|
Đọc thông điệp
Ngưng mọi đồng
hồ
Cắt mọi cái
phôn
Ngăn chó sủa
với khúc xương chó thơm lừng
Câm mẹ mọi cây
dương cầm, và, với tiếng trống tắc nghẹn,
Khiêng cái hòm
ra đây cho ta,
Cho đám bạn
quí, mỗi tên cầm 1 tờ ai điếu, khóc GCC, vô.
Cho máy bay vần
vũ trên Xề Gòn
Đi 1 đường thông
điệp lên nền trời:
Thằng Khốn
Chết Rồi
Quàng những
chiếc nơ nhiễu, vô những cổ trắng, của lũ bồ câu thành phố,
Hãy cho mấy
tên phú lít, lo việc điều khiển xe cộ, đeo những chiếc bao tay len màu
đen.
Hắn là Bắc Kít,
Nam Kít, Đông Kít, Tây Kít của mọi tên Mít của chúng ta
Hắn?
Gấu Cà Chớn,
còn ai trồng khoai xứ này?
Hắn là những
ngày làm việc trong tuần,
[Suốt này mi
ngồi PC, viết toàn ba thứ cà chớn, Gấu Cái chửi!]
Những Chúa
Nhật nghỉ ngơi đi thăm bạn bè của chúng ta.
Buổi trưa, nửa
đêm, cuộc lèm bèm, bản nhạc sến của chúng ta
Hắn nghĩ, tình
yêu BHD là vĩnh viễn: Hắn đã lầm.
Chứng cớ ư?
Cú xém chết
vừa rồi ở khu Phước Lộc Thọ
Sao trời ư?
Đếch cần, đi chỗ khác chơi!
Sửa soạn mặt
trăng, tống cổ mặt trời
Trút cạn đại dương, quét sạch rừng rậm
Chẳng có cái
gì an ủi được ta bi giờ. (1)
(1) Ấn bản mới,
tuyệt hơn nhiều:
Không cần
sao trời nữa, hãy tắt hết chúng đi
Hãy gói kín
mặt trăng, hãy tháo gỡ mặt trời
Hãy trút cạn
đại dương, hãy quét sạch rừng rậm
Bởi từ đây,
tất cả đều vô ích.
Tks. NQT
Tớ đếch sợ
chết. Nhưng tớ đếch thích có mặt ở đó, khi nó xẩy ra.
Tớ đếch tin
vào đời sau. Tuy nhiên, tớ có mang theo xịp. Luôn cả nịt vú nữa, cho em
của tớ!
It's not
that I'm afraid to die, I just don't want to be there when it happens
Woody Allen
I don’t
believe in an afterlife, although I am bringing a change of underwear.
W.A, 1971
Thần
Chết và
Gái Già
Man has here
two and a half minutes – one to smile, one to sigh, and half a one to
love;
for in the midst of this minute he dies.
Đời người,
dài như thế, tóm gọn, chỉ có hai phút rưỡi. Một, để cười, một, để thở
dài 1
phát, và nửa phút để yêu, và chính là trong “nửa” chưa tới "một"
đó,
ngỏm.
-Jean Paul
Richter, 1795
Câu trên, tặng
Gấu Cái thì tuyệt.
Kèm giai thoại sau đây.
Maiden, tra
từ điển có nghĩa trinh nữ, và còn có nghĩa gái già, “hoa xuân chưa
[từng] gặp
bướm trần gian”!
Ui chao,
không hiểu đầu óc ra sao, hay là càng già càng trở nên bịnh hoạn, nhìn
cái
hình, là nhớ những lần hụt ăn, để xổng 1 con mồi nào đó!
Hồi Gấu Cái
đẻ thằng con trai đầu, Bà Nội của Ẻn nghe tin, bèn từ Cai Lậy lên, mang
theo 1
cô gái quê cực xinh, Bé Năm, để lo cho thằng bé.
Gấu Cái, chắc
là sợ quá, bèn ra lệnh tống cổ con bé về Cai Lậy trở lại. “Ẻm” không
biết tính
Gấu, không hề bao giờ làm cái vụ đó, mà chỉ thích lên xóm, khi cần.
Nghĩa là ăn
bánh trả tiền.
Nhưng thương hại con bé, thế là đề nghị Bà Trẻ đem về nhà, trên
Phú Nhuận.
Đúng là trao
trứng cho ác, là vì ông con của Bà, tức ông cậu của Gấu, Cậu Hồng, chớp
liền. Cậu
làm thịt con bé. Bà Trẻ Gấu biết, bèn chờ cho tới khi biết, con bé
không có
thai, Bả cho nó mớ tiền trở về quê.
Gấu nghe
chuyện này, khi về già, cách đây chừng vài năm, qua Gấu Cái, khi Bả
nghe Gấu kể
chuyện về 1 em đề nghị bỏ Gấu Cái, và để bù lại, em cho Gấu hưởng mùi
trinh nữ!
Bả nói, mày
bảnh [ngu] thật, gái còn nguyên là chê!
Gấu bực quá,
bèn phản biện, chỉ có mỗi một lần không chịu trả tiền, thì mang cả cuộc
đời ra,
thế!
Hà, hà!
Hình trong số
báo Death
Hình trong số
báo Death
Huế Mậu Thân
Kiếm thấy
câu này, cũng trong số báo:
Ai điếu thì có rồi, mà thằng khốn GCC đếch chịu chết!
Get the
coffin ready, and
the man won't die
Chinese
proverb
Death
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
1936: London
READING THE
MESSAGE
Stop all the
clocks, cut off the telephone,
Prevent the
dog from barking with a juicy bone,
Silence the
pianos and with muffled drum
Bring out
the coffin, let the mourners come.
Let
airplanes circle moaning overhead
Scribbling
on the sky the message HE IS DEAD,
Put crepe
bows round the white necks of the public doves,
Let the
traffic policemen wear black cotton gloves.
He was my
North, my South, my East and West,
My working
week and my Sunday rest,
My noon, my
midnight, my talk, my song;
I thought
that love would last forever: I was wrong.
The stars
are not wanted now: put out every one;
Pack up the
moon and dismantle the sun;
Pour away
the ocean and sweep up the wood;
For nothing
now can ever come to any good.
W.
H. Auden,
from "Twelve Songs." Serving in the Morale Division of
the U.S. Strategic Bombing Survey, Auden arrived in Germany
shortly before V- E Day, tasked with assessing the impact of Allied
bombing on civilians. Darmstadt, he wrote, "was 92 percent
destroyed in thirty minutes." Of the concentration-camp survivors he
met while visiting a Munich hospital, he observed,"I was
prepared for their appearance, but not for their voices: they whisper
like
gnomes." The following year he became a US citizen; he received
a Pulitzer Prize for The Age of
Anxiety in 1948.
