Nobel Y học

DESPITE what the romantic poets would have you believe, the natural world is not a friendly place. It is full of dangerous creatures, and some of the most dangerous are the smallest: the bacteria, viruses and parasites that between them debilitate and kill millions of people every year. But it is possible, with a bit of cunning, a bit of luck and a lot of hard work, to turn a bit of nature against itself—to humanity's benefit. And it is for exactly this sort of work that Sweden's Royal Academy of Sciences has awarded the 2015 Nobel prize in physiology or medicine.

Độc giả Kim Dung hẳn là nhớ câu phán trứ danh của ông, nơi nào phát sinh độc, thì quanh quẩn đó, có thứ trị độc.

Giải Nobel Y học năm nay, bảnh hơn, phán, thuốc trị độc, là từ thuốc độc mà ra!

Mặc dù những nhà thơ lãng mạn khiến bạn tin rằng, thiên nhiên vốn hiền hoà.
Đếch phải như thế. Nó là nơi đầy những sinh vật nguy hiểm, và một vài thứ nguy hiểm nhất, thì nhỏ nhất…
Nhưng có thể, với tí cà chớn, tiếu lâm, láu cá, tí cơ may, và lao động tới chỉ, con người làm cho thiên nhiên vs thiên nhiên, để thủ lợi.
Nobel 2015, về diện mạo học hay là y học, được ban cho những con người làm cái thứ việc kể trên.

Cô Rơm và những truyện ngắn khác

    Cô Rơm là người Hà-nội. Theo như tôi biết, hay tưởng tượng rằng mình biết, cô có tên mộc mạc này, là do bà mẹ sinh ra cô trên một ổ rơm, khi gia đình chạy khỏi thành phố Hà-nội, những ngày đầu "Mùa Thu".
Kim Dung cho rằng thiên nhiên khi "bịa đặt" ra một tai ương, thường cũng bịa đặt ra một phương thuốc chữa trị nó, quanh quẩn đâu gần bên thảm họa.
Ông kể về một thứ cỏ chỉ có ở một địa phương lạnh khủng khiếp, và người dân nghèo đã dùng làm giầy dép.
Những người dân quê miền Bắc chắc không thể quên những ngày đông khắc nghiệt, và để chống lại nó, có ổ rơm. Tôi nghĩ Trần Mộng Tú tin rằng "rơm" là phương thuốc hữu hiệu, không chỉ để chống lại cái lạnh của thiên nhiên, mà còn của con người.
    Ít nhất, chúng ta biết được một điều: tác giả đã mang nó tới miền Nam, rồi ra hải ngoại, tạo thành thứ tiếng nói hiền hậu chuyên chở những câu chuyện thần tiên.
"Ba mươi năm ở Mỹ làm được dăm bài thơ, viết được vài truyện ngắn. Lập gia đình vốn liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu 22, 20, 19), một căn nhà để ở.... lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có lắm.... trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng với mình quá. Mấy chục năm trước Trời có lấy đi nhà cửa người thân. Bây giờ Trời lại đền bù. Còn quê hương thì lúc nào cũng thấy ở trong tim, chắc khó mà mất được...".
Nguyễn Quốc Trụ

Cô Rơm và những truyện ngắn khác, nhà xb Văn Nghệ (Cali) 1999.

Nghĩ lại về những bài học quá khứ của Âu Châu

Guardian Weekly, 2 & 8 Oct 2015,  đọc Black Earth, Đất Đen: Lò Thiêu như là Lịch sử và như là Cảnh báo, của Snyder
TV sẽ đi bài này. Tác giả bài viết phê bình cách nhìn của sử gia Snyder, xuất phát từ những nỗi sợ sinh thái.

