|
Thơ
Mỗi Ngày
Good Friday
Jesus, I want my sins back.
My prattle, pride, and private prices-
climbing, clinching, clocking-
I might loan you a few for the evening,
so you don't show up at your own crucifixion
naked of all purpose. •
But for God's sake, don't spill any
redemption on them! They're my
signature looks. Body by Envy.
Make up & wardrobe provided by Avarice. Lord,
if you take away my inordinate cravings,
what the hell's left? Do you know
how much I paid for my best rages?
I want them all back if they're
so To Die For. Else shred my palms,
wash my face with spit, let the whip
unlace my flesh and free the naked blood,
let me be tumbled to immortality
with the stew of flood debris
that is my life.
Maria Melendez Kelson *
Poetry Magazine, March, 2014
* Đã xb hai tập thơ với Đại Học Arizona Press Flexible Bones (2010) và How
long She’ll Last in This World (2006). Hiện dậy tại Pueblo Community College
in Colorado.
Số báo này, có bài viết của Slavoj Zizek, Căn nhà tra tấn thơ của ngôn ngữ, GCC tính dịch, mà “quơn” hoài.
http://www.tanvien.net/Tho_Poetry/Zizek_Poetic_Torture_House_of_Language.html
The Poetic
Torture-House of Language
Căn nhà tra
tấn thơ của ngôn ngữ
What
if, however, humans exceed animals in their
capacity for violence precisely because they speak?
Liệu con người
hung bạo hơn loài vật, là do chúng... nói?
Không chỉ
nói, mà khốn kiếp hơn, làm thơ?
Đường ra trận
mùa này đẹp lắm
Almost
a century ago, referring to the rise of
Nazism in Germany, Karl Kraus quipped that Germany, a country of Dichter und Denker (poets and thinkers),
had become a country of Richter und
Henker (judges and executioners) - perhaps such a reversal should
not
surprise us too much.
Cách
đây hầu như cả 1 thế kỷ, nhân cái vụ vùng lên của Nazi tại Đức, Karl
Kraus bèn đi
1 cú thọc lét, rằng thì là Đức vốn là 1 nước của những thi sĩ và những
nhà tư
tưởng, nay trở thành xứ xở của ông tòa và đao phủ.
Cái sự đảo đi đảo lại 1 tí đó,
chắc cũng chẳng làm ai ngạc nhiên
Ui
chao sao giống Xứ Mít quá vậy.
Thi sĩ & Toán Sĩ & Nobel Sĩ, nay biến thành
Ông Tòa [Viện Tàn Sát Nhân Dân] và Đao Phủ Thủ [Cớm VC]
Sách Báo
Italo
Calvino: “There were years when I went to the movies almost every day,
around the time of my adolescence. Those were years in which cinema was
my world.”
The
cinema satisfied a need for disorientation, for shifting my attention
to another place, and I believe it’s a need that corresponds to a
primary function of integration in the world, an essential phase in any
kind of development.
Auschwitz Tháng Tư 1942
Obs 20 & 26 Aout 2015
Tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ của Lò Thiêu
Hãy nhớ rõ 1 điều, tiếng Đức không ngây thơ vô tội trước Lò Thiêu
G. Steiner: Phép Lạ Hổng
Martin Amis : "L’allemand est la langue maternelle de l’Holocauste"
http://bibliobs.nouvelobs.com/romans/20150818.OBS4359/martin-amis-l-allemand-est-la-langue-maternelle-de-l-holocauste.html
Tại làm sao mà ông đặt tít cho cuốn sách của mình, là Miền Nhận Hàng [la Zone d’intérêt: Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng]?
[Note: Câu này, bản in trên báo có tí khác, bản trên net]
Tôi tính gọi nó là “Tuyết màu hạt dẻ”, nhưng Simenon đã chơi cái tít “Tuyết dơ” rồi.
Nabokov phán, có hai thứ tít. Thứ lòi ra sau khi viết xong, như người ta đặt tên cho đứa bé, khi nó ra đời.
Thứ kia mới khủng, nó có từ trước, ngay từ đầu, nó cắm mẹ vô não của bạn
từ hổi nào hồi nào. Đây là trường hợp cuốn của tôi. Vùng nhận hàng, hay,
Miền Lợi Tức, là công thức mà Nazi sử dụng để chỉ Miền Lò Thiêu. Một cái
tít rõ ràng ngửi ra tiền.