Phục vụ
trong “Phòng Chiến Tranh Chính Trị Quân Đội Mẽo Ngụy” [dịch nhảm],
Auden đến Đức chỉ
ít lâu, trước Ngày V-E Day, với nhiệm vụ đo lường mức thiệt hại của
thường dân
sau những cú Đồng Minh dội bom. Ông viết, “thành phố Darmstadt, 92% bị
huỷ diệt
trong 30 phút”. Về những người sống sót Trại Tù Nazi, khi thăm 1 bịnh
viện ở
Munich, “Tôi sửa soạn để ngắm nghiá bộ dạng, mặt mũi; thay vì vậy, thì
là giọng
nói: Họ thì thầm như mấy vị thần lùn." Năm sau đó, ông trở thành công
dân Mẽo. Ông
nhận giải Pulitzer cho cuốn thơ “Thời Xốn Xang”, năm 1948.
Đọc thông điệp
Ngưng mọi đồng
hồ
Cắt mọi cái
phôn
Ngăn chó sủa
với khúc xương chó thơm lừng
Câm mẹ mọi cây
dương cầm, và, với tiếng trống tắc nghẹn,
Khiêng cái hòm
ra đây cho ta,
Cho đám bạn
quí, mỗi tên cầm 1 tờ ai điếu, khóc GCC, vô.
Cho máy bay vần
vũ trên Xề Gòn
Đi 1 đường thông
điệp lên nền trời:
Thằng Khốn
Chết Rồi
Quàng những
chiếc nơ nhiễu, vô những cổ trắng, của lũ bồ câu thành phố,
Hãy cho mấy
tên phú lít, lo việc điều khiển xe cộ, đeo những chiếc bao tay len màu
đen.
Hắn là Bắc Kít,
Nam Kít, Đông Kít, Tây Kít của mọi tên Mít của chúng ta
Hắn?
Gấu Cà Chớn,
còn ai trồng khoai xứ này?
Hắn là những
ngày làm việc trong tuần,
[Suốt này mi
ngồi PC, viết toàn ba thứ cà chớn, Gấu Cái chửi!]
Những Chúa
Nhật nghỉ ngơi đi thăm bạn bè của chúng ta.
Buổi trưa, nửa
đêm, cuộc lèm bèm, bản nhạc sến của chúng ta
Hắn nghĩ, tình
yêu BHD là vĩnh viễn: Hắn đã lầm.
Chứng cớ ư?
Cú xém chết
vừa rồi ở khu Phước Lộc Thọ
Sao trời ư?
Đếch cần, đi chỗ khác chơi!
Sửa soạn mặt
trăng, tống cổ mặt trời
Trút cạn đại dương, quét sạch rừng rậm
Chẳng có cái
gì an ủi được ta bi giờ.
Tks. NQT
Paul Zweig
Departures,
c. 1981
"Don't
think of this as cancer," my doctor said. "That's a terrifying word.
You have a lymphoma. That's a kind of cancer, but it can be treated,
kept under
control; maybe cured. You're not dying. People do well with a
lymphoma." Do
well is an oncologist's term that I have heard often since then. You're
doing
well. He did well. It's a term that must be listened to from the
perspective of
this new life. Its specific meaning is not "He's well now" but
"He's well for the moment"; dying has stopped for a while; he will
probably
live for a long time. An oncologist's "long time" measures time in
the new life. It may mean a few years, which is not bad, although
possibly not
comforting to a forty-seven-year-old man who still daydreams, at odd
moments, of
a long life. Listening to my doctor was delicate. I took in every
shrug, every
rise and fall of his voice. I weighed his words on a fine scale, to
detect hope
or despair. Then I called up another doctor, to hear how the words
sounded in
his voice. I triangulated and compared, all to find something that
would shut
off the terror for a while. It was as if there were a key buried in my
psyche,
and I had to feel around for it, probing in thick, dark waters, and
then, not knowing
what I'd found, finding it, then losing it again.
“Đừng
nghĩ
đó là ung thư”, me-xừ “tu bíp” biểu tớ. Nghe ghê quá. Anh bị lymphoma.
Cũng là
1 thứ ung thư, nhưng nhẹ hều, có thể trị được, như hồi còn trẻ anh lên
xóm, bị
mào gà, lậu, không phải tim la! Không có ngỏm đâu mà sợ!
Hà, hà!
Vậy mà tụi khốn bày đặt, nào Chuyên Đề I, Chuyên Đề II. Nào “Nửa Đường
Đại Bàng
Gãy Cánh”!
C. 500 BC:
Teos
WHY I WEEP
Already my
temples are gray
and head
white,
graceful
youth is no longer
here, but
teeth are old,
no longer is
much time left
of sweet
life.
Because of
these things, I weep,
often afraid
of Tartarus;
for the
recess of Hades is terrible,
and the
descent to it
difficult,
and it is certain that
he who has
gone down can't come up.
Sao tớ
khóc
Hai má tớ xọm đi, xám xịt
Đầu trắng hếu
Tuổi trẻ hung hăng, thời làm Kẻ Tà Đạo đã qua rồi!
Răng chẳng còn cái nào, nàm sao hun Em?
Thời gian còn lại cũng chẳng nhiu!
Đường xuống Địa Ngục mới ghê làm sao
Có kẻ nào xuống
đó mà trở về bao giờ đâu?
Anacreon, a poem. Born in the
coastal city of
Teos on the
Aegean Sea, Anacreon left after the Persians invaded in
546 BC, finding patrons among tyrants of other
cities: first at Samos under Polycrates, who was killed
by Persians, and then in Athens under Hipparchus,
who was assassinated. His lyric poems often praise
women and wine, and his style and subjects
were imitated by later Greek writers, among them the
contributors to the Anacreontea, sixty poems later
misattributed to him and published in English in
1800 as Odes of Anacreon.
1936: London
READING THE
MESSAGE
Stop all the
clocks, cut off the telephone,
Prevent the
dog from barking with a juicy bone,
Silence the
pianos and with muffled drum
Bring out
the coffin, let the mourners come.
Let
airplanes circle moaning overhead
Scribbling
on the sky the message HE IS DEAD,
Put crepe
bows round the white necks of the public doves,
Let the
traffic policemen wear black cotton gloves.
He was my
North, my South, my East and West,
My working
week and my Sunday rest,
My noon, my
midnight, my talk, my song;
I thought
that love would last forever: I was wrong.
The stars
are not wanted now: put out every one;
Pack up the
moon and dismantle the sun;
Pour away
the ocean and sweep up the wood;
For nothing
now can ever come to any good.
W.
H. Auden,
from "Twelve Songs." Serving in the Morale Division of
the U.S. Strategic Bombing Survey, Auden arrived in Germany
shortly before V- E Day, tasked with assessing the impact of Allied
bombing on civilians. Darmstadt, he wrote, "was 92 percent
destroyed in thirty minutes." Of the concentration-camp survivors he
met while visiting a Munich hospital, he observed,"I was
prepared for their appearance, but not for their voices: they whisper
like
gnomes." The following year he became a US citizen; he received
a Pulitzer Prize for The Age of
Anxiety in 1948.
