|
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ
của
thiên đường | Passage Eden | Sáng
tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch
thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả
sáng tác | Giới
thiệu | Góc
Sài gòn
| Góc Hà nội
| Góc
Thảo Trường
Lý
thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả
ngoại | Tác
giả & Tác phẩm | Text Scan
| Tin văn
vắn
| Thời sự | Thư
tín | Phỏng
vấn |
Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại
| Potin |
Linh tinh
|
Thống kê | Viết ngắn | Tiểu
thuyết | Lướt
Tin Văn Cũ | Kỷ
niệm | Thời
Sự Hình | Gọi
Người Đã Chết
Ghi
chú
trong ngày | Thơ
Mỗi Ngày | Chân
Dung |
Jennifer
Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật
Ký Tin Văn [TV last page]
Album
Thơ
Mỗi Ngày
CONON IN
EXILE
Author's
Note
Conon is an
imaginary Greek philosopher who visited me twice in my dreams, and with
whom I
occasionally identify myself; he is one of my masks,
Melissa is another; I want
my total poetic work to add up as a kind of tapestry of people, some
real, some
imaginary. Conon is real.
I
Three women
have slept with my books,
Penelope
among admirers of the ballads,
Let down her
hair over my exercises
But was
hardly aware of me; an author
of tunes
which made men like performing dogs;
She did not
die but left me for a singer in a wig.
II
Later
Ariadne read of The Universe,
Made a
journey under the islands from her own
Green home,
husband, house with olive trees.
She lay with
my words and let me breathe
Upon her
face; later fell like a gull from the
Great ledge
in Scio. Relations touched her body
Warm and
rosy from the oil like a scented loaf,
Not human
any more-but not divine as they had hoped.
III
You who pass
the islands will perhaps remember
The lovely
Ion, harmless, patient and in love.
Our quarrels
disturbed the swallows in the eaves,
The wild
bees could not work in the vine;
Shaken and
ill, one of true love's experiments,
It was she
who lay in the stone bath dry-eyed,
Having the
impression that her body had become
A huge tear
about to drop from the eye of the world.
We never
learned that marriage is a kind of architecture,
The nursery
virtues were missing, all of them,
So nobody
could tell us why we suffered.
IV
It would be
untrue to say that The Art of Marriage
And the
others: Of Peace in the Self and Of Love
Brought me
no women; I remember bodies, arms, faces,
But I have
forgotten their names.
V
Finally I am
here. Conon in exile on Andros
Like a
spider in a bottle writing the immortal
Of Love and Death, through the bodies of
those
Who slept
with my words but did not know me.
An old man
with a skinful of wine
Living from
pillow to poke under a vine.
At night the
sea roars under the cliffs.
The past
harms no one who lies close to the Gods.
Even in
these notes upon myself I see
I have put
down women's names like some
Philosophical
proposition. At last I understand
They were
only forms for my own ideas,
With names
and mouths and different voices.
In them I
lay with myself, my style of life,
Knowing only
coitus with the shadows,
By our blue
Aegean which forever
Washes and
pardons and brings us home.
1943/1942
BITTER
LEMONS
In an island
of bitter lemons
Where the
moon's cool fevers burn
From the
dark globes of the fruit,
And the dry
grass underfoot
Tortures
memory and revises
Habits half
a lifetime dead
Better leave
the rest unsaid,
Beauty,
darkness, vehemence
Let the old
sea-nurses keep
Their
memorials of sleep
And the
Greek sea's curly head
Keep its
calms like tears unshed
Keep its
calms like tears unshed.
LAWRENCE
DURRELL
Note: Cuốn
sách & bài thơ trong đó, mua & dịch, những ngày mới tới Xứ Lạnh
[đừng hỏi
tại sao Durrell, thuổng “xì tai” bạn Cà, đừng hỏi tại sao chân anh run]
mới vô
nghề bán bảo hiểm nhân thọ, có tí tiền còm, không phải tiền trợ cấp xã
hội.
Nhờ 1 năm đi làm, sau đó, khi khám phá bịnh đầy mình, nhà nước Canada
bèn cho
ăn chế độ bịnh, bảnh hơn trợ cấp xã hội. Thế là bèn bye bye tờ VH/NMG
ra ở
riêng, làm trang TV, hoành dương Cái Ác Bắc Kít.
Cái bà nhân viên nhà nước còn gật gù, ta biết, mi qua xứ ta không phải
để ăn vạ
nhà nước ta.
Vào cỡ tuổi của mi, ăn vạ cũng chẳng ai nói gì!