Ui chao, thảo nào Bắc Kít gọi, Đàng Trong: Nhà của chúng. Đàng Ngoài, là, tính nhượng cho Tẫu!
Amis quả đúng là 1 nhà văn xì căng đan. Cuốn sách mới xb
của ông, bị Gallimard vứt vô thùng rác, dù đây là nhà xb bạn quí của ông.
Cũng đếch thè m nói năng, phôn, phiếc gì hết.
Rồi 1 nhà xb Đức cũng chê. Sau cùng, nhà Calmann-Lévy in nó. Theo tin hành lang, Gallimard chê, vì không tới tầm.
Nhưng cuốn này, quả là khủng.
Gấu mê nhất cuốn Nhà Hội của ông. Có gần đủ sách của ông, nhưng thú thực, không chịu nổi!
Then and Now
TLS September 20, 1923
Eliot's gift awry
We look back to a review by Edgell Rickward of The Waste Land by T. S. Eliot. To read the piece in full, go to www.the-tls.co.uk
Between the emotion from which a poem rises and the reader there is always
a cultural layer of more or less density from which the images or characters
in which it is expressed may be drawn. In the ballad" I wish I were where
Helen lies" this middle ground is but faintly indicated. The ballad, we say,
is simpler than the "Ode to the Nightingale"; it evokes very directly an
emotional response. In the ode the emotion gains resonance from the atmosphere
of legendary association through which it passes before reaching us. It cannot
be called better art, but it is certainly more sophisticated and to some
minds less poignant. From time to time there appear poets and a poetic audience
to whom this refractory haze of allusion must be very dense; without it the
meanings of the words strike them so rapidly as to be inappreciable, just
as, without the air, we could not detect the vibration of light. We may remember
with what elaboration Addison, among others, was obliged to undertake the
defence of the old ballads before it was recognized that their bare style
might be admired by gentlemen familiar with the classics. The poetic personality
of Mr. Eliot is extremely sophisticated. His emotions hardly ever reach us
without traversing a zig-zag of allusion. In the course of his four hundred
lines he quotes from a score of authors and in three foreign languages, though
his artistry has reached that point at which it knows the wisdom of sometimes
concealing itself. There is in general in his work a disinclination to awake
in us a direct emotional response. It is only, the reader feels, out of regard
for someone else that he has been induced to mount the platform at all. From
there he conducts a magic-lantern show; but being too reserved to expose
in public the impressions stamped on his own soul by the journey through
the Waste Land, he employs the slides made by others, indicating with a touch
the difference between his reaction and theirs. So the familiar stanza of
Goldsmith becomes
When lovely woman stoops to folly and Paces about her room again, alone,
She smoothes her hair with automatic hand, And puts a record on the gramophone.
To help us to elucidate the poem Mr. Eliot has provided some notes which
will be of more interest to the pedantic than the poet critic. Certainly
they warn us to be prepared to recognize some references to vegetation ceremonies.
This is the cultural or middle layer, which, whilst it helps us to perceive
underlying emotion, is of no poetic value itself. We desire to touch the
inspiration itself, and if the apparatus of reserve is too strongly constructed,
it will defeat the poet’s end ....
From the opening part, "The Burial of the Dead," to the final one we seem
to see a world, or a mind, in disaster and mocking despair. We are aware
of the toppling of aspirations, the swift disintegration of accepter stability,
the crash of an ideal. Set at a distance by a poetic method which is reticence
itself, we can only judge of the strength of emotion by the visible violence
of the reaction. Here is Mr. Eliot, a dandy of the choicest phrase, permitting
himself blatancies like “the young man carbuncular." Here is a poet capable
of a style more refined than that of any of his generation parodying without
taste or skill.... Here is a writer to whom originality is almost an inspiration
borrowing the greater number of his best lines, creating hardly any himself....
But it is the finest horses which have the most tender mouths, and some unsympathetic
tug has sent Mr. Eliot's gift awry. When he recovers control we shall expect
his poetry to have gained in variety and strength from this ambitious experiment.
TLS AUGUST 14 2015
Note:
Bài essay, in lần đầu, dù từ hổi nảo hồi nào, TV đi thêm 1 khúc, TLS điểm
“Hoang Địa”, từ 1923. Số này còn bài điểm cuốn tiểu sử Paz, cũng thú. Số
trước, 7 August, có bài về Maya, nhà thơ khuôn mẫu của nhà nước Liên Xô.