Phục vụ
trong “Phòng Chiến Tranh Chính Trị Quân Đội Mẽo Ngụy” [dịch nhảm],
Auden đến Đức chỉ
ít lâu, trước Ngày V-E Day, với nhiệm vụ đo lường mức thiệt hại của
thường dân
sau những cú Đồng Minh dội bom. Ông viết, “thành phố Darmstadt, 92% bị
huỷ diệt
trong 30 phút”. Về những người sống sót Trại Tù Nazi, khi thăm 1 bịnh
viện ở
Munich, “Tôi sửa soạn để ngắm nghiá bộ dạng, mặt mũi; thay vì vậy, thì
là giọng
nói: Họ thì thầm như mấy vị thần lùn." Năm sau đó, ông trở thành công
dân Mẽo. Ông
nhận giải Pulitzer cho cuốn thơ “Thời Xốn Xang”, năm 1948.
Dịch thoáng:
Đời thì như
"Mù Sương, Sương Mù"
Thoát ra từ hầm núi
Và Chết,
Như “Người Đi Trên Mây”
Trên đường tới Thiên Đàng
Nhưng mà đừng suy tư
nhiều quá về chúng
Nếu không muốn trở thành
cù lần như GCC!
Portrait GCC
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
6.
The world
you are about to enter and exist in doesn't have a good reputation.
It's been better
geographically than historically; it's still far more attractive
visually than
socially. It's not a nice place, as you are soon to find out, and I
rather doubt
that it will get much nicer by the time you leave it. Still, it's the
only
world available: no alternative exists, and if one did, there is no
guarantee
that it would be much better than this one. It is a jungle out there,
as well
as a desert, a slippery slope, a swamp, etc.-literally-but what's
worse, metaphorically,
too. Yet, as Robert Frost has said, "The best way out is always
through." He also said, in a different poem, though, that "to be
social is to be forgiving." It's with a few remarks about this business
of
getting through that I would like to close.
Try not to pay attention to
those
who will try to make life miserable for you. There will be a lot of
those-in
the official capacity as well as the self-appointed. Suffer them if you
can't
escape them, but once you have steered clear of them, give them the
shortest
shrift possible. Above all, try to avoid telling stories about the'
unjust
treatment you received at their hands; avoid it no matter how receptive
your audience
may be. Tales of this sort extend the existence of your antagonists;
most
likely they are counting on your being talkative and relating your
experience
to others. By himself, no individual is worth an exercise in injustice
(or for
that matter, in justice). The ratio of one-to-one doesn't justify the
effort:
it's the echo that counts. That's the main principle of any oppressor,
whether
state-sponsored or autodidact. Therefore, steal, or still, the echo, so
that
you don't allow an event, however unpleasant or momentous, to claim any
more
time than it took for it to occur.
Joseph Brodsky: Speech at the Stadium
Bài nói chuyện
với sinh viên, Đại học Michigan, Ann Arbor, 1988
Cái thế giới
mà bạn vô và ra thì chẳng ra cái chó gì, thì cứ nói đại như vậy. Về mặt
địa dư
khá hơn về mặt lịch sử. Trông thì quyến rũ, nhưng kém về mặt thân
thiện, niềm nở.
Không phải 1 chỗ đẹp, rồi bạn sẽ nhận ra, nhưng một khi bạn rời bỏ, thì
cũng chẳng
thể đẹp đẽ hơn. Tuy nhiên, đâu có thế giới nào khác, ngoài nó ra. Giả
như có,
thì làm sao biết, nó tốt đẹp hơn thế giới này?
Ngoài đó là rừng, là
sa mạc,
là con dốc trượt… Robert Frost chẳng đã
từng viết, “cách tốt nhất, là qua”.
Ông còn nói, trong 1 bài thơ khác,
“thân thiện,
cởi mở là tha thứ”…
Cố đếch thèm
để ý đến mấy thằng “thèm” làm cho đời bạn trở nên điêu đứng, thảm
hại.
Đau khổ, chịu đựng, khi không thể tránh chúng, nhưng một khi "tái
sinh", là coi chúng như pha!
Cố
đừng "thèm" lèm bèm về những gì chúng đối xử đếch ra cái chó gì
đối với bạn...
Chỉ nghĩ đến thơ, làm thơ
và dịch thơ!
Hà, hà!
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
Gấu & Bạn Chất [2006]
Mấy số báo Văn ở trên mặt bàn, là do gặp bạn
quí ở 1 tiệm phở. Ðó lần đầu tiên bạn quí gặp bạn Chất. Anh mang theo
mấy số Văn, mấy cái
“brochure”, bữa tưởng niệm TTT của diễn đàn Gió O. Tính chơi 1 bức hình kỷ
niệm, thì máy hết pin, và lúc đó mới nhận ra, chưa hề bao giờ chụp hình
chung cùng bạn quí cả!
Nhớ, hồi mới quen BHD, về khoe
nhặng với bạn Chất, bạn gật gù thông báo với cả bọn, Thánh nữ đó, mỗi
lần Thánh nữ phán, là một Thánh ngôn đối với bạn Gấu ta!
Còn bà cụ C thì lắc đầu, nhà đó không chịu nổi một thằng như mày đâu!
Ông anh bèn cãi lại, nó lấy con H. chứ đâu phải gia đình con H. Mày cứ
lấy nó đi, đem nó ra khỏi cái gia đình đó, là đại phúc cho con H đấy!
Ui chao, đúng ra, ông phải nói, đại phúc cho thằng Gấu chứ!
Mày lấy nó đi.
Ôi sao đơn giản như thế mà Gấu không làm được!
Về già, nghĩ lại, mới thấm đòn,
tại sao ngày đó ngu thế. Vừa mới nghe em nói, bây giờ H hết lãng mạn
rồi, là điên lên, may là chưa tát tai cho em một cái, đúng như DP,
thằng bạn của thằng em trai đã tử trận, khi đọc đoạn chạy theo em ở nơi
cổng trường Đại Học Khoa Học:
-Gặp tay em là em bạt tai cho vài cái rồi!
Sau này, nhớ lại Maugham, nhớ
ra cái mẹo của cô gái ở trong một truyện ngắn của ông, khi tìm cách
tống cổ ông Phó Vương ra khỏi nhà, thì mới vỡ ra rằng, BHD cố tình nói
như vậy, để tống cổ Gấu ra khỏi gia đình của cô, tránh cho Gấu cái khổ,
phải dạ dạ vâng vâng thưa Bố, với ông bố vợ Bắc Kít!
Một mình em gọi ông ta là Bố là quá đủ rồi!