Ui chao lại nhớ cái tay Cà Na Điên già, trưởng phái đoàn Canada, ở Trại
Tị Nạn,
khi nhận Gấu. Chương trình nhận người tị nạn của Canada có tên là Nhân
Lực, Man
Power. Nước Canada cần cu li, đếch cần nhà văn. Nhưng nghe mày nói đi
tì VC vì
viết văn, ta bèn phá thông lệ!
Hà, hà!
Bản dịch bài
thơ trên, nhớ là có mấy câu thần sầu, kiếm không ra, cái gì gì
"giữ
những giọt lệ đá xanh, trong tim, trong hồn, đếch cho chẩy ra ngoài,
cho lũ ngu
nhìn thấy".
Chắc là
thuổng
ý TTT, lệ không rơi ngoài tim mình, lệ là những viên đá xanh, tim rũ
rượi…
Bài thơ trên, cũng có trong Collected Poems, mua 20, April 95!
Bi giờ mới đọc được/được đọc!
Coi lại, cuốn Bitter Lemons mua xon.
The
Life of Images
BÓC LỘT
Ai đó từng nói: “Dưới chế độ tư bản,
người bóc lột người. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn ngược lại”
(In
capitalism, man exploits man. In socialism, it’s exactly the opposite).
Cách
diễn đạt thật hay. Ở đâu cũng có cảnh người bóc lột người, nhưng ít
nhất, dưới
chế độ tư bản, sau khi bị bóc lột, mọi người ít nhất cũng còn cái nhà,
cái xe
và nhất là, tương lai cho con cháu; còn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa,
người ta
bị mất sạch, không những mất hiện tại mà còn mất cả tương lai lẫn quá
khứ.
— with Tuan Nguyen.
Câu nói trên đây, không biết Thầy Kuốc
moi ở đâu ra, nhưng trên Tin Văn có nhắc tới, và là do Koestler kể, ở
đoạn mở
ra cuốn Hành Động Sáng Tạo.
Theo ông, 1 câu chuyện tiếu lâm và 1 định luật khoa
học, cấu trúc, cách vận hành... giống nhau!
Trong giờ học tập, nghe anh Quản Ngố phán,
dưới chế độ tư bản, người bóc lột người; chế độ XHCN, ngược hẳn lại,
một tên sĩ
quan Nguỵ mới đứng lên chọc nhẹ Quản Ngố, ngược lại của “người bóc lột
người”, thì
cũng vẫn là… "người bóc lột người"!
Vẫn do Koestler kể, một ông chồng về nhà,
thấy ông linh mục đang làm cái việc của ông ta, ở trên giuờng, bèn lầm
lũi đi
ra bao lơn, nơi con chiên đang tụ tập ở bên dưới, chờ ông cha ban thánh
lễ.
Bà
vợ hỏi, anh tính làm gì vậy?
-Thì cha giúp anh làm việc của anh, anh
giúp cha làm việc của cha!
Một định luật khoa học, ra đời, chẳng
khác gì một câu chuyện tiếu lâm. Vật chất và năng lượng, khác hẳn nhau,
cho đến
khi Einstein, nói, chúng là 1, và ông chứng minh bằng công thức E=mc2.
E là năng
lượng, m là khối lượng, c là tốc độ ánh sáng. Khi Nobel Toán Mít giải
ra cái bổ
đề gi gì đó, tờ Time khen, ném 1 cây cầu qua 1 con sông, là cũng ý như
thế: có
hai mảnh toán học, trước giờ không có tí liên hệ, cho đến khi Nobel
Toán tìm ra
điểm chung của chúng.
Mỗi lần chúng ta chui vô bồn tắm, là nước rềnh
lên, hai hiện tượng vật lý khác biệt, được nối lại, qua luật tỉ trọng,
tức nguyên
lý Archimedes.
Tương truyền, ông vua thời đó nghi anh thợ làm vàng chôm vàng,
khi làm chiếc vương miện, và thay bằng bạc, nhưng không làm sao chứng
minh, bèn
kêu tới Archimedes.
Ông kiếm ra nó, khi đang tắm, bèn cứ thế chạy ra đường, la
lớn Eureka, Eureka! (1)
Archimedes bỏ chiếc vương miện, vào nước, ba lần.
Lần đầu,
vương miện bằng vàng.
Lần thứ nhì, bằng bạc.
Lần thứ ba, chiếc vương miện mà
anh thợ vàng làm, có chôm vàng, và thay bạc vô.
Ba cái cùng trọng luợng, nhưng
mức nước rềnh lên, khác nhau!
Đọc stt của Thầy Kuốc quá tức cười, chắc
cũng có tí bạc ở trỏng!
30.4.2015
Lê
Công Định
Yesterday at 4:26pm ·
Một bài nên
đọc nhân sự kiện gần đây
của các nhà ... văng.