Tying the Holocaust to modern-day ecological fears is a flawed premise, says Richard J Evans
Black Earth: The Holocaust as History and Warning by Timothy Snyder
Bodley Head, 480pp
We have got the Holocaust all wrong, says Timothy Snyder, and so we have failed to learn the lessons we should have drawn from it. When people talk of learning from the Nazi genocide of some 6 million European Jews during the second world war, they normally mean that we should mobilize to stop similar genocides happening in future. But Snyder means something quite different, and in order to layout his case, he provides an engrossing and often thought- provoking analysis of Hitler's antisemitic ideology and an intelligently argued country-by-country survey of its implementation between 1939 and 1945.
    Hitler, Snyder correctly observes, was a believer in race as the fundamental feature of life on Earth. History was a perpetual struggle for the survival of the fittest race, in which religion, morality and secular ethics all stood in the way of the drive for supremacy. His political beliefs reduced humankind to a state of nature, sweeping aside the claims of modern science to improve the natural world. Interfering in nature, for example by improving crop yields in order to overcome the food supply deficit in Germany during the first world war, was wrong: the way to achieve this aim was to conquer the vast arable lands of eastern Europe.
    Race, in Hitler's thought, replaced the state as the most important characteristic of human society. What he wanted was anarchy, a virtually stateless society, denuded of rules, laws and ethics, that allowed the Nazis to do what they had to in the interests of the "Aryan" (ie German) race. He had already begun to achieve this in Germany itself, where the expanding world of the stormtroopers, the SS, the camps, the special courts and the Nazi party was rolling back the frontiers of the established German state and its institutions well before the war started. But it was only with the conquest of eastern Europe that Hitler had the opportunity to create a truly anarchic society in which expropriation, murder and extermination of those he considered racially inferior - Poles, Ukrainians, Belarusians and other "Slavs" - could be practiced without restraint.
    For Hitler, as Snyder notes, Jews fell into a different category. They were not a regional nor even a European enemy, but a universal, global one. Rather than being an inferior race they were a "non -race" or a "counter-race", not following the laws of nature, as Slavs, Teutons, Latins and the rest of them did. Hitler's global vision potentially targeted Jews wherever they could be found.
    If the killing fields of eastern Europe could be the site of mass extermination by virtue of the aboli- tion of the state - the Polish state, the Soviet state (in the areas conquered by the Nazis), the Estonian, Latvian and Lithuanian states - then the impact of Nazi exterminism in other countries depended largely on how far the state and its institutions had managed to survive. Thus most Jews escaped being murdered in Belgium and Denmark, where the institutions of the state, headed by the monarchy, remained largely in place, while in the Nether- lands, where the monarch and the leading politicians had fled, they did not. Similarly, despite the antisemitism of the Vichy regime, most French Jews managed to survive the war.
    Snyder delivers what is surely the best and most unsparing analysis of eastern European collaborationism now available, though the preceding sections on the history of Polish and Russian antisemitism are perhaps longer and more detailed than was necessary. Overlong, too, are the chapters on partisan resistance. And although it is better by some distance than Snyder's previous, overpraised book Bloodlands, Black Earth shares some of the same failings as that flawed work, delivering an account of the Holocaust that is skewed far too much towards eastern Europe; it also misunderstands the ideological roots of the genocide, which, as most historians would now agree, was set in motion not as an act of revenge against an imagined Jewish world conspiracy following the failure of Operation Barbarossa in December 1941, but as an act of hubris launched the previous July, as Hitler and the leading Nazis considered the operation a resounding success.
    This is not a comprehensive history of the Nazi genocide of the Jews, therefore, but a book with a thesis: and it is here that it really goes off the rails. In his concluding chapter, Snyder describes the Holocaust as an act of "ecological panic", the belief of Hitler that the Jews were "an ecological flaw": nature's harmony could only be restored through their complete elimination.
    In the 21 first century, he speculates, climate change could lead to wholesale food shortages caused by desertification of huge areas of the planet, or alternatively drastic economic collapse. The consequences of the destruction of the state, so obvious in Eastern Europe between the wars, can now be seen in Iraq and Syria. Territorial conquest and exterminatory wars might occur with increasing frequency as the condition of the Earth deteriorates. China might invade Africa. Russia has already invaded Ukraine. Some Muslims are starting to blame Jews and gays. American evangelical Christians decry the work of scientists. Climate change, they say, is a myth, de- signed to give the state greater powers. But this is -just what Hitler said about the state. Far better, Snyder concludes, to use governments to slow down and eliminate climate change, reduce its harmful effects and ensure everyone has enough to eat.
    Such proposals seem reasonable enough, but do they really constitute lessons we should all learn from the Holocaust? Snyder here is surely confusing Hitler's global crusade against the Jewish "world-enemy" with his regional agenda of ensuring Germany's food supplies, which the science of the 1930s was not capable of guaranteeing on the basis of German agricultural production alone. His speculations about possible Chinese or Russian wars of conquest driven by the need for resources are wild in the extreme. This is a pity: much of this book makes for compelling and convincing reading, but tying historical arguments to ecological nostrums in this way does not really work.
Bắt Trẻ Đồng Xanh

http://www.diendantheky.net/2010/12/bat-tre-ong-xanh1.html

Note: Bài viết này, lần đầu đăng trên nhật báo Tiền Tuyến, tờ báo của quân đội VNCH. Chi tiết này rất quan trọng, đến nỗi Phan Lạc Phúc, chủ bút, phải đi 1 đường cám ơn.
Có thể nói, khi cho đăng, chọn báo đăng, là VP đã chấp nhận thái độ chính trị, tôi là nhà văn chống cộng.
Trong số báo Văn, đặc biệt về VP, có chi tiết này. 

Cái dã tâm ăn cướp cho bằng được Miền Nam, có, từ khi còn ở trong bụng mẹ của từng tên Bắc Kít.
Đẻ ra 1 phát, là ngửi ngay liền cái đói, là bèn nghĩ đến ăn cướp!
Đây là cách giải thích mới nhất về Nazi, của sử gia Snyder, mà TV đang giới thiệu.
Áp dụng vào xứ Mít, quá đúng.
Nhưng cái vụ bắt trẻ này, không đúng.
Đám VC Nam Bộ tự động dâng con nít cho Bắc Kít, khi bắt con cái của chúng vượt Trường Sơn.
Thế mới dã man.
Cũng như khi được lệnh tập kết, thì tên Nam Bộ nào cũng còn được lệnh, phải làm cho 1 cô gái Nam Kít mang bầu, trước khi đi.

Hitler’s World
“Nature,” he wrote, “knows no political boundaries.”
Thiên nhiên, Hítler  phán, đếch biết đến cái gọi là biên cương chính trị.

Why We Keep Studying the Holocaust