*
Ta tha thứ cho mi, vì mi ngu quá, không hiểu lòng ta. Ta không muốn mi
phải gọi cái ông bố của ta là bố, nên đành phải từ chối tình mi.
Mi vừa ngu, vừa kiêu ngạo, vừa bướng bỉnh, vừa quá yêu ta... Chỉ cần ta
giả đò lắc đầu, là mi bỏ đi, ta biết trước như vậy...
Ui chao, sao mà khôn như thế, đúng là gái Bắc Kít!
*
Trong Lục Mạch Thần Kiếm, A
Châu có tài hóa trang thần kỳ, đóng giả vai Kẻ Đại Ác Đoàn Chính Thuần,
chịu chết dưới Giáng Long Thập Bát Chưởng của người yêu là Kiều Phong,
trong khi ngắc ngoải, nằm trong lòng Kiều Phong, nghe người yêu gặng
hỏi, tại "nàm" sao mà nàng phải "nàm" như vậy, à, thôi ta hiểu rồi,
nàng sợ ta đánh chết Đoàn Chính Thuần, dòng họ Đoàn có Lục Mạch Thần
Kiếm sẽ kiếm ta giết đi để trả thù…
A Châu mỉm cười mà đi, chàng
hiểu em rồi, em chết là vì chàng, cho chàng, chứ không vì ai khác.
Bởi thế, mà,
qua bên kia, BHD mới ngoái lại mà nói rằng, ta tha thứ cho mi, vì cái
chuyện, mi không hiểu lòng ta, đâu phải ta không yêu thương mi, mà vì
ta không muốn làm nhục mi, khi bắt mi gọi ông bố Bắc Kít của ta là bố!
Maugham có
mấy truyện thật xịn, nhưng suốt đời đau, vì bị giới phê bình coi là nhà
văn hạng nhì, đến khi chết, nhắn lại với hậu thế, cớ sao nhà văn hạng
nhì như tớ mà có nhiều độc giả quá như thế.
Cuốn Lưỡi Dao Cạo của ông mà
chẳng bảnh sao.
Ông còn một cái truyện Gấu rất mê, Up
at the Villa, chuyện một em, khi còn là con nít, được một ông
bạn của bố nhắm, lớn lên, mê một anh, lấy làm chồng, anh này tối ngày
say xỉn, lại còn máu mê cờ bạc, sau chết vì thượng mã phong, đại khái
như vậy, còn ông bạn của bố, sắp được phong chức Phó vương Ấn độ, nghe
tin em rảnh rang [available], bèn về Anh cầu hôn. Em tính sáng hôm sau
gật đầu, nhưng tối hôm đó đi ăn, để mắt thương hại tay nhạc sĩ vĩ cầm
ốm đói, một anh sinh viên phải bỏ chạy quê hương do chống đối nhà nước,
và khi về lại villa, thì gặp anh này lết tới đó, bèn cho vô nhà, cho
ăn, cho làm tình, cho hưởng thú nhất dạ đế vương, và khi anh sinh viên
hỏi, tại sao mà đối xử với anh ta quá tốt như thế, em ngu quá nói thật,
ấy là vì tôi thương hại anh, muốn cho anh hưởng lạc thú mà suốt đời anh
không tin là anh có thể được hưởng!
Tay sinh viên phát điên
lên, chửi, sao lại có thứ đàn bà khốn kiếp như mi, mi tưởng mi là thứ
gì, ta là thứ gì, và bèn rút súng ra, đòm chính anh ta một phát, đi
luôn.
Người đẹp cuống lên, bèn phôn cho một tay quen, một lãng tử, anh này
tới, cho cái xác vô hòm xe rồi kiếm chỗ vắng thẩy xuống biển, và dặn,
nè, đừng có kể cho ông Phó Vương nghe đấy nhé.
Bữa sau, em lại ngu quá, kể hết, Phó Vương đau như hoạn, nhưng vẫn tỏ
ra là người quân tử, vẫn ngỏ lời cầu hôn, nhưng tuyên bố, sẽ gặp Nữ
Hoàng từ chối vinh dự Phó Vương, vì sợ sau này có người khui ra thì bỏ
mẹ.
Em chán quá, bèn lắc đầu, tưởng ông làm Phó Vương thì tôi mới lấy, chứ
già khú đế đại vương như ông, tôi lấy để làm gì!
Tuyệt!
Sự thực, em
chẳng ham gì chức vợ Phó Vương, nhưng, theo bạn, có cách nào hay hơn
thế, để tống anh già ra khỏi nhà, đi một mạch qua Ấn làm Phó Vương?
Anh lãng tử biết trước, chuyện sẽ xẩy ra như vậy, và phán, người như
em, chỉ hợp với anh thôi!
Lần đầu đọc truyện, Gấu cứ khen hoài, cô gái hay thiệt, nghĩ ra cái mưu
nói Không với ông Phó Vương thật tuyệt, nhưng sau ngộ ra, chính cái
chết của anh sinh viên làm cô bớt ngu đi.
Chỉ đến khi
BHD đi xa rồi, thì Gấu mới hiểu ra, Em cũng đã sử dụng, đúng cái đòn
trên, để đuổi Gấu ra khỏi cuộc đời của em, khi em phán, Gấu đi chỗ khác
chơi, Hồng đen bây giờ hết lãng mạn rồi!
Ấy là vì
em không muốn Gấu
phải hạ mình gọi ông via của Em, là Bố, dù là Bố vợ! Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
Wednesday, September
21, 2011 11:20 AM
Lâu mới quay lại, thấy Tin Văn hôm nay thật
phong phú, đầy giọng ông Gấu, dễ ghét và rất có giá trị, bèn gửi mấy
hàng thăm ông và ca ngợi. Người có đầy người ngưỡng mộ, (fan) uy tín và
nổi tiếng, như ông Gấu thì chẳng cần xem thêm / nghe thêm mấy lời tẹp
nhẹp của một anh già vô danh, duy, tôi muốn nhờ ông chút chuyện nên cứ
mạnh bạo viết lấy lòng (nhưng thật tình) như thế … xin ông ...
Số là, tôi mê bản
dịch bài thơ Barbara của Jacques Prevert của ông anh TTT của ông mà nay
tôi để lạc mất đâu đó không tìm ra bản dịch tài hoa ấy, chợt nghĩ chắc
ông Gấu có thể giúp, bèn, xin ông post lên trang nhà của ông cho tôi
được một lần nữa nhớ những xúc động thời trẻ dại được đọc tuyệt phẩm ấy.
Cảm ơn ông và kính
chúc ông bà và bảo quyến an hảo. (1)
Phúc đáp
Ða tạ.
NQT
TV post lên đây, hy
vọng có độc giả nào còn giữ được bản dịch Barbara của TTT.
Trong khi chờ đợi chúng ta đọc bản dịch của TTS
BARBARA
Jacques Prévert
Rappelle-toi
Barbara
Il pleuvait
sans cesse sur Brest ce jour-là
Et tu
marchais souriante
Épanouie
ravie ruisselante
Sous la pluie
Rappelle-toi
Barbara
Il pleuvait
sans cesse sur Brest
Et je t'ai
croisée rue de Siam
Tu souriais
Et moi je
souriais de même
Rappelle-toi
Barbara
Toi que je
ne connaissais pas
Toi qui ne
me connaissais pas
Rappelle-toi
Rappelle-toi
quand même ce jour-là
N'oublie pas
Un homme
sous un porche s'abritait
Et il a crié
ton nom
Barbara
Et tu as
couru vers lui sous la pluie
Ruisselante
ravie épanouie
Et tu t'es
jetée dans ses bras
Rappelle-toi
cela Barbara
Et ne m'en
veux pas si je te tutoie
Je dis tu à
tous ceux que j'aime
Même si je
ne les ai vus qu'une seule fois
Je dis tu à
tous ceux qui s'aiment
Même si je
ne les connais pas
Rappelle-toi
Barbara
N'oublie pas
Cette pluie
sage et heureuse
Sur ton
visage heureux
Sur cette
ville heureuse
Cette pluie
sur la mer
Sur
l'arsenal
Sur le
bateau d'Ouessant
Oh Barbara
Quelle
connerie la guerre
Qu'es-tu
devenue maintenant
Sous cette
pluie de fer
De feu
d'acier de sang
Et celui qui
te serrait dans ses bras
Amoureusement
Est-il mort
disparu ou bien encore vivant
Oh Barbara
Il pleut
sans cesse sur Brest
Comme il
pleuvait avant
Mais ce n'est
plus pareil et tout est abimé
C'est une
pluie de deuil terrible et désolée
Ce n'est meme
plus l'orage
De fer
d'acier de sang
Tout
simplement des nuages
Qui crèvent
comme des chiens
Des chiens
qui disparaissent
Au fil de
l'eau sur Brest
Et vont
pourrir au loin
Au loin très
loin de Brest
Dont il ne
reste rien.
BARBARA
( Bản dịch : Thân Trọng
Sơn )
Barbara hỡi, em hãy nhớ
Cơn mưa dầm trên thành phố Brest ngày xưa
Em bước đi sũng ướt
dưới mưa
Cười tươi tắn hân hoan rạng rỡ
Barbara hỡi, em hãy nhớ
Hôm trên thành phố Brest mưa triền miên
Ta gặp em ngoài phố đường Xiêm
Em nở nụ cười rạng rỡ
Và ta cũng rạng rỡ nụ cười
Barbara hỡi, em hãy nhớ
Em với ta chưa từng gặp gỡ
Em với ta chẳng hề quen nhau
Em hãy nhớ
Ngày xưa ấy dẫu sao
Em hãy nhớ, đừng quên.
Có chàng trai trú trước
cổng nhà
Réo gọi tên em
Barbara
Em chạy đến dưới làn mưa xối xả
Mình đẫm ướt vui tươi hớn hở
Ngã vào tay chàng trìu mến thương yêu
Chuyện này, Barbara hỡi, em hãy nhớ
Và đừng phiền lòng khi ta dịu dàng
xưng gọi anh – em
Với người ta yêu, ta luôn nói
tiếng ngọt mềm
Dẫu chỉ mới một lần gặp gỡ
Và ta thân thiết với mọi kẻ yêu nhau
Dẫu ta với họ đã quen biết gì đâu.
Barbara hỡi, hãy nhớ
Em đừng quên
Cơn mưa ngoan hiền hạnh phúc đó
Trên khuôn mặt em hân hoan
Trên thành phố bình an
Cơn mưa trên mặt biển
Trên xưởng tàu
Trên con tàu ven đảo Ouessant.
Hỡi Barbara
Cuộc chiến tranh xuẩn ngốc xiết bao
Còn em giờ đã ra sao
Dưới trận mưa lửa thép
Dưới trận mưa máu trào
Và người từng siết chặt em trong tay
Tha thiết ngày nào
Hiện sống còn đã mất hay biền biệt âm hao
Hỡi Barbara.
Brest hôm nay trời vẫn mưa
triền miên trên phố
Như cơn mưa dầm thuở đó
Nhưng chẳng giống ngày xưa , nay sụp đổ cả rồi
Mưa bây giờ tang thương áo não
Đâu còn là cơn mưa giông bão
Mưa sắt thép máu đào
Mà chỉ là mây tự trời cao
Mây lụi tàn
Như những con chó mất dạng
Dưới làn nước trong thành phố Brest
Rồi giụi chết ở nơi xa
Xa, xa hẳn Brest
Thành phố chẳng còn lại chút dấu vết.
Note:
Theo như GCC biết, bạn quí NXH cũng đã từng dịch bài thơ trên của
Jacques Prévert. Và bị ông Tú Rua chê quá xá quà xa. [Hồi mới qua, tình
cờ GCC có đọc bài này]. Giá mà có được cả
hai bản dịch, post lên thì cũng là 1 kỷ niệm quí về cả hai, TTT, đã đi
xa, và
NXH sắp đi xa, như GCC sắp đi xa.
Sự thực là, có khi sai mà lại hay.
Borges có phán về vụ việc này, cực thú vị. GCC vừa đọc trong “Borges
tám bó”.
Sẽ
post liền, vì nó liên quan tới “dịch là gì”, với riêng Borges.
Le Voyage
VIII
O Mort,
vieux capitaine, il est temps! levons 1'ancre.
Ce pays nous
ennuie, 0 Mort! Appareillons!
Si le ciel
et la mer sont noirs comme de l' encre,
Nos coeurs
que tu connais sont remplis de rayons!
Verse-nous
ton poison pour qu'il nous réconforte!
Nous voulons,
tant ce feu nous brule le cerveau,
Plonger au
fond du gouffre, Enfer ou Ciel, qu'importe?
Au fond de
l'Inconnu pour trouver du nouveau!
Charles Baudelaire
Death, old
captain, it's time to weigh anchor!
This
country
bores us, O Death! Let us set sail!
If the sea
and sky are as black as ink,
Our
hearts,
you mow well, are bursting with rays!
Pour your
poison on us; let it comfort
Us! We long,
so does this fire bum our brains,
To dive into
the gulf, Hell or Heaven,
What matter?
Into the Unknown in search of the new!
BARBARA
GIBBS
Viễn Du
Ôi
Thần Chết, tên thuyền trưởng già, đã đến giờ, nhổ neo đi
thôi!
Xứ này làm Gấu và bạn quí của Gấu, đều buồn phiền!
Ôi Thần Chết,
ra khơi nhe!
Nếu trời và đất thì đều đen như mực
Thì trái tim của chúng ta đầy những tia nắng
của những buổi sáng ngày nào ở Quán Chùa!
Chỉ
có những người vội vã rời bỏ Sài-gòn ngay những ngày đầu, họ đã không
kịp sửa
soạn cho mình một nỗi nhớ Sài-gòn. Còn những ai ở trong tâm trạng sắp
sửa ra
đi, đều tập cho quen dần với cơn đau sẽ kéo dài. Đều lựa cho mình một
góc đường,
một gốc cây, một mái nhà... để cười hay để khóc một mình. Một
mẩu đời, một đoạn nhạc, một bóng chiều, một giọt mưa, một sợi nắng...
để gọi thầm
trong những lúc quá cô đơn...
Buổi sáng
cuối cùng, cùng với
Sài-gòn, ngồi một mình trong quán vắng, nghe giọng ca Thanh Tuyền...
Cũng vẫn
giọng hát cũ, bài ca xưa mà sao nghe lòng mình thay đổi. Cảm giác đắng
cay, tủi
nhục những ngày tháng Tư nay đã hết hẳn rồi. Người Sài-gòn đọc trong
mắt kẻ thắng
trận nỗi thèm khát, mong sao được là nguỵ. Giờ này, tiếng hát như được
cất lên
từ đáy mồ biển cả, từ quần đảo ngục tù, như được sống lại từ một con
ngựa thành
Troie mà Cộng sản miền Bắc trong cơn điên cuồng vơ vét đã vô tình rước
về. Nàng
Mỵ Nương đang nhỏ lệ hòa tan bao nỗi tủi hờn của những anh chàng Trương
Chi suốt
đời không biết hát, suốt đời chưa từng được nghe một người hát cho một
người...
Và tôi bỗng thấy bớt nhớ Sài-gòn.
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
First Fig
My candle
burns at both ends;
It will not
last the night
But ah, my
foes and oh my friends -
It gives a
lovely light
Edna St.
Vincent Millay (1892-1950)
Trái Cấm Đầu
Cây nến của
Gấu cháy hai đầu
Làm sao cháy
suốt đêm?
Kẻ thù &
Bạn quí của Gấu ơi
Coi kìa, ngọn
lửa mới đáng yêu làm sao!
Theo
http://en.wikipedia.org thì
Fig :
1. trái fig, một loại giống trái sung rất ngọt khi chín
2. Hoa của cây gai thistle (Scots)
3. Trái cấm mà Adam và Eva ăn, và lấy lá làm áo quần để che đậy thân
thể
Thistle :
1. Loại cây đầy gai, cho hoa đẹp
2. cây gai mà Thượng Đế phạt Adam và Eva phải ăn khi ra khỏi
thiên đường.
First
Fig nằm trong cuốn A Few Figs from
Thistles .
Nói tóm lại thì fig chỉ là fig ! Diễn dịch nó thì tùy người đọc.
Note:
Cái tít “trái cấm đầu” này, là do đọc tiểu sử của nhà thơ mà có được:
Những năm
đầu đời ở Greenwich Village, bà đã có nick là một nhà thơ lang chạ,
lang thang nổi loạn,
a rebel bisexual bohemian. Vào thập niên 1920, là thần tượng của tuổi
trẻ “mèo đêm,
lao vào lửa, em lên anh nhé, mưa không ướt đất, vết thương dậy
thì”, the idol of the "flaming
youth", mà nghe truyền tụng, rất ư mê sex không cần những liên hệ có
nghĩa
[enjoy sex without 'meaningful relationships']. Trong số những văn nhân
thi sĩ
mê nàng có.... VP - ấy chết xin lỗi, nhưng có thể vì lý do này mà VP
chỉ coi văn
chương là “đồ chơi”! - Edmund Wilson, John Peale Bishop và Floyd Dell...
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
SOMEONE
A man worn
down by time,
a man who
does not even expect death
(the proofs
of death are statistics
and everyone
runs the risk
of being the
first immortal),
a man who
has learned to express thanks
for the
days' modest alms:
sleep,
routine, the taste of water,
an
unsuspected etymology,
a Latin or
Saxon verse,
the memory
of a woman who left him
thirty years
ago now
whom he can
call to mind without bitterness,
a man who is
aware that the present
is both
future and oblivion,
a man who
has betrayed
and has been
betrayed,
may feel
suddenly, when crossing the street,
a mysterious
happiness
not coming
from the side of hope
but from an
ancient innocence,
from his own
root or from some diffused god.
He knows
better than to look at it closely,
for there
are reasons more terrible than tigers
which will
prove to him
that
wretchedness is his duty,
but he
accepts humbly
this
felicity, this glimmer.
Perhaps in
death when the dust
is dust, we
will be forever
this
undecipherable root,
from which
will grow forever,
serene or
horrible,
our solitary
heaven or hell.
-W.S.M.
J.L. Borges
Một người
nào đó
Một người
đàn ông bị thời gian quần cho nát bấy ra.
Một người
đàn ông không chờ mong, ngay cả cái chết
(những chứng
cớ về cái chết, là trò thống kê, và mọi người, bất cứ một ai, cũng có
thể gặp
phải rủi ro,
là đếch làm sao mà chết được, và trở thành kẻ bất tử đầu tiên)
một người
đàn ông học bầy tỏ lòng biết ơn đối với của bố thí khiêm tốn của những
ngày:
ngủ, thói
thường, mùi vị của nước
một từ
nguyên học chắc như bắp, không chút hồ nghi
một câu thơ
La tinh hay Saxon,
kỷ niệm về 1
người đàn bà bỏ rơi anh ta,
từ ba muơi
năm về trước
người đàn bà
mà bây giờ nhớ lại không còn cay đắng
một người
đàn ông biết, hiện tại thì là cả hai: tương lai và quên lãng.
một người
đàn ông đã phản bội
và bị phản bội
anh ta có thể
cảm thấy, bất thình lình, khi băng qua một con phố,
một hạnh
phúc bí ẩn
không đến từ
phía của hy vọng
nhưng từ một
sự ngây thơ cũ kỹ
từ cái căn
cơ của chính anh ta, là 1 kẻ tà đạo, gốc Nha Trang, hay từ 1 vị thần
linh cà
chớn nào đó
Anh ta biết
rành hơn cả cái trò dí mắt sát tận nơi
Bởi là vì có
những lý do khủng khiếp hơn cả lũ hổ
Chứng tỏ cho
anh ta, sự cùng khổ là bổn phận của anh ta
Nhưng anh
khiêm tốn chấp nhận hạnh phúc này, tia sáng yếu ớt này.
Có thể,
trong cái chết, khi bụi là bụi,
Chúng ta sẽ
thiên thu vĩnh hằng, là cái gốc rễ không thể nào giải mã ra được
từ đó mọc lên,
thiên thu hằng hằng,
cái thiên đàng
hay địa ngục cô đơn của chúng ta,
thanh thản và
ghê rợn.
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
HERACLITUS
The second
twilight.
The night
sinking into sleep.
Purification
and oblivion.
The first
twilight.
The morning
that was dawn.
The day that
was morning.
The day of a
thousand things that will be the spent afternoon.
The second
twilight.
That other
habit of time, the night.
Purification
and oblivion.
The first
twilight ...
Secretive
dawn and at dawn
the Greek's
anxiety.
What scheme
is this
of it will
be, it is and it was?
What river
is this
where the
Ganges flows?
What river
is this whose source is inconceivable?
What river
is this
bearing
along mythologies and swords?
It would be
useless for it to sleep.
It flows
through sleep, through the desert, through a
basement.
The river
carries me off and I am that river.
I was made of
wretched stuff, mysterious time.
Perhaps the
source is inside me.
Perhaps the
fatal and illusory days
spring from
my shadow.
-S.K.
J.L. Borges
Heraclitus
Hoàng hôn thứ
nhì.
Đêm chìm vô
giấc ngủ
Thanh tẩy và
quên lãng.
Hoàng hôn thứ
nhất.
Buổi sáng là
rạng đông.
Ngày là buổi
sáng.
Ngày của ngàn
điều thì sẽ là một buổi xế trưa trải qua.
Hoàng hôn thứ
nhì.
Cái nửa thói
quen kia của thời gian, đêm.
Thanh tẩy và
quên lãng.
Hoàng hôn thứ
nhất….
Rạng đông giấu
diếm của rạng đông
Nỗi xốn xang
của người Hy Lạp
Cái sơ đồ này
là cái gì
của
cái sẽ là, đang
là, đã là?
Sông này là
sông gì
Sông Hằng chảy
về đâu?
Sông này là
sông gì mà cái nguồn của nó đếch làm sao mà hiểu,
hay chấp nhận được?
Sông này là
sông gì
Mang theo cùng
với nó những huyền thoại học
và những cây gươm?
Ích chi đâu
thứ này, dù chỉ để làm 1 giấc?
Nó chảy qua
giấc ngủ, qua sa mạc, qua tầng hầm
Dòng sông
mang Gấu đi xa, ra khỏi thế giới này, và Gấu là dòng sông
Gấu được làm
ra bởi cái chất khốn khổ khốn nạn đó, thời gian bí ẩn đó.
Có lẽ cái
nguồn thì ở trong Gấu
Có lẽ những
ngày số kiếp, ảo kiếp
Bò ra từ cái
bóng của Gấu.
À L'AUTEUR
DE « LA NUIT »
Il entra
dans sa tombe avant sa mort.
C'était sa
ville de chaque soir mais dépeuplée.
Noire la
grande porte. Quelques passants
Au loin,
encore. Puis personne, dans la nuit.
II suivit
une rue, puis d'autres, d'autres.
Une charrette,
une fois. Mais sans yeux
Le cocher,
ni visage. Et à nouveau
Ne retentit
que l'écho de ses pas.
Grilles
qu'il secoua à des cours fermées,
Sonnettes éperdument,
dont la rumeur
Se perdait dans
les escaliers de maisons vides.
Il descendit
des marches, vers un quai
Où un reste
du fleuve coulait encore.
II écouta le
bruit se défaire du temps.
Yves
Bonnefoy
TO THE
AUTHOR OF "NIGHT"
Before his
death, he entered his tomb: it was
His city of
each evening, though deserted now.
The portal
was black. Far off, a few stragglers
Hurried
away. Then no one, only night.
He sidled
down this street, that street, then another.
Once, he
even saw a cart; but the coachman
Had no eyes,
had no face. And again, all he heard
Was his own
footfall, echoing between the walls.
He shook the
iron gates to sealed-off courts:
No one home.
Frantically, he rang the bells;
But empty
stairways swallowed every sound.
He went down
steps to a landing by the river:
A thread of
the stream still flowed. He listened
To that
trickle, washing its hands of time.
Translated by Hoyt Rogers
Gửi tác giả “Bụi
và Rác”
Trước khi chết,
anh đi vô nấm mồ của mình
là thành phố
Xề Gòn
của từng buổi
chiều
nhưng bi giờ
đếch còn người nào,
họ vượt biển
bỏ chạy hết cả rồi.
Cửa thành
phố đen thui.
Xa xa có
bóng người, vội vã. Rồi đếch còn ai.
Đêm xuống.
Anh đi theo
con phố, rồi con phố, rồi con phố.
Một chiếc
xe, người đánh xe đếch có mắt, đếch có mặt.
Và anh lại
chỉ nghe tiếng bước chân của mình.
Những chiếc
cổng sắt anh lay lay, dẫn tới những sân, vườn khóa cửa.
Đếch có ai ở
nhà. Điên khùng anh nhấn chuông.
Tiếng chuông
loãng ra, rồi bị nuốt sạch bởi những cầu thang vắng lặng, trống trơn.
Anh đi xuống
từng bậc về phía bến Xề Gòn
Một mẩu sông
vưỡn còn chảy.
Anh nghe tiếng
động của nó rửa,
bụi thời
gian.
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
HERACLITUS
The second
twilight.
The night
sinking into sleep.
Purification
and oblivion.
The first
twilight.
The morning
that was dawn.
The day that
was morning.
The day of a
thousand things that will be the spent afternoon.
The second
twilight.
That other
habit of time, the night.
Purification
and oblivion.
The first
twilight ...
Secretive
dawn and at dawn
the Greek's
anxiety.
What scheme
is this
of it will
be, it is and it was?
What river
is this
where the
Ganges flows?
What river
is this whose source is inconceivable?
What river
is this
bearing
along mythologies and swords?
It would be
useless for it to sleep.
It flows
through sleep, through the desert, through a
basement.
The river
carries me off and I am that river.
I was made of
wretched stuff, mysterious time.
Perhaps the
source is inside me.
Perhaps the
fatal and illusory days
spring from
my shadow.
-S.K.
J.L. Borges
SOMEONE
A man worn
down by time,
a man who
does not even expect death
(the proofs
of death are statistics
and everyone
runs the risk
of being the
first immortal),
a man who
has learned to express thanks
for the
days' modest alms:
sleep,
routine, the taste of water,
an
unsuspected etymology,
a Latin or
Saxon verse,
the memory
of a woman who left him
thirty years
ago now
whom he can
call to mind without bitterness,
a man who is
aware that the present
is both
future and oblivion,
a man who
has betrayed
and has been
betrayed,
may feel
suddenly, when crossing the street,
a mysterious
happiness
not coming
from the side of hope
but from an
ancient innocence,
from his own
root or from some diffused god.
He knows
better than to look at it closely,
for there
are reasons more terrible than tigers
which will
prove to him
that
wretchedness is his duty,
but he
accepts humbly
this
felicity, this glimmer.
Perhaps in
death when the dust
is dust, we
will be forever
this
undecipherable root,
from which
will grow forever,
serene or
horrible,
our solitary
heaven or hell.
-W.S.M.
J.L. Borges
Elegy
I open the first door.
It's a large sunlit room.
A heavy car passes in the street
and makes the porcelain tremble.
I open door number two.
Friends! You drank the darkness
and became visible. (1)
Door number three. A
narrow hotel room.
Outlook on a backstreet.
A lamp sparking on the asphalt.
Beautiful slag of experiences.
Tomas Transtromer: the
great enigma, new collected poems
Bi Khúc
Tôi mở cánh cửa thứ nhất
Một căn phòng rộng, rạng rỡ ánh mặt trời
Một chiếc xe hạng nặng chạy ngoài đuờng
Chiếc bình sành rung rinh
Tôi mở cửa số hai
Bạn! Bạn uống bóng đen
Và trở thành nhìn rõ mồn một
Cửa số ba. Một căn phòng
khách sạn chật hẹp
Nhìn ra
con phố sau
Một ngọn
đèn loé lên trên mặt đường nhựa
Cái gỉ
sét tuyệt vời của kinh nghiệm.
(1) Cái hình ảnh “uống
bóng đen trở thành nhìn thấy" này, quá tuyệt.
Gấu đã từng lờ mờ nhận ra nó, khi đọc thơ Hoàng Hưng.
Câu thơ
"Muời năm còn quen ngồi một mình trong bóng tối" làm nhớ một chi tiết
về một nhà thơ trong nhóm Nhân Văn, [không nhớ là ai, NMG có nhắc tới
trong một số Văn Học], ông quen ngồi một mình đến nỗi bóng in lên
tường, thành một cái vệt, thời gian không làm sao xóa mờ.
Nếu như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của
người đó in lên tường mới khủng khiếp làm sao. Không ai có thể nhìn
thấy nó, để mà hỏi thử, thời gian, khi nào xoá mờ!
Thơ của Đêm gửi Bạn Quí
Không hiểu
Thế giới có
triệu điều không hiểu
Càng hiểu không
ra lúc cuối đời
Chẳng sao
khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời
sẽ hiểu thôi
Mai Thảo
Bài thơ được
nhiều người lập đi lập lại nhiều lần.
Trong bài của MT, có “ẩn dụ”, bói “mu rùa” bằng sao trời của Đông
Phương!
Với GCC, bữa nay, nhân bài thơ của MT, là một bài thơ khác, của
Stevension, cũng
nói tới sao trời.
Bài này, cũng được nhiều người nhắc tới. Bữa nay, Gấu lèm bèm về những
lèm bèm
của Borges, về bài thơ, trong cuốn This craft of verse:
Requiem
Under the
wild and starry sky
Dig the
grave and let me die
Glad did I
live and gladly die
And let me
down with a will
This is the
verse you’ grave for me:
“Here he
lies where he longed to be;
Home is the
sailor, home from the sea,
And the
hunter home from the hill.”
Stevension
Kinh Cầu
Dưới bầu trời
hoang dại, lia chia sao
Đào 1 cái hố
rồi bỏ Gấu xuống
Sướng làm
sao Gấu sống, và sướng ui chao Gấu ngỏm
Và nhớ gài 1
câu thơ lên mộ Gấu nhé:
Đây là nơi
thằng cha Gấu nằm
Nó thèm được
như thế, từ lâu rồi
Nè, đừng có
ném thây nó xuống biển nhe!
Nó đếch muốn
thây của nó trôi về xứ Mít của VC đâu!
Nhà của tên
thủy thủ, sau khi từ giã biển
Nhà của tên
thợ săn, từ trên đồi bò về
Borges phán:
Đúng là thứ
ngôn ngữ trần trụi, đếch cần hoa hoè hoa sói, thứ ngôn ngữ đời sống
[this verse is
plain language; it is plain and living]. Tuy nhiên, Borges phán tiếp,
nhà thơ
phải làm việc cật lực mới có được nó!
Tớ [Borges] đếch tin là những dòng như “Glad
did I live and gladly I die” lừ khừ bò ra, ngoại trừ những khoảnh khắc
hiếm quí, Bà Chúa Thơ rộng lượng với thi nhân.
[I do not
think that such lines as “Glad did I live and gladly I die” come except
in those
rare moments when the muse is generous].
Tuyệt!
Cái tay triết
gia Henri Lefebvre, cũng 1 ông thầy dậy Triết Học Mạc Xịt cho GCC [học
hàm
thụ] khi mới lớn, cũng phán 1 câu giống Borges, và Gấu cũng đã từng
chôm, đại khái, thơ là bề mặt của đời sống, theo nghĩa, những thắc mắc
băn khoăn siêu hình, đại
siêu hình phải ngoi lên đó để mà thở. Thơ là lời nói, để bay mẹ đi mất,
chứ đếch
cần nhớ lại!
Ui chao GCC đâu có nhớ em BHD nói với Gấu cái gì đâu, khi từ biệt,
vì lúc đó, chỉ lo khóc!
Những gì viết ra sau này, đều là tưởng tượng ra cả!
Hà, hà!
Ngoài ra
ngôn ngữ của Mai Thảo còn có một chiều sâu tư tưởng rất gần với
Jean-Paul
Sartre:
Sao không,
tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục
ngươi là, kẻ khác ơi! *
J.P.Sartre
viết:
"l'enfer,
c'est les autres"
tạm dịch:
tha nhân là
địa ngục của mình.
VIỆT BẰNG (1)
Tếu thật. MT
thuổng ý của Sartre, mà được đấng này thổi tới Trời luôn, thành Ông
Thần Mai Thảo!
Câu của
Sartre, nên dịch, địa ngục là những kẻ khác.
Sartre có mấy
câu "cửa miệng", thời của Gấu, như câu trên. Tất nhiên Mai Thảo cũng đã
từng nghe
"tụi nhỏ" tụng, và ông bèn sẵn đấy bèn dùng, hẳn là chẳng có ý thuổng,
như Gấu vu vạ.
Tuy nhiên, từ 1 câu như thế, mà thổi ông như thế, sợ ông ngượng!
Mai Thảo chẳng
ưa gì Gấu, dù Gấu viết thường trực cho tờ Vấn Đề, mục Tạp Ghi, với cái
nick Tuấn
Anh [Tuấn là tên thằng cu lớn, Anh là tên cô bạn]. Và cái vụ viết là
do TTT đề xuất. MT thường gặp Gấu, lấy bài, mỗi tháng 1 lần ở Quán
Chùa, và đi, trước
khi chợ họp. Gặp, có TTT, hay PLP, là khác, và cũng phải cỡ 8, 9 giờ
sáng.
|
|