Câu tiếng Mít,
trên, không chuẩn.
Đúng ra phải viết, thí dụ, nhân sự kiện gần đây liên quan tới giới
nhà văn.
Từ "gần đây" cũng không được!
Phải viết, nhân sự kiện đang hot
trong giới "văn nô", hay, trong "Hội Nhà Thổ", vẫn thí dụ!
Vì thấy được
LCD khen, GCC thử tìm đọc. Dởm!
Một câu văn
viết vội trên FB, thì cũng OK thôi. Tuy nhiên, liệu nó ảnh hưởng tới 1
cách đọc
vội, như khi đọc bài viết “hay”, của Việt Hoàng, mà GCC post lại ở đây,
và đi 1 đường
bình loạn sau.
Đã đến lúc trí
thức Việt Nam cần lựa chọn dứt khoát! (Việt
Hoàng)
Một sự kiện
vừa xảy ra tại Việt Nam, tuy không ầm ĩ nhưng đã đánh dấu một cột mốc
rất quan
trọng trong việc thay đổi tư duy của một tầng lớp vốn được xem là trí
thức nhất
Việt Nam, đó là việc Hội Nhà văn Việt Nam quyết định gạch tên những nhà
văn đã
tham gia vào ban vận động thành lập Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam cách đây
một năm.
Tin cho biết
là đã có hai mươi (20) nhà văn quyết định rút khỏi Hội nhà văn Việt
Nam. Số người
rời bỏ hội có thể sẽ tiếp tục gia tăng. Chúng ta thấy gì qua sự kiện
này? Về
phía Hội Nhà văn Việt Nam và ông Hữu Thỉnh thì đây là một hành động tất
yếu và
cần thiết vì rằng một người không thể ngồi một lúc hai ghế, một cầu thủ
không
thể tham gia cùng lúc hai đội bóng. Nhất là khi hai tổ chức là Hội nhà
văn Việt
Nam và Hội Văn đoàn Độc lập không cùng một chính kiến và cũng không
cùng một mục
đích. Hội nhà văn Việt Nam là một tổ chức ngoại vi, là cánh tay nối dài
của đảng
cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Hội ăn lương của ĐCSVN và vì vậy hội là công
cụ của
ĐCSVN. Mọi hoạt động của hội đều do đảng chỉ đạo và mục đích tối thượng
của hội
là giữ vững sự ổn định của đảng. Chuyện tự do sáng tác hay “khai dân
trí” chỉ
là chuyện thứ yếu. Trong khi đó Hội Văn đoàn Độc lập, nếu được khai
sinh thì mục
đích của hội sẽ là tự do sáng tác và mục đích chính là phục vụ người
dân Việt
Nam thông qua các tác phẩm mang hơi thở của cuộc sống. Nếu Hội Văn Đoàn
Độc Lập
không “độc lập” với chính quyền thì chúng tôi cũng đồng ý với nhà văn
Phạm Thị
Hoài rằng Văn đoàn Độc lập sẽ là một hội …thừa.
Cái sự kiện đang
coi là “hot”, nếu có, thì không phải "gạch tên", mà là, "rút tên" khỏi
Hội Nhà Thổ, mới đúng.
Gạch tên là
chuyện thường ngày ở huyện VC.
Trước, là thịt
liền, như vu là Việt Gian, thời còn là Việt Minh, làm thịt sạch những
nhà trí
thức khác không phải cùng băng đảng, và để làm điều này, chúng bèn phát
động
toàn quốc kháng chiến chống Tẩy, trong khi Tẩy năn nỉ xứ Mít vô Liên
Hiệp Pháp.
Tẩy đề nghị cho xứ Mít hưởng chế độ libre, tự do, trong khi VC đòi "độc
nập",
indépendant, y chang văn đoàn "độc nập" bây giờ.
Hoặc vu cho tội chống
Đảng, như đám Nhân Văn bị, hồi 1954.
Quyết định gạch tên những nhà văn tham gia
Văn đoàn Độc lập
của Hội nhà văn Việt Nam là một cơ hội tuyệt vời cho những nhà văn chân
chính,
những người từ lâu đã muốn rời bỏ cái hội “hữu danh vô thực” để
trở về với
nhân dân, về với không gian bao la và tự do. Chúng ta dễ dàng nhận thấy
sự vui
mừng, sung sướng đến vô hạn của những nhà văn, nhà thơ vừa bị khai trừ
đó trên
FB của họ. Họ đã chờ đợi quá lâu và thời gian đã làm xong phần việc của
mình. Một
cuộc chia tay và đoạn tuyệt cần thiết đã đến. Đã đến lúc “ngô ra ngô,
khoai ra
khoai”. Không thể vàng thau lẫn lộn mãi được.