Steiner khi viết về cú tự sát của Maya, nhận xét, có thể những vị thần Đỏ
làm ông thất vọng. Nhưng theo Gấu, nói theo Kundera, ông tự sát, vì thơ của
ông làm nhiều người chết quá.
Thi sĩ cùng ngồi ngai vàng với đao phủ mà!
Un piège tendu
à la poésie
« Ce n'était pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme! Le poète régnait avec le bourreau ".
Đâu chỉ là thời của ghê rợn, của CCRD, của Đấu Tố, của Nhân Văn Giai Phẩm,
mà còn là thời của thơ ca trữ tình, Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, Đường
Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm.
Tên HPNT này, tởm hơn Văn Cao.
Văn Cao, viết “Tại Sao Tôi Viết Tiến Quân Ca”, như 1 lời sám hối, và sau TQC, bặt tiếng luôn.
Đọc báo thấy tin hắn sắp ngỏm.
Cũng, vừa thi sĩ vừa đao phủ. Chắc là vì thế mà nhà thơ hải ngoại NDT phải đi vội 1 bài ai điếu, trên Da Màu.
TLS, August 7, 2015
Note: Model poet. Nhà thơ khuôn mẫu.
Cái tít ở trang nhất, thú, “Mayakovsky của Xì”. Bài đọc cũng thú. Nó làm
GCC nhớ đến Bùi Ngọc Tấn, đi tù vẫn không quên mang theo những vần thơ Maya,
cái gì gì, Tôi sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng/Là toàn tập thơ bônsêvích
tôi làm"? (CKN 2000, trang 106)
Người điểm, Clare Cavanagh, dịch giả, chuyên gia thơ Ba Lan. Độc giả TV quá rành bà này.
Tác giả cuốn tiểu sử mới thú. Tin Văn đã từng giới thiệu bài viết của ông, về Brosky, đi là đi luôn, đếch thèm về, Nhà
thơ
nổi loạn.
Maya đã và vẫn luôn luôn là nhà thơ số 1, thiên bẩm của thời đại Xô
Viết của chúng ta, lãnh đạm với tác phẩm và hồi ức về ông là một tội ác,
Xì phán.
Câu phán của Xì bắt đầu “cái chết thứ nhì” của Maya, Pạt đi 1 đường bình loạn!
Tuy nhiên, không thú bằng nhận xét của Walter Benjamin về cái cú tự bắn vô đầu mình của thi sĩ khuôn mẫu của nhà nước Liên Xô:
Một kẻ chết ở cái tuổi ba lăm, sẽ luôn luôn được đời nhắc tới, ở bất cứ thời
điểm nào trong đời xừ lủy, bằng cái chết ở tuổi ba lăm! (1)
Tuyệt!
(1)
Vladimir Mayakovsky "was and remains the best, most gifted poet of our Soviet
epoch", Joseph Stalin proclaimed in 1935, five years after the revolutionary
poet's shocking suicide. "Indifference to his works and memory", the dictator
continued ominously, "is a crime." Thus began what Boris Pasternak called
Mayakovsky' s "second death". A suitably sanitized, Stalinized Mayakovsky
would henceforth, he lamented, be "forcibly introduced" into Russian literary
diets "like potatoes under Catherine the Great". This force-feeding produced
all sorts of consequences, intended or otherwise.
"'A man ... who died at the age of thirty-five", Walter
Benjamin famously remarked (paraphrasing Moritz Heimann), "will appear to
remembrance at every point of his life as a man who dies at the age of thirty-five."
"A man… who died at the age of thirty- five", Walter Benjamin
famously remarked (paraphrasing Moritz Heimann), "will appear to remembrance
at every point of his life as a man who dies at the age of thirty-five."
A spectacularly talented avant-garde writer who sides with the revolutionary
state early on, only to commit suicide at the age of thirty-six, at least
partly from disillusionment with that state, similarly seems to demand that
his life be read backwards. And indeed, Jangfeldt's preface ends with the
bullet that penetrated Mayakovsky's heart, while simultaneously "shoot[ing]
to pieces the dream of Communism and signal [ling] the beginning of the Communist
nightmare of the 1930s", as Watson's less than felicitous rendering has it.
Nevertheless, Jangfeldt's distinctive approach makes itself felt from the
start. The book opens neither with the poet's birth nor with his death. It
commemorates instead the day in July, 1915, when he first met the brilliant
theoretician Osip Brik and his bohemian, irresistibly attractive wife, who
became - with Osip's blessing - Mayakovsky's muse, patron and sometime lover
for the next fifteen years. Osip and Lili were enthralled by his reading
of the quasi-epic
"A Cloud in Trousers":
I don't have a single grey hair in my soul,
and no senile tenderness!
The might of my voice has expanded the world,
and I come forth - a beautiful
twenty-two-year-old ...
It was "a most joyous date", Mayakovsky later recalled, and one, Jangfeldt argues, that shaped the rest of his brief life.
Kẻ mạo tiếng
WRONG NOTE
In the Belgian city of Bruges a few hundred years ago, a nine-year-old chorister
who had sung a wrong note in a mass that was being performed before the entire
royal court in the Bruges cathedral is said to have been beheaded. It seems
that the queen had fainted as a result of the wrong note sung by the chorister
and had remained unconscious until her death. The king is supposed to have
sworn an oath that, if the queen did not come round, he would have not only
the guilty chorister but all the choristers in Bruges beheaded, which he
did after the queen had not come to and had died. For centuries no sung masses
were to be heard in Bruges.
Nốt nhạc sai
Ở thành phố Bruges, Bỉ, vài trăm năm trước đây, một bé gái
9 tuổi, trong giàn thánh ca nhà thờ , trong một thánh lễ, trước hoàng
gia, đã bị chặt đầu, do hát sai một nốt nhạc.
Nốt nhạc sai của cô bé khiến
hoàng hậu giật mình, rồi hôn mê, rồi chết.
Theo kể lại, vị hoàng đế thề rằng, nếu hoàng hậu không tỉnh lại, thì, không
chỉ cô bé gái, mà tất cả giàn thánh ca đều bị chặt đầu, và chuyện đã xẩy
ra đúng như thế.
Bởi thế mà hàng thế kỷ sau đó, thành phố này không có thánh
ca.
Viết Mỗi Ngày
manhhai
SAIGON 1969 - Đầu đường Tự Do - by Dr. William Bolhofer
Thư Tình nơi Sofa
ASIA
LITERARY REVIEW
Winter 2010
Modern Chinese Poetry -
Insistent Voices
Landscape Above Zero
It was the seagull that
taught the song to swim
It was the song that found the first wind's source
We shared shards of
happiness
Entering the home from different directions
It was father who
recognized darkness
It was darkness that led us to sudden lightning
The weeping door slammed
shut
And echo pursued its cries
It was the pen that
bloomed in despair
It was the flower that refused the necessary journey
It was rays of love that
awoke
Lighting the landscape above zero
Bei
Dao
Phong cảnh ở bên trên con số không
Đó là hải âu dậy bài ca bơi
Đó là bài ca tìm thấy nguồn gió
Chúng ta chia nhau những
mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ nhiều hướng khác nhau
Đó là người cha nhận ra
bóng tối
Đó là bóng tối dẫn chúng ta tới ánh sáng bất thần
Cánh cửa nức nở đóng sầm
lại
Và tiếng vang đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây viết nở hoa
trong chán chường
Đó là bông hoa từ chối một chuyến đi cần thiết
Đó là những tia tình yêu
thức giấc
Soi sáng phong cảnh ở trên con số không
Note: Bài
thơ này, có tới hai bản tiếng Mít, một của GCC, khi đọc Bei Dao trên tờ
Điểm
Văn Á, Asia Literary Review, mê quá [tại sao mê thì đừng bắt GCC phải
tự thú!]
Sau, gặp tập thơ của ông, bèn chơi liền, và được bạn Dã Viên dịch thẳng
từ tiếng
Tầu. Vị độc giả này, dân Huế, rất mê thơ. Rất giỏi tiếng Tầu. Trang TV
như vậy
là có thêm 1 vị hộ pháp!
Tks All. NQT
Phong cảnh trên độ không
Là ó
biển dạy tiếng hát bơi
Là tiếng hát lần về ngọn gió sơ ngộ
Chúng
ta đổi trao những miểng vụn hân hoan
Tiến vào nhà từ những phương trời khác biệt
Là
người cha xác nhận bóng tối
Là bóng tối nối liền ánh chớp kinh điển
Cánh
cửa nức nở đóng sầm lại
Tiếng vang đuổi theo tiếng nó khóc gào
Là bút
trổ bông trong tuyệt vọng
Là hoa từ chối cuộc lữ tất nhiên
Là tia
sáng tình yêu choàng tỉnh
Chiếu sáng phong cảnh trên độ không.
Bei Dao
Dã Viên
dịch từ nguyên tác
|
|