and the planes grazed
our hair,
And then they were no more
As we stood dazed in the burning city.
But, of course, they didn't film that.
Charles Simic
Cameo Apperance: Sự xuất hiện của 1 nhân
vật nổi tiếng, trong 1 phim….
CAMEO APPEARANCE
Tớ có cái phần nhỏ mọn, không
nói
Trong cuốn sử thi đầy máu của dân tộc tớ.
Tớ là một trong cái nhân loại
Bị bom, oanh tạc, pháo kích, và bỏ chạy té đái!
Từ xa, vị lãnh đạo của chúng tớ lúc đó, hình như là
Sáu Dân thì phải
Gáy như 1 con gà trống, từ ban công dinh Độc Lập
Hay là thằng khốn nào đóng vai Sáu Dân vĩ đại?
“Tớ đó”, tớ nói với lũ con nít
Tớ bẹp dí, giữa một người đàn ông
Hai tay băng bó, cùng giơ lên
[Sao giống TCS quá, khi chào mừng Sáu Dân,
sau khi ca Nối Vòng Tay Lớn?]
Và một bà già miệng há hốc
Như thể bà muốn chỉ cho coi một cái răng của bả.
Đau thật. Nhức nhối thật.
Hàng trăm lần, tớ coi đi coi lại You tube,
Không chỉ 1 lần
Liệu họ nhận ra tớ không nhỉ,
Trong cái đám đông ở Dinh Độc Lập bữa đó?
Thì cũng như mọi đám đông xám xịt,
Bè lũ Cách Mạng 30 Tháng Tư,
Đứa nào cũng có 1 cái băng đỏ ở cánh tay!
Thôi đi ngủ, tớ sau cùng phán
Tớ biết, có tớ ở đó.
Một cú [cameo appearance]
Họ đâu có thì giờ, 1 cú là đủ rồi.
Chúng tớ chạy, và những chiếc trực thăng thổi tócchúng tớ,
Như muốn giật chúng ra khỏi đầu.
Và rồi chẳng còn gì hết
Chẳng còn máy bay trực thăng
Khi chúng tớ đứng bàng hoàng trong Sài Gòn bốc cháy.
Nhưng, tất nhiên, lũ khốn VC có bao giờ cho nhân loại
coi cảnh này!
Gấu “sống sót” cuộc chiến, và
có được cuộc đời thứ nhì ở hải ngoại là nhờ cuốn này. Bức hình
độc nhất của suốt 1 thời trẻ tuổi, viết văn viết viếc, xì ke xì kiếc,
cùng tí tiểu sử, trong có ghi "phê bình, điểm sách", trở thành bùa
cứu mạng, Gấu lèm bèm về nó nhiều lần rồi, nhân 30 Tháng Tư bèn tự sướng
thêm 1 cú!
Trong quân đội miền Nam, sĩ
quan gốc Võ bị Quốc gia Đà Lạt là thành phần ưu tú, không bao giờ để bị nhầm
lẫn với lại sĩ quan xuất thân từ trường Bộ binh trừ bị Thủ Đức, Long Thành.
Vì vậy mà những bút ký của Phan Nhật Nam (Mùa Hè Đỏ Lửa, Dọc Đường
Số 1...) mặc dù tác giả không ý thức hay là chủ ý, không phải là những
bút ký về "người lính Việt Nam Cộng hòa" mà là về sĩ quan Võ bị.
DK
Theo GCC, nhận xét này sai.
Gấu đọc PNN, không thấy cái gọi là không ý thức hay
chủ ý, mà chỉ thấy anh chọn nghề binh, chọn cả chuyện chống cộng
ở trong đó. Chứng cớ, là, khi đi tù cũng không thay đổi, đếch thèm
nhận quà thăm nuôi của phía thắng trận, đếch thèm tiếp phần “họ” của
mình, ở ngoài Bắc.
Võ Bị Đà Lạt là của đám chọn binh nghiệp, khác hẳn
Thủ Đức, là của những người bị động viên, phải vô lính. PNN có những
dòng thổi Võ Bị Đà Lạt, tất nhiên, là cái nôi của anh, làm sao không.
Nhưng đâu có dòng nào coi khinh đám Thủ Đức.
Nhận xét về văn nghiệp của PNN như thế, thì cũng cho
phép GCC nhận xét về văn của DK, cũng y thế, một thứ văn chương Thủ
Đức, đếch phải văn chương thứ thiệt của Đà Lạt, như của PNN!
Viết tiếng Việt còn thấy đỡ đỡ, bày đặt viết tiếng Tây,
ai đọc?
Thú thực, đọc đám Mít viết tiếng Tây, GCC thấy buồn
cười, tởm, đúng hơn.
Đó là thứ tiếng Tây viết đúng văn phạm, nhưng đếch phải
văn chương.
Văn chương, là thể nào cũng có cái gì đó, có tính u
hoài, gọi đại như vầy, về 1 xứ Mít đã mất. Linda Lê có bao giờ nhận
bà là người Mít đâu, vậy mà đọc, vẫn cảm thấy cái đó, dù bà phán, tôi
viết văn như kẻ giảng đạo ở giữa sa mạc.
NQT
Phạm Duy Khiêm, xưa chê đám
Mít viết văn bằng tiếng Mít, là tụi “ratés”, thất bại.
Có thể, vì tiếng Mít hồi đó còn hoang dại lắm.
Nhưng ratés, bi giờ là để chỉ đám viết văn bằng tiếng
Tây, nhất là đám con cháu VC!
Chúng đếch biết viết, bằng thứ tiếng gì nữa, mặt trái/theo
kiểu Kafka phán, tớ nói tất cả ngôn ngữ, nhưng bằng tiếng Do Thái
Với Kafka, là hãnh diện, còn đối với đám CCCC/VC này,
là nhục nhã, mặt phải/theo kiểu Malaparte chửi Đồng Minh:
Thắng trận nhục nhã lắm!
Bạn DK này, ở Mẽo, nhưng đọc,
thấy có vẻ rất ghét Mẽo!
Y chang đám Bắc Kít!
Có vài chi tiết sai. Vì NDT
còn sống, GCC viết ra đây những gì Gấu biết, nếu cần anh còn có thể đính
chính.
NDT làm cho DPT/Sài Gòn như 1 freelance, như “từ” bây
giờ gọi. Có thể anh là nhân viên khế ước. Gấu chẳng bao giờ hỏi,
nhưng đoán thế. Không thể có chuyện biệt phái.
Chứng cớ là có lần anh bị Quân Cảnh tó vì trốn động
viên, đưa vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, ở Quang Trung. GCC
có lên thăm anh những ngày anh nằm ở đây, có lần đi cùng với Võ Đại
Tôn, cũng bạn NDT. Sau đó, nhờ Nguyễn Mạnh Côn can thiệp, anh được
tha, nhưng phải về làm tờ “Hoa Tình Thương”, do mấy bà Tuớng Tá đứng
làm chủ xị, để thổi hứng chiến đấu chống VC vào quân đội VNCH. Gấu nhớ
là có lần cũng đóng góp bài.
Vào lúc anh bị bắt, Gấu có hơi
ngạc nhiên, hỏi bà xã của anh, khi anh vừa bị bắt và còn nằm ở
đồn Quân Cảnh, bị bắt hả, đi lính thì đi lính chứ sợ gì, thì cũng
vô Thủ Đức, rồi ra trường làm 1 tên sĩ quan VNCH, bảnh tỏng, có gì
đâu mà sợ. Bà bật cười, chồng tui đâu có tí bằng cấp nào như anh mà
đi trường sĩ quan Thủ Đức!
Viết lại ở đây, là vì bà xã
anh rất quí Gấu, trong số bè bạn của anh. Sau xẩy chuyện, là do chuyện khác.
Lỗi về phần gia đình của GCC, nhưng hai bên hết còn
liên lạc.
NDT viết trước đám HPA, NQT,
NDD, DPQ. Anh đã nổi tiếng, và là 1 trong những người chọn bài
cho tờ Văn. Khi HPA học sư phạm Đà Lạt,
ra trường, về Sài Gòn, chính GCC giới thiệu anh với NDT, và từ đó,
anh viết cho Văn.
Anh chẳng hề có ý làm mới tiểu thuyết, theo kiểu "tiểu
thuyết mới" của Tẩy. Thành ra không hề có cái chuyện, trong đám tiểu
thuyết mới, anh bảnh nhất, như MT phán.
Nói cho rõ, chứ chẳng hề có tí đôi co.
Hà, hà!
NDT gặp MT là mày tao, còn Gấu,
đâu dám, vì ông là bạn của TTT, anh của Gấu, vì Gấu chơi với ông
em của TTT.
Cách viết của đám có tên chung là tiểu thuyết mới Mít,
khác hẳn nhau, đó là điều giống đám tiểu thuyết mới Tẩy. Có chung
bảng hiệu mà chẳng ai viết giống ai. NDT viết văn ẻo lả, nhẹ nhàng,
hình như có lần Gấu nghe MT khen, như những giọt mưa gặp gió nhẹ, bay
nghiêng nghiêng.
Gấu đâu viết thứ văn đó.
HPA lại càng không.
Cái vụ MT không ưa Gấu là có thể, ông biết, Gấu không
đọc được ông!
Có đọc, khi còn đi học, Quá mê Chúc Thư Đỉnh Trời,
như mê Dòng Sông Định Mệnh của DQS.
Đúng khi đọc được văn Tây, của, thí dụ Camus, Sartre,
là bèn hết mê!
Một phần là do khiếu thưởng ngoạn thay đổi, một phần
do thách đố, cho chính mình, phải làm sao cắt nghĩa được cuộc chiến.
Bởi thế mà đọc Lukacs, vưỡn thí dụ.
V/v bằng cấp. Gấu chỉ có cái
Tú tài 2. Toán nhe. Đậu xong Tú Tài là đói rã cổ họng. Gấu xin
ý kiến ông anh, ông phán, nhà nghèo, học tới đó được rồi, kiếm cái
gì làm, vừa làm vừa học. Gấu bèn nộp đơn thi vô Bưu Điện, đúng lúc đó,
vừa mới thành lập. Gấu học trước đám bạn bè như HPA, NDD, NXH, Thầy
Đạo, Thầy Quân. Họ học, khi có cái gọi là động viên, rớt là đi lính. Chính
vì thế, anh nào cũng học Triết, thứ dễ nhất. Đó là sự thực. Gấu ra trường,
học hàm thụ, lấy cái chứng chỉ Dự Bị Triết, tính chơi cái cử nhân, dễ ợt,
cứ cua Thầy sao, trả bài Thầy, là đậu. Nhưng vô chứng chỉ Triết Tây, gặp
ngay NVT, bèn trở lui. Đó cũng là sự thực. Ông này, đi đâu cũng "thằng
đó học tui". Nghe quê 1 cục. Bèn bye Văn Khoa. Vả chăng cái bằng Bưu Điện
của Gấu có giá hơn cử nhân Triết nhiều. Nó cần đủ thứ tri thức, chưa kể
thực hành. Khác hẳn những thứ bằng khác, chỉ có phần tri, mà không có phần
hành.
Mấy ông bạn của Gấu, đậu xong, ra trường xong đi dậy
học, có ông nào cầm đến cuốn sách triết nữa đâu. Nếu có cầm thì cũng
để “ta đây, thầy triết”. Trong khi Gấu đọc, 1 thứ triết khác, nhờ thế
sau này, vẫn tiếp tục đọc, viết được.
Nếu không học Bưu Điện, là chẳng thể nào quen Cao Bồi,
thí dụ.
Chẳng hề biết gì về cuộc chiến cả.
My mother's favorite book was the Chinese classic novel
Dream of the Red Chamber, also known as The Story of the Stone,
also known as A Dream of Red Mansions. This was
the only work of fiction on her bookshelf. I remember picking the novel
up only once when I was young. I was drawn to its magisterial heft,
to the consolidated weight of more than a thousand pages. But because
I could not read Chinese, I gravitated instead to her Chinese-English
dictionary, a heavy yet small book, the size of my hand that translated
shapes into words (book). My mother passed away suddenly in 2002, and
her copy of Dream of the Red Chamber vanished.
The novel was written 250 years ago by Cao Xueqin,
who was still writing it when he died suddenly in 1763. Approximately
twelve copies of Dream of the Red Chamber existed in the years following
his death, handwritten editions made by his family and friends. The manuscripts
differed in small ways from one another, but each was eighty chapters
long. Unfinished, the novel ended almost in mid-sentence.
Those handwritten copies began to circulate in Beijing.
Rumors spread of an epic, soul-splitting tale, a novel populated
by more than three hundred characters from all walks of life, a story
about the end of an era, about the overlapping lines of illusion and
existence, a novel that took hold and would not let you go. In 1792,
nearly thirty years after Cao Xueqin's death, two Chinese scholars came
forward and claimed to be in possession of the author's papers. They proceeded
to publish what they said was the complete manuscript, consisting of one
hundred and twenty chapters, thirteen hundred pages. Movable type had
existed in China since the eleventh century, but this was the first time
Dream of the Red Chamber appeared in print.
It has been the pre-eminent Chinese novel ever since,
attracting legions of scholars-so many that they form a movement,
Redology. Some believe that, for reasons unknown, Cao Xueqin destroyed
the last forty chapters of his novel, that the two scholars finished
the book themselves. Today in China there are more than seventy-five
editions. Some are eighty chapters, others are one hundred and twenty,
and some are one hundred and ten. Dream if the Red Chamber has multiple
endings and it also has no ending.
A few years ago, I began writing a novel set in
Shanghai. My own novel circles around a hand-copied manuscript with
no author, a story with no beginning and no end. I knew nothing about
the story surrounding Dream of the Red Chamber because I had never
read the novel; no one had mentioned it in any literature course I
had ever taken. A couple of years ago, missing my mother, I finally
began to read it. The novel took root in me. When I learned of the handwritten
copies, the continuation, the unknown authorship, I felt oddly, exhilaratingly,
as if I had always known this story. I had folded it into my own book:
a truth unwittingly carried in a fiction, an illusion as the structure
of a truth.
Dream of the Red Chamber is hands down the most
widely read book in the Chinese-speaking world, making it perhaps
the most read novel in history. Professor John Minford, who translated
an edition with celebrated translator and Chinese scholar David Hawkes,
described it as a novel that combines the highest qualities of Jane
Austen, William Thackeray, Marcel Proust, and Honore de Balzac. After
250 years, readers continue to decode its mysteries. Readers like
my mother felt ownership over the novel. With Dream of the Red Chamber,
none of us can ever know where the ending lies or what only another
beginning is. The novel itself is a playful and profound mirror to
the life of the imagination. Lines from the first chapter read, "Truth
becomes fiction when the fiction's true. Real becomes not-real where
the unreal's real. "
I still have my mother's dictionary. I often wonder
what happened to her copy if Dream of the Red Chamber. I wonder
whether it had eighty chapters, one hundred and twenty, or one hundred
and ten. It was her girlhood copy. She'd had it through all her migrations,
carrying it across the seas from Hong Kong to Canada. I had wanted to
keep it all my life, but while I grieved my mother's sudden death, someone
reached out for the book on the shelf. They lost themselves in its love
triangles, its forgotten era, its intricate dance between this world
and its dream. They carried the book away with them, into its next life.
From Brick, A literary Journal, 95, Summer, 2015.
On childhood books
ON THE bloodied Boeotian plains outside the seven gates
of Thebes, Ismene struggles to persuade her sister Antigone to
obey the edict of their uncle Kreon, the new head of state: “We’re
girls,” she cries. “Girls cannot force their way against men.” Antigone
will have none of it. She is determined to perform the sacred burial
rites for her brother, Polyneikes, who was slain in a brutal civil war
when he refused to relinquish the throne. Having deemed Polyneikes
an enemy of the state, Kreon forbids any citizen from mourning his
corpse. But Antigone is not easily cowed by the seemingly arbitrary
decrees of men.
... Có lần, Phạm Trọng Cầu tiết lộ anh là tác giả ca
khúc Mùa Thu Không Trở Lại. Tôi cãi, bởi vì trước năm 1975, tôi có
tập nhạc 12 bài ca quen thuộc trên đất Pháp (trong đó có ca khúc Mùa
Thu Không Trở Lại) của tác giả Phạm Trọng. Anh cười xác nhận, sau năm
1975 anh mới thêm vào chữ “Cầu” cho tên anh được đầy đủ như trong giấy
khai sinh.
Nhạc sĩ cho biết: anh sinh đúng vào ngày Noel (25.12.1935)
tại Phnom Penh (Nam Vang). Cha anh là trắc địa sư Phạm Văn Lạng,
vốn gốc Hà Nội, nhưng đang làm việc tại đây nên năm 1943, đã đưa gia
đình về Sài Gòn và mẹ của anh mở một nhà hàng ca nhạc mang tên Aristo.
Tại đây, Phạm Trọng Cầu được tiếp xúc với những ban nhạc Philippines
và một số nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng trong nước. Anh cũng bắt đầu học chơi
đàn mandoline… Tuy nhiên, thời gian này khá ngắn ngủi - chưa tới 2 năm
thì chiến cuộc lan tràn, gia đình anh phải tản cư lên Biên Hòa. Sau khi
Nhật đầu hàng đồng minh, gia đình anh trở về Sài Gòn, rồi chuyển dần xuống
miền Tây.
Năm 1953, Phạm Trọng Cầu thi vào trường Quốc gia âm
nhạc và kịch nghệ Sài Gòn, và chàng trai 18 tuổi, nhớ về thời thơ
ấu cắp sách đã sáng tác ca khúc Trường Làng Tôi… Tốt nghiệp xong,
đến năm 1962 Phạm Trọng Cầu lại thi vào Nhạc viện Paris (Pháp).
Tại Paris, anh đã viết 12 bài ca quen thuộc trên đất
Pháp, trong đó có Mùa thu không trở lại… Với ca khúc này, Phạm Trọng
Cầu tâm sự: “Dạo ở Paris, mình gặp và yêu một cô gái Việt Nam có mái
tóc đen dài, đôi mắt buồn vời vợi. Tình yêu đang độ trăng rằm thì nàng
phải về nước và không bao giờ trở lại Paris nữa. Chúng tôi chia tay vào
mùa thu - khung cảnh mùa thu ở châu Âu rất đẹp, nhưng nếu phải chia ly trong
một cái nền như vậy thì nó lại trở nên thật tê tái: “Em ra đi mùa thu,
mùa thu không trở lại. Em ra đi mùa thu, sương mờ giăng âm u. Ngày em
đi, nghe chơi vơi não nề. Qua vườn Luxembourg. Sương rơi che phố mờ, buồn
này ai có mua? Từ chia ly, nghe rơi bao lá vàng, ngập dòng nước sông Seine.
Mưa rơi trên phím đàn, chừng nào cho tôi quên?... Em ra đi mùa thu, mùa
thu không còn nữa. Đếm lá úa mùa thu, đo sầu ngập tim tôi…”.
Tôi hỏi anh có phải cô ấy tên Thu không mà anh cứ lặp
lại câu điệp khúc “Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại”? Anh
trầm ngâm: “Đối với tôi... là một mối tình xa xưa thời còn trai trẻ.
Gặp nàng vào mùa xuân, mùa hạ tình nồng cháy và mùa thu nàng ra đi.
Hôm tiễn nàng ra sân bay, tôi trở về nhà phải đi ngang qua khu vườn Luxembourg.
Khu vườn đó, khi đi ngang, tôi chợt nhận ra mùa thu, vì chân mình đá
rất nhiều lá vàng, trong tôi tự nhiên vang một giai điệu "Em ra đi mùa
thu, mùa thu không trở lại...". Dù là mùa thu ở Paris rất đẹp, nhưng mà
từ mùa thu đó, với tôi, mùa thu không bao giờ trở lại nữa, chỉ có thế
thôi”...
Hà Đình Nguyên
[From VBT. Tks. NQT]
*** Mùa Thu Không Trở Lại (xin bấm vào link dưới
đây)
Nhà
thơ Nguyễn Bính, tham gia cách mạng từ 1947, về Hà nội năm 1954,
làm báo tư nhân Trăm hoa từ năm 1956. Thời đó, báo của Nguyễn Bính
là cái gai đối với các nhà lãnh đạo văn nghệ. Ông “cả gan” chê thơ Tố
Hữu và Xuân Diệu :”Vì những sai lầm nghiêm trọng, cần phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học 1954-1955; đề
nghị đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì. Loại tập thơ Ngôi sao
và một số quyển không xứng đáng.”. Táo tợn hơn nữa, Trăm Hoa còn “đề
nghị bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu”. Tất nhiên chỉ
ra được vài số Trăm Hoa “chết yểu” .Tuy không xơi đòn nặng như Nhân
Văn Giai phẩm nhưng Nguyễn Bính cũng phải rời Hà Nội về Nam định làm
anh nhân viên ngoài biên chế dưới sự “quản lý chặt chẽ ” của Trưởng ty
văn hóa, nhà văn Chu Văn. Trong thơ chân dung về nhà thơ tình số 1 VN này
, Xuân Sách điểm có hai tác phẩm tiêu biểu Lỡ Bước Sang Ngang (1940), Giếng
Thơi (1957) nhưng vẫn không quên “sự kiện báo Trăm Hoa” với tình cảm xót
xa :
“Hai lần “lỡ bước sang ngang “ Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi Trăm hoa thân rã cánh rời Thôi đành lấy đáy “giếng thơi” làm mồ.
Nhà thơ Tú Mỡ trước cách mạng đã từng “ngang ngạnh”
trong “dòng nước ngược” :
“Trong đình quan khách cỗ bàn. Vòng ngoài dân đói hàng ngàn xúm đông Há mồm lố mắt đứng trông Chúc thầm các cụ các ông muôn đời”
Vậy nhưng từ ngày theo kháng chiến thì “Tú mỡ” đã
thành “Tú tóp” : “ Một nắm xương khô cũng gọi mỡ Quanh năm múa bút để mua vui Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.”
Nhà thơ Quang Dũng tác giả “Tây tiến”- một trong
số ít bài thơ hay nhất thế kỷ, năm 1957 phải đi chỉnh huấn trong
vụ Nhân Văn Giai phẩm , từ đó ông sống rất nghèo ,lặng lẽ trong cương
vị biên tập báo Văn Nghệ và sau là NXB Văn Học. Năm 1978, tôi cùng
ăn cơm với ông tại nhà ăn tập thể NXB Văn học, Quang Dũng cao to nên
ăn rất khỏe lâu lâu lại thấy ông đứng lên đi xin thêm cơm. Bà Gái cấp
dưỡng lúc đầu còn cho thêm cơm, sau chỉ cho … miếng cháy. Xuân Sách viết
chân dung ông với lời lẽ xót thương và mến phục :
““Sông Mã xa rồi tây tiến ơi...” Về làm xiếc khỉ với đời thôi Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm Sống tạm cho qua một kiếp người. “Áo sờn thay chiếu anh về đất” Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh Gửi hồn theo mộng về tây tiến Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nữ thi sĩ Anh Thơ (1921), được giải thưởng của Tự
Lực Văn đoàn năm 1939 khi mới 18 tuổi, tác giả tập “ Bức tranh
quê” (1941) . Đi cách mạng năm 1945 trở thành cán bộ phụ nữ và làm
thơ cách mạng, đại loại như :
CON ĐÃ VỀ NƠI BÁC Ở NGÀY XƯA
Bác về, mời cụ “Các Mác’’ về, trên núi đá Trong cả lòng hang, Bác tạc tượng người. Như tạc niềm tin cho con cháu đời đời Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ nghĩa. Bởi thế, Xuân Sách có vẻ tiếc cho bà : Ấy "bức tranh quê" đẹp một thời Má hồng đến quá nửa pha phôi Bên sông vải chín mùa tu hú Khắc khoải kêu chi suốt một đời.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết gia vào loại
hàng đầu ở ViệtNam nhưng số phận tác phẩm của ông thật bi thảm.
Năm 1957, ông Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo (nhà in Minh Đức) tổ
chức giỗ Vũ Trọng Phụng và tái bản “Số đỏ”. Có kẻ ỏn thót với Ủy viên
Bộ chính trị Hoàng Văn Hoan là Vũ Trọng Phụng viết bài nói xấu ông ký
ga , không may bố ông “lãnh đạo cao cấp” này lại cũng làm nghề đó. Thế
là một chiến dịch triệt hạ Vũ Trọng Phụng được phát động. Ông bị quy
là đệ tử của Freud, rồi ai đó moi trong thư viện ra bài báo của ông “Nhân
sự chia rẽ giữa đệ tứ và đệ tam quốc tế, ta thử ngó lại cuộc cách mệnh
cộng sản ở Nga từ lúc khỏi thủy cho đến ngày nay" in trên Đông Dương tạp
chí số ra ngày 25/9/ 1937, ông bị quy là phần tử Trotskít. Từ đó Vũ Trọng
Phụng coi như bị “khai trừ” khỏi văn đàn. Sau này khi tôi về NXB Văn Học,
nhà phê bình văn học , Giám đốc Như Phong rỉ tai tôi :” Trong cuộc họp
phê phán Vũ Trọng Phụng ở Thái Hà ấp toàn những nhà văn hàng đầu mà không
một thằng nào dám mở mồm bênh Vũ Trọng Phụng lấy một câu…”. Mãi tới thời
kỳ đổi mới, ông Lý Hải Châu, GĐ NXB Văn Học mới lần lượt tái bản tác phẩm
của Vú Trọng Phụng. Khắc họa chân dung ông, Xuân Sách đầy lòng cảm phục
:
Đã đi qua một thời "Giông tố", Qua một thời “cơm thầy cơm cô” Còn để lại những thằng “Xuân tóc đỏ” Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ”
Nhà văn Nam Cao , cha đẻ của Thị Nở, Chí Phèo, cán
bộ cách mạng, từng phụ trách báo Cứu Quốc, hy sinh năm 1951 trên
đường công tác thuế nông nghiệp ở khu III.Giả dụ ông còn sống như các
nhà văn cùng thời khác , không hiểu có còn đứng vững trên lập trường
cách mạng trong cơn “tai biến” “ Nhân Văn Giai Phẩm” như Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài…không ? Xuân Sách viết về
ông đầy ưu ái :
“Em còn đôi mắt ngây thơ Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai Thương cho thị Nở ngày nay Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo!”
Nhà thơ, kịch tác gia Thế Lữ , tác giả của “Mấy
vần thơ” (1935) trong có những bài nổi tiếng : Nhớ rừng, Tiếng trúc tuyệt
vời, Tiếng sáo Thiên Thai, Vẻ đẹp thoáng qua, Bên sông đưa khách, Cây đàn
muôn điệu và Giây phút chạnh lòng. Năm 1936, hoạt động kịch với Ban kịch
Tinh Hoa, ban kịch Thế Lữ . Sau năm 1947, ông tham gia kháng chiến, năm 1957
được bầu làm Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, hầu như không viết gì
. Xuân Sách tiếc cho ông đã quá sớm “về vườn bách
thú”:
“ Với tiếng sáo Thiên Thai dìu dặt Mở ra dòng thơ mới cho đời Bỏ rừng già về vườn bách thú Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi “
Nhà văn Bùi Hiển, nổi tiếng với truyện ngắn “Nằm
vạ “ (1940), nhưng sau đó tham gia cách mạng quá sớm, không viết
được gì nhiều, nổi bật là tập “Trong gió cát”. Năm 1958, ông viết
truyện ngắn “Ngày công đầu tiên của cu Tí” để cổ vũ cho phong trào
hợp tác xã. Truyện ngắn này được sử dụng trong giáo trình văn học
phổ thông tại miền Bắc và cả nước Việt Nam trong nhiều năm. Những năm
1945-1960 ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ An, sau đó suốt trong nhiều
năm , ông công tác trong Hội nhà văn VN.Xuân Sách giễu cợt : “ Sinh ra “ trong gió cát” Đất Nghệ An khô cằn Bao nhiêu năm “nằm vạ” Trước cửa hội Nhà văn” (còn tiếp)
Note: Cái này, "đi" trong dịp
30 Tháng Tư, được, được, thay vì loan tin đại công thần của chế
độ, 007 Mít bị mất nhà!
Lật cái nón lên làm tên ăn xin mà VC cũng vờ!(a)
Có lẽ chưa có 1 nhà văn nào bảnh như Solz,
ấy là nói về niềm tin: Ngay từ khi bị tống ra khỏi đất nước, là đã yên chí,
ta sẽ trở về, và khi đó, chế độ Xô Viết đã sụp đổ.
Ông phán điều này, trên đài truyền hình Pháp, trong
1 chương trình văn học do Bernard Pivot phụ trách, thời gian 1975,
khi cuộc chiến Mít đi vào khúc chót. Ông phán, Miền Bắc sẽ làm thịt
Miền Nam, và đây là 1 cuộc chiến tranh chấp quyền lợi giữa các đế quốc.
Octavio Paz sửa sai, nói, đây là cuộc chiến giải phóng
của 1 cựu thuộc địa.
Bây giờ, điều Solz phán, đã được chứng nghiệm.
Tẩy vẫn khoe, CS Mít, gốc Tẩy..
Đúng, cho tới khi HCM thoát được sự canh chừng của Cớm
Tẩy, qua Moscow, và để không bị Xì trừ khử, như 1 tên thuộc đám cựu
trào, nhận làm cớm CS quốc tế, hoạt động tại TQ.
Lần Gấu về lại Đất Bắc, coi gia phả dòng họ Nguyễn,
ông chú ông bác nào cũng khoe, tô đậm, những dòng, đã từng được
du học ở TQ, là Gấu biết, chết rồi.
Và, bất thình lình, bắt được anh Tẫu, ở trong
phòng ngủ nhà Bắc Kít của mình!
Rusddie
chẳng từng phán, chinh phục tiếng Anh, là hoàn tất tiến trình giải
phóng của chúng ta. Ông ta sinh ở nước ngoài.
Và nếu như thế, thì với 1 người Việt - ra đi từ Miền
Nam - “nếu muốn hoàn tất...” cái con mẹ gì đó, thì điều kiện tiên
quyết, là phải rành… tiếng Việt.
Đám sinh viên Miền Nam, trước 1975, chúng cố học ngoại
ngữ, để chuồn, thành thử không có 1 tên nào thực sự mê tiếng Mít.
Đó là cái chết của chúng.
Kinh nghiệm của riêng Gấu, suy ra, từ câu của Rushdie,
từ đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy nhờ chính sách du học của Ngụy,
không có 1 tên nào ra hồn – điều kiện để trở thành nhà văn Mít, viết
bằng tiếng nước ngoài, là phải rành tiếng Mít, hay… cùng kiệt hơn,
bạn chỉ có thể rành tiếng nước người, và viết ra được tác phẩm ngửi
được, chỉ một khi, only and only, bạn rành tiếng Mít.
Linda Lê, ra nước ngoài năm 14 tuổi, chẳng biết chút
tiếng Mít, sở dĩ viết tiếng Tây, hơn cả Tẩy, là do mang mẹ 1 đứa trẻ
Mít đã chết ở trong người, cho chắc ăn.
Sự thất bại của những đấng Mít viết văn bằng tiếng mũi
lõ, đâu có phải vì dở tiếng mũi lõ, mà là vì vờ tiếng Mít, tếu thế.
Ui chao nhớ hồi còn Sài Gòn, mới lớn, mê đọc sách Tẩy,
chữ Tẩy ăn đong, thấy mấy đấng như Trần Thiện Đạo, ở Paris, ăn sáng
bàn kế bên Sartre & de Beauvoir, dịch “Sa Đọa” như máy, gửi về
báo Văn cho Trần Phong Giao, hay đấng thi sĩ, thầy giáo Nguyễn Đăng
Thường, hay Mít Butor, đấng nào tiếng Tẩy cũng xổ như gió, thèm quá,
chỉ mong được như… chúng!
Về già, nhìn lại, thấy, chẳng tên nào ra hồn, thoạt
đầu ngạc nhiên quá, sau ngộ ra, chúng thèm bỏ chạy quá, nên học
tiếng Tẩy để có dịp là… chuồn.
Khác hẳn Gấu Cà Chớn. Học, đọc tiếng Tẩy, để sống &
hiểu & chịu đựng cuộc chiến Mít, và mong làm sao sống sót nó!
Nghe kêu như chuông, nhưng thực sự là vậy. Phải đến
lúc sắp đi xa mới ngộ ra như dzậy!
Rõ ràng là chúng làm sao đọc được Beckett, thí dụ, cho
dù giỏi tiếng Anh tiếng U, tiếng Tẩy cỡ thế nào!
Nghe thì ngược ngạo, nhưng, bạn không giỏi tiếng Mít,
không làm sao đọc được Beckett!
Phải
cực rành tiếng Mít, nếu bạn muốn viết văn bằng tiếng mũi lõ, lũ
mũi lõ đọc, không thấy mùi Mít ở trỏng!
Phải cực rành tiếng Mít mới đọc nổi Beckett.
Những kinh nghiệm, Gấu mất cả cuộc đời mới chiêm nghiệm
ra.
Bạn đâu cần khổ như thế.
Đọc đấng Mít Butor dịch Beckett, NDT dịch Linda Lê,
là thấy ngay “nhãn tiền”.
“Vứt ngay vô thùng rác cho ta”, Gấu lại nghe Sến phán!
Bạn
Khờ của GCC mà chẳng giỏi tiếng Mít, cùng tiếng Tẩy ư? Vậy mà chỉ
viết được loại văn học “thứ phẩm”, không làm sao có thứ tác phẩm như
cái “rìu phá băng”, theo ý của Kafka, theo Gấu, anh bán rẻ, không chỉ
văn chương, mà có thể cuộc đời của mình nữa cũng nên, hà, hà!
Còn cái đám nhăng nhít viết bằng tiếng Anh, bố mẹ Ngụy,
ở Mẽo, thì đều vứt đi.
Chứng cớ, chúng đều bò về bợ đít VC, không thấy sao?
Note:
Bài viết này, Gấu đọc khi mới ra hải ngoại. Có 1 số chi tiết sai.
Thí dụ, cái danh sách đầu tiên những nhà văn phản động đồi trụy, không
đúng như MT viết.
Cũng trong cuốn này, MT kể, lần đầu gặp TTT, ở tòa soạn
báo Dân Chủ, và lầm với 1 tên thợ sắp chữ, và thằng khốn còn dám
hỏi xin ông 1 điếu thuốc lá!
Note: Bài viết về Vũ Hoàng Chương,
trong có nhắc tới cái danh sách đầu tiên, những nhà văn đồi trụy,
gồm 16 tên…
Tôi đọc những người có tên trong bản danh sách
được gọi là danh sách Hoàng Trinh cho ông nghe. Hoàng Trinh là
thông gia với Trường Chinh. Y vào Nam sớm nhất và được Bộ Chính Trị
Trung Ương Đảng Ủy cho toàn quyền xử lý vụ "Văn Học Nghệ Thuật Miền
Nam". Sau này thêm bớt con số người bị bắt, có nhiều danh sách khác.
Như danh sách 21, danh sách 44. Nhưng danh sách Hoàng Trinh, 16 người
được lập ra sớm nhất và tôi được biết ngay nhờ sự tiết lộ của một cán
bộ đảng quen biết ngày trước, hắn đi theo Hoàng Trinh lên Đà Lạt, và
được cho xem bản án tử hình này
theo GCC, không đúng.
Danh
sách này, gồm 12 tên, có GCC, thứ 7, trong 12 tên, là do 1 tên
đàn em của Lữ Phương làm. Tên này, hiện ở Pháp.
Tên này, 1 trong những kẻ chịu ơn GCC & TTT.
GCC đã kể ra rồi. Khi TTT thôi làm trang VHNT cuối tuần
của tờ Tiền Tuyến, ông giao cho Gấu. Gấu kéo thêm HPA, sau HPA rãn
ra còn mình Gấu. Ông trao mớ bài vở của 1 số tác giả & người
viết gửi tới, và biểu Gấu, coi, nếu cần sửa thì sửa, rồi đăng.
Vậy mà ra hải ngoại, đọc những gì hắn viết, thời gian
Gấu còn ở tù VC, hắn phạng Gấu tơi bời, trong “Nhìn lại những bến
bờ” (?) ,
nào bày đặt trí thức cái con mẹ gì đó!
Cũng như MT, hay bất cứ 1 tên nào khác, chúng đều tin,
đám kẹt lại thì đều đã chết trong tù VC.
V/v DNM, cũng sai, chính DNM
cho biết, khi được hỏi, trên blog NL có cái note về vụ này.
V/v TTT, cũng sai. Sai như thế nào, thì GCC cũng đã
lèm bèm rồi.
V/v NDT.
MT coi NDT thuộc tiểu thuyết
mới. Và chỉ có NDT là thành công trong cú “mới” này, sai.
Đọc, thì hiểu ra câu của Todorov,
hồi nhớ là 1 cách nhớ quá khứ sao cho hợp với hiện tại. MT viết
về bạn, sao cho có mình ở trong đó, trong 1 vị trí thích hợp nhất.
Nhưng Brodsky phán, mới thú, đây là những bài ai điếu
của MT dành cho bạn, mà dưới mắt ông, thì đều đã chết rồi!
Trở lại với tiểu thuyết mới.
Me-xừ Mít Butor, có phán, đâu đó, khi được hỏi, không có cái gọi
là TTM ở Việt Nam. Sai.
Có, mà có chỉ ở Mít Butor:
Cách viết của Hoàng Ngọc Biên, tức Mít Butor, là từ
Butor, mà ra, và đúng là nằm trong “trường phái của cái nhìn”, như
MT viết.
Nhưng TTM không phải chỉ có vậy. Cả đám này, mỗi người
viết 1 kiểu, được gọi chung là TTM.
Robbe-Grillet mới cho ra lò 1 cuốn, và đám phê bình
phát sốt vì những cái nhìn bịnh hoạn ở trỏng.
Bà vợ của ông là con gái của ông, một nữ tài tử nổi
tiếng.
Văn MT thú thực Gấu không mặn.
Ông cũng chẳng ưa gì Gấu. Có thể, vì cả đám Gấu hồi đó, chỉ mê
TTT!
Đám GCC được gọi chung là TTM Mít, theo Gấu, có cái
lý của nó. Mỗi thằng viết mỗi kiểu, chơi với nhau, hay ngồi nhà
hàng La Pagode…
Steiner có 1 từ để gọi MT, 1
tay chơi trong cõi văn chương. Tuyệt.
Một cách nào đó, đây cũng
là dáng dấp của rất nhiều nhà văn Mít, kéo cái cổ áo lên 1 chút, khoác cái
mưa vô, đi lãng đãng dưới mưa... đại khái thế!
Nhưng câu của Camus, mới thú, chúng ta luôn có dáng
điệu của 1 kẻ sắp sửa ra đi….
Hà, hà!
Nhớ Em quá.
Yêu… người quá!
V/v danh sách.
Sự thực, tên này không hẳn thú nhận, tôi viết danh sách
đó. Trong 1 cuộc trả lời phỏng vấn trên tờ Văn Học của NMG, tên
này cho biết, sau 30 Tháng Tư 1975, anh ta yết kiến đàn anh LP, tên
này ra lệnh viết. Về, ghét ai là đưa vô danh sách đen. Hắn trả lời
trên tờ VH như thế! Gấu bị ghét, vì… trí thức quá! Hắn cũng viết ra
điều này, trong 1 bài viết khác, trong 1 cuốn viết theo kiểu hồi ký về
văn học Miền Nam trước 1975.
Nhưng tôn vinh
cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời
chỉ làm thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng
ta có một vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ
ngách phi lý, đẩy đưa đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý
ấy là chính chúng ta, cõi phi lý ấy chính là đời chúng ta. Như đêm
nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống một đêm nào
ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận tụy
với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái
“không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết
không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế.
Trầm trọng cũng là tự nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ
suốt một đời. Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm
Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng” từ “Phách ngọt đàn say đêm khói êm” từ
“Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán” đến Isabel Baes đến nhị thập
bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta
không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực cũng như
chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi đến đâu -
nhưng hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương
đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách
nói thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì
mới biết được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô
vàn đời? Ai biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói.
Nói miết. Thay nhau nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời.
Đã đến lúc chúng ta cần nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho
Vũ Hoàng Chương.
TTT
Thơ là lời và
hơn lời
Tuyệt!
Ra
hải ngoại, mới đây, được đọc Sổ Tay Mai Thảo, trên Văn, từ nguồn
ở... trong nước, mới thấy MT chẳng ưa gì GCC.
Ông coi trong nhóm gọi là tiểu thuyết mới, chỉ có Nguyễn
Đình Toàn là có tài, còn là nhảm cả.
Cái này thì thấy rồi, ngay từ trước 1975.
Đám gọi là tiểu thuyết mới không hề biết tới ông, luôn
cả Võ Phiến nữa.
Không phải là MT hay VP không có tài, mỗi ông 1 góc
trời, nhưng đám TTM chúng mê nhìn ra thế giới. Chúng đọc Tel Quel,
Sartre, hiện sinh… thí dụ. Mà chính vì thế, cả đám mê TTT, vì ông
cũng đọc những tác giả đó, như chúng, ngoài cái chuyện mê Malraux!
Tuy nhiên, GCC hồi đó, cũng có riêng cho mình tí độc
giả.
Trong số đó, có tên làm danh sách đen. Hắn thù Gấu,
vì là Gấu đọc hơn hắn, bởi vì có lần hắn than, làm trí thức mệt
bã người!
Và có Nguyễn Mai, người Gấu đã từng sửa bài rồi đăng
trên trang VHNT Tiền Tuyến.
Không có NM là Gấu chắc chắn ngỏm ở trại tù Đỗ Hòa,
Nhà Bè, mật khu Rừng Sát ngày nào rồi.
Dream of the Red Chamber
Hồng Lâu Mộng
MADELEINE THIEN
My mother's favorite book was the Chinese classic novel
Dream of the Red Chamber, also known as The Story of the Stone,
also known as A Dream of Red Mansions. This was
the only work of fiction on her bookshelf. I remember picking the novel
up only once when I was young. I was drawn to its magisterial heft,
to the consolidated weight of more than a thousand pages. But because
I could not read Chinese, I gravitated instead to her Chinese-English
dictionary, a heavy yet small book, the size of my hand that translated
shapes into words (book). My mother passed away suddenly in 2002, and
her copy of Dream of the Red Chamber vanished.
The novel was written 250 years ago by Cao Xueqin,
who was still writing it when he died suddenly in 1763. Approximately
twelve copies of Dream of the Red Chamber existed in the years following
his death, handwritten editions made by his family and friends. The manuscripts
differed in small ways from one another, but each was eighty chapters
long. Unfinished, the novel ended almost in mid-sentence.
Those handwritten copies began to circulate in Beijing.
Rumors spread of an epic, soul-splitting tale, a novel populated
by more than three hundred characters from all walks of life, a story
about the end of an era, about the overlapping lines of illusion and
existence, a novel that took hold and would not let you go. In 1792,
nearly thirty years after Cao Xueqin's death, two Chinese scholars came
forward and claimed to be in possession of the author's papers. They proceeded
to publish what they said was the complete manuscript, consisting of one
hundred and twenty chapters, thirteen hundred pages. Movable type had
existed in China since the eleventh century, but this was the first time
Dream of the Red Chamber appeared in print.
It has been the pre-eminent Chinese novel ever since,
attracting legions of scholars-so many that they form a movement,
Redology. Some believe that, for reasons unknown, Cao Xueqin destroyed
the last forty chapters of his novel, that the two scholars finished
the book themselves. Today in China there are more than seventy-five
editions. Some are eighty chapters, others are one hundred and twenty,
and some are one hundred and ten. Dream if the Red Chamber has multiple
endings and it also has no ending.
A few years ago, I began writing a novel set in
Shanghai. My own novel circles around a hand-copied manuscript with
no author, a story with no beginning and no end. I knew nothing about
the story surrounding Dream of the Red Chamber because I had never
read the novel; no one had mentioned it in any literature course I
had ever taken. A couple of years ago, missing my mother, I finally
began to read it. The novel took root in me. When I learned of the handwritten
copies, the continuation, the unknown authorship, I felt oddly, exhilaratingly,
as if I had always known this story. I had folded it into my own book:
a truth unwittingly carried in a fiction, an illusion as the structure
of a truth.
Dream of the Red Chamber is hands down the most
widely read book in the Chinese-speaking world, making it perhaps
the most read novel in history. Professor John Minford, who translated
an edition with celebrated translator and Chinese scholar David Hawkes,
described it as a novel that combines the highest qualities of Jane
Austen, William Thackeray, Marcel Proust, and Honore de Balzac. After
250 years, readers continue to decode its mysteries. Readers like
my mother felt ownership over the novel. With Dream of the Red Chamber,
none of us can ever know where the ending lies or what only another
beginning is. The novel itself is a playful and profound mirror to
the life of the imagination. Lines from the first chapter read, "Truth
becomes fiction when the fiction's true. Real becomes not-real where
the unreal's real. "
I still have my mother's dictionary. I often wonder
what happened to her copy if Dream of the Red Chamber. I wonder
whether it had eighty chapters, one hundred and twenty, or one hundred
and ten. It was her girlhood copy. She'd had it through all her migrations,
carrying it across the seas from Hong Kong to Canada. I had wanted to
keep it all my life, but while I grieved my mother's sudden death, someone
reached out for the book on the shelf. They lost themselves in its love
triangles, its forgotten era, its intricate dance between this world
and its dream. They carried the book away with them, into its next life.
From Brick, A literary Journal, 95, Summer, 2015.
On childhood books
Cơn mưa lớn kéo dài bắt đầu
từ lúc 15h chiều 15/4 và dồn dập ở quận Bình Tân, 6 và huyện Bình Chánh khiến
một số tuyến đường bị ngập nặng. Trong ảnh: Nhiều người đi xe máy
trên quốc lộ 1A đoạn qua quận Bình Tân, huyện Bình Chánh hứng nước
tóe ra từ xe tải chạy qua.
Chiều nay Saigon đổ trận mưa đầu
mùa. (1) Trên ấy mưa chưa? Anh vẫn ngồi quán
cà phê buổi chiều? Anh có lên uống rượu ở P.? Anh có trở lại quán
S., với ai lần nào không? Sắp đến kỳ thi. Năm nay em không có mặt
để nhìn trộm anh đi đi lại lại trong phòng, mặc quân phục đeo súng một
cách kỳ cục. Anh có đội thêm nón sắt không? Năm đầu tiên em gọi anh là
con Gấu. Hỗn như Gấu, đối với nữ sinh viên. Em có ngờ đâu anh là Yêu Râu
Xanh...
Note: Bữa trước GCC có nhắc
tới NMG và bài viết, đồng hồ ngưng chạy kể từ 30 Tháng Tư 1975, đối với đám
Chống Cộng Điên Cuồng.
Không hẳn như vậy. GCC mới đọc 1 mẩu bài viết của ông,
về vụ này, đăng trên Hợp Lưu net:
Note: Bức hình chụp ngày 18/10/91,
trước khi vô phòng thanh lọc. Phía sau có mấy dòng, Gấu Cái gửi
mấy đứa nhỏ ở Lào báo tin mừng. Khổ nạn ba năm trời sắp qua.
Đâu ngờ ở thêm hai năm nữa, chờ kết quả thanh lọc, rồi
chờ quyết định từ bên y tế nhà nước Canada, về tình trạng sức khoẻ
Gấu Cái:
Xương sống có vết đen, bẩm sinh, không hiểu có phải
là mầm ung thư không!
Hà, hà!
Cuối cùng OK, nhưng warning,
tới, là phải tới ngay bịnh viện trình diện!
Ui choa, sao nước người ta khác nước Mít quá như thế.
Vào năm 1990, do đến trại tị
nạn sau "tử điểm", tức là sau thời hạn được "tự động" coi như là
tị nạn chính trị, tôi phải trải qua thanh lọc, qua đó nhà chức trách
nước tạm dung sẽ quyết định coi đủ tư cách tị nạn chính trị, hay chỉ
là di dân kinh tế.
Thời gian chờ đợi thanh lọc thường trên dưới một năm.
Với chúng tôi, nó còn là thời gian "chạy thuốc": liên lạc thân nhân
ở nước ngoài nếu có, hoặc bạn bè, cơ quan, đơn vị cũ… để xin tiếp
tế và lo giấy tờ xác nhận, hoặc làm hồ sơ bảo lãnh. Nhân đọc một số
báo (hình như thuộc lực lượng kháng chiến), ở trong trại, thấy tên nhà
văn Trùng Dương, tôi viết thư tới bà, qua địa chỉ toà soạn.
"Thư của bạn tới tôi sau khi đã đi gần hết nửa vòng
trái đất," bà viết thư trả lời, từ một địa chỉ Hồng Kông, do đang
được học bổng nghiên cứu về Trung Hoa lục địa. Bà than giùm, "Bạn qua
trễ quá!"
Kèm, là thư Nguyễn Ngọc Ngạn (khi đó là chủ tịch Văn
Bút Việt Nam Hải Ngoại), gửi cho Trùng Dương, "Bạn nhờ tôi can thiệp
cho một ông bạn nào đó, nhưng lại quên không cho địa chỉ…". Tôi liên
lạc. Anh trả lời, gửi tặng sách (The Will of Heaven, chắc là muốn dặn
dò khéo: hãy cố lo học tiếng Anh!).
Kèm giấy xác nhận. Sau này gặp, anh cho biết, đã phải
nhờ một tờ báo địa phương in giùm, chỉ bốn giấy chứng nhận, với
tiêu đề Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại thật "hách xì xằng". Bốn tờ xác
nhận, cho bốn người, lúc đó đang ở trại tị nạn. Ở Thái Lan, có Hồ
Ông và tôi. Có thể, việc xác nhận là "bổn phận" của anh, với tư cách
đương kim chủ tịch Văn bút, nhưng cứ nghĩ đến cảnh anh loay hoay nhờ cậy
người này người nọ "vẽ" giùm cho một "tác phẩm" hách xì xằng như trên,
thật đáng quí.
Tôi gặp Hồ Ông tại trại cấm Sikiew, do anh tới trại
trước, và đã trải qua thanh lọc. Anh dặn tôi, khi đi thanh lọc, phải
"nổ", đừng quá "khiêm tốn". Ngoài tờ giấy xác nhận củaVăn bút, tôi có thêm
được một tài liệu quí giá cũng chẳng kém: cuốn Hai Mươi Năm Văn Học Miền
Nam , còn có tên thật "nổ" là Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương
Chúng Ta, do Nguyễn Đông Ngạc xuất bản. Trong có hình tôi, và vài dòng
tiểu sử. Cuốn này tôi cũng tình cờ vớ được ở trong trại. Chủ nhân cuốn
sách, một học trò tiếng Anh của tôi, đã tặng luôn cho thầy, làm tài liệu
thanh lọc.
Phỏng vấn thanh lọc, thường do một sinh viên luật Thái
Lan đảm trách, với một thông dịch viên, một người Việt ở Thái Lan.
Như đa số ở đây, họ có cảm tình với Miền Bắc. Nhà thường có treo hình
ông Hồ. Nhưng cảm tình hay không cảm tình, nói chung, họ cố dịch trung
thực những gì họ nghe và hiểu được.
Trong cuộc phỏng vấn, có mấy chi tiết thật lý thú liên
quan tới "văn chương" có lẽ cũng nên viết ra ở đây, để bạn đọc cùng
thưởng thức.
Nói chung, thường rất khó mà hiểu được, người phỏng
vấn tin hay không tin, những câu trả lời. Và thường ra, họ giữ
một bộ mặt hết sức khách quan, phải nói là dửng dưng, lạnh lẽo, suốt
buổi hỏi cung. Riêng trường hợp của tôi, khi nghe tôi nói là nhà văn,
anh sinh viên luật nhìn phần lý lịch ghi trên tờ phiếu cá nhân trong
hồ sơ Cao Uỷ Tị Nạn, và không qua thông dịch viên, hỏi thẳng bằng tiếng
Anh:
-Anh nói anh là nhà văn, nhưng anh viết thứ gì?
Nhớ lời dặn của Hồ Ông, tôi cho tới luôn:
-Tôi viết truyện ngắn, và phê bình văn học.
Anh nhìn lại tờ lý lịch và nói:
-Tôi cho anh nói lại. Ở đây, thấy ghi anh học hết trung
học, có một văn bằng đại học. Anh nói anh làm thơ, viết truyện ngắn,
tôi tin. Nhưng phê bình văn học, tôi không tin. Tôi cho anh nói lại.
-Tôi mê văn chương từ hồi nhỏ, lại may mắn biết chút
ngoại ngữ, nên có đọc văn chương thế giới, và có chút khiếu về phê
bình văn học.
-Anh học tiếng Anh ở đâu, bao nhiêu năm?
-Tôi học hồi trung học, và sau đó có làm cho một cơ
quan thông tấn nước ngoài.
-Anh nói, anh có chút hiểu biết về ngoại ngữ, anh biết
mấy thứ tiếng?
-Tôi biết ba thứ tiếng.
-Trong này chỉ ghi tiếng Anh?
-Tôi biết tiếng Pháp nữa.
-Như vậy mới có hai, làm sao anh nói ba?
Tới lúc đó, tôi cũng hết còn bình tĩnh, và hỏi lại:
-Ông quên tiếng mẹ đẻ của tôi ư?
Anh ta chợt mỉm cười.
Tôi nghĩ, trong số những người bị phỏng vấn, có lẽ tôi
là người độc nhất được hưởng một nụ cười như vậy.
Note: Cuộc phỏng vấn xẩy ra
đúng như thế. Không chỉ tụi mũi lõ nghĩ, viết phê bình là phải có bằng cấp,
mà Mít cũng hằng tin như vậy. Chúng cứ nghĩ có cái bằng, là thành nhà phê
bình. GCC bị mấy đấng có bằng nắn gân hoài, mi đâu phải dân khoa bảng, mi
đâu học trường Tây, mi đâu có… cử nhân văn khoa, cử
nhân triết, tiến sĩ… như chúng ông!
Tay sinh viên Luật tin tưởng
Gấu quả có viết phê bình, là nhờ tí tiểu sử ghi trong cuốn Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng
Ta, Gấu may mắn có được ở Trại, qua 1 người học trò học
tiếng Anh.
Không có cuốn đó, không hiểu
kết quả ra sao.
Bữa đó, anh học trò cầm cuốn
sách tới, bịt hết trang sách, rồi chỉ cái hình hỏi, Thầy có biết
ai đây không?
Ui chao, Gấu mừng quá, nói, hình tao chứ hình ai nữa!
Thế là anh ta bèn cười, và nói, biếu Thầy đấy, làm tài
liệu thanh lọc!
Nhiều khi tí tiểu sử trở thành
bùa cứu mạng!
Trước 1975, Gấu có một cái hình, độc nhất, đóng vai
nhà văn, một cái tiểu sử độc nhất, như sau đây. Không thể ngờ, chúng
trở thành những lá bùa cứu khổ cứu nạn, khi đi thanh lọc, được nhà
nước tạm dung xếp vào thành phần tị nạn chính trị, thay vì di dân kinh
tế. Nhờ vậy mà sau đó, được phái đoàn Canada chấp nhận.
Trích Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam,do Nguyễn
Đông Ngạc biên tập, xb trước 1975. Năm sinh của Gấu, trên ghi 1938,
theo thế vì khai sinh; sự thực, sinh 16.8.1937
Gấu biết đến thiên đường Thủ Thiêm năm
học Đệ Nhị, khi là 1 học sinh "thực thụ", sau khi đậu cái bằng
Trung Học Đệ Nhất Cấp, bà cô ở bên Tây mừng quá, bèn ra lệnh đi học
tiếp, tháng tháng tao gửi tiền về, khỏi phải làm bồi bàn nữa, hà hà!
Nó trở thành thiên đường, khi Gấu được hân hạnh làm
đệ tử của Cô Ba, thời gian sau 1975.
Năm đó lúc Hòa Mun vừa chun ra khỏi bụng má nó, thì đấng Sáng
Tạo đang ngủ gục trên bàn làm việc vì say rượu, tiếng khóc của
nó làm ổng giựt mình và giữa lúc nửa mê nửa tỉnh, nhớ tới nhiệm vụ
phải cho nó sự sống, ông lật đật ban ngay cái trí tuệ đang mơ màng giữa
mộng và thực của mình, cho cái si...
Con đang viết thơ cho má, người chín tháng cưu mang, hai năm
nuôi dưỡng, từ lúc còn đỏ hỏn. Đây là những dòng chữ tạ tội. Con
biết mình không còn sống bao lâu nữa cho nên việc đầu tiên khi con
biết mình bịnh nặng là viết cái thơ này cho má.
Má, xin má hãy tha thứ cho con. Khi còn nhỏ dại con đã nhiều
lần xúc phạm đến má. Tuổi trẻ vô tri tàn nhẫn, thậm chí con còn
trả lời bạn bè: tao mồ côi cả cha lẫn mẹ, bà đó khùng, tao đâu phải
con bà. Con còn làm nhiều điều đại nghịch, bất hiếu bất nghĩa với má
mà giờ đây mỗi khi nghĩ lại con đau khổ vô cùng.
Ngay từ khi bắt đầu bước chân ra đời con đã nhận ra ngay lầm
lỗi của con đối với má, nhưng bản tánh ngoan cố con đã ngụy biện
đổ thừa cho hoàn cảnh này, hoàn cảnh nọ. Điều con nhận ra trước
hết là khi sanh con ra, má mới 21 tuổi đời, chồng thì chết, nhà ngoại
lại nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát, Tây ruồng bố mỗi ngày lại
thêm bọn cường hào ác bá dựa hơi tác oai tác phúc, mà má lại trẻ đẹp
thì làm sao có thể ở vậy nuôi con. Lầm lỗi thứ hai của con là oán trách
má đã không nhìn nhận con khi ngoại dẫn con đi thăm má sau 12 năm con
sống với ba má nuôi, với người dưng nước lã, dù ba má nuôi con rất thương
yêu con, nhưng những kẻ ác mồm ác miệng họ gọi con là đồ trôi sông lạc
chợ. Lúc đó mọi chuyện đã an bài. Má không thể nhìn con để bỗng chốc
đổ vỡ cái hạnh phúc mong manh của má và của mấy đứa em cùng mẹ khác cha
với con. Lúc đó con nghĩ là má hạnh phúc trong cảnh nhà cao cửa rộng,
lắm bạc nhiều tiền nên đã không ngó ngàng gì đến đứa con côi cút mà chính
mình đã rứt ruột đẻ ra rồi bỏ rơi nó từ khi hai tuổi. Con nào hiểu được
là ngoại đã đưa con đi thăm má không đúng lúc, ngoại cũng đâu biết gì,
thấy con vừa thi đậu trung học đệ nhứt cấp, ngoại mừng quá nên muốn
chia sẻ với má.
Người chồng sau của má, con trai thừa tự của một gia đình thế
gia vọng tộc, đã có một người đàn bà khác, và sẵn sàng kiếm cớ để bỏ má.
Vì phải bảo vệ quyền lợi của mấy đứa con, nên má đã ngậm đắng cay sống nhịn
nhục, khổ đau và buộc lòng từ chối không nhìn nhận đứa con tội nghiệp mà
mình đã bỏ nó hơn 12 năm trời.
Khi má ly dị xong xuôi, được hưởng phân nửa gia tài, lúc này
má mới yên lòng và tìm cách đi thăm con, con còn nhớ năm đó con
đã học xong trung học và đang học sư phạm, con đã từ chối không gặp
má, không nhận bất cứ thứ gì má mua cho con dù con rất cần, vì ba má
nuôi con nghèo, không thể cho con đủ những thứ cần thiết, mà một thiếu
nữ ở tuổi con thời đó cần, con không thể quên được lần cuối cùng má đến
trường thăm, con đã giận dữ đuổi má ra khỏi cổng trường, ném theo sau
quà bánh vật dụng mà má đã mang cho con. Má bước đi chan hòa nước mắt,
con đã làm cho má hết sức bẽ bàng với bạn bè con.. Má ơi mỗi lần nhớ
đến đoạn này là con nghe tim mình đau buốt.
Ngày cưới con má cũng không về, năm đó nước lụt ngập tràn
quốc lộ, phải rước dâu bằng thuyền, con sắp bước vào cuộc đời làm vợ, làm
mẹ mà không hề nghe được một lời dặn dò thân thiết nào của ngay chính người
đã sanh đẻ ra mình. Sau này con mới biết là ba má nuôi con không
cho má hay, khi má hay thì con đã theo chồng. Ba má nuôi con đã yêu
thương con như ruột thịt đã nuôi nấng cho con ăn học nên người, họ
cũng không muốn mất con và cũng có nói xấu má, những điều đó đã ăn sâu
vào tiềm thức con, rồi khi lớn lên thêm ba mớ chữ nghĩa lại làm cho
con hợm mình và tưởng đâu chính mình mới là người có quyền tha thứ cho
đấng sanh thành.
Sau ngày hòa bình, chồng con đi cải tạo, một mình con phải
lo gánh nặng gia đình, má đã nhiều lần tìm cách giúp đỡ con, nhưng
vốn ngang ngạnh và ngoan cố con đã từ chối và còn nói năng hỗn hào,
làm má khóc lên khóc xuống, thiệt tình tội của con không nước nào
rửa sạch, giờ đây nơi đất lạ, nơi xứ người, tuổi đời chồng chất, con
cũng đã trải qua không biết bao nhiêu là linh đinh thống khổ, con đã
hiểu được lòng má, Xin má hãy tha thứ cho con để con ra đi được nhẹ nhàng.
Con của má,
Nguyễn thị Hòa.
Có lẽ cũng gần một tiếng đồng hồ tôi mới chép xong bức thơ,
ba lần tôi phải dừng lại để lau nước mắt, một phần là bức thơ
của Hòa Mun cũng nhòa nhẹt nước mắt, khó đọc. Gởi đi rồi tôi thấy
nhẹ nhàng, tôi gởi bảo đảm vì sợ rủi thất lạc thì mình sẽ ân hận,
vì không giữ tròn lời hứa với người đã chết, đâu khoảng gần ba tháng
sau, con gái Hòa Mun gọi điện thoại cho tôi nói là bức thơ đã bị trả
về, lý do: người nhận đã chết. Tôi bàng hoàng như người vừa qua một
cơn sốt nặng, tự nghĩ nếu mình gởi thường thì chắc lá thơ không bị trả
về, đứng là số mệnh. Bức thơ sau đó đã được đốt chung với những tờ giấy
tiền vàng bạc trong ngày giỗ đầu của Hòa Mun.
Shin Kyung-sook had earlier denied using material
by Yukio Mishima, but has now apologised, saying ‘I can’t believe
my own memory’
Nữ văn sĩ Đại Hàn, giải thưởng văn học Man Asian Prize,
thừa nhận có chôm Mishima, nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ, đúng
như Faulkner phán, cần thì trấn lột cả bà cụ của mình, và đúng như
thế: Tờ Người Kinh Tế, số mới có 1 bài thần sầu về nữ diệu thủ văn
sĩ này! The
lone room of Kyung-Sook Shin's Seoul
The human breast moves in complex
ways, a fleshy oscillation. This was demonstrated in an experiment
conducted by Australian researchers, in which large-busted women
ran on a treadmill while wearing infrared-emitting diodes on their
chests. I wince at the thought of it. Breasts have no muscle; they
are collections of glandular and fibrous connective tissues and fat,
supported in part by the skin. The average weight of a woman’s breast
is around a pound, but breast weights of ten pounds and above are
possible; breasts range from soft lemons to flopping eggplants, and
they swing, brother: a demonstration of Newton’s second law with every
step.
Unlike other mammals, humans have breasts that remain mature
outside lactation. We are born with mammary glands spread within
the chest wall, stretching from the armpit down toward the groin,
but not with breasts. They are the only organs to develop after birth —
usually a single pair, though extra breasts do occur, in both men
and women. Unmistakable, yet greatly varied, the visible breast can
be shaped like a pear, melon, apricot, or orange — for some reason,
produce is a common metaphor — but also like a cone, sausage, softball,
plate, ham, or loaf of bread. The fibrous tissue of the breast is
a kind of suspensory structure called Cooper’s ligaments that allows
the breasts to move freely but gives little support. Breasts may lie
near each other or be widely spaced; they may grow high on the chest
or low. The nipples can point toward each other, away from each other,
up, down, or straight ahead.
Illustration by Katherine Streeter
Breasts can change dramatically, sometimes gaining and losing
more than 10 percent of their weight during a single menstrual
cycle. Size is largely a matter of fat deposition and seems to be
genetically determined. Fat women can have small breasts and slim
women can have medium breasts, but the idealized figure with large
breasts on a thin body is rare — at least rare in nature. Not uncommonly,
a woman’s breasts are different sizes. Breasts of the same shape and
size may have different mass; breasts of different shapes may have
the same mass but different degrees of flaccidity. For women, the
peak of breast development is around the age of twenty, and atrophy
begins by forty. Breasts come and breasts go, and when gone, they are
often acutely missed.
No one can explain why women have continually
swollen breasts; the evolutionary function of such a unique body
part is hard to fathom. Many have theorized that the loss of strong
pheromonal attractants in humans required a compensatory mechanism —
because otherwise how would a man know a woman? Such theories fail
to explain a great deal about human sexual desire and even less about
the life of the breasted. We simply have them, almost all our lives.
Note: Bài này tuyệt quá. Đi tìm cái xú chiêng
tuyệt hảo.
Bạn đọc Tin Văn, đọc bài này, kèm bài thơ thần sầu của
Charles Simic, ca tụng "Dzú", thì mới hết xẩy con cào cào!
Xin post liền tù tù tì.
Câu thơ này mà chằng quá mê sao:
Tên già nằm trên giuờng, chờ đi xa
Bèn năn nỉ bà vợ
Cho coi dzú lần chót
Là tên đại thi sĩ đã từng sống trên cõi đời này
That the old janitor on his deathbed
Who demands to see the breasts of his wife
For the last time
Is the greatest poet who ever lived
Hay câu này:
Tớ mê dzú, cứng
Đầy thật đầy, được canh giữ
Bởi cái nút áo!
I love breasts, hard
Full breasts, guarded
By a button
Ba lịch
sử [bản dịch mới]
Có, ít ra là ba lịch sử khác
nhau, không phải một: lịch sử của sức mạnh, lịch sử của cái đẹp,
và lịch sử của khổ đau. Chỉ có hai cái đầu là được lên bảng, ít hoặc
nhiều. Chúng có những vì giáo sư, có những cuốn sách, sổ học. Nhưng
khổ đau đếch có dấu vết. Nó câm, nói về mặt lịch sử. Một tiếng la, khóc,
thét… làm sao… kéo dài, hà, hà! Cũng
đếch có một cái “note symbol” - biểu tượng ghi chú - để đại diện cho
nó, và làm cho nó kéo dài.
Chính vì thế mà thật là khó khăn để mà hiểu yếu
tính của Lò Cải Tạo, của Lò Thiêu. Từ cái nhìn của lịch sử của sức
mạnh, nó là một thời kỳ không đáng nghiên cứu cặn kẽ. Làm sao so được
với đỉnh chao chói lọi, chiến thắng Điện Biên, Điện Biên Phủ Trên Không,
thí dụ? Nhưng với lũ Ngụy, vốn thuộc dòng lịch sử của khổ đau, thì
nó là cơ bản, là trung tâm, là tất cả - chúng làm đéo gì có 1 thứ lịch
sử nào khác, hà, hà!
Đau đớn thay bất hạnh thay, đếch có thứ lịch sử của
khổ đau, Những nhà sử học của nghệ thuật cũng đếch thèm quan tâm
đến Trại Tù VC, Lò Cải Tạo.
Chứng cớ rõ ràng là lũ VC, chúng đâu có nhớ có 1 thời
kỳ chúng dâng vợ con của chúng cho Tẫu, để ăn cướp Miền Nam, nghĩa
là để làm ra cái gọi là lịch sử khổ đau cho Lũ Ngụy!
Trại Tù VC ư? Rừng thượng du Bắc Kít, bầu trời lùn tịt,
sương trắng Cổng Trời, đám họa sĩ VC chưa từng triển lãm tranh
về nó, và họa sỡi Ngụy thì cũng không!
THREE HISTORIES
THERE ARE AT least three different
human histories, not one: the history of force, the history of
beauty, and the history of suffering. Only the first two are cataloged
and recorded, more or less. They have their professors and their
textbooks. But suffering leaves no traces. It is mute. That is,
mute historically. A scream does not last long, and there is no note
symbol to represent it and make it last.
That is why it is so difficult to understand the
essence of Auschwitz. From the point of view of the history of force,
it was an episode, undeserving of closer study. How much more interesting
was the Battle of Wagram, for example. As the history of suffering,
Auschwitz was fundamental. Unfortunately, the history of suffering does
not exist. Art historians are not interested in Auschwitz either. Mud,
barracks, low skies. Fog and four skinny poplars. Orpheus does not stroll
this way. Ophelia doesn't choose to drown here.
Có ít nhất là ba lịch sử con
người khác nhau, không phải một. Lịch sử sức mạnh. Lịch sử nhan
sắc, và lịch sử của sự đau khổ. Chỉ hai cái đầu là được nghiên cứu,
xếp loại, ghi chú, ghi âm, ghi nhận… nhiều hoặc ít. Chúng có những
vị giáo sư, những sổ sách. Nhưng đau khổ đếch để lại một vết tích. Nó
câm. Nghĩa là, câm, về mặt
lịch sử mà nói. Một tiếng la đâu có kéo dài. Và
đếch có 1 biểu tượng, sử dụng như là ghi chú, tiểu chú cái con mẹ gì
đó, để thay mặt nó, trình nó ra, và làm cho nó có tuổi thọ.
Chính vì thế mà thật là khó khăn khi tìm, hiểu, cái
gọi là yếu tính của Lò Thiêu. Nhìn từ quan điểm lịch sử của sức mạnh,
thì nó là một thời kỳ, không đáng để bỏ công nghiên cứu, gần hay không
gần, xa hay không xa. Cuộc chiến tranh thần thánh đánh cho Mỹ cút Ngụy
nhào, thí dụ, bảnh hơn nhiều, cần nghiên cứu cho ngàn ngàn đời sau.
Nhìn từ lịch sử của khổ đau, Lò Thiêu là cơ bản, là
chủ yếu. Nhưng than ôi, làm đếch gì có thứ lịch sử của khổ đau?
Những sử gia của nghệ thuật cũng đếch thèm để ý đến
Lò Thiêu. Bùn, trại tù dây kẽm gai, bầu trời lùn tịt. Thềm sương
mù lù tà mù, rừng bạch dương trơ xương. Orpheus đâu có đi dạo hướng
đó. Ophelia đâu chọn nơi chốn tệ hại như thế để mà trầm mình.
Note: Gấu tính dịch cái
tít là “Một Mùa Thu Năm Qua Cách Mạng Tiến Ra”, thuổng PD, để tưởng
niệm cuộc cách mạng của VC, nhân chúng mới bày ra triển lãm CCRD.
Nhưng cái tít cứ để nguyên như thế, thì lại nói ra được
nhiều hơn thế nhiều, hà hà!
Đấu tranh đi tới cực đoan
Khẩu hiệu đi tới cực đoan
Cây kéo ăn đá đi tới cực đoan
Tôi nghe không khí đang rụng rơi
Điều này hoàn toàn thích hợp
với mi
Trong mùa thu đời xưa
Một người chết vì điều này
Nuốt vào chán mứa
Nuốt cả hổ giấy
Mà miệng nhân dân không ngoác đến tai
Hôm nay tôi lại bắt đầu
Nghiên cứu các kiểu hi sinh
Thứ ánh sáng cao ngất trời
Xương cốt cách mạng sắc nhọn
Lúc này, ở Thành Đô
Mọi người ùa tới
Đưa xe hơi cho tôi
Đưa cực đoan cho tôi
Đưa bạo lực và quảng trường cho tôi.
GCC, kể như 1 đời rách nát với văn chương - thuổng Nguyễn
Du – chưa từng coi nó là 1 sân chơi, môn chơi.
Về cái chuyện đạo, xin kể vài trường hợp, ở hải ngoại.
Một đấng, giữ 1 mục thường xuyên cho 1 tuần báo ở Mẽo,
chuyên xào nấu những bài viết của người, làm thành bài viết của mình,
1 lần, gấp quá, bèn lấy nguyên con 1 bài viết của 1 tác giả.
Vị này được bạn bè biểu cho biết, bèn lên tiếng, và
giải thích, sở dĩ phải lên tiếng, vì “ông ta” là nhà văn nổi tiếng,
có hàng chục cuốn sách, nếu tôi không lên tiếng, thì thiên hạ lại nghĩ,
tôi đạo ông ta, chứ không phải ông ta đạo tôi.
Ông này, cũng bảnh, bèn viết thư xin lỗi, và cũng kể,
đúng như GCC vừa kể!
Trường hợp PHT theo Gấu cũng tương tự. Nhiều bổng lộc,
nhiều mối làm ăn quá, sáng tác tối tác cỡ nào cũng không kịp nhu
cầu/yêu cầu. Thế là đành chôm!
Một đấng khác, cũng ra sách như đi chợ, cũng bậc thầy
về tạp ghi, về “phén”, vì cũng giữ 1 mục cho 1 tuần báo địa phương,
thế là chôm chĩa báo lá cải mũi lõ, chúng đâu có đọc tiếng Mít, đâu
sợ bị tố?
Ở đây không có vấn đề đẹp hay không đẹp, mà là nhu cầu.
Trong 1 bài viết đã lâu, về truyện ngắn của NHT, Gấu
có nhắc tới 1 ý của Foucault:
Trong bài viết, "Tác giả là cái gì?" (bản dịch tiếng
Anh: What Is an Author?), M. Foucault, cho thấy, ý niệm tác giả xuất
hiện vào một thời điểm đặc biệt của quá trình "cá nhân hóa" (individualization),
trong lịch sử tư tưởng, tri thức, văn chương, triết học, và khoa học.
Những bản văn, những cuốn sách, những bài viết/nói bắt đầu có tác giả...
khi họ trở thành những mục tiêu để trừng phạt. Tác giả được nêu tên,
khi cần một ai đó, để buộc tội! Ông viết thêm, trong văn hóa của chúng
ta, (và chắc là trong nhiều văn hoá), thoạt kỳ thủy, bài viết/nói (le
discours), không phải là một sản phẩm, một món hàng, mà thiết yếu là
một hành động, được đặt trong "trường nhị cực" (bipolar field), một đầu
là sự thiêng liêng, đầu kia là sự báng bổ. Theo tính cách lịch sử, đây
là một động tác đầy rủi ro. Nhìn theo quan điểm đó, chúng ta mới thực sự
thông cảm, hành động "đầy rủi ro", của Nguyễn Huy Thiệp. Trong thế giới toàn
trị, văn chương bắt đầu, khi có kẻ dám nói "tôi", thay vì "chúng ta", khi
có kẻ dám nghi ngờ, điều thiêng liêng chưa chắc đã thiêng liêng, và tin
rằng, điều báng bổ có khi thật cần thiết...
Chính 1 phần do chôm chĩa loạn cào cào như thế, mà Roland
Barthes đề nghị, đã đến lúc làm thịt cái gã, cô ả có tên là “tác
giả”!
Trong hai năm
1979 và 1980, tôi có dịp gặp Chế Lan Viên (1920-1989) vài lần
tại Sài Gòn. Có lần, tôi nghe ông kể chuyện Võ Phiến từ Mỹ viết thư
về cho con, trích hai câu Kiều: “Thôi thôi còn nói chi con / Sống
nhờ đất khách, thác chôn quê người” và khen tuỳ bút, và đặc biệt phiếm
luận, của Võ Phiến xuất sắc, “nhất Việt Nam”, hiếm có người địch lại
được. Năm 1985, vượt biên thoát và sang Pháp định cư, trong một bài viết
đăng trên Quê Mẹ, tôi có n...
Thứ nhất, cái tít, hỏng.
Để hiểu nó hỏng ra làm sao, thì Gấu xin kể ra hai sự
kiện/giai thoại/hình ảnh để… minh họa.
Độc giả đọc Primo Levi, bị chấn động, không phải vì
sự đối xử quá tàn nhẫn của Nazi đối với Do Thái, nơi Lò Thiêu, mà
là vì 1 tên sĩ quan SS đã “lầm” cái áo đang mặc của tên tù Do Thái,
là cái khăn lau, và bèn chùi cái tay dơ của nó lên đó!
Partisan Review:
Tôi bị chấn động bởi những lá thư mà những độc giả Đức
gửi cho ông, sau khi cuốn Đây có phải 1 người, bản tiếng Đức được
xb. Đa số nhắc tới giai đoạn xẩy ra sự kiện 1 người lính Đức đã chùi
tay của anh ta lên chiếc áo sơ mi của ông. Tại sao, theo ông, sự kiện
trên lại khiến cho họ để ý tới?
Primo Levi:
Cử chỉ đó mang tính biểu tượng đặc thù, và vì lý do
đó, nó làm nhiều người chấn động, tôi là người đầu tiên. Không phải
là 1 cú thượng cẳng chân hạ cẳng tay: đấm vô mặt làm tôi đau hơn.
Sự kiện là, anh lính Đức coi tôi như là một cái khăn để chùi tay.
Những ngày tiếp theo sau, và ngay cả đến tận bây giờ, tôi vẫn tôi cảm
thấy, đây là cú sỉ nhục nặng nề nhất mà tôi đã từng bị.
Những cú sỉ nhục như thế đè nặng lên nhân phẩm của ông
tới cỡ nào?
Lúc thoạt đầu, quả là đau, nhưng điều tệ hại là những
gì xẩy ra sau đó, nó là cú mở đầu. Chúng tôi trở nên quen. Thì cũng
1 thứ chuyện thường ngày ở huyện.
"Quen", là thế nào, về mặt đạo hạnh, về mặt tinh thần?
Thì nói mẹ ra như thế này: nó làm mất cái gọi là tính
người ở nơi bạn. Cách độc nhất để sống sót, là làm quen với cuộc
sống trong trại tù, và làm quen như thế, là một phần con người ở
nơi bạn mất đi. Điều này xẩy ra cho cả quản giáo và tù nhân. Chẳng
có nhóm nào người hơn nhóm nào.Trừ 1 số ngoại lệ, cái gọi là vô nhân
tính làm nhiễm độc luôn cả tù nhân, làm sao không! (1)
Khi nhà văn Bắc Kít, người tù vì lương tâm ,Vũ Thư Hiên,
trốn thoát được thiên đường VC Bắc Kít, ra hải ngoại, có người hỏi
ông, về văn học hải ngoại của đám Miền Nam, ông ngạc nhiên, có thứ
đó ư?
Ngụy đâu phải người, làm sao có văn học, mà… hai bên
chiến tuyến?
Trong cuộc chiến đến hết cuộc chiến, vẫn bị chúng
coi là Ngụy, vậy mà… trọng nể lẫn nhau?
Trường hợp đối xử với Nhã Thuyên, với Dương Nghiễm Mậu
[khi tái bản sách]… là cũng nằm trong cách nhìn này.
DTH,
phải đến khi nhìn thấy đám Ngụy bị bắt, mới ngã ngửa ra rằng thì
là, từ trước đến nay, cứ tưởng đánh nhau với… mũi lõ.
Cái sự được nhìn nhận, như hiện tại, rằng có 1 nền văn
minh, văn học Ngụy, may mà có Ngụy, như Vương Đại Gia, phán, là 1
quá trình mới xẩy ra đây thôi.
Bảo rằng, ông số 1 VC Bắc Kít Nguyễn Khải trọng nể ông
số 1 Ngụy Võ Phiến, sợ rằng không có. Và nếu có, thì cũng không như
NHQ giải thích.
Vả
chăng, trước 1975, Võ Phiến đâu phải số 1 ở Miền Nam.
Sau 1975, ra hải ngoại, ông trở thành số 1, vì đám còn
lại, hoặc đi tù, như cả đám Sáng Tạo, thí dụ, hoặc không đi tù thì
cũng bỏ viết, vì đâu còn điều kiện….
Natalia Kaliada is a founding co-artistic director of the
Belarus Free Theatre and a human-rights activist. She was granted political
asylum in Britain in 2011
“We won the Nobel prize!” my husband shouted last Thursday
afternoon. It could only mean one thing: a victory for Svetlana
Alexievich (below), the new Nobel laureate in literature and the
first Belarusian citizen to win. Throughout the day, as people around
the world began to search for Belarus online, we watched as our country
began to trend. Last Thursday, because of Svetlana, Belarus became
well known.
Natalia
Kaliada là đồng giám đốc nghệ thuật của Kịch Tự Do Belarus và nhà
hoạt động nhân quyền. Bà được Anh nhận, với tư cách tị nạn chính trị.
”Chúng ta thắng Nobel rồi!” ông chồng tôi la lớn chiều
Thứ Năm tuần rồi. Nó có nghĩa độc nhất, một chiến thắng cho Svetlana
Alexievich, người Belarus thứ nhất được Nobel văn học mới nhất. Trọn
1 ngày, trong khi thế giới gõ Google, coi Belarus là cái xứ quái
quỉ nào, chúng tôi ngắm nó bắt đầu chuyển mình. Thứ Năm vừa rồi, nhờ
Svetlana, Belarus trở thành nổi tiếng.
Tôi gặp bà 15 năm trước đây, ở Minsk. Tôi đã đọc những
cuốn sách của bà, “Những đứa trẻ trong hòm kẽm”, viết về cuộc chiến
của Liên Xô tại Afghanistan, và “Những tiếng nói từ Chernobyl” viết
thảm họa lò điện hạt nhân ở đó. Điều làm tôi sửng sốt, khi nói chuyện
với bà, là sự trung thực của bà đối với những người mà bà đã từng gặp gỡ,
trò chuyện, phỏng vấn, và viết về họ. Những cuốn sách của bà đầy mầu sắc,
và những cuộc trò chuyện, được chiết ra từ bao năm tháng ký, ghi, biên
niên, và hàng trăm cuộc phỏng vấn. Trong mỗi “cuộc chơi” [“đạo” nữ văn
sĩ Bắc Kít hiện đang sống tại Paris, hà, hà!] như thể bà nhận chìm chính
mình vào trong cuộc đời và hồi ức của người đối diện.
“Những giọng nói từ Chernobyl”, “Voices from Chernobyl”,
cuốn sách mãnh liệt nhất của bà, dựa vào hơn 500 cuộc phỏng vấn, được
thực hiện ròng rã 10 năm. Trong số những người bà nói chuyện, là những
người lính cứu hỏa. Họ tới đó, chiến đấu, nhằm dập tắt ngọn lửa tại
lò hạt nhân, rất nhiều người mới lấy vợ, và tất cả đều chết, sau đó,
vì nhiễm phóng sạ. Bà nói chuyện với vợ, chị em, mẹ, con gái của họ,
cũng như với bác sĩ, những người cố cứu họ, và tới những làng xóm bị
nhiễm độc, nhanh chóng trở thành điêu tàn [ôi “điêu tàn ư đâu chỉ có điêu
tàn”, thuổng Xuân Sách – cái xứ Mít bây giờ, về mặt ẩn dụ, y chang 1 cú
Chẹc Nô Bưn, không phải vì phóng sạ nguyên tử, mà vì cái mầm độc, cực độc
Cái Ác Bắc Kít!], và báo cáo – như Tin Văn đang làm! – về cái không khí, khí
hậu của những nơi chốn trống rỗng này.
The blue trees are arguing with the red wind.
The white mare has a peacock for a servant.
The hawk brings the night in its claws.
The golden mountain doesn't exist.
The golden mountain touches the black sky.
Charles Simic
Sách màu mặt trời lặn
Cây xanh lầu bầu với gió đỏ
Ngựa cái trắng có con công làm tên hầu
Con chim ưng đem đêm, những móng nhọn của nó, vô.
Ngọn núi vàng đếch có.
Ngọn núi vàng đụng bầu trời đen.
It looks so dark
the end of the world may be near.
I believe it's going to rain.
The birds in the park are silent.
Nothing is what it seems to be,
Nor are we.
There's a tree
on our street so big
We can all hide in its leaves.
We won't need any clothes either.
I feel as old as a cockroach, you said.
In my head, I'm a passenger on a ghost ship.
Not even a sigh
outdoors now.
If a child was left: on our doorstep,
It must be asleep.
Everything is teetering on the edge of everything
With a polite smile.
It's because there
are things in this world
That just can't be helped, you said.
Right then, I heard the blood orange
Roll off the table and with a thud
Lie cracked open on the floor.
Cam máu
Trời đất quá âm
u chắc là trái đất sắp đi đứt
Tớ nghĩ là trời sắp mưa
Chim chóc công viên bèn nín thinh
Chẳng có gì ra cái gì
Chúng mình thì cũng rứa.
Phố chúng mình
có cái cây thật bự
Chúng mình có thể ẩn trong đám lá của nó
Đếch cần quần áo nữa, tất nhiên
Em cảm thấy lạnh như con rán, nàng nói
Trong đầu của anh, anh thấy mình là 1 hành khách trên
con tàu ma
Ngay cả 1 tiếng
thở dài cũng đếch có, ở bên ngoài
Nếu thằng bé con bị bỏ ở thềm cửa
Hẳn là nó ngủ rồi
Mọi thứ thì như bấp bênh bồng bềnh, ở mép bờ của mọi
thứ
Với 1 nụ cười lịch sự
Nếu như có những điều này điều nọ ở trên cõi đời này
Ấy là bởi vì cũng theo hư không đi, nghĩa là chẳng
đi đến đâu, đừng hy vọng, em phán
Đúng lúc đó, tôi nghe trái cam máu
Rớt khỏi mặt bàn
Nghe đánh cộp 1 phát
Nằm tênh hênh, vỡ đôi, vỡ ba
Trên sàn nhà.
WALKING
I never run into
anyone from the old days.
It's summer and I'm alone in the city.
I enter stores, apartment houses, offices
And find nothing remotely familiar.
The trees in the park-were they always so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the bus that passed this way?
Where are the greengrocers and hairdressers,
And that schoolhouse with the red fence?
Miss Harding is probably still at her desk,
Sighing as she grades papers late into the night.
The bummer is, I can't find the street.
All I can do is make another tour of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me the way
And a place to sleep, since I've no return ticket .
To wherever it is I came from earlier this evening
Charles Simic:
That Little Something
Cuốc
Bộ
Tớ chẳng đụng đầu
với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào.
Mùa hạ, tớ một mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.
Cây trong công viên – Xưa chúng cũng to lớn như vậy
ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm cắt tóc?
Rồi cái ngôi trường giống như căn nhà với cái hàng
rào đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm ra con phố.
Tất cả những gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng
khu xóm
Hy vọng kiếm ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ
hồi
Trở về bất kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.
Note: Đúng là cái
lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà. Đếch làm
sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải,
đành đi trở ra, nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong
xóm bèn nói lớn, vọng tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo
ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân....Tới đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát,
và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên được nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, [ở bài thơ
trên] nhưng thay vào đó, là mấy con gà đang lang thang trong sân
đất…
Đọc, bỗng nhớ ông anh nhà thơ,
Quán Chùa, và những ngày Mậu Thân, cả hai đánh chắn suốt đêm, khi
ông phải trực chiến tại Cục Tâm Lý Chiến.
Gấu đã tả cái cảnh hai anh em len lỏi, xuyên qua những
bức tuờng khu Trại Gia Binh, để đến điểm hẹn, là 1 chiếu bạc.
Gần sáng, Gấu về nhà, đánh răng, rửa mặt, chạy xuống
UPI, số 19 Ngô Đức Kế, [con đường từ Tự Do đâm ra công trường Mê Linh,
có tượng Đức Thành Trần], xem có radiopho cần chuyển cữ sáng, thường
là không, vì chuyển hết cữ tối hôm trước, trừ khi có hình khẩn cấp
mới nhận trong đêm.
Thế là hai anh em lại gặp lại, vừa uống cà phê, vừa
bàn về đủ thứ chuyện, và thường là về sách, về 1 cuốn vừa đọc...
Thời gian đó, vì là Mậu Thân, nên gần như chỉ có hai
anh em.
Đọc thư gửi đảo xa lại bồi hồi thương ông anh, ông gần
như chẳng có ai để tâm sự, có lẽ ý nghĩa của cái nick Lỗ Bình Sơn,
là từ đó chăng?
Thời gian đó, thời gian Mậu
Thân, GCC có cô bạn, tối nào cũng mò tới, hà, hà, nhờ đó viết được cái truyện
ngắnCõi Khác
[Cõi Khác thì
cũng 1 thứ… Đảo Xa chứ gì nữa!]:
Những
ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ
bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo
từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu.
Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những
thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót,
vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản
dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Đau khổ nhất là
những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên
mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ
phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng
tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh
phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn,
thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình
sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành
phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng...
Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người
Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất
nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế
giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.
Tôi thích những trích dẫn, những dòng lạ mà chúng ta
đưa vô bản văn của mình. Tôi không hiểu những người ghét chúng, và
khẳng định một cách ngu ngốc, "để viết, thì đừng nợ bất cứ ai".
Trong bài viết, Vila-Matas nhắc
tới Susan Sontag, người đã từng chấp nhận thách đố của Walter Benjamin,
viết 1 cuốn sách chỉ gồm toàn trích dẫn, và những gì của riêng mình,
thì giống như giàn giáo, sẽ được dẹp bỏ, khi ngôi nhà xây dựng xong.
Ui chao, vào đúng đêm 30 Tết
Ta vừa rồi, GCC bèn ngộ ra, GCC, chính hắn, đã thực hiện được cả
hai giấc đại mộng của W. Benjamin:
Viết lịch sử từ đáy, và, viết 1 tác phẩm chỉ gồm toàn
trích dẫn.
Và đó là trang Tin Văn.
Le Plaisir Des Citations
Thú chôm chĩa.
Tôi ư? Chỉ là một hình ảnh mà
tôi theo đuổi, chỉ thế”
Gérard de Nerval
Tôi mê những dòng chữ lạ mà chúng ta
tuồn vô những bản văn của chính chúng ta. Tôi không hiểu được những
người ghét chúng, và tuyên bố một cách ngu ngốc “viết, OK, nhưng
đừng nợ bất cứ một ai”. Mê mết những trích dẫn, tôi đi dưới mưa trên
con phố Père-Lachaise, để mặc mình cuốn
đi trong dòng lũ tiềm thức của những thiên thu ngày tháng. Tôi đi
về phía ngôi mộ Nerval. Giấu mặt, tôi hy vọng một người nào đó sẽ khám
phá ra rằng, tôi luôn luôn tìm kiếm con người cội nguồn của tôi, trong
những con người giông giống tôi, những mặt nạ khác, những giọng nói
khác. Tôi đi trên con phố le Père-Lachaise, đẫm mình trong những trích
dẫn tràn đầy từ Trong khi chờ những năm tháng không trở lại”,
tập thứ ba những hồi ức sáng ngời của Cesar Antonio, những hồi ức không
làm sao hiểu nổi, nếu như không có trích dẫn, bởi vì tác giả đã làm những
bảng tóm tắt văn hóa, tất cả những gì xẩy ra dưới mắt mình.
Rồi tôi nhớ đến cái bài tựa của Susan Sontag, cho cuốn
Vaudou Urbain của Edgardo Cozarinsky: “cái
sự sử dụng rộng lượng những trích dẫn dưới dạng đề từ làm nhớ tới
những cuốn phim với những bức riềm, là những trích dẫn, của Godard.
Note: GCC đọc lại, bèn hết
sức kinh dị, tại làm sao mà những kỷ niệm những ngày MậuThân, với ông
anh, lại mắc mớ tới thú chôm chĩa?
Bất giác nhớ tới Foucault và sự ra đời của cuốn Chữ
và Vật:
Trong Lời Mở Đầu, ông cho biết, cuốn sách được gợi hứng
từ một bài viết của Borges. Và cùng với bài viết, là tiếng cười
làm rung rinh cõi tư duy của chúng ta (Tây phương).
Borges nhắc tới một cuốn bách khoa nào đó, ở xứ sở của
Kim Dung, theo đó, loài vật được chia ra như sau:
a/ thuộc về Hoàng Đế, b/ được tẩm nước thơm, c/ được
thuần hóa, d/ heo sữa, e/ nhân ngư, f/ huyền hoặc, g/ chó thả rông,
h/ ở trong bảng sắp xếp này, i/ cử động như người điên, j/ không thể
đếm được, k/ được vẽ bằng một ngọn bút lông lạc đà thật mịn, l/v…v…
và v… v, m/vừa đánh bể một cái bình, n/ ở xa trông như ruồi.
Theo Foucault một bảng phân loại như thế đúng là thách
thức lối tư duy của Tây phương. Làm sao có thể hiểu nổi những con
vật không có gì giống nhau, lại ở cùng trong một bảng sắp xếp, ngoài
cái trật tự abcd như trên? Trong khi tìm hiểu một trật tự như vậy, ông
nhìn ra một điều: lịch sử của sự khùng điên sẽ là lịch sử của Kẻ Khác,
lịch sử trật tự của những sự vật sẽ là lịch sử của Ta (Le Même). Và đối
với văn minh Tây phương, lịch sử của Kẻ Khác – không phải lịch sử trật
tự của những sự vật – bị coi là thứ yếu, xa lạ, và bị đẩy bật ra khỏi
lịch sử của những Ta. Đây là lý do người điên bị tống vào tù, hoặc bị
cưỡng bức lao động.
The Return of the Poetician
Sự trở về của nhà thi học
Roland Barthes
When he sits down in front of the literary work, the
poetician does not ask himself: What does this mean? Where does this
come from? What does it connect to? But, more simply and more arduously:
How is this made? This question has already been asked three times in
our history: Poetics has three patrons: Aristotle (whose Poetics provides
the first structural analysis of the levels and parts of the tragic
oeuvre), Valery (who insisted that literature be established as an object
of language), Jakobson (who calls poetic any message which emphasizes its
own verbal signifier). Poetics is therefore at once very old (linked to
the whole rhetorical culture of our civilization) and very new, insofar as
it can today benefit from the important renewal of the sciences of language.
Khi ngồi xuống, đằng trước là một tác phẩm văn học,
người làm thơ không tự hỏi: Cái này nghĩa là gì? Cái này đến từ
đâu? Nó móc nối tới cái gì? Nhưng, đơn giản hơn, và cũng thật hung
hăng con bọ xít hơn:
Cái này được làm ra như thế nào?
Câu hỏi trên đã được đưa ra ba lần rồi, trong lịch sử
của chúng ta: Cõi Thơ có ba ông Trùm: Aristotle [tác phẩm Thi Học
của ông Trùm này cung cấp bản nghiên cứu thứ nhất, về cấu trúc một
bi kịch, với đủ mọi lớp lang, phần đoạn của nó], Valery, [ông này
cứ phán đi phán lại, rằng, văn chương được thành lập như là một
đối vật của ngôn ngữ], Jakobson, [người ngửi và phán, "có mùi thơ
đấy", bất cứ một thông điệp nhấn mạnh lên phần tạo nghĩa, của riêng
nó].
Cõi Thơ, như thế, cùng một lúc, thật là xưa, [do mắc
mớ tới trọn cả nền văn hóa tu từ của văn minh của chúng ta], và thật
là mới, do việc đổi mới quan trọng của những môn khoa học về ngôn
ngữ, và từ đó, là những lợi lộc mà nó đem lại cho Cõi Thơ.
It is the animal with the big
tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should
like to get my hands on this tail some time, but it is impossible,
the animal is constantly moving about, the tail is constantly being
flung this way and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to
the face, which is flat almost like a human face, and small and oval; only
its teeth have any power of expression, whether they are concealed or bared.
Sometimes I have the feeling that the animal is trying to tame me. What
other purpose could it have in withdrawing its tail when I snatch at it,
and then again waiting calmly until I am tempted again, and then leaping
away once more?
FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the
German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)
Một con vật
Kafka tưởng tượng ra
Ðó là 1 con vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống
đuôi chồn. Ðòi phen tôi thèm được sờ 1 phát vào cái đuôi của em,
[hãy nhớ cái cảnh, 1 anh học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được
chồn viếng thăm, trong Liêu Trai, nhá!] nhưng
vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái đuôi, thân hình luôn uốn oéo. Con
vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt không giống, bèn bẹt y chang
mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương bầu dục, chỉ có hàm răng
là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn này, lúc thì giấu
biệt, lúc thì phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần hóa tôi,
biến tôi thành 1 con vật nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn là thế,
nếu không tại sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1 phát,
và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới khi tôi thèm quá, thò tay ra, và em lại
nguẩy 1 phát, đau nhói tim?
The Bloi and the Morlocks
The hero of the novel The Time Machine, which
a young writer Herbert George Wells published in 1895, travels on
a mechanical device into an unfathomable future. There he finds that
mankind has split into two species: the Eloi, who are frail and defenseless
aristocrats living in idle gardens and feeding on the fruits of the
trees; and the Morlocks, a race of underground proletarians who, after
ages of laboring in darkness, have gone blind, but driven by the force
of the past, go on working at their rusted intricate machinery that produces
nothing. Shafts with winding staircases unite the two worlds. On moonless
nights, the Morlocks climb up out of their caverns and feed on the Eloi.
The nameless hero, pursued by Morlocks, escapes
back into the present. He brings with him as a solitary token of
his adventure an unknown flower that falls into dust and that will
not blossom on earth until thousands and thousands of years are over.
Nguỵ vs VC
Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết “Máy Thời Gian”,
sử dụng cái máy thần sầu du lịch xuyên qua thời gian tới những miền
tương lai không làm sao mà dò được. Ở đó, anh ta thấy Mít – nhân loại
- được chia thành hai, một, gọi là Ngụy, yếu ớt, ẻo lả, và là những
nhà trưởng giả, bất lực, vô phương chống cự, sống trong những khu vườn
nhàn nhã, ăn trái cây, và một, VC, gồm những tên bần cố nông, vô sản,
sống dưới hầm, địa đạo [Củ Chi, thí dụ], và, do bao nhiêu đời lao động
trong bóng tối, trở thành mù, và, được dẫn dắt bởi sức mạnh kẻ thù nào cũng
đánh thắng, với sức người sỏi đá cũng thành cơm, cứ thế cứ thế lao động,
để thâu hoạch chẳng cái gì. Có những cầu thang nối liền hai thế giới, và
vào những đêm không trăng, VC, từ những hang động, hầm hố, bò lên làm thịt
lũ Ngụy.
Nhân vật chính, không tên, bị VC truy đuổi, trốn thoát
được, và trở lại thời hiện tại. Anh ta mang theo cùng với anh, một
BHD, như chứng tích của cuộc phiêu lưu, và vừa trở lại hiện tại,
bông hồng bèn biến thành tro bụi, và, như…. Cô Sáu trong Tiền Kiếp
Của GCC, hàng hàng đời sau, sẽ có ngày nào đó, bông hồng lại sống lại…
Who knows?
Hà, hà!
The Tigers of Annam
To the Annamites, tigers, or spirits who dwell in
tigers, govern the four corners of space. The Red Tiger rules over
the South (which is located at the top of maps); summer and fire
belong to him. The Black Tiger rules over the North; winter and water
belong to him. The Blue Tiger rules over the East; spring and plants
belong to him. The White Tiger rules over the West; autumn and metals
belong to him.
Over these Cardinal Tigers is a fifth tiger,
the Yellow Tiger, who stands in the middle governing the others,
just as the Emperor stands in the middle of China and China in the
middle of the World. (That's why it is called the Middle Kingdom; that's
why it occupies the middle of the map that Father Ricci, of the Society
of Jesus, drew at the end of the sixteenth century for the instruction
of the Chinese.)
Lao-tzu entrusted to the Five Tigers the mission
of waging war against devils. An Annamite prayer, translated into
French by Louis Cho Chod, implores the aid of the Five Heavenly Tigers.
This superstition is of Chinese origin; Sinologists speak of a White
Tiger that rules over the remote region of the western stars. To the
South the Chinese place a Red Bird; to the East, a Blue Dragon; to the
North, a Black Tortoise. As we see, the Annamites have preserved the colors
but have made the animals one.
Hổ An Nam
Với người An Nam Mít, hổ, hay cái tinh anh ngự trong
hổ, cai quản bốn góc trời. Hổ Đỏ trị vì phía Nam [ở đỉnh bản đồ],
mùa hè và lửa thuộc về nó. Hổ Đen, Miền Đông, mùa xuân và cây cối thuộc
nó. Hổ Xanh, Miền Bắc, mùa đông và nước thuộc nó. Hổ Trắng, Miền Tây, mùa
thu và kim khí thưộc nó.
Trên những hổ này, là hổ thứ năm, Hổ Vàng, ở giữa,
cai quản chúng, y chang Hoàng Đế Tẫu, ở Trung Nguyên, tức trung tâm
nước Tẫu, và nước Tẫu, đến lượt nó, là trung tâm Thế Giới, chính vì
thế mới có tên Vương Quốc Tẫu, hay,Vương Quốc Trung Nguyên. Chính vì
thế mà Cha Ricci, của Hội Giê Su, vào cuối thế kỷ 16 đã đi 1 đường bản
đồ chỉ dẫn về người nướcTẫu.
Lão Tử trao cho Ngũ Hổ thiên chức làm cuộc chiến
chống lại quỉ ma. Một cầu nguyện bằng tiếng An Nam Mít, được Louis
Cho Chod dịch sang tiếng Tẩy, khẩn cầu sự trợ giúp của Ngũ Hổ Nhà
Trời. Sự mê tín có nguồn gốc Tẫu; những nhà Tẫu học nói tới một vì
Bạch Hổ trị miền xa xôi của những ngôi sao Tây Phương. Ở Miền Nam, người
Tẫu đặt một Chim Đỏ; miền Đông, Rồng Xanh, miền Bắc, Rùa Đen. Như chúng
ta thấy, người Mít giữ những mầu sắc, nhưng coi những con vật, là một.
Note: Theo GCC, utopie nên dịch là "hoang tưởng",
hay "không tưởng", như thường vẫn được dịch.
Lịch sử nhỏ, dùng ở đây, cũng là ý của Prospero, khi
coi nhà văn Nobel người Belarus, đem tiếng nói đến cho những người
không có tiếng nói, giving voice to the voiceless.
“Không tưởng lớn”, là chủ nghĩa CS.
Người dịch không quen dùng tiếng Việt, theo GCC.
La petite histoire, mạo từ xác định, “la”, theo GCC,
nên bỏ đi, khi dịch, vì nếu dịch là “một”, sẽ biến thành “une”, mất
cái nghĩa “mạnh”, của nguyên tác tiếng Tây, LA petite histoire d’UNE
grande utopie. Cái lịch sử nhỏ của một không tưởng lớn.
Dịch mà không rành, giỏi tiếng Mít, căng lắm!
Tiếng Mít không có dễ, và có thể quá khó, đối với những
ai không yêu nó.
Sở dĩ đám tinh anh Miền Nam, được đi du học, không tên
nào ra hồn, là vì chẳng tên nào rành tiếng Mít, và chính điều này,
ảnh hưởng đến khả năng chinh phục tiếng
nước người, và thành người, nghĩa là hội nhập nơi quê người, và nếu
có dịp trở về quê hương, trở thành Mít thực thụ.
Lại nói chuyện “khả năng”. Gấu mới đọc câu sau đây trong
1 bài tạp ghi của 1 đấng được coi là “vua tạp ghi” ở hải ngoại:
Trong hơn một tiếng rưỡi đồng hồ, cuốn phim kể lại những
nỗ lực tuyệt vọng và bi tráng của thủy quân lục chiến và nhân viên
Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ nhằm di tản những công dân Việt Nam Cộng Hòa có khả
năng bị trả thù khi quân đội Bắc Việt chiếm lấy miền Nam.
Ở đây, phải dùng từ, “nguy cơ”.
Chiếm được. Không phải chiếm lấy.
Đấng này, thú thực Gấu chưa từng đọc nổi 1 bài viết.
Lạ, đọc là nhớ tới Primo Levi, quái quỉ thế!
Cũng có cái air điềm đạm, đạo hạnh, chân thực, nhưng
1 thật, 1 giả.
Đã nói rồi, tiếng Mít khó lắm!
Hà, hà!
Mới ghé Da Mùi, thấy đã sửa cái lỗi Gấu chỉ ra!
No "Tk U Mr. Gấu Cà Chớn!"
Theo GCC, dịch, đại khái, viết bởi là vì bạn khác người
khác, không phải để thỏa hiệp với người khác, với công chúng.
Tại làm sao mà lại có cái vụ “thông đồng” ở đây chứ?
Dịch mới chả dọt!
LDV hình như cũng member của BBT của Da Mùi?
Thu Cam On
Thuy Dinh
To
quocoai_sontay@yahoo.com
Today at 1:05 PM
Kính chào nhà văn Nguyễn Quốc Trụ,
Chân thành cám ơn ông đã đề nghị sửa tựa bản dịch "Viết
lịch sử nhỏ về một không tưởng lớn" bằng cách bỏ mạo từ xác định
"la" cho câu văn dịch sang tiếng Việt được mạnh hơn. Ông chỉ rất đúng.
Cũng cám ơn ông đã góp ý trên Tin Văn cho bản dịch Lưu
Hiểu Ba cách đây bốn năm. Tôi có nhớ mình đã sửa lại một vài chỗ vì
cách dịch của ông đã làm câu văn gọn, và mạnh hơn.
Mong ông nhận lời cám ơn (có thể bị ông coi là hơi trễ).
Là một người viết tị nạn - chứ không phải là một sinh viên du học
trước 1975 - tôi hoàn toàn không có sự lựa chọn về nơi mà tôi đã lớn
lên và hấp thụ một sinh ngữ, văn hoá khác. Tôi chỉ là một nữ sinh 13
tuổi khi Saigon mất. Học hỏi, duy trì tiếng Việt và văn chương Việt ở
một xứ sở hoàn toàn xa lạ, như ông biết, là một đam mê vô vị lợi. Có lẽ
sự đam mê này cũng xuất phát từ tâm trạng bất an ("không chính thức", illegitimate)
của một người bị giằng co giữa hai, hay nhiều ảnh hưởng văn hóa. Dù sao
thì cũng rất mong có được sự ủng hộ và khuyến khích từ những người đi trước,
như ông.
Tôi rất thích đọc những tài liệu của báo Văn, và những
bài phê bình đăng trước 75 của ông, như bài viết về Nguyễn Xuân Hoàng
và Thanh Tâm Tuyền. Những tài liệu đặc sắc này đã giúp tôi kiếm đọc
lại những tác phẩm của các nhà văn này. (Hiện tôi đang đọc Bếp Lửa của
Thanh Tâm Tuyền và hy vọng sẽ có dịp chia sẻ với ông ở vị trí một người
đọc tác phẩm khoảng 60 năm sau lần xuất bản đầu tiên).
Một lần nữa, cám ơn ông. Kính chúc ông mạnh khoẻ.
Trân trọng,
Đinh Từ Bích Thuý
Ui chao, nhận cái mail mà thực là xấu hổ vì cái tính
cà chớn của GCC.
You’re welcome
NQT
V/v Đang đọc Bếp Lửa. Tuyệt quá. I'm looking forward
to reading it
Tks
Best Regards
NQT
Đọc lại cái mail, tâm trạng bất an ("không chính
thức", illegitimate) của một người bị giằng co giữa hai, hay nhiều
văn hóa.
Tuyệt quá.
Xin rút lại cái ý “không rành tiếng Việt".
Chưa ai phán nổi 1 câu về sự bất an này, lạ thường như
thế.
Kể cả những nhà văn di dân nổi tiếng của thế giới.
Tks
NQT
Nhớ ra rồi. Chắc là do đang đọc Bếp Lửa?
TTT đã từng dùng từ này, để nói về ông, đứa con tư sinh
của 1 miền đất?
NQT
In more ways than one,
Monowitz, a part of Auschwitz, was not a typical camp. The barrier
that separated us from the world—symbolized by the double barbedwire
fence—was not hermetic, as elsewhere. Our work brought us into daily
contact with people who were “free,” or at least less slaves than we
were: technicians, German engineers and foremen, Russian and Polish
workers, English, American, French, and Italian prisoners of war. Officially
they were forbidden to talk to us, the pariahs of KZ (Konzentrations-Zentrum),
but the prohibition was constantly ignored, and what’s more, news from
the free world reached us through a thousand channels. In the factory
trash bins we found copies of the daily papers (sometimes two or three
days old and rain-soaked) and in them we read with trepidation the German
bulletins: mutilated, censored, euphemistic, yet eloquent. The Allied
POWs listened secretly to Radio London, and even more secretly brought
us the news, and it was exhilarating. In December 1944 the Russians had
entered Hungary and Poland, the English were in the Romagna, the Americans
were heavily engaged in the Ardennes but were winning in the Pacific against
Japan.
manhhai
ARVN decorations for Christmas 1967 - Mừng lễ Giáng
Sinh tại doanh trại của SĐ5 BB, tại Phú Lợi, Bình Dương
1969
1970
“Chiều nay Sàigòn đổ trận mưa đầu mùa. Trên
ấy đã mưa chưa? Anh vẫn ngồi quán cà phê buổi chiều? Anh có lên
uống rượu ở P ? Anh có trở lại quán S, với ai lần nào không? Sắp
đến kỳ thi. Năm nay em không có mặt để nhìn trộm anh đi đi lại lại
trong phòng, mặc quân phục, đeo súng một cách kỳ cục. Anh có đội thêm
nón sắt không? Năm đầu tiên em gọi anh là con Gấu. Hỗn như Gấu, đối với
bọn nữ sinh viên. Em đâu có ngờ anh là Yêu Râu Xanh.
Lần đầu tiên, độc giả được nghe tiếng harmonica của
Kiệt, khi anh là một thằng con nít Bắc Kỳ, sợ ông bố như sợ hung
thần. Mỗi lần bố đi vắng, thằng bé mới dám lôi cây kèn ra để thổi cho
mẹ nghe.
Chúng ta gặp lại cây kèn, Oanh chạy vội đi mua cho
ông Thầy, lần gặp cuối cùng giữa Thầy và Em, thay vì ở Đà lạt,
thì là ở Sài Gòn, một nơi chốn "giả tuởng nào đó" bên ngoài rạp Rex.
Bị vợ tống ra khỏi nhà, ôm theo hộp đàn Em tặng Thầy,
Kiệt trở lên lại Đà Lạt, như con voi già biết trước những giờ phút
cuối cùng của mình đã điểm.
Tới lúc đó, chúng ta mới lại được nghe tiếng kèn, chàng
thổi cho bạn nghe, trước khi tuyệt tích giang hồ.
Đây vẫn là đòn "sóng sau đè sóng trước", "ngoài trời
có trời" của Đông Phương, và Kim Dung là một bậc thầy: Hân Tố Tố-Trương
Thuý Sơn vừa nằm xuống là Triệu Minh-Vô Kỵ nổi lên. Tiếng kèn buồn
bã của những buổi chiều của miền bắc ngày nào, giữa hai mẹ con, bỗng
trở nên thật thê lương giữa vùng đồi núi Đà Lạt, thay cho lời chào vĩnh
biệt của trung uý Kiệt, với thế gian này.
Bạn nào còn nhớ tiếng kèn của anh chàng lính Mẽo Frank
Sinatra, trong Khi
còn người đàn ông trên trái đất này, Tant qu'il y aura des hommes?
Về già, nhớ, những lần muốn đi chơi với BHD là
phải lấy 1 cái tắc xi vô Chợ Lớn, rồi lẩn thẩn tự hỏi, có cặp tình
nhân nào làm như thế, hoặc hơn thế, mỗi lần gặp là phải từ Sài Gòn
bò lên Đà Lạt?
Khi lấy vợ, bèn lôi những bức hình Đà Lạt đốt bỏ, vì
không muốn vợ buồn, đâu có khốn nạn như những đảo xa, hay cái em
gì người yêu của họ Trịnh, lấy chồng rồi mà còn khư khư giữ những lá
thư tình ngày nào.
Tay này, có lần Gấu đã lèm bèm,
Gấu không đọc được, nhưng có gần như đủ những tác phẩm, mỗi lần
mua là một lần nhủ thầm, để đó, đợi đó...
Cho tới lúc ông cho ra lò Nhà Hội!
Obs: Với ông, hẳn nhiên là chẳng
bao giờ người ta có thể xong xuôi với Lò Cải Tạo [Goulag]. Cuốn mới
nhất của ông Nhà Hội,
là một khía cạnh lãng mạn của Koba The Dread, một tiểu luận của ông
về Staline. Tại sao?
Hai năm sau khi viết cuốn sách về Staline, tôi đang
ở Uruguay và có ý nghĩ viết về Goulag, điều mà tôi cứ lần lữa mãi,
để đó, đợi đó... Nó giống như một nguồn dự trữ, để sau này dùng tới,
tới khi nỗi đau chịu đựng chín mùi, và bật ra. Tôi đã viết một cuốn
về Lò Thiêu, Mũi tên của thời
gian... Tôi không thể nào có thể đặt mình vào vị trí của
những nạn nhân: Tôi không có quyền. Khi viết một cuốn tiểu thuyết,
người ta luôn tìm điều biện minh cho cách viết, và làm cho tác phẩm
của mình trở thành hợp pháp, légitime, đặc biệt là trong trường hợp
viết về lịch sử, một lịch sử đau thương. Tâm lý mà nói, những phản ứng
trước Lò Thiêu rất khác những phản ứng trước Lò Cải Tạo, hay chủ nghĩa
toàn trị Liên Xô.
Điều này thật bí ẩn, như thể có một đẳng cấp, nếu nói
về nỗi đau và hồi nhớ. Cái thư viện của nhân loại về Lò Thiêu thì
thật là khổng lồ, so với của Lò Cải Tạo.... Quả là có một sự có cảm
tình thực sự với Liên Xô, và dự án chính trị của nó, kể cả ở những người
Nga. Cho đến bây giờ, một nửa dân Nga vẫn mê Staline!
*
Tay Amis này, làm Gấu nhớ đến một ông bạn, Châu Văn
Nam, nhiếp ảnh viên UPI. Không hiểu tại làm sao, anh lúc nào cũng
tin vào Gấu, ngay cả khi Gấu hoàn toàn tuyệt vọng về mình. Không có
CVN, là Gấu không làm sao bỏ chạy được VC!
Sau này, trong những lần gặp lại, anh cười nói, tao
rất giỏi về xem tướng người. Lúc nào tao cũng tin là mày sẽ thoát,
sẽ làm được một cái gì đó!
Anh làm Gấu nhớ đến một tay khác, cũng tiên đoán như
vậy về Gấu. Nhưng trong hai trường hợp hoàn toàn khác nhau. Anh thứ
nhì này, cũng ngồi xem tướng Gấu, và phán. Cho vui câu chuyện thôi.
Khác CVN. Cứ mỗi lần có cú lớn, là anh nghĩ đến Gấu,
và cho tham dự.
Free!
Kenzaburo Oe,
Nobel văn chương 1994: Cha và Con.
Tháng Chạp 1994, nhà văn Nhật Kenzaburo Oe tới Stockholm
lãnh giải Nobel văn chương. Trước những thính giả lịch sự, và những
phóng viên, ông cứ nói đi nói lại, ‘Tôi sẽ ngưng viết tiểu thuyết.",
khi được hỏi. Một xác quyết kỳ kỳ, được nói bằng một giọng nhẹ nhõm,
vui vui, thành thử chẳng mấy ai tin. Ông vừa tới tuổi sáu mươi, tráng
kiện, và được coi là nhà văn đầu đàn trong cõi văn xuôi của Nhật. Giải
thưởng Nobel càng làm cho...
Việt
Tide: Bà là người có nhan sắc, có trí tuệ và rất hóm hỉnh...
Dương Thu Hương: ...(cười) À thế à!
Việt Tide: ...và từng tan vỡ gia đình; hiện sống một
mình tại Hà Nội, bà có tránh khỏi bị cám dỗ không?
Dương Thu Hương: (thở dài, cười) Nói ra điều này thì
nghe rất kỳ cục. Làm gì có điều gì cám dỗ đối với tôi. Chả có gì cám
dỗ đối với tôi cả. Cám dỗ lớn nhất đối với tôi là những tư tưởng mà
tôi thường suy nghĩ. Tôi thích nhất là ngồi uống cà phê một mình và
trước mặt không có ai cả.
Note: Một độc giả TV, đọc mẩu trên, tâm đắc, đồng cảm…
với DTH, gửi bài này.
Re: Kierkegaard
Friday, November 20, 2009 4:27 AM
Bai nay tuyet qua di, toi thich lam... trong bai nay
co kho^i tu tuong de khai thac va viet rat hay...
Tac gia Rolheiser thi sa^u sa+c qua mu+c sau sa+c!
Gởi bác Gấu bài Cultivating Loneliness nhé... người
phàm tục như tôi phải chờ tan vỡ “mộng” mới quý cô đơn. Người thấy
xa, thấy sâu như Kierkegaard thì quý cô đơn ngay từ đầu đời.
Viết đàng hoàng đi...
Độc giả TV
Tks. NQT
*
Nuôi dưỡng tâm hồn cô tịch
18-06-2006
Trong những thế kỷ gần đây, ít ai chạm đến cõi lòng
con người một cách sâu xa như triết gia Đan-mạch, Soren Kierkegaard.
Có nhiều lý do, một số rõ nét và một số không rõ nét. Rất nhiều người
công nhận Kierkegaard là một người thông minh hiếm có.
Tuy nhiên lý do chính Kierkegaard có thể chạm đến cõi
lòng chúng ta một cách sâu xa và khác thường có lẽ không phải do
trí thông minh của ông mà do nỗi đau khổ của chính ông, đặc biệt là
nỗi cô đơn. Albert Camus đã từng nói rằng chỉ trong cô độc cô đơn chúng
ta mới tìm được mối dây ràng buộc chúng ta lại với nhau trong cộng đoàn.
Kierkegaard thấu hiểu điều này và ông đã đi đến tận cùng tâm điểm của
nó nên ông nuôi dưỡng một cách tích cực nỗi cô đơn của mình
Khi còn trẻ, ông cũng đã rơi vào lưới tình sâu đậm và,
cũng đã có lúc ông dự định kết hôn với một người phụ nữ mà ông yêu
say đắm. Tuy nhiên đến một lúc, khi cái giá cảm xúc đối với bản thân
mình quá lớn và - (như câu chuyện đời ông đã hé cho thấy) – cái giá
cảm xúc đó đối với người phụ nữ kia còn lớn hơn, ông đành từ hôn và quyết
định sống độc thân quãng đời còn lại của mình. Lý do của ông là gì?
Ông cho rằng những gì ông phải cống hiến cho cuộc đời
xuất phát nhiều từ nỗi cô đơn của chính mình, và ông chỉ có thể
chia sẻ sâu đậm nỗi cô đơn với những người trong cô đơn khi ông cảm
nhận được nỗi cô đơn đó. Ông trực cảm, cô đơn sẽ cho ông chiều sâu.
Dù quan niệm này có thể đúng hay sai, nhưng ông cho rằng hôn nhân ở phương
diện nào đó có thể làm ông chệch hướng hay sao nhãng khỏi chiều sâu đó,
dù chiều sâu đó làm cho ông đau khổ.
Tôi ngờ nhiều người trong chúng ta sẽ cười lập luận
của ông. Hôn nhân thì khó là thần dược để trị bệnh cô đơn, và một
mình nó, nỗi cô đơn không bảo đảm làm cho tâm hồn có một chiều sâu.
Cũng thế, nhiều người trong chúng ta sẽ phê phán điều tưởng chừng
là ngụ ý của chuyện này, rằng cách nào đó, về mặt nội tâm, đời sống
độc thân cao hơn đời sống hôn nhân, như thể đời sống hôn nhân là chướng
ngại cho chiều sâu tâm hồn.
Tuy nhiên, có một phần nào đó trong tâm hồn chúng ta,
trọng tâm huyền bí của chúng ta, mà, tôi ngờ, sẽ hiểu rõ tại sao
Kierkegaard làm điều này. Điều Kiergaard hiểu - dĩ nhiên là không
hoàn hảo, vì – điều này luôn luôn có phần huyền bí nào đó, - là nối
kết giữa nỗi cô đơn và điều huyền bí, nỗi khát khao và tính mật thiết,
tình chăn gối.
Điều này có nghĩa là gì? Bằng cách nào chúng ta nối
kết với người khác trong cô đơn, khao khát? Việc chúng ta được nối
kết một cách huyền bí với nhau có nghĩa là gì?
Thánh Tô-ma A-qui-nô đã gợi ý có hai con đường để hợp
nhất với một điều gì đó hay một ai, đó là: qua chiếm hữu thực thụ
và qua ao ước. Chiếm hữu thực thụ thì dễ hiểu, là tiếp xúc cụ thể,
hợp nhất thực sự, nhưng làm sao chúng ta nối kết được với ai hay điều
gì qua ao ước?
Trong cuốn tiểu thuyết đoạt giải Booker, Con đường đói
khổ cùng cực (The Famished Road), nhà văn Ben Okri tả một người mẹ
Ni-giê-ri-a mắng mỏ đứa con trai quá bất an đã ám ảnh trong giấc mơ
của bà: “Bước ra khỏi giấc mơ của mẹ! Đó không phải là chỗ của con!
Mẹ đã lấy ba rồi!” Thật là một lời la mắng lạ lùng - rầy la người khác
vì họ xuất hiện trong giấc mơ của mình! Nhưng con người huyền bí trong
chúng ta hiểu điều này. Trong nỗi bất an và cô đơn, cũng như trong lời
cầu nguyện cho nhau, chúng ta thường ám ảnh giấc mơ và tâm trí người
khác một cách cũng sâu đậm như khi tiếp xúc qua thân xác.
Hơn thế nữa, khi thấu hiểu nỗi cô đơn của mình, chúng
ta sẽ thấu hiểu giấc mơ của người khác. Kierkegaard hiểu điều này
và lo ngại rằng nếu hôn nhân gây trở ngại cho nỗi cô đơn của ông thì
cũng sẽ gây trở ngại cho khả năng ông đi vào giấc mơ của chúng ta.
Dù lập luận của Kierkegaard có thể thiếu sót, chúng ta cũng không
thể cãi lẽ với kết quả. Ông thật sự đã đi vào giấc mơ chúng ta và
tiếp tục ám ảnh mạnh mẽ tâm thức nhiều người. Lời của ông đã giúp chữa
lành, mang lại sức mạnh, đức tin và can đảm cho nhiều người.
Tại sao? Một phần vì nó có tính cách huyền bí và chúng
ta cảm nhận nó bằng – trái tim nhiều hơn là bằng trí óc. Có thể hiểu
được điều này, dù chỉ một phần: Nỗi cô đơn của chúng ta là phương
tiện đặc ân, để qua đó chúng ta đi vào trái tim mình. Lắng nghe nỗi
cô đơn của chính mình là cách để chúng ta tiếp xúc tiếp xúc với chính
mình. Như cha Henri Noiwen nói, khi thấu hiểu được nỗi khát khao của
chúng ta mà ta nhận thấy thì chẳng còn điều gì xa lạ với chúng ta (tầm cao
cả, vĩ đại, lòng tham, lòng quảng đại, hụt hẫng, niềm vui, khả năng sát
hại, khả năng chết cho người khác, tính ích kỷ, lòng thánh thiện.) Mọi cảm
xúc và tiềm năng của con người nằm trong trái tim phức tạp đầy khiếm khuyết
của chúng ta. Trong nỗi cô đơn và khao khát, chúng ta bắt đầu nhìn thấy chính
mình.
Và khi thấm nhập sâu xa với chính mình thì chúng ta
mới thấm nhập được vào người khác. Khi để nỗi cô đơn của chính mình
ám ảnh mình thì khi đó chúng ta mới bắt đầu, trong ý nghĩa đẹp nhất
của câu này, ám ảnh giấc mơ của nhau. Trong cô đơn và khát khao, lòng
cảm thông được sinh ra. Khi không có điều gì xa lạ với mình, thì lúc
đó cũng chẳng có ai là xa lạ với mình và lời nói chúng ta sẽ bắt đầu
có sức mạnh chữa lành người khác.
Khi được hỏi: “Thi sĩ là ai?” Kierkegaard trả lời: “Thi
sĩ là người bất hạnh, người giấu nỗi đau khổ sâu xa trong tâm hồn,
nhưng đôi môi được tạo ra để làm sao khi cất lên lời than van hay
kêu thét, nó nghe như một bản nhạc hay.”
Cô đơn là những gì làm cho chúng ta trở thành thi sĩ,
nhà huyền bí, nghệ sĩ, triết gia, nhạc sĩ, người chữa lành, người
thánh thiện.
Note: Cuốn Đêm Giữa Ban Ngày của Koestler đúng
là 1 thứ vắc xin đối với Gấu, những ngày mới lớn, và không chỉ
Gấu, mà cả Âu Châu. Không có nó, và “1984” của Orwell, là Xì nhuộm
đỏ cả thế giới rồi!
Điểm Sách
London đọc tiểu sử Koestler
của Scammell
Em này là
tác giả cái tít cuốn sách của VTH: Đêm giữa ban ngày!
Cái tít Đêm giữa Ngọ, như trong cuốn tiểu sử K của Scammell
cho biết, K. nghĩ rằng, được trích dẫn từ Samson Agonistes
của Milton:
“Oh dark, dark, dark, amid the blaze of noon”. Thực sự, Daphne được
gợi hứng từ Sách của [Book of] Job: “They meet with darkness
in the daytime, and grope in the noonday as in the night” [Job 5:14]
K. mở ra
‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa,
là Xịa. ST có là nhờ nó. Chương trình WJC chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong tôi bừng nắng hạ!] Bộ sách vĩ đại Văn Học Miền Nam của VP
chắc cũng là từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên chi địa khác! Rockefeller
Foundation, thí dụ. Nhưng đều là đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of Koestler is: one third genius, one third
blackguard, and one third lunatic”, [Tôi nhận xét K. 1/3 thiên tài,
1/3 đê tiện, và 1/3 khủng, mát] tay cảnh sát chìm giả làm tù nhân bị
nhốt cùng phòng với K, tại nhà tù Pentonville, báo cáo với sếp.
(1) Mới dinh cuốn Bóng Đêm từ một tiệm sách cũ về, cùng
với cuốn Bộ lạc thứ 13:
The Thirteenth Tribe, written near the end of his life,
attempted to prove that Ashkenazi Jews - the main body of European
Jewry - were not ethnic Jews at all but the descendants of the Khazars,
Turkic nomads from Asia
who had converted to Judaism in the eighth century. To the dismay of
most Jews, the book was a huge success and is still quoted with delight
by Israel's
hostile neighbors. Neal
Ascherson: Raging towards Utopia
Gấu đọc lại
Đêm giữa Ngọ, để kiểm tra trí nhớ, và để sống lại những ngày mới
vô Sài Gòn.
Quả có mấy
xen, thí dụ, Ông số 2 đang đêm bị hai chú công an đến tóm, và ông
ra lệnh cho chú công an trẻ măng, cách mạng 30 Tháng Tư, lấy cho
tao cái áo đại quân thay vì đứng xớ rớ mân mê khẩu súng! Có cái xen
ông số 2 dí mẩu thuốc đỏ hỏn vô lòng bàn tay, và tưởng tượng ra cái
cảnh mình đang được đám đệ tử tra tấn. Có câu chuyện thê lương về anh
chàng ‘Rip của Koestler’ [Giá mà Bác Hồ hồi đó, khi ở Paris, đọc được,
thì chắc là hết dám sáng tác Giấc Ngủ 10 năm, có khi còn từ bỏ Đảng cũng
nên!]
Trong lúc rảnh rỗi, tôi viết một
cuốn tiểu thuyết Tới và Đi, Arrival and Departure, và một số tiểu
luận, sau được đưa vô The Yogi and the Commissar [Du Già và Chính Uỷ]
Tới và Đi là tập thứ ba, trong một bộ ba tập,
trilogy, trong đó, đề tài trung tâm của nó là cuộc xung đột giữa
đạo đức và thiết thực [expediency: miễn sao có lợi, thủ đoạn, động
cơ cá nhân – khi nào, hoặc tới mức độ nào, thì một cứu cánh phong nhã
[vẫn còn có thể] biện minh cho một phương tiện dơ bẩn. Đúng là một đề tài
Xưa như Diễm, nhưng nó ám ảnh tôi suốt những năm là một đảng viên CS .
Tập đầu của bộ ba, là Những tên giác
đấu, The Gladiators, kể cuộc cách mạng [revolution] của
những nô lệ La mã, 73-71 BC, cầm đầu bởi Spartacus, xém một tí là
thành công, và cái lý do chính của sự thất bại, là, Spartacus đã thiếu
quyết định [lack of determination] – ông từ chối áp dụng luật quay đầu,
trở ngược, “law of detours”; luật này đòi hỏi, trên con đường đi tới
Không Tưởng, người lãnh đạo phải “không thương hại nhân danh thương hại”,
‘pitiless for the sake of pity’. Nôm na là, ông từ chối xử tử những
kẻ ly khai và những tên gây rối, không áp dụng luật khủng bố - và, do
từ chối áp dụng luật này khiến cho cuộc cách mạng thất bại.
Trong Bóng
đêm giữa ban ngày, tay cựu truởng lão VC Liên Xô Rubashov đi ngược
lại, nghĩa là, ông theo đúng luật trở ngược đến tận cùng cay đắng -
chỉ để khám phá ra rằng ‘lô gíc không thôi, là một cái la bàn không
hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một chuyến đi đầy dông bão, cuối cùng
bến tới biến mất trong đám sương mù.’
Hai cuốn, cuốn nọ bổ túc cho cuốn kia, và cả hai đều
tận cùng bằng tuyệt lộ.
Jeremy Treglown:
Whoever reads Arthur Koestler now?
Ai còn đọc K. bây giờ?
Có tớ, đây!
Bây giờ gần như mọi người đều quên ông [Koestler], nhưng
đã có thời, tất cả những sinh viên với tí mầm bất bình thế giới, họ
đọc ông. Những sinh viên, đám cháu chít của họ, hay đám trí thức “của”
ngày mai, họ chẳng hề nghe nói đến ông. Một số nhà phê bình nghĩ,
sự lãng quên này thì là do những cái nhảm nhí trong cuộc đời riêng tư
của ông, hầu hết được hé lộ sau khi ông mất: hiếp bà này, trấn bà kia,
và nhất là, cái tội ép bà vợ trẻ sau cùng cùng đi với ông trong chuyến tầu
suốt. Lời giải thích sau đây thoả đáng hơn: thời gian thay đổi. Nội dung
trọn một khối của tất cả những gì mà Koestler sống, sống sót, chiến đấu,
rao giảng, lên lớp… - thời những độc tài toàn trị, những vận động, huy
động, chuyển vận… mang tính thiên niên kỷ, những cuộc chiến toàn thể -
đã biến mất. Và biến mất cùng với nó (cũng còn một tí xíu chưa chịu biến mất),
là những chọn lựa đạo đức cổ điển choàng lên lương tâm, ý thức, [và trên
vai ta đôi vầng nhật nguyệt] của hàng bao nhiêu con người, đàn ông đàn
bà của thế kỷ 20: Liệu có nên hy sinh ngày hôm nay để có một ngày mai ca
hát? Thà trốn lính chứ đừng nhẩy toán? Liệu có nên khứng chịu con quỉ 1 sừng
để tránh con quỉ 2 sừng, 10 sừng, liệu có nên đổ xuống sợi xiềng thực dân
cũ, thực dân mới máu của 3 triệu dân Mít [đứng vùng lên gông xích ta đập
tan] để có được một cái nhà nhà Mít to đẹp hơn, đàng hoàng hơn?
Cái sự vô cảm mà tên già NN chửi đám trẻ ở trong nước,
và Thầy Kuốc ở hải ngoại, chính là vì họ không chịu chết nữa, cho
những kẻ suốt đời sống bằng máu của kẻ khác.
Bao nhiêu thế hệ Bắc Kít đã chết vì giấc mơ thống nhất?
Không đơn giản đâu.
Tên Bắc Kít LDD, suốt 1 đời chửi Mỹ Ngụy, có dịp, là
bèn chuồn qua Mẽo, làm bồi Mẽo, vậy mà có dịp là chọc quê lũ Ngụy.
Chưa hết, hắn cũng bày đặt chửi trong nước, vô cảm,
trước hiện tượng thái tử, công chúa Đỏ.
Cái tít cuốn của VTH, đúng là chôm
từ Koestler. Đâu có dễ mà kiếm ra 1 cái tít hoành tráng như thế. Cái tít
Vòng Tròn Ma Thuật, đúng là cái tít đầu tiên, bằng tiếng Đức, sau được dịch
qua tiếng Anh là Vòng tròn ma quỉ, vicious. Trong 1 bài viết trên talawas,
dịch giả tiếng Việt của nó cho biết, tính dùng cái tít Bóng Đêm Giữa Ban
Ngày, nhưng “của” VTH mất rồi!
Một tên chôm chĩa cuối cùng biến thành sở hữu chủ!
Mới xẩy ra vụ, tác giả giải Man Booker Á Châu, bị tố
đạo văn.
Thoạt đầu bà chối, nhưng sau nhận.
Tờ Người Kinh Tế, biết vụ này, vẫn khen tới chỉ tác
phẩm của bà. (1) Mít, 1 ông nhà văn, người tù vì lương tâm,
như VHT, liệu có tí can đảm, nhận, tớ có chôm cái tít của Koestler?
Cái vụ đạo thơ đang ì xèo, theo Gấu không liên quan
tới đạo, mà là ganh ăn.
PXN cũng đã từng bị talawas đánh, vì ganh ăn, đến nỗi
sinh mệnh chính trị - nồi cơm - có nguy cơ bị bể, Sến mới tha. PHT
bổng lộc nhiều quá, như PXN, chúng ghét, xúm lại đập.
Đạo gì đâu. Hai bài thơ, khác hẳn nhau. Một tên lưu
vong, mù tịt tiếng mũi lõ, không làm sao hội nhập xứ người, nhớ
quê hương, khi tôi chết nhớ quăng cái xác của tôi xuống biển, cho
sóng đưa về xứ Mít, thì cũng giống như PD năn nỉ, cho tớ về, không lẽ
tớ chết, chôn ở Bắc Cực ư? Tên nào thì cũng có bẩn ý cả. Cả hai đều về
cả.
*
Người dịch cho
rằng sẽ rất hợp lý nếu chuyển ngữ tên tác phẩm này thành Đêm giữa
ban ngày nếu như trước đó chưa có một tác phẩm đã rất nổi tiếng cùng
tên của nhà văn Vũ Thư Hiên.
PMN
Đấy là ông viết. Còn trong bụng, ông nghĩ: Tay mũi lõ này ăn cắp cái tít của "bạn ta", là
VTH!
Auden, nhà thơ người Anh, khi được
hỏi, hãy chọn bông hoa đẹp nhất trong vòng hoa tặng, ông cho biết, bông hoa
đó đã tới với ông một cách thật là khác thường. Bạn của ông, Dorothy Day,
bị bắt giam vì tham gia biểu tình. Ở trong tù, mỗi tuần, chỉ một lần vào
thứ bẩy, là nữ tù nhân được phép lũ lượt xếp hàng đi tắm. Và một lần, trong
đám họ, một tiếng thơ cất lên, thơ của ông, bằng một giọng dõng dạc như
một tuyên ngôn:
"Hàng trăm người sống không cần tình yêu,
Nhưng chẳng có kẻ nào sống mà không cần nước"
Khi nghe kể lại, ông hiểu rằng, đã không vô ích, khi
làm thơ.
Chúng ta đã thắng trước cuộc đời.
Cũng trong cuộc phỏng vấn,
khi được hỏi, ông làm thơ cho ai, Auden trả lời: nếu có người hỏi
tôi như vậy, tôi sẽ hỏi lại, "Bạn có đọc thơ tôi?" Nếu nói có, tôi
sẽ hỏi tiếp, "Bạn thích thơ tôi không?" Nếu nói không, tôi sẽ trả lời,
"Thơ của tôi không dành cho bạn."
Tôi tản mạn về một nhà thơ nước ngoài
như trên, là để nói ra điều này: thế hệ nhà thơ nào cũng muốn chứng
tỏ một điều: chúng tôi không vô ích, khi làm thơ. Nếu mỗi thế hệ là
một quốc gia non trẻ , và, nếu thế hệ đàn anh của chúng tôi tượng trưng
cho nước Việt non trẻ - vừa mới giành được độc lập - là bước ngay vào
cuộc chiến, và, họ đã chứng tỏ được điều trên: đã không vô ích khi làm
thơ; và đã thắng trước cuộc đời, cho nên đây là một thách đố đối với
những nhà thơ trẻ như chúng tôi: đừng làm cho thơ trở thành vô ích.
Và nếu thơ của lớp đàn anh chúng tôi đã làm xong phần đóng góp cho
sự nghiệp chung của dân tộc, thơ của thế hệ trẻ chúng tôi có lẽ sẽ làm
nốt phần còn lại: thơ sẽ nói lên nghệ thuật của sự tưởng niệm, và mỗi bài
thơ, được viết đúng lúc như thế đó, sẽ trở thành một khúc kinh cầu. Đó
là tham vọng của thơ trẻ.
Note: Bài viết này, có phần đóng
góp của Gấu.
Nhớ, gửi cho PTH, VB, anh mail, reply, phần đầu OK.
Phần sau, dởm.
Gấu Cái lắc đầu, anh PTH giỏi thật!
Lướt net, thấy PHT lại dính thêm 1
đòn nữa.
Theo Gấu, vẫn không phải đạo.
Với vụ Du Tử Cà, có thể dùng 1 hình ảnh, đốt ngọn nến
hai đầu, để diễn tả cùng 1 hình ảnh, của kẻ ở bên ngoài, và kẻ
ở bên trong, cùng hãy ném thây tôi xuống biển.
Vụ mới này, Mai Thảo gọi là thơ đồng
phục, nghĩa là dở như nhau, ai đạo của ai thì cũng thế.
Chính vì thế mà PHT mới nói, bài thơ của tôi in sau,
bài của bạn in trước, [chúng giống nhau vì cùng tệ như nhau].
Borges có câu, thơ là để trao cho thi
sĩ.
Câu thơ sau đây, của PHT, không ai đạo được, vì đúng
thứ thơ để trao cho thi sĩ:
NGUYỄN HƯNG QUỐC: Trong các tác phẩm được Võ Phiến hoàn thành
tại Hoa Kỳ sau năm 1975, bộ Văn học Miền Nam là công trình dài
hơi và được ông dành cho nhiều tâm huyết nhất. Thật ra, ngay trước
1975, tại Sài Gòn, Võ Phiến đã manh nha ý định viết về văn học Miền
Nam; sau năm 1975, từ Mỹ, nhìn thấy nền văn học ấy bị chính quyền mới
ra sức huỷ diệt, chạnh lòng, ông càng thiết tha hơn trong việc thực
hiện giấc mơ ngày nào. Khoảng năm 1983, qua sự giới thiệu của Huỳnh Sanh
Thông, ôn...
Note: Nhảm.
Ngay ở đầu cuốn VHTQ, VP đã phán, tớ đếch viết được
phê bình, làm gì có chuyện ở Sài Gòn, trước 1975 đã… manh nha?
Cái vụ lãnh đô la của Mẽo, viết VHTQ, VP đâu có dám
nhắc tới?
Ông lấy từ 1 cơ quan có cái tên Mít đặc, vì vẫn bị ám
ảnh bởi vụ Sáng Tạo nhận tiền của Xịa.
Hồi mới ra hải ngoại, đọc VHTQ, Gấu bị lầm, cứ nghĩ
có 1 cơ quan Mít hải ngoại lo cái việc phát tiền viết về văn học
miền nam trước 1975, tếu thế, và tính viết thư xin tí tiền gửi cho
lũ nhỏ còn kẹt lại.
Trong VHTQ, VP viết cực nhảm về Sáng Tạo, về Mặc Đỗ,
về Nhất Hạnh, về nhất nhiều người, chạnh lòng cái con khỉ.
Viết thì phải trung thực. Không thì đừng viết.
Cuốn VHTQ còn đó, đọc thì biết.
Trong số những người viết về VP, Gấu được coi là viết
đúng nhất về ông, ngay từ khi ông còn sống.
[Coi Blog NL, thí dụ]
Ông cũng đã từng nhắn mời Gấu tới nhà, khi biết Gấu
qua Cali, khi ông từ Los về Little Saigon, nhưng ham vui bạn bè,
Gấu quên.
Lần đầu tiên 1998, qua Cali, nhân xb cuốn Lần Cuối Saigon,
Nguyễn Mộng Giác mở 1 bữa tiệc tại gia, theo kiểu ra mắt sách, cả
băng VH hiện diện, không thấy VP, Gấu hỏi, NMG nói, có mời, nhưng không
tới.
Khi các thái tử và công chúa, các cậu ấm cô chiêu vụt nổi
lên “chói sáng” trên chính trường Việt Nam, đâu đó có thể có người
mừng khấp khởi, nghĩ rằng các cô cậu ấy sẽ chính là “tầng lớp kỹ
trị mà Việt Nam cần”, rằng các cô cậu trẻ, giỏi, có bằng cấp Tây học
và sự văn minh hấp thụ từ Âu-Mỹ, các cô cậu sẽ giúp dân chủ hóa Việt
Nam.
Và như thế phải chăng là kết quả của một chiến lược sâu xa
nào đó của Mỹ, “dùng cộng sản con diệt cộn...
Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi
theo chân lý muôn đời, tiến trình tự nhiên của điêu tàn, huỷ diệt,
hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều
không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không
phải điêu tàn, mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông
chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải
điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation,
trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books,
New York:
In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin,
catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly,
for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of
men].
Lại nói về tầng lớp tinh anh trí thức tốt nghiệp nơi
những trường đại học danh tiếng.
Ngụy chẳng đã từng nưng niu lũ này, cỡ nào. Cả 1 chính
sách hoãn dịch vì lý do học vấn, du học… là để cho lũ này sống sót,
hết chiến tranh lo xây dựng lại đất nước, đúng ý Bác Hồ, nhưng kết
quả ra sao, thì chúng ta đều biết, chúng rắp tâm nằm vùng, hoặc phản
chiến, hoặc bỏ chạy qua Canada, thí dụ, đếch về, nếu bị gọi về. Không
có lấy 1 mống nào ra hồn, ngay cả những tên làm cho các tòa đại sứ Ngụy,
thí dụ.
Có tên còn nhân dịp bợ luôn cái két sắt, vì, không
lẽ để cho VC?
Hà hà!
Steiner quá đau đớn, vì không được chết cùng với tất
cả những tên Do Thái Âu Châu, nhờ 1 ông bố Do Thái đưa kịp gia đình,
trên chuyến tàu chót rời cựu lục địa.
Mít chưa từng có 1 tên đau nỗi đau này!
Cùng số báo TLS có bài Used bullets,
Robert Chandler điểm tập truyện ngắn và tiểu luận The
Road, tác giả Vasily Grossman, sẽ ra mắt độc giả tiếng Anh tháng
tới, nhà xb MacLehose Presss, trong có Mama, câu chuyện cô con
gái nuôi của Nicolai Yezhov, ông trùm mật vụ, và là ‘tác giả’ Đại Khủng
Bố.
Khi ông ta thất sủng, bị bắt, vào năm 1939, tay đại
uý NKVD xét phòng ông Trùm ở Kremlin, kiếm thấy trong 1 ngăn kéo,
4 viên đạn súng lục, đã được sử dụng, và gói trong những tờ giấy đề
tên những nạn nhân.
Chồng Trùm Mật Vụ, tác giả Đại Khủng Bố. Vợ, Đệ Nhất
Phu Nhân Vương Quốc Liên Xô, chủ nhân một salon văn học, tại Moscow,
và là tình nhân của toàn những đệ nhất văn nhân, thí dụ, Sholokhov,
Nobel văn chương, tác giả Sông Đông Êm Đềm.
Cô con gái nuôi rất thương ông bố trùm khủng bố của
mình.
Bài này thật ly kỳ. Người thực, việc thực, giả tưởng
hơn cả giả tưởng!
Bài về Thi Ca, cũng thật tuyệt!
TV sẽ giới thiệu, sau.
TV Diary [NKTV]
Used bullets
The
story of Nikolai Yezhov' s adopted daughter
ROBERT CHANDLER
In the late 1930s, Soviet cultural
life was frenziedly intense; sex, art and power were morbidly, dangerously,
often fatally intertwined. There were a number of cultural salons in
Moscow,
and the most glamorous was that of Yevgenia Solomonovna Yezhova,
the wife of the head of the NKVD. While Yevgenia Solomonovna worked
as deputy editor of a prestigious journal, The USSR under Construction,
and presided over her salon, her husband Nikolai Yezhov was presiding
over the Great Terror. Between late September 1936 and April 1938, he
was responsible for about half of the Soviet political, military and intellectual
elite being imprisoned or shot. He was also responsible for the deaths
of around 380,000 kulaks and around 250,000 members of various national
minorities.
Among the members of the Soviet elite who visited Yevgenia
Yezhova's salon were the Yiddish actor Solomon Mikhoels; the jazz
band leader Leonid Utyosov; the film director Sergei Eisenstein; the
journalist and editor Mikhail Koltsov; the poet and translator Samuel
Marshak; the Arctic explorer Otto Schmidt; and the writers Isaac Babel
and Mikhail Sholokhov, with both of whom Yezhova had affairs. Babel, whose affair with Yevgenia began in Berlin in 1927,
is reported to have said of her, "Just think, our girl from Odessa has become the
first lady of the kingdom!". In some respects, at least, Yezhova seems
to have been impressively bold; Otto Schmidt's son remembers her as being
the only person who came up to speak to his father after Stalin had publicly
criticized him at a Kremlin reception.
That Mikhail Sholokhov should have visited Yezhova'
s salon is not surprising. Sholokhov moved in powerful circles;
he was a member of the Supreme Soviet from 1937, and he was admired
by Stalin. He appears to have been fearless; both in 1933, during
the Terror Famine, and in 1938, towards the end of the Great Terror,
he wrote to Stalin with strikingly direct criticisms of his murderous
policies. Isaac Babel's presence is equally unsurprising; he was fascinated
by violence and power. In his memoir about Vasily Grossman, Semyon Lipkin
recalls telling him how, in 1930, he had heard Babel say, "Believe me ... I've
now learned to watch calmly as people are shot". Lipkin then quotes
Grossman's response: "How I pity him, not because he died so young,
not because they killed him, but because he - an intelligent, talented
man, a lofty soul, pronounced those insane words. What had happened
to his soul? Why did he celebrate the New Year with the Yezhovs? Why do
such unusual people - him, Mayakovsky, your friend Bagritsky - feel so
drawn to the OGPU [the Soviet secret police]? What is it - the lure of
strength, of power? ... This is something we really need to think about.
It's no laughing matter, it's a terrible phenomenon".
Patti Page, who has died aged
85, had a huge hit in the United States with How Much Is That Doggie
In The Window? and became the biggest-selling female star of the
1950s.
Patti Page, nữ danh ca số 1
của 1 thời, đã mất, thọ 85 tuổi
Ui chao, Em này đúng là thần
tượng của Anh Cu Gấu nhà quê Bắc Kít.
Và có thể - có thể gì nữa - của nhà thơ TTT, vì nhà
thơ hẳn là cũng quá mê em, và Jazz. O, Let me go, lover,Smoking my sad cigarette…
Trong Tôi Không Còn
Cô Độc, TTT cũng có vài bài vinh danh Jazz, hình như thế.
Trong Liên Đêm.
Thí dụ bài này, nền của nó chẳng là
tiếng kèn của Jazz ư:
Dạ khúc
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa
Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai (1)
Bài thơ này có 1 giai thoại
thú lắm, do chính thi sĩ kể và được 1 em ca sĩ xì ra. Bài thơ được phổ nhạc
và mấy em cứ hát sai đi [chắc là cố tình] "đưa em vào quán trọ".
Nghe nói, thi sĩ bực lắm.
Nếu là Gấu, thì không bực!
Bài thơ thần sầu,
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Trong The Last Interview, Baldwin đi
1 đường vinh danh Blues thần sầu, từ từ Gấu trình ra cho độc giả
TV thưởng thức
Việt
Tide: Bà là người có nhan sắc, có trí tuệ và rất hóm hỉnh...
Dương Thu Hương: ...(cười) À thế à!
Việt Tide: ...và từng tan vỡ gia đình; hiện sống một
mình tại Hà Nội, bà có tránh khỏi bị cám dỗ không?
Dương Thu Hương: (thở dài, cười) Nói ra điều này thì
nghe rất kỳ cục. Làm gì có điều gì cám dỗ đối với tôi. Chả có gì cám
dỗ đối với tôi cả. Cám dỗ lớn nhất đối với tôi là những tư tưởng mà
tôi thường suy nghĩ. Tôi thích nhất là ngồi uống cà phê một mình và
trước mặt không có ai cả.
Note: Một độc giả TV, đọc mẩu trên, tâm đắc, đồng cảm…
với DTH, gửi bài này.
Re: Kierkegaard
Friday, November 20, 2009 4:27 AM
Bai nay tuyet qua di, toi thich lam... trong bai nay
co kho^i tu tuong de khai thac va viet rat hay...
Tac gia Rolheiser thi sa^u sa+c qua mu+c sau sa+c!
Gởi bác Gấu bài Cultivating Loneliness nhé... người
phàm tục như tôi phải chờ tan vỡ “mộng” mới quý cô đơn. Người thấy
xa, thấy sâu như Kierkegaard thì quý cô đơn ngay từ đầu đời.
Viết đàng hoàng đi...
Độc giả TV
Tks. NQT
*
Nuôi dưỡng tâm hồn cô tịch
18-06-2006
Trong những thế kỷ gần đây, ít ai chạm đến cõi lòng
con người một cách sâu xa như triết gia Đan-mạch, Soren Kierkegaard.
Có nhiều lý do, một số rõ nét và một số không rõ nét. Rất nhiều người
công nhận Kierkegaard là một người thông minh hiếm có.
Tuy nhiên lý do chính Kierkegaard có thể chạm đến cõi
lòng chúng ta một cách sâu xa và khác thường có lẽ không phải do
trí thông minh của ông mà do nỗi đau khổ của chính ông, đặc biệt là
nỗi cô đơn. Albert Camus đã từng nói rằng chỉ trong cô độc cô đơn chúng
ta mới tìm được mối dây ràng buộc chúng ta lại với nhau trong cộng đoàn.
Kierkegaard thấu hiểu điều này và ông đã đi đến tận cùng tâm điểm của
nó nên ông nuôi dưỡng một cách tích cực nỗi cô đơn của mình
Khi còn trẻ, ông cũng đã rơi vào lưới tình sâu đậm và,
cũng đã có lúc ông dự định kết hôn với một người phụ nữ mà ông yêu
say đắm. Tuy nhiên đến một lúc, khi cái giá cảm xúc đối với bản thân
mình quá lớn và - (như câu chuyện đời ông đã hé cho thấy) – cái giá
cảm xúc đó đối với người phụ nữ kia còn lớn hơn, ông đành từ hôn và quyết
định sống độc thân quãng đời còn lại của mình. Lý do của ông là gì?
Ông cho rằng những gì ông phải cống hiến cho cuộc đời
xuất phát nhiều từ nỗi cô đơn của chính mình, và ông chỉ có thể
chia sẻ sâu đậm nỗi cô đơn với những người trong cô đơn khi ông cảm
nhận được nỗi cô đơn đó. Ông trực cảm, cô đơn sẽ cho ông chiều sâu.
Dù quan niệm này có thể đúng hay sai, nhưng ông cho rằng hôn nhân ở phương
diện nào đó có thể làm ông chệch hướng hay sao nhãng khỏi chiều sâu đó,
dù chiều sâu đó làm cho ông đau khổ.
Tôi ngờ nhiều người trong chúng ta sẽ cười lập luận
của ông. Hôn nhân thì khó là thần dược để trị bệnh cô đơn, và một
mình nó, nỗi cô đơn không bảo đảm làm cho tâm hồn có một chiều sâu.
Cũng thế, nhiều người trong chúng ta sẽ phê phán điều tưởng chừng
là ngụ ý của chuyện này, rằng cách nào đó, về mặt nội tâm, đời sống
độc thân cao hơn đời sống hôn nhân, như thể đời sống hôn nhân là chướng
ngại cho chiều sâu tâm hồn.
Tuy nhiên, có một phần nào đó trong tâm hồn chúng ta,
trọng tâm huyền bí của chúng ta, mà, tôi ngờ, sẽ hiểu rõ tại sao
Kierkegaard làm điều này. Điều Kiergaard hiểu - dĩ nhiên là không
hoàn hảo, vì – điều này luôn luôn có phần huyền bí nào đó, - là nối
kết giữa nỗi cô đơn và điều huyền bí, nỗi khát khao và tính mật thiết,
tình chăn gối.
Điều này có nghĩa là gì? Bằng cách nào chúng ta nối
kết với người khác trong cô đơn, khao khát? Việc chúng ta được nối
kết một cách huyền bí với nhau có nghĩa là gì?
Thánh Tô-ma A-qui-nô đã gợi ý có hai con đường để hợp
nhất với một điều gì đó hay một ai, đó là: qua chiếm hữu thực thụ
và qua ao ước. Chiếm hữu thực thụ thì dễ hiểu, là tiếp xúc cụ thể,
hợp nhất thực sự, nhưng làm sao chúng ta nối kết được với ai hay điều
gì qua ao ước?
Trong cuốn tiểu thuyết đoạt giải Booker, Con đường đói
khổ cùng cực (The Famished Road), nhà văn Ben Okri tả một người mẹ
Ni-giê-ri-a mắng mỏ đứa con trai quá bất an đã ám ảnh trong giấc mơ
của bà: “Bước ra khỏi giấc mơ của mẹ! Đó không phải là chỗ của con!
Mẹ đã lấy ba rồi!” Thật là một lời la mắng lạ lùng - rầy la người khác
vì họ xuất hiện trong giấc mơ của mình! Nhưng con người huyền bí trong
chúng ta hiểu điều này. Trong nỗi bất an và cô đơn, cũng như trong lời
cầu nguyện cho nhau, chúng ta thường ám ảnh giấc mơ và tâm trí người
khác một cách cũng sâu đậm như khi tiếp xúc qua thân xác.
Hơn thế nữa, khi thấu hiểu nỗi cô đơn của mình, chúng
ta sẽ thấu hiểu giấc mơ của người khác. Kierkegaard hiểu điều này
và lo ngại rằng nếu hôn nhân gây trở ngại cho nỗi cô đơn của ông thì
cũng sẽ gây trở ngại cho khả năng ông đi vào giấc mơ của chúng ta.
Dù lập luận của Kierkegaard có thể thiếu sót, chúng ta cũng không
thể cãi lẽ với kết quả. Ông thật sự đã đi vào giấc mơ chúng ta và
tiếp tục ám ảnh mạnh mẽ tâm thức nhiều người. Lời của ông đã giúp chữa
lành, mang lại sức mạnh, đức tin và can đảm cho nhiều người.
Tại sao? Một phần vì nó có tính cách huyền bí và chúng
ta cảm nhận nó bằng – trái tim nhiều hơn là bằng trí óc. Có thể hiểu
được điều này, dù chỉ một phần: Nỗi cô đơn của chúng ta là phương
tiện đặc ân, để qua đó chúng ta đi vào trái tim mình. Lắng nghe nỗi
cô đơn của chính mình là cách để chúng ta tiếp xúc tiếp xúc với chính
mình. Như cha Henri Noiwen nói, khi thấu hiểu được nỗi khát khao của
chúng ta mà ta nhận thấy thì chẳng còn điều gì xa lạ với chúng ta (tầm cao
cả, vĩ đại, lòng tham, lòng quảng đại, hụt hẫng, niềm vui, khả năng sát
hại, khả năng chết cho người khác, tính ích kỷ, lòng thánh thiện.) Mọi cảm
xúc và tiềm năng của con người nằm trong trái tim phức tạp đầy khiếm khuyết
của chúng ta. Trong nỗi cô đơn và khao khát, chúng ta bắt đầu nhìn thấy chính
mình.
Và khi thấm nhập sâu xa với chính mình thì chúng ta
mới thấm nhập được vào người khác. Khi để nỗi cô đơn của chính mình
ám ảnh mình thì khi đó chúng ta mới bắt đầu, trong ý nghĩa đẹp nhất
của câu này, ám ảnh giấc mơ của nhau. Trong cô đơn và khát khao, lòng
cảm thông được sinh ra. Khi không có điều gì xa lạ với mình, thì lúc
đó cũng chẳng có ai là xa lạ với mình và lời nói chúng ta sẽ bắt đầu
có sức mạnh chữa lành người khác.
Khi được hỏi: “Thi sĩ là ai?” Kierkegaard trả lời: “Thi
sĩ là người bất hạnh, người giấu nỗi đau khổ sâu xa trong tâm hồn,
nhưng đôi môi được tạo ra để làm sao khi cất lên lời than van hay
kêu thét, nó nghe như một bản nhạc hay.”
Cô đơn là những gì làm cho chúng ta trở thành thi sĩ,
nhà huyền bí, nghệ sĩ, triết gia, nhạc sĩ, người chữa lành, người
thánh thiện.
Khi các thái tử và công chúa, các cậu ấm cô chiêu vụt nổi
lên “chói sáng” trên chính trường Việt Nam, đâu đó có thể có người
mừng khấp khởi, nghĩ rằng các cô cậu ấy sẽ chính là “tầng lớp kỹ
trị mà Việt Nam cần”, rằng các cô cậu trẻ, giỏi, có bằng cấp Tây học
và sự văn minh hấp thụ từ Âu-Mỹ, các cô cậu sẽ giúp dân chủ hóa Việt
Nam.
Và như thế phải chăng là kết quả của một chiến lược sâu xa
nào đó của Mỹ, “dùng cộng sản con diệt cộn...
Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi
theo chân lý muôn đời, tiến trình tự nhiên của điêu tàn, huỷ diệt,
hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều
không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không
phải điêu tàn, mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông
chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải
điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation,
trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books,
New York:
In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin,
catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly,
for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of
men].
Lại nói về tầng lớp tinh anh trí thức tốt nghiệp nơi
những trường đại học danh tiếng.
Ngụy chẳng đã từng nưng niu lũ này, cỡ nào. Cả 1 chính
sách hoãn dịch vì lý do học vấn, du học… là để cho lũ này sống sót,
hết chiến tranh lo xây dựng lại đất nước, đúng ý Bác Hồ, nhưng kết quả
ra sao, thì chúng ta đều biết, chúng rắp tâm nằm vùng, hoặc phản chiến,
học bỏ chạy qua Canada, thí dụ, đếch về, nếu bị gọi về. Không có lấy 1
mống ra hồn, ngay cả những tên làm cho các tòa đại sứ Ngụy, thí dụ. Có
tên còn nhân dịp bợ luôn cái két sắt, vì, không lẽ để cho VC?
Hà hà!
Steiner quá đau đớn, vì không được chết cùng với tất
cả những tên Do Thái Âu Châu, nhờ 1 ông bố Do Thái đưa kịp gia đình,
trên chuyến tàu chót rời cựu lục địa.
Mít chưa từng có 1 tên đau nỗi đau này!
Semiology, theo Gấu, nên dịch là Ký Hiệu Học, như những
môn “học” khác, như Vật Lý Học, Hình Học…
Dịch là Ký Hiệu Giải Tích sợ lầm, và độc giả có khi
lại nghĩ, đây là 1 một môn toán.
Thí dụ, chúng ta có môn hình học, rồi có môn hình học
giải tích, tức môn học biến hình thành con số.
Thay vì vẽ 1 đường thằng, thì chúng ta bèn viết y=ax+b
!
Và, cái biểu đạt, bị biểu đạt, nghe ghê quá, cứ gọi
đại là cái ban nghĩa, cái nhận nghĩa.
Bản thân chúng, cũng biến đổi. Ở trong câu này, là cái
ban nghĩa, signifiant, ở trong câu khác, nó biến thành cái nhận nghĩa,
signifié
Saussure có thể coi là tổ sư của môn học này, nhưng
ông chuyên về ngôn ngữ, hơn là ký hiệu học. Cuốn bảnh nhất của ông
là “Bài giảng [Cours] về ngôn ngữ học tổng quát”.
Nhớ, hồi còn Sài Gòn, nhờ làm UPI, Gấu bèn tậu nó, và
ông anh TTT nghe nói, bèn nói, mày đưa tao đọc thử, coi.
Những chuyên gia về ký hiệu học, là Barthes, Genette.
Cuốn Hình Tượng I, Gấu đọc những ngày còn Saigon, mê lắm. Nhớ là
có chôm 1 ý ở trong đó, để thổi Mù Sương của NXH. Bạn quí vô thư viện,
kiếm 1 cuốn để đọc, không thấy, bèn viết 1 cuốn, và là Mù Sương.
Hệ thống
ký hiệu học, trong đó, từ cánh buồm có
thể được sử dụng để chỉ con tầu,
thì là một hình tượng; hệ thống ký hiệu học bậc hai, trong đó,
một hình tượng, như là sử dụng từ cánh buồm để chỉ
con tầu, có thể
được sử dụng để chỉ thơ, thì đó là Tu từ pháp.
Hay thật
tàn nhẫn:
[(voile = navivre) = Poésie ] = Rhétorique
[(cánh buồm
= con tầu) = Thơ] = Tư từ pháp
[Bạn nghe
âm "buồm", thì nghĩ ngay đến "tầu", hay nghĩ ngay đến... "bướm"?]
Ba cái 'nhảm
nhí' này, Gấu đọc, ngay từ khi mới lớn, chán thế, qua Gérard Genette,
trong cuốn Hình Tượng I, Figures I.
Ông này, cũng lại một ông thầy của Gấu.
Gấu đọc Roland Barthes, rồi nhờ đó, mò ra ông.
Những bài viết trong Figures I, bài nào cũng thật bảnh.
[Từ từ TV
sẽ đi vài đường về Thơ, trong khi chờ đi luôn!]
Đành
phải giới thiệu Genette, rồi mới viết tiếp về Bùi Giáng được.
Trong một
bài viết về ông bạn quí của Gấu, thời đó đó, Gấu có chôm một ý của
Genette, về một anh chàng vô thư viện kiếm một cuốn sách, không thấy,
bèn viết một cuốn khác.
Ý này của Genette, nhưng có thể ông lấy từ Borges, và
nó liên quan tới tác giả, tác phẩm, đạo văn, đạo viếc:
“Tất cả những tác phẩm thì là tác phẩm của chỉ một tác
giả, vĩnh hằng, và, vô danh”
[On a établi que toutes les oeuvres sont l’oeuvre d’un
seul auteur, qui est intemporel et anonyme]
Đặc biệt đáng nhớ với tôi là tiểu thuyết Cuộc đời và
số phận, bản tiếng Pháp, của một nhà văn Xôviết tên là Grossman.
Năm 1986 cha tôi qua Paris dự hội thảo, mua về. Vì cái năng lực
ngoại ngữ suốt bao năm trời hoài công học mà chỉ zêro của tôi, cha
tôi đã dành rất nhiều thời giờ và công sức dịch cho tôi nghe cái tuyệt
tác rất dày ấy. Chọn nơi vắng người, hai cha con đi xe đạp ra vườn
hoa Canh Nông, ngồi ghế đá, cha tôi đọc và dịch miệng ngay sang tiếng
Việt cho tôi nghe từng trang. Cứ như thế, không biết là bao nhiêu buổi
chiều của những tháng ngày ấy, hai cha con với nhau ngoài vườn hoa vắng
lặng, tới trang cuối cùng.
Với tôi, cuốn Cuộc đời và số phận, dù nó không
nổi tiếng và dù chỉ nghe cha dịch chứ không tự đọc được, thật sự là tác phẩm
lay động tâm can, đến tận bây giờ.
Bảo Ninh
Note: Grossman còn là tác giả của cuốn Đạn Xài Rồi,
viết về cô con gái nuôi của Trùm Cớm Liên Xô
Cùng số báo TLS có bài Used bullets,
Robert Chandler điểm tập truyện ngắn và tiểu luận The
Road, tác giả Vasily Grossman, sẽ ra mắt độc giả tiếng Anh tháng
tới, nhà xb MacLehose Presss, trong có Mama, câu chuyện cô con
gái nuôi của Nicolai Yezhov, ông trùm mật vụ, và là ‘tác giả’ Đại Khủng
Bố.
Khi ông ta thất sủng, bị bắt, vào năm 1939, tay đại
uý NKVD xét phòng ông Trùm ở Kremlin, kiếm thấy trong 1 ngăn kéo,
4 viên đạn súng lục, đã được sử dụng, và gói trong những tờ giấy đề
tên những nạn nhân.
Chồng Trùm Mật Vụ, tác giả Đại Khủng Bố. Vợ, Đệ Nhất
Phu Nhân Vương Quốc Liên Xô, chủ nhân một salon văn học, tại Moscow,
và là tình nhân của toàn những đệ nhất văn nhân, thí dụ, Sholokhov,
Nobel văn chương, tác giả Sông Đông Êm Đềm.
Cô con gái nuôi rất thương ông bố trùm khủng bố của
mình.
Bài này thật ly kỳ. Người thực, việc thực, giả tưởng
hơn cả giả tưởng!
Bài về Thi Ca, cũng thật tuyệt!
TV sẽ giới thiệu, sau.
TV Diary [NKTV]
Used bullets
The
story of Nikolai Yezhov' s adopted daughter
ROBERT CHANDLER
In the late 1930s, Soviet cultural
life was frenziedly intense; sex, art and power were morbidly, dangerously,
often fatally intertwined. There were a number of cultural salons in
Moscow,
and the most glamorous was that of Yevgenia Solomonovna Yezhova,
the wife of the head of the NKVD. While Yevgenia Solomonovna worked
as deputy editor of a prestigious journal, The USSR under Construction,
and presided over her salon, her husband Nikolai Yezhov was presiding
over the Great Terror. Between late September 1936 and April 1938, he
was responsible for about half of the Soviet political, military and intellectual
elite being imprisoned or shot. He was also responsible for the deaths
of around 380,000 kulaks and around 250,000 members of various national
minorities.
Among the members of the Soviet elite who visited Yevgenia
Yezhova's salon were the Yiddish actor Solomon Mikhoels; the jazz
band leader Leonid Utyosov; the film director Sergei Eisenstein; the
journalist and editor Mikhail Koltsov; the poet and translator Samuel
Marshak; the Arctic explorer Otto Schmidt; and the writers Isaac Babel
and Mikhail Sholokhov, with both of whom Yezhova had affairs. Babel, whose affair with Yevgenia began in Berlin in 1927,
is reported to have said of her, "Just think, our girl from Odessa has become the
first lady of the kingdom!". In some respects, at least, Yezhova seems
to have been impressively bold; Otto Schmidt's son remembers her as being
the only person who came up to speak to his father after Stalin had publicly
criticized him at a Kremlin reception.
That Mikhail Sholokhov should have visited Yezhova'
s salon is not surprising. Sholokhov moved in powerful circles;
he was a member of the Supreme Soviet from 1937, and he was admired
by Stalin. He appears to have been fearless; both in 1933, during
the Terror Famine, and in 1938, towards the end of the Great Terror,
he wrote to Stalin with strikingly direct criticisms of his murderous
policies. Isaac Babel's presence is equally unsurprising; he was fascinated
by violence and power. In his memoir about Vasily Grossman, Semyon Lipkin
recalls telling him how, in 1930, he had heard Babel say, "Believe me ... I've
now learned to watch calmly as people are shot". Lipkin then quotes
Grossman's response: "How I pity him, not because he died so young,
not because they killed him, but because he - an intelligent, talented
man, a lofty soul, pronounced those insane words. What had happened
to his soul? Why did he celebrate the New Year with the Yezhovs? Why do
such unusual people - him, Mayakovsky, your friend Bagritsky - feel so
drawn to the OGPU [the Soviet secret police]? What is it - the lure of
strength, of power? ... This is something we really need to think about.
It's no laughing matter, it's a terrible phenomenon".
Gấu
chưa từng đọc Baldwin, cho đến khi tình cờ đọc 1 entry của “Bà Tám”.
Thế là bèn mua cuốn Phỏng vấn, The Last Interview.
Đọc, thú quá, bèn mua thêm cuốn nữa. Tuyệt cú mèo.
Chúa phải vác thánh giá một mình, nhờ vậy con người
được thảnh thơi
“Must Jesus bear the cross alone,
And all the world go free”
Quái làm sao, bị cú đạo thơ đang ì xèo, bèn nhớ ngay
đến câu của Đức Phật, chôm…. Jesus:
Phi ta ra ai dám vô địa ngục?
Bài
thơ của Du Tử Táo, đã từng ì xèo ở hải ngoại, và đã từng được Gấu
Cà Chớn lèm bèm trên Tin Văn.
Và
quái làm sao, cũng liên can đến 1 vụ đạo thơ!
Á Thánh
chôm thơ của Thánh!
Patti Page, who has died aged
85, had a huge hit in the United States with How Much Is That Doggie
In The Window? and became the biggest-selling female star of the
1950s.
Patti Page, nữ danh ca số 1
của 1 thời, đã mất, thọ 85 tuổi
Ui chao, Em này đúng là thần
tượng của Anh Cu Gấu nhà quê Bắc Kít.
Và có thể - có thể gì nữa - của nhà thơ TTT, vì nhà
thơ hẳn là cũng quá mê em, và Jazz. O, Let me go, lover,Smoking my sad cigarette…
Trong Tôi Không Còn
Cô Độc, TTT cũng có vài bài vinh danh Jazz, hình như thế.
Trong Liên Đêm.
Thí dụ bài này, nền của nó chẳng là
tiếng kèn của Jazz ư:
Dạ khúc
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa
Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai (1)
Bài thơ này có 1 giai thoại
thú lắm, do chính thi sĩ kể và được 1 em ca sĩ xì ra. Bài thơ được phổ nhạc
và mấy em cứ hát sai đi [chắc là cố tình] "đưa em vào quán trọ".
Nghe nói, thi sĩ bực lắm.
Nếu là Gấu, thì không bực!
Bài thơ thần sầu,
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Trong The Last Interview, Baldwin đi
1 đường vinh danh Blues thần sầu, từ từ Gấu trình ra cho độc giả
TV thưởng thức
Nhắc
tới Phật, Phật xuất hiện liền. Cậu bé không muốn trở thành Phật.
Trích số báo Triết, Philosophie Magazine, Sept 2015.
Số này, có mấy bài OK. Từ từ làm thịt tiếp!
IT TAKES a bold writer to open a novel from the point of view
of a dead man. Marlon James, who on October 13th became
the first Jamaican to win the £50,000 Man Booker Prize for Fiction,
is just such a novelist. Set in Jamaica, where Mr James was born,
his winning book, “A Brief History of Seven Killings”, is a fictional
account of the real attempt on Bob Marley’s life in 1976. Weighing in
at nearly 700 pages Mr James’s third novel is hardly “brief”. But this
“wonderful” chronicle of late 20th-century Jamaican politics and gang
warfare “manages consistently to shock and mesmerize,” according to
the review we ran in our pages.
The ghost in question, a former politician by the name of
Sir Arthur Jennings, who died after being pushed off a balcony,
sets the scene, describing what Jamaica was like in the months leading
up to the country’s 1976 general election. Referring to Marley only
as “The Singer” throughout, the novel retells the story of this near-mythic
assassination attempt through myriad voices—from bystanders and CIA
agents to killers, beauty queens and even Keith Richards’s drug dealer—to
create a rich, polyphonic study of violence, politics and the musical
legacy of Kingston of the 1970s. Mr Jones essentially manages to turn
a history lesson into a pot-boiler, and the result is gripping. In attempting
something so epic and ambitious, packed with so many characters and
points of view, Mr James has tipped his hat to Charles Dickens. “I still
consider myself a Dickensian,” he said recently, “in as much as there
are aspects of storytelling I still believe in—plot, surprise, cliffhangers.
Tác phẩm đầu tay của Marlon James, John Crow’s Devil, đã bị
87 nhà xb từ chối, và dù có được Man Booker, ông không tin, họ
thay đổi cách nhìn về ông.
Ui chao, quái làm sao, Gấu bỗng nhớ đến Mai Thảo, khi
được TTT chọn bài, và đăng, và mời đến tòa soạn, ông nói, nếu anh
không chọn đăng, là tôi bỏ viết, làm 1 tay lái buôn.
Hà, hà!
Được hỏi, James cho biết, đã có lúc, ông nghĩ, thứ ông viết
là thứ độc giả đếch muốn đọc, và, đã có lúc, ông tính bỏ viết,
huỷ bỏ bản thảo, và đến nhà bạn delete nó, trên PC của bạn. May làm
sao, còn 1 bản, lấy lại được, từ 1 cái iMac cũ!
Một tay giám khảo cho biết bà mẹ của ông không đọc nổi
vài trang, vì tục tĩu quá.
James là nhà văn Jamaica đầu tiên được Man Booker.
Đặc biệt đáng nhớ với tôi là tiểu thuyết Cuộc đời và
số phận, bản tiếng Pháp, của một nhà văn Xôviết tên là Grossman.
Năm 1986 cha tôi qua Paris dự hội thảo, mua về. Vì cái năng lực
ngoại ngữ suốt bao năm trời hoài công học mà chỉ zêro của tôi, cha
tôi đã dành rất nhiều thời giờ và công sức dịch cho tôi nghe cái tuyệt
tác rất dày ấy. Chọn nơi vắng người, hai cha con đi xe đạp ra vườn
hoa Canh Nông, ngồi ghế đá, cha tôi đọc và dịch miệng ngay sang tiếng
Việt cho tôi nghe từng trang. Cứ như thế, không biết là bao nhiêu buổi
chiều của những tháng ngày ấy, hai cha con với nhau ngoài vườn hoa vắng
lặng, tới trang cuối cùng.
Với tôi, cuốn Cuộc đời và số phận, dù nó không
nổi tiếng và dù chỉ nghe cha dịch chứ không tự đọc được, thật sự là tác phẩm
lay động tâm can, đến tận bây giờ.
Bảo Ninh
Bác đọc quyển này chưa – 832 trang, bây giờ bán
ở format de poche rồi. Bác cốp theo kiểu này viết đi, lồng trong
chế độ là cảnh đời của người dân. Bác có trí nhớ phi thường, bác không
viết thì ai mà viết được.
Tks
NQT
"Mort de l'esclave
et réssurection de l'homme libre".
Dans ce roman-fresque,
composé dans les années 1950, à la façon de Guerre et paix, Vassili Grossman (1905-1964)
fait revivre l'URSS en guerre à travers le destin d'une famille,
dont les membres nous amènent tour à tour dans Stalingrad assiégée,
dans les laboratoires de recherche scientifique, dans la vie ordinaire
du peuple russe, et jusqu'à Treblinka sur les pas de l'Armée rouge.
Au-delà de ces destins souvent tragiques, il s'interroge sur la terrifiante
convergence des systèmes nazi et communiste alors même qu'ils s'affrontent
sans merci. Radicalement iconoclaste en son temps - le manuscrit fut
confisqué par le KGB, tandis qu'une copie parvenait clandestinement
en Occident -, ce livre pose sur l'histoire du XXe siècle une question
que philosophes et historiens n'ont cessé d'explorer depuis lors. Il
le fait sous la forme d'une grande œuvre littéraire, imprégnée de vie
et d'humanité, qui transcende le documentaire et la polémique pour atteindre
à une vision puissante, métaphysique, de la lutte éternelle du bien
contre le mal.
Destin de Grossman
Vie et destin
est l'un des chefs-d'oeuvre du XXème siècle. On n'en lisait pourtant
qu'une version incomplète depuis que les manuscrits avaient été
arrachés au KGB et à la censure. Celle que Bouquins propose
désormais est la première intégrale. Elle a été révisée à partir
de l'édition russe qui fait désormais autorité, celle de 2005, et
traduite comme la précédente par Alexis Berelowitch et Anne
Coldefy-Faucard. Raison de plus pour se le procurer. Ce volume
sobrement intitulé Oeuvres (1152 pages, 30 euros) contient également
une dizaine de nouvelles, le roman Tout passe,
texte testamentaire qui dresse notamment le portrait d'une série de
Judas, et divers documents dont une lettre à Kroutchtchev. Mais Vie
et destin, roman dédié à sa mère par un narrateur qui s'adresse
constamment à elle, demeurera l'oeuvre qui éclipse toutes les autres.
La bataille de Stalingrad est un morceau d'anthologie, et, au-delà de
sa signfication idéologique, la manière dont l'auteur passe subrepticement
dans la ville de l'évocation du camp nazi au goulag soviétique est un
modèle d'écriture. Toute une oeuvre parue à titre posthume.
Dans son éclairante préface, Tzvetan Todorov
résume en quelques lignes "l'énigme" de Vassili Grossman(1905-1964)
:
" Comment se fait-il
qu'il soit le seul écrivain soviétique connu à avoir subi une conversion
radicale, passant de la soumission à la révolte, de l'aveuglement
à la lucidité ? Le seul à avoir été, d'abord, un serviteur orthodoxe
et apeuré du régime, et à avoir osé, dans un deuxième temps, affronter
le problème de l'Etat totalitaire dans toutes son ampleur ?" On songe bien sûr
à Pasternak et Soljenitsyne. Mais le préfacier, anticipant
la réaction du lecteur, récuse aussitôt les comparaisons au motif
que le premier était alors un écrivain de premier plan et que la mise
à nu du phénomène totalitaire n'était pas au coeur de son
Docteur Jivago ; ce qui n'est évidemment pas le cas
du second avec Une Journée d'Ivan Denissovitch, à ceci près rappelle
Todorov, qu'étant un inconnu dans le milieu littéraire,
il n'avait rien à perdre. La métamorphose de Grossman
est donc un cas d'école unique en son genre:"mort de l'esclave et réssurection
de l'homme libre".
Bảnh hơn Pasternak, bảnh
hơn cả Solzhenitsyn, Tzvetan Todorov, trong lời tựa, thổi
Đời & Số Mệnh
của Grossman: Cái chết của tên nô lệ và sự tái sinh của con người tự
do.
Tờ Obs, số đặc biệt về những tuyệt tác của văn học,
kể ra hai cuốn cùng dòng, là Gulag
của Solz, 1 cuốn sách lật đổ 1 đế quốc, và Vie & Destin của Grossman:
Trái bom chống toàn trị.
TV sẽ giới thiệu bài phỏng vấn Ovivier Rolin, trên tờ
Obs.
Mà không phải chỉ có Dương Thu Hương. Lớn hơn
Dương Thu Hương rất nhiều, nhà văn Alexander Solzhenitsyn, giải
Nobel văn chương năm 1970, bị trục xuất khỏi Nga vào năm 1974; và
sau một thời gian ngắn sống ở Tây Đức và Thụy Sĩ, ông được mời sang
Mỹ. Ông định cư ở Mỹ cho đến năm 1994, khi chế độ cộng sản đã sụp đổ
tại Nga, ông mới về nước. Trong gần 20 năm ở Mỹ, Solzhenitsyn chỉ sống
một cách lặng lẽ ở một địa phương khuất lánh heo hút. Trừ sự ồn ã ở
vài năm đầu, sau đó, dường như người ta quên mất ông, hơn nữa, có khi
còn bực bội vì ông. Một số quan điểm của ông, lúc còn nằm trong nhà
tù Xô Viết, được xem là dũng cảm; lúc đã sống ở Mỹ, ngược lại, lại bị
xem là cực đoan.
NHQ
Solz qua Tây Phương sau bài diễn văn để đời ở Harvard,
[chửi Mẽo như điên], ông lui về pháo đài của ông, ở Vermont cả
gia đình xúm nhau làm nhà xb, viết như điên, in như điên. Không thèm
vô quốc tịch Mẽo, phán, ngay từ lúc mới ra hải ngoại, tao sẽ về, và
lúc đó chế độ Đỏ đã sụp rồi [nhân tiện, bài viết mới nhất của Bùi Văn
Phú là hàm ý này, lưu vong sẽ có ngày trở về, và Vẹm lúc đó đã chết].
Ông đâu cần ai để ý đến ông?
Nhà văn thì ở đâu cũng viết được hết. Tác phẩm của họ,
là “chính trị” của họ.
"Do you know, Joseph, if you don't want to come back
with a lot of fanfare, no white horses and excited crowds, why don't
you just go to Petersburg incognito?" [. . .] Here I was talking,
joking, and suddenly I noticed that he wasn't laughing [. .. ] He sat
quietly, and I felt awkward, as if I were barging in where I wasn't
invited. To dispel the feeling, I said in a pathetically hearty voice:
"It's a wonderful idea, isn't it?" He looked through me and murmured:
"Wonderful. . . Wonderful ... "
-Này thi sĩ, nếu ông muốn về không ngựa trắng mà cũng
chẳng cần đám đông reo hò, ngưỡng mộ, tại sao ông không về theo
kiểu giấu mặt?
-Giấu mặt?
Đột nhiên thi sĩ hết tức giận, và cũng bỏ lối nói chuyện
khôi hài. Ông chăm chú nghe.
-Thì cứ dán lên một bộ râu, một hàng ria mép, đại khái
như vậy. Cần nhất, đừng nói cho bất cứ một người nào. Và rồi ông
sẽ dạo chơi giữa phố, giữa người, thảnh thơi và chẳng ai nhận ra ông.
Nếu thích thú, ông có thể gọi điện thoại cho một người bạn từ một trạm
công cộng, như thể ông từ Mỹ gọi về. Hoặc gõ cửa nhà bạn: "Tớ đây này,
nhớ cậu quá!"
Giấu mặt, tuyệt vời thật!
Wonderful, but too late. After all, one of Joseph's
great achievements, as George Kline has pointed out, had been to
throw himself into the language and literature of his adopted country.
He rejected the path of nostalgia, regret, self-pity, lamentation,
the fatal choice (if one can call it that) of so many émigré writers,
especially poets. And what now, when he was no longer technically an
involuntary exile? He had refused to complain about it, just as he refused
to complain about his treatment in Russia, or his lack of a formal education.
On the contrary, he had valued exile to the arctic region as liberating.
And the education in question was a Soviet one, though when he said that
the "earlier you get off track the better", he may not have been referring
exclusively to the Soviet system.
Tuyệt vời, nhưng trễ quá rồi, để mà trở về, là trường
hợp Brodsky, ông nhập vào căn nhà mới, sống thoải mái hơn nhiều
so với căn nhà cũ.
Đúng là điếc không sợ súng.
Vả chăng, dốt quá thì cứ dốt quá, dù sống ở đâu!
Khi
lương tâm vùng vẫy [mong] thoát khỏi kiếp xiềng, nó lay động hết
một cõi người của chúng ta. Sau một cú khủng khiếp như thế, chẳng
có thể nói được, ai là người trong số chúng ta sẽ thoát ra khỏi cơn
bão tố, mà còn giữ được tâm hồn phẳng lặng.
Câu thơ của Solz, có thể là để nói về kinh nghiệm thoát
xiềng của ông.
Gấu, khi dịch, bèn nghĩ đến những con người như ông,
và bèn tặng DTH.
Bà hẳn cũng có những giây phút như thế, khi ngồi bên
lề đường Sài Gòn, ngày 30 Tháng Tư 1975, và khóc, chúng ta đã bị lừa.
Trên báo Partisan Review số Mùa Hạ 2000, Adam Michnik,
khi viết về Jan Kott, một nhà văn Ba lan đào thoát qua Tây phương,
đã nhắc tới bài “Về Nọc Độc” (On Venom, 1982), qua đó, Kott ghi nhận:
“Rắn cắn làm hư cái đầu. Bên trong cái vòng tròn huyền
hoặc, cái đầu luẩn quẩn trong một thế giới ảo. Cái đầu tin vào
những lời dối trá, và không thể phân biệt thực với ảo.”
(A snake bite disables the mind. Inside a magic circle,
the mind moves in a fictitious world, believes in lies, and cannot
distinguish reality from illusion).
Ông cho rằng, những mắc míu của tầng lớp trí thức với
chủ nghĩa cộng sản, gia nhập rồi rời bỏ – trong chán chường và vỡ
mộng: “thời điểm vỡ mộng có lẽ là quan trọng nhất” (“the moment of
disullusion is perhaps the most important”). (1)
Bài viết nhảm nhí, do dốt, do tâm địa nhỏ nhen.
Dốt, nên không phân biệt được giữa 1 nhà hoạt động,
an activist, với nhà văn.
Những Điếu Cày, thí dụ, là nhà hoạt động vì nhân quyền,
khác với 1 Dương Thu Hương, đóng cả hai vai.
Tâm địa nhỏ nhen, do đó, mới dám viết ra cái điều mà
hắn ta gọi là “mất tất cả, là 1 người bình thường”.
Là 1 người bình thường, trong 1 xã hội dân chủ, tự do,
là điều Brodsky đã từng ao ước, như ông sung sướng được nói ra, trong
bài diễn văn Nobel:
“Làm một kẻ cà chớn trong chế độ dân chủ là số dách,
không được vậy, thì làm kẻ tuẫn đạo, hoặc khốn nạn hơn, làm kẻ ngồi
trên đầu nhân dân”.
Một bài viết cực bửn! Làm nhục không biết bao nhiêu
con người.
Cả 1 cuộc exodus, hiện đang xẩy ra ở Âu Châu, là chỉ
mong được làm 1 con người bình thường, trong 1 xã hội trọng con người.
Bản dịch Diễn từ Nobel 1987, trên talawas, ngay câu
mở đầu, là không đúng tinh thần của Brodsky rồi, theo thiển ý.
Bài này, khi được in trong cuốn On Grief and Reason,
[Về Khổ Đau và Trí Tuệ] có tựa là “Uncommon Visage” [Khuôn Mặt Khác
Thường], và ‘diễn từ Nobel’ trở thành tiểu tựa.
Người dịch có vẻ như không đọc những bài tiểu luận của
ông, và tôi sợ rằng, bản dịch đã mắc đúng vào lỗi mà Brodsky đã chỉ
ra, và được Coetzee trích dẫn, trong bài viết về Brodsky, in trong tập
tiểu luận Stranger Shores [Những bến bờ xa lạ hơn], khi tóm tắt tinh
thần bài diễn từ Nobel:
“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic
credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên
nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con
người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu
như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art is thus on
the side of the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là
cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the
other hand, ‘especillay political evil, is always a bad stylist”. On
Grief… trang 49].”
“For someone rather private, for someone who all his
life has preferred his private condition to any role of social significance,
and who went in this preference rather far - far from his motherland
to say the least, for it is better to be a total failure in democracy
than a martyr or the crème de la crème in tyranny - for such a person
to find himself all of a sudden on this rostrum is a somewhat uncomfortable
and trying experience.” (Bản in trong On Grief sửa lại là: la crème
de la crème.)
“Quả là khiên cưỡng và cũng là một thử thách lớn khi
đột nhiên được hiện diện trên diễn đàn này, đối với một con người
mà suốt cả cuộc đời rất đỗi xa lạ với một vai trò xã hội nào đó, ví
dụ như đối với Tổ quốc. Tốt hơn hết là làm một kẻ không gặp may cuối cùng
trong bầu không khí dân chủ còn hơn ở vị trí thống trị hay một kẻ tử
vì đạo trong một quốc gia độc tài.”
Dịch giả đảo lộn tứ lung tung, trong khi Brodsky rất
tôn trọng trật tự từ, làm một kẻ cà chớn trong chế độ dân chủ là số
dách, không được như vậy, thì đành làm kẻ tuẫn đạo, hoặc khốn nạn hơn,
làm kẻ ngồi trên đầu nhân dân. Brodsky dùng cụm từ tiếng Tây “crème
de la crème”, là còn muốn nhắc tới tà ma, ác quỉ chính trị, bởi vì Lênin
đã dùng từ này, để chỉ Đảng CS, coi Đảng là ánh sáng của ánh sáng, tinh
anh của tinh anh, ưu việt của ưu việt, mặt trời của chân lý… (Chi tiết
Lenin cũng mê [ăn] cà rem này, là do NTV cung cấp.)
“Rất đỗi xa lạ với vai trò xã hội…. ví dụ như đối với
Tổ Quốc.”
Dịch như vậy, độc giả trong nước lại tưởng nhà thơ thèm
vượt biên, thèm đi nước ngoài, trong khi ông cực chẳng đã mới phải
bỏ đi, vì bị nhà nước đuổi! Cả đời ông, cũng chẳng thèm nhắc đến những
năm bị lưu đầy nội xứ, vì tính ông vốn vậy, không thích khoe những
vết thương của mình. Bằng mọi giá, đừng coi mình là một nạn nhân, là
vậy.
Ngoài ra, total failure mà dịch là không gặp may cuối
cùng, thì kẹt quá!
Bản thân người viết cũng rất mê Brodsky, mấy lần tính
dịch bài diễn từ trên, mà cứ sờ sợ, chỉ sợ vẽ phật mà thành ra vẽ
quỉ!
Sorry about that!
Có một giai thoại về Nguyễn Tuân, liên
quan tới Về Khổ Đau và Cà Rem.
Sau 1975, NT vô Sài Gòn. Đám văn nghệ Nguỵ có tới trình
diện đàn anh, trong có me-xừ Nguyễn Hữu Hiệu, ông em của Viên Linh.
NHH mời NT đi nhậu, tất nhiên là uống rượu Tây, NT lắc đầu, rượu tây
thì ở ngoài đó bây giờ cũng có, chỉ thèm cà rem.
NHH mời NT đi ăn cà rem Foremost, lúc đó là số một.
NT chơi một lúc hai ký.
Cà rem Sài Gòn quả có khác kem Hà Nội, cho dù là kem
Bờ Hồ!
1.12.2004
Vũ Tuấn Hoàng
Về bản dịch J. Brodski
Tôi dịch theo bản gốc là tiếng Nga và có tham khảo cả
bản tiếng Anh trên trang web của Uỷ ban giải thưởng Nobel. Phải
nói rằng, câu đầu tiên là câu khó nhất trong toàn bài. Khi đối chiếu
bản tiếng Nga và bản tiếng Anh, tôi đã thấy có độ sai nhất định,
thí dụ như trong tiếng Nga, tác giả dùng cụm từ “Kẻ không gặp may cuối
cùng” thì bản tiếng Anh là “Total failure”… từ đó dẫn đến việc, những
người chỉ biết tiếng Anh sẽ hiểu xa bản gốc đi một chút.
Còn về việc “đảo lộn tứ lung tung” như anh Nguyễn Quốc
Trụ nói thì tôi cũng xin được giải thích như sau: Các dịch giả khác
nhau sẽ có những bản dịch khác nhau. Theo tôi, dịch là một quá trình
đi tìm sự thoả hiệp giữa hai ngôn ngữ, giữa hai nền văn hoá. Tôi hoàn
toàn có thể dịch đúng theo trật tự như bản tiếng Nga, nhưng vấn đề là làm
sao cho không bị Tây hoá mới là cái quan trọng. Một đặc thù của tiếng Nga
là: Trong một câu, nếu tác giả muốn nhấn mạnh vào từ nào, cụm từ nào, thì
thường đặt chúng ở cuối câu chứ không đưa lên đầu như tiếng Việt. Bởi
vậy tôi đã chọn phương án dịch chủ ngữ trước.
Tôi đã xem kỹ phương án dịch của anh Trụ: “Làm một kẻ
cà chớn trong chế độ dân chủ là số dách, không được vậy, thì làm
kẻ tuẫn đạo, hoặc khốn nạn hơn, làm kẻ ngồi trên đầu nhân dân”. Tôi
không thích ngôn ngữ kiểu “anh Hai” như vậy. Chính Brodski đã phản đối
đưa ngôn ngữ đường phố vào văn chương, và ngược lại.
[talawas]
2.12.2004
Đoàn Tiểu Long
Thế nào là “kẻ không gặp may cuối cùng” trong bản dịch
Brodsky?
Trong tiếng Nga, tính từ “cuối cùng” (poslednyi) khi
đi với một danh từ (thường là có nghĩa tiêu cực) thì không mang nghĩa
“cuối cùng”, mà có nghĩa “thậm, cực kỳ”. Ví dụ: “kẻ ngu ngốc cuối
cùng” chính là “kẻ thậm ngu, không thể ngu hơn”.
Vì thế, “kẻ không gặp may cuối cùng” trong bản tiếng
Nga được bản tiếng Anh dịch thành “total failure” là rất chính xác,
nghĩa là kẻ xui tận mạng, số đen như mõm chó… Cả câu có thể dịch là
“thà làm kẻ mạt hạng trong chế độ dân chủ, còn hơn làm vương làm tướng
trong chế độ chuyên chế”. Câu này khá giống câu nói nổi tiếng của Trần
Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”.
Dịch như anh Nguyễn Quốc Trụ “làm một kẻ cà chớn… là
số dách, nếu không được, thì làm…” e không đúng tinh thần lắm.
Tks All
NQT
15.10.2015
*****
V/v lưu vong, đối với 1 nhà văn.
Pasternak, thí dụ, từ chối Nobel, vì ông không tin,
ông viết được, nếu lưu vong, và nhà nước Liên Xô nắm được tẩy này,
bèn, đi OK, nhưng đừng trở về. Nhưng Brodsky, đi, và nhập vào cuộc
đời mới, bảnh hơn nhiều, đúng như số mệnh phán bảo, đi và đừng bao
giờ trở về, “Joseph Brodsky: Người hùng Virgil: Đi để mà đừng bao giờ
trở về.” [A Virgilian
Hero, Doomed Never to Return Home].
Cao Hành Kiện, coi lưu vong là phụ, viết mới là chính.
Ngay cả ở trong nước, những Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo,
nếu còn ở lại đất Bắc, thì cũng vứt đi.
Cả hai cuốn tiểu thuyết ghê gớm của TTT, là nhờ cuộc
di cư vĩ đại mà có được.
Tên này, học hành nhảm nhí, cái hiểu biết còn thua 1
học sinh trung học Miền Nam trước 1975, nhờ cuộc vượt biển, ra được
hải ngoại, thay vì đọc, học, thì làm 1 tên Xuân Tóc Đỏ, viết loạn cào
cào châu chấu, lâu dần tẩy sất lộ ra, ngay cả đám đệ tử của hắn, cũng
rãn dần.
Nhớ, lúc đầu, đụng đến hắn, cả 1 đám xúm lại sủa, bây
giờ hết rồi!
Chán!
Tiếng Anh của Brodsky là tự học, thành ra bị Nabokov
chê, nhưng ông đâu cần, viết bằng tiếng Anh, dịch thơ tiếng Nga của
mình ra tiếng Anh, viết thư cho bố mẹ bằng tiếng Anh, vì dù biết,
cả hai làm sao đọc, nhưng dù không đọc được, thì cũng hửi được tí
sái tự do.
Tên phê bình gia Mít không phải thời nào cũng có, này,
1 câu tiếng Anh không dịch được, vậy mà bịp, cứ mỗi lần viết là
1 lần làm tiểu chú, sách này sách nọ, như rừng, một đất nước mà sản
sinh ra những tên như thế, làm sao mà khá cho được.
Những dòng vinh danh Brodsky, của 1 ông bạn của ông,
cũng Do Thái như ông, mới thật là tuyệt vời:
AN INVOLUNTARY exile, Joseph was a kosmopolit,
more avid for world culture than he was curious about Christianity.
The Jew- as-writer, it seems to me, is committed to language as such,
to the living language. He does not write for the future, even if his
writing is "ahead of its time". Nor does he write out of reverence
for the past: past and future can take care of themselves. Joseph,
of course, was engaged in something else as well, making the two languages
more equal, adding, subtracting, but above all mixing. Even before
he became a wanderer, Joseph was a transgressor. As a translator, in
the wider sense, he crossed and recrossed frontiers. "All poets are Yids",
said Tsvetayeva.
Joseph dispensed with the supposed privileges
of victimhood. Jewishness, inescapably identified with persecution,
was not likely to appeal to him. He made light of exile, stressing the
gains both material and spiritual or intellectual, minimizing the losses.
He was clearly scornful of those intellectuals who gathered periodically
to discuss such issues, insisting that while the delegates talked, under
the auspices of this or that foundation, others were suffering on a scale
and to a degree that rendered their complaints laughable, even contemptible.
He was not a whiner, and he was quite intolerant of the pervasive "culture
of complaint". Naturally, this did nothing for his popularity among
fellow exiles. In short, if he made a career, he did not actively make
it out of the sufferings he had endured as a Jew or as the victim of
a regime that still had totalitarian aspirations.
There are some similarities between us. He left a son
and two daughters (one of them born the year of his departure, whom
he never saw); I left a son and two daughters. The pain of those separations
virtually defined my existence.
Was he family, as Jill maintained? In that mysterious
and at the same time artless way that family is family, perhaps.
Which somehow distanced me also from his circle of literary friends
and acquaintances, the poets, the publishers, the colleagues, even
if, as an occasional translator of his work, I too had professional dealings
with him.
But did Joseph feel that way about me? At the very
least, he was ambivalent about my work as a translator, and yet
he stuck by me, as in a way I stuck by him as a poet, although I was
ambivalent about his poetry. Joseph's views, in particular his insistence
on the primacy of form, made him less than tolerant of what he regarded
as slapdash practice, associating this with cultural ignorance, irresponsibility,
or worse; it is hardly an exaggeration to say that for him, "crimes"
against language were almost tantamount to crimes against humanity. And
yet, it seems, he forgave me my crimes or sins; surprisingly tolerant,
even tender, he held out the prospect of redemption and tried to lead
me onto the paths of righteousness! He did not remain neutral, as he
might have done, but urged me to continue translating his work, although
of course under guidance.
I resisted. That is, in order to preserve rhymes,
I was not prepared deliberately to sacrifice literal accuracy. I
railed at Joseph, trying to convince him that, in any case, as a non-native
speaker, he could not possibly hear my off-rhymes, my assonances, and
that it was perverse of him to insist on strict formal imitation, when
this must lead to distortions, preposterous rhyming and, finally, despite
all his efforts, major alterations in sense, tone, etc. It infuriated
and frustrated me that he refused to be moved by these arguments, which
seemed incontrovertible. He would not acknowledge his indebtedness to
his anglophone translators, nor honor their sensibility as native speakers.
Surely he must realize that you could translate only into your native
tongue, especially when it came to poetry. He should chose his translators
with care, and be ready to provide them with contextual and linguistic
information, but he should not second-guess them or try to manipulate them.
On the contrary, he should be guided by them. They, after all, were responsible
for the final version. The translation was not - could not be - identical
with the original, just as English did not mesh perfectly with the Russian,
however much translators of Russian might wish it did. The translation
was a derivative text, but it also represented the poem's further life,
or one of its several possible further lives. But for it to live in another
language it had also to be another poem; in the final analysis, whether
he liked it or not, it had also to be the translator's poem.
Joseph would not be budged. He heard me out, evidently
unimpressed by what I had to say, merely repeating from time to
time that English was richer in rhyme than was supposed. That is,
he seemed stubborn or, one might say, pig-headed, except I could not
help feeling a certain compassion for him in this predicament. On
the other hand, it was also as if he were just waiting for me to come
around, convinced that eventually I must. Under the circumstances,
it surprised me that he continued to encourage my forays into Russian
poetry, as translator and editor. We could hardly have been more at
odds, and yet he behaved (and I behaved) as though this were not so.
In a way, it wasn't.
Complain as I may (and as I did) I would not have
wanted to be other than a stranger in America where a different English
was spoken, and before that to have been an Englishman who, with his
immigrant family, was not echt English. I was, or thought of myself
as being, between languages. This made me acutely aware of the provisionally
of language, which was a kind of advantage. Language was distinct,
apart. For that reason (paradoxically?) its dimensions too were more
acutely sensed. This sometimes had the effect of reducing or more sharply
focusing existence itself.
Joseph spoke of language as directing consciousness.
For instance: "Reading him [Dostoevsky] simply makes one realize
that stream of consciousness springs not from consciousness but from
a word which alters or redirects one's consciousness" ("The Power of
the Elements", Less Than One), or: "A poet's biography is in his vowels
and sibilants, in his meters, rhymes and metaphors [ ... ]. With poets,
the choice of words is invariably more telling than the story line; that's
why the best of them dread the thought of their biographies being written"
("The Sound of the Tide", Less Than One). (That "the best of them" is
rather desperate.) So, presumably, he would have taken a dim view of what
I have been saying here. Still, I am not inclined to ignore what he would
certainly have regarded as irrelevantly biographical. Languages as something
out there, in that one finds oneself between them, is quite a seductive
notion. Joseph, though, combined this alienating or hyper-linguistic awareness,
a form of self-consciousness really, with a genial determination to know
his language(s) literally inside out. A Jew, he was also quite adamant
about being a Russian, at least insofar as the Russian language belonged
to him and he to it (" From Russian with Love"). I envied him and was
a little suspicious of this devotion to the Russian language, if not
to Mother Russia, since I did not really feel that way about English. As
a Jew, Joseph was able to objectify his apartness from the language. It
was this, I dare say, that allowed him to be so entirely devoted to it.
One might almost call it romantic love, in that the beloved was unattainable.
Cuốn trên, vớ được ở 1 tiệm sách cũ, mừng
quá là quá!
Nhắc
tới Brodsky mà quên Nabokov sao được. Trên tờ Literay Review, số
August có 1 bài về ông, điểm cuốn mới ra lò viết về ông, trong hằng
hà sa số. Khác với Brodsky, hay Solz, Nabobov coi ông nhà văn Mẽo, “như
Tháng Tư ở Arizona”, như chính ông đã từng thú nhận, “I am as American
as April in Arizona”, hay, “I felt intellectually at home in America”,
hay, “I am American, I feel American”. John Updike nhắc 1 câu trả lời
Nabokov, trong 1 bài viết, thập niên 1960, tôi là nhà văn viết tiếng
Anh bảnh nhất hiện nay, trong túi có cái thẻ công dân Mẽo, “the best writer
of the English language presently holding American citizenship.”
Điểm
cuốn 'Nabokov in America: On the Road to Lolita."
Trích 1 câu trong bài viết, trong bài giảng văn học
của ông, [Lectures on Literature], The Art of Literature and
Common Sense, câu này cực bảnh, nhưng, THMN, áp dụng cho GCC
cũng đặng, vì nếu Nabokov có Alice - Lolita thì cũng rứa, thì Gấu có BHD:
In a lecture on 'The Art of Literature and Commonsense',
collected in his Lectures on Literature - which remains the perfect
entry point into the vast, prodigious kingdom of the Great Nabob -
Nabokov remarks, 'In a sense, we are all crashing to our death from the
top story of our birth ... and wondering with an immortal Alice at the
patterns of the passing wall. This capacity to wonder at trifles -
no matter the imminent peril - these asides of the spirit ... are the
highest form of consciousness.'
Cả cuộc đời của Nabokov, tóm gọn vào, chỉ một câu, của
ông.
Trong bài viết, "mi biết mấy
thứ tiếng", (1) Gấu đã từng kể chuyện, do mơ đi Tây, từ hồi còn bé
tí, “cho anh tí Paris, để anh làm thi sĩ”, nên đã từng xin đi Tây,
hồi ở Trại Tị Nạn Thái Lan, và được viên cựu sĩ quan Tẩy, trưởng phái
đoàn nhận người kêu lên mắng cho 1 trận, mi cốt bồi Mẽo, thì lại xin
đi Mẽo làm bồi Mẽo tiếp. Tây là để dành cho những kẻ không nơi nào
nhận hết, vì chúng ta có tí phần nợ nần với lũ cô lô nhần da vàng, cái
gì gì, le mal jaune, chắc mi biết rồi.
Tên phê bình gia Mít không phải thời nào cũng có này, vượt biển, i tờ rít tiếng Anh,
tiếng U, tiếng "băm bu huýt ra lô" [cây tre hít ra nước, tức cây
mía] cũng mù tịt, nhờ vậy được Tây nhận.
Đâu có dễ vô mẫu quốc, nếu không vì tình nhân đạo của
cựu lục địa.
Gấu chẳng đã từng kể, cái lần viết thư gửi nhà văn
Nobel Đức, xin cho 1 nhà văn được tị nạn, rồi thêm hội PEN Đức can
thiệp, vậy mà đơn bị bác, Grass hay không Grass, thì cũng về lại
xứ Mít; năn nỉ mãi, cộng thêm đi cày, thay vì đi bán thuốc lậu, sau
cùng OK, vậy mà cũng chính nước này, bây giờ mở toang biên giới, chấp
nhận hàng triệu di dân, hắn tưởng làm 1 người bình thường ở xứ mũi lõ
dễ dàng lắm!
Sau khi đậu thanh lọc, được coi là tị nạn chính trị,
tụi này được xe hơi Cao Uỷ rước ra khỏi trại cấm Sikiew, chuyển lên
trại chuyển tiếp Panat Nikhom, chờ gặp phái đoàn các nước, theo lịch
trình, ghé trại, phỏng vấn, nhận người.
Trong khi chờ đợi, vốn có chút tiếng Tây dằn bụng, Gấu
mon men làm quen mấy cô giáo dậy tiếng Tây thuộc phái đoàn Pháp.
Trưởng đoàn là một vị đại tá về hưu.
Mấy cô xúi, sao không xin đi Tây.
Bèn viết đơn, nhờ mấy cô chuyển giùm.
Viên đại tá bèn cho Gấu được gặp riêng.
Ông phán:
-Tôi đã coi hồ sơ của anh. Anh dễ dàng được các nước
khác chấp nhận. Tôi đề nghị, anh đã từng làm bồi Mẽo, thì tốt nhất,
là, lại xin đi làm bồi Mẽo, ở ngay nước Mẽo. Nhưng nếu anh không thích
Mẽo, mà có lẽ tôi đoán đúng như vậy, thì nên đi Canada. Ở đó có vùng
Quebec, Montreal, nói tiếng Tây.
Thấy tôi tiu ngỉu, ông giải thích thêm:
-Không phải là tui chê anh. Nhưng như anh biết đấy,
Pháp là nơi dành cho những người bị mọi nơi chê, không thèm. Bản
thân tôi, tôi chỉ mong giúp đỡ được một phần nào, những con người
không một nơi nào chấp nhận đó. Tui cũng "khoái" anh đấy, nhưng nếu
lấy anh, là mất một suất dành cho mấy người kia.
Sau này, đọc Sự Bất Hạnh Của Những Người Khác, Le Malheur
Des Autres, của một ông Tây, Bernard Kouchner, hội trưởng hội Y
Sĩ Không Biên Giới, ông cho biết, đây là chính sách, policy, của
nước Pháp, khi làn sóng tị nạn Việt dâng cao, vào thập niên 1980: Chỉ
nhận những người tị nạn bị mọi nơi chê, những người tìm nơi nương náu
[... ceux dont personne ne voulait, les candidats à l' asile en France].
Có thể, theo Gấu tui, chính sách này đã được "gợi hứng"
từ Nỗi Đau Vàng, Le Mal Jaune, tên một tác phẩm của một ông Tây,
nói lên hội chứng Hậu-Điện Biên, của mấy ông Tây sau khi bị Mẽo
tống ra khỏi đất nước này. Hoặc là một cách biến câu nói của Malraux
trở thành hiện thực: Người Pháp ra đi, nhưng nước Pháp ở lại [Việt Nam].
Một cách nào đó, Gấu tui đã được Canada nhận, là qua
tinh thần nhân bản trên, không chỉ của người Tây, mà còn của người
Canada.
Bởi vì sau khi thấm đòn của viên đại tá Tây, ngay khi
phái đoàn Canada vô trại, Gấu tui bèn nạp đơn liền, xin được phỏng
vấn.
Tay trưởng đoàn, lật lật mấy trang hồ sơ Cao Uỷ Tị Nạn,
và khi nghe Gấu tui nói, đã từng viết văn, và bị tù, rồi phải bỏ
chạy quê hương, "một phần là do nó đấy", bèn gấp ngay lại, gật gù
phán:
-Thôi được. Nghe đây: Chương trình lấy người tị nạn
vào nước Canada của chúng tao, có tên là Nhân Lực, Man Power. Nước
chúng tao đang cần người làm cu li, làm thợ, làm nhân công, chứ không
cần nhà văn, nhất là thứ nhà văn viết tiếng Vịt như mày. Tao ngó mày,
thấy già quá rồi, hết xí oát, không thuộc diện Nhân Lực. Nhưng thôi,
chỉ cần nghe mày nói, mày là nhà văn, và đã từng đi tì vì nó, là tao
nhận. Dù rước về, chỉ để nuôi báo cô!
Ấy là Gấu tôi diễn theo ý nghĩ Việt Nam, của một thằng
Bắc Kỳ đã từng bỏ chạy đất bắc năm 1954, và bỏ chạy đất nam, năm 1989,
những lời nói thật đơn giản của ông Canada già thật nhân hậu này:
-Thôi, mày nói vậy, là tao hiểu rồi.
Tuy đây là chương trình Nhân Lực, nhưng lâu lâu, nhận một người
như mày, cũng không sao. (1)
Gấu
chưa từng đọc Baldwin, cho đến khi tình cờ đọc 1 entry của “Bà Tám”.
Thế là bèn mua cuốn Phỏng vấn, The Last Interview.
Đọc, thú quá, bèn mua thêm cuốn nữa. Tuyệt cú mèo.
Chúa phải vác thánh giá một mình, nhờ vậy con người
được thảnh thơi
“Must Jesus bear the cross alone,
And all the world go free”
Quái làm sao, bị cú đạo thơ đang ì xèo, bèn nhớ ngay
đến câu của Đức Phật, chôm…. Jesus:
Phi ta ra ai dám vô địa ngục?
Bài
thơ của Du Tử Táo, đã từng ì xèo ở hải ngoại, và đã từng được Gấu
Cà Chớn lèm bèm trên Tin Văn.
Ông
Số Hai là một thi sĩ. Thơ của ông đã từng được phổ nhạc. Không
phải nhạc sĩ nào cũng được hân hạnh phổ thơ của ông. Mà phải là một
thứ thầy, chuyên phổ thơ của những nhà thơ thầy.
Bạn đọc chắc là đoán ra nhà nhạc sĩ đại tài, nhất là
trong cái việc phổ thơ.
Tuy nhiên đại tài hay không đại tài, vẫn có lần thất
bại, và nhè đúng vào bài thơ của Ông Số Hai. Nghĩa là chẳng ai thèm
nhớ cả thơ lẫn nhạc. Hai Lúa này nhớ, có một dạo, đài phát thanh Sài
Gòn ngày nào cũng chơi bản nhạc phổ thơ của ông. Chuyện đó xưa lắm rồi,
từ hồi ông mới bước chân vào làng, nhanh chân cũng chẳng thua Hai Lúa,
[ông cùng học Nguyễn Trãi, Hà Nội, với Hai Lúa, cùng năm, chỉ không cùng
lớp], mà nếu có sau HL thì cũng chỉ chừng vài tiếng, hoặc vài ngày! Nghĩa
là, ông cũng thuộc vào thế hệ văn học thập niên 1960 của Sài Gòn, độc
nhất, tuyệt nhất, của văn học của chúng ta, như một nhà thơ trong nước
cảm thán.
Cựu trào như thế, mà cho tới bi giờ chẳng ai thèm nhớ
một câu văn, một bài thơ nào của "ổng" cả!
Có lẽ chính vì vậy, khi Khi Tôi Chết Hãy Ném Thây Tôi
Xuống Biển của nhà thơ Du Tử Táo nổi lên như cồn, Ông Số Hai phán,
bài thơ này, ai làm mà chẳng được!
Cựu trào như thế, nhưng may mắn cho Hai Lúa, cả đời
chưa từng phải nhắc tới nhà thơ lớn này một lần nào. Có lỡ gặp nhau,
thì cũng đành gật đầu, hoặc kẹt lắm, bắt tay cho nó đỡ trơ, đỡ chuế,
cho cả hai bên!
Vậy mà bi giờ đành phải chiếu cố tới nhà thơ, cũng
là sự vạn bất đắc dĩ!
From good to evil is one quaver
Từ tốt tới xấu là một cái run rẩy. Russian Proverb
D.M. Thomas trích dẫn, trong Solzhenitsyn, một thế kỷ ở trong ta.
Bài thơ này, ai làm mà chẳng được.
Đúng như thế, và đây là một trong những chân lý của
văn chương, theo đó, những bài thơ hay cho chúng ta cái cảm giác
tuyệt vời, là, khi đọc, mình có cảm tưởng, mình thừa sức làm bài thơ
như vầy. Nhưng từ "mình dư sức làm câu này", tới "bệ luôn câu này về
nhà mình", là cả một... sát na!
Chỉ hơi run tay một tí thôi!
Một bài thơ hay, đọc, có cảm tưởng
như mình là tác giả, thường chứa trong nó một tâm sự chung, và nó thường
được viết bằng một giọng tự nhiên, như một lời nói. Bài Khi Tôi Chết Hãy
Ném Thây Tôi Xuống Biển, rớt đúng vào trường hợp này.
Tuy tôi chưa được đọc, nhưng hình như đại thi sĩ có
một tác phẩm có tên "gì gì" là Tìm Thơ Trong Tiếng Nói, và liệu nội
dung của nó, là nhắm nói điều tôi vừa nói ra? Nếu đúng như vậy, thì
phải đi vài đường "tự khen", thay vì tự kiểm, vì đã có được một điểm
tương đồng với đại thi sĩ!
Đặng Tiến vào lúc bắt đầu viết, có
bàn về thơ, qua đó, ông khen một câu, hình như của Nguyễn Khuyến [hình như,
vì tôi đọc đã quá lâu, từ hồi chắc là còn đi học]. Một câu thơ về thời tiết.
Câu thơ đó, theo ông, là phải đọc theo đúng cái giọng nằng nặng
[Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn], của người miền Trung, thì
mới tới đỉnh cao của thơ, và cùng lúc, của tiếng nói, và cùng lúc, của
tiếng Việt. Cái "gì gì" như là "giời giở giét" [trời trở rét] "giợi giợ
giẹt", chắc vậy.
Tôi nghĩ ông đã đụng tới cái gọi là cốt tuỷ của tiếng
Việt. Đẹp như thế đấy, nhưng nguồn cơn của phân chia, của tính vùng
là cũng từ đấy. Nếu trọng nó, thì là có hoà bình, có thống nhất. Không
trọng nó, là có chuyện. Người ta chẳng đã từng hơn một lần nghe những
giọng chỉ trích tiếng nói địa phương? Văn chương miệt vườn? Dòng chính?
Thằng đó dân Nẫu? Tiếng Việt chuẩn phải là tiếng... Hà Lội?
[Về cái tiếng nói giọng miền Trung này,
Hai Lúa đã từng có kỷ niệm với thi sĩ Joseph Huỳnh Văn. Nhưng gần đây nhất,
là với một giọng nói của Quảng Trị. Xin để riêng ra, cho một dịp khác. Ghi
một tí ở đây, cho khỏi quên]
*
Trong lịch sử Việt Nam có hai vụ ăn
cắp thật là tuyệt vời.
Một, là vụ một ông trạng đi xứ Tầu, nhét hột ngô vô
bìu mang về Việt Nam làm giống, cứu đói cho cả một dân tộc.
Một, là vụ ông Hồ chôm một câu trong Tuyên Ngôn Độc
Lập của Mẽo, nhờ vậy, sau cuộc chiến thảm khốc, hai kẻ thù lại có
cơ hội làm bạn.
Liệu, ông Hồ biết trước, cái vụ bắt tay lịch sử tại
Nhà Trắng mới đây, giữa hai kẻ thù?
Chắc
là không... tiên tri tới mức đó.
Có điều ông biết, khó mà giấu nổi vụ ăn cắp.
Có khi ông cố tình cho người ta biết ông ăn cắp.
Có khi ông biết rất cần phải ăn cắp. Bởi vì thứ ông
ăn cắp còn quí hơn cả cái hột ngô kia, đối với đất nước của ông.
Nhưng thảm thương thay, cái đất nước mà ông đem hạt
giống quí đó về, đã không trồng nổi nó!
Đúng ra phải nói ông Hồ chôm hai món của thiên hạ,
một linh dược, một độc dược.
Thứ linh dược do không hợp phong thổ nên chết ngay
đứ đừ.
Độc dược, gặp thiên thời địa lợi nhân hoà, cứ thế mà
phơi phới bung ra, ăn tới xương tới tuỷ đám đầy tớ của nhân dân,
thế là hết thuốc chữa.
Biết đâu, nhờ cú bắt tay vừa rồi, linh dược lại có
cơ trỗi dậy?
Cũng khó lắm, vì hai tay mạt cưa mướp đắng gặp nhau,
dễ gì mà có được linh dược?
Hình Time: Exodus, Oct 19 2015
Ui chao, lại nhớ lần lên tầu Ga Hàng Cỏ xuống Hải Phòng,
lên tầu há mồm, ra Đệ Thất Hạm Đội đậu bên ngoài Vịnh Hạ Long.
Chỉ thiếu cái cảnh Vẹm bắt dân nằm lăn ra đường rầy,
không cho tầu hoả chạy, miệng la lớn, Chúa trả chồng trả con cho....
Bắc Kít!
Hai bố con băng đồng, nhắm ga xe lửa Tovarmik, Croatia,
biên giới với Serbia
Note: Cái hình này, chụp đúng thời gian trước
Mậu Thân, chung cư Nguyễn Thiện Thuận, khi chưa bị thiêu rụi, có
1 cặp.
Hình còn lại, Gấu chụp cô bạn, mặc áo cánh trắng, từ
trong nhà nhìn ra!
Cái kia, bỏ lại Saigon.
Cuốn này, đọc hồi mới lớn, mua, vì nhớ Saigon,
và vì bài viết của Durrell.
Bài viết “Khí hậu ẩm ướt”, về Nguyễn Đình Toàn, có
mùi bướm, là từ Henry Miller.
Nhớ, đang viết dở, để trên giá sách, Toàn tới -hồi
đó đã có nhà nhà nước, tuy còn độc thân, kế bên Đài, gần nhà Toàn,
cũng chung cư Bưu Điện, nhưng khu Đinh Tiên Hoàng - trong khi Gấu
xỏ cái quần, lôi xuống đọc, thú quá, và khi nghe Gấu nói, nháp, chưa
viết xong, anh nói, nháp khỉ gì nữa, thế là quá bảnh rồi!
Nhờ có lại bài viết, Gấu mới biết La Pagode hồi đó
chưa có cửa, tường vây quanh, mà chỉ là những khối xi măng thấp,
nhẩy 1 phát, là vô trong tiệm.
Thú thật!
Nhớ thiệt!