Một chuyện thường ngày ở huyện VC như
thế, mà tại làm sao phải đợi gạch tên mới mừng phát điên lên được?
Đợi quá lâu nữa chứ!
Mà ra khỏi Hội Nhà Thổ, vô hội Độc Nập thì có
gì ghê gớm?
Nhà văn thì phải viết, mà viết thì phải một mình, cần đéo gì Hội?
Tao là nhà văn, và cái job của tao là cô đơn. I am a writer, it's my
job to be
alone, như 1 em Ái nhĩ lan, Anne Enright, phán. (1)
Vô Hội,
cũng được đi, nhưng phải có tác
phẩm.
Nhìn
đám Văn Vịt coi, có tên nào viết
ra hồn đâu!
Tởm
nhất câu "trở về với nhân dân"! NQT
Sứ mệnh
lớn
nhất và cao cả nhất của người trí thức là “hướng dẫn và lãnh đạo quần
chúng”
chứ không phải chạy theo quần chúng, và nhất là chạy theo một thể chế
chính trị
đã lỗi thời và mục ruỗng như ĐCSVN.
Bài viết của tay này, chắc
là đệ tử của NGK, nên mục đích của
nó, là cũng tính "hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng", thay VC!
Không hiểu làm sao mà Lê
Công Định khen, hay?
Cái khốn nạn nhất của
chính trị xứ Mít, theo Gấu, là cái trò
"hướng dẫn lãnh đạo" quần chúng. Trò
bửn này nên chấm dứt.
Không phải bây giờ, mà
từ khi còn Miền Nam, Gấu đã nhìn ra điều này, và đề nghị, thay vì hướng
dẫn lãnh
đạo quần chúng, thì làm ngược lại, trao cho quần chúng tri thức, sự
hiểu biết,
thông tin, sự kiện… và để cho quần chúng tự quyết định phần số của họ.
Đó là mục đích của tờ Tập
San Văn Chương, qua lời Phi Lộ của
nó, với định nghĩa, nhà văn là kẻ "được thông tri đường được", mieux
informer, chứ đéo phải là kẻ
"hướng dẫn lãnh đạo" quần chúng!
Bởi
vì Tập san Văn chương quả có những nét riêng: nó cách mạng, lật đổ theo
tinh thần
bất bạo động, hoặc theo hiểu hiền lành của nhà văn Nga, Chekhov. Bây
giờ, sau
hơn ba mươi năm, trong số ít ỏi những thực sự quan tâm và gắn bó với
một nền văn
chương Miền Nam trước 75, có người đã nhận ra, bên cạnh cuộc cách mạng
lớn, do
Sáng Tạo hô hào, có một cách mạng nhỏ, thầm lặng của Tập san Văn
chương. Ngay
trong lời phi lộ số ra mắt, khi định nghĩa nhà văn, một người được
thông tri đầy
đủ (những dữ kiện của thời đại anh ta đang sống), chúng tôi đã hoài
vọng một điều:
hãy đưa ra thật nhiều thông tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng
đang ảnh hưởng
đến toàn thể nhân loại, rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu
vị của họ.
Cho phép tôi dùng chữ khẩu vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết
ở khắp
nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir, và mùi vị,
saveur, trong
tiếng La-tinh là cùng một nguồn).
Nguyễn
Trường Trung Huy
Yesterday at 3:54am · Edited
·
...10 năm ngày mất của nhạc sĩ TRẦN
THIỆN THANH/ ca sĩ NHẬT TRƯỜNG, 2 bài yêu thích nhất của mình: TUYẾT
TRẮNG
& BIỂN MẶN. Trong số mới nhất này có 1 trong 2 bài đó, đã bất hủ
với tiếng
ca SĨ PHÚ.
PHẠM THẾ MỸ - mình thích nhất bài NẮNG LỤA VÀNG/ ÁO LỤA VÀNG , trong
nước , ca
sĩ ÁNH TUYẾT từng ra 1 CD hát nhạc PTM - có 1 số bài lạ & hay!
Note: Trần
Thiện Thanh, thì phải là Rừng Lá Thấp, chứ Biển Mặn & Tuyết Trắng
thì có gì
là ghê gớm. Lời nhạc của RLT, có những câu quá khủng, phải nói như vậy.
Nó, với
1 vài bài nữa, theo GCC, suốt quãng đời tù đầy trong những trại tù VC.
Gấu đã đi
1 một đường về nó, nhưng chắc là còn phải đi thêm vài đường, nhiều
đường, về cái gọi là “hồn” của
văn chương
Miền Nam, trước 1975: Nhạc sến.
Như lính giữa rừng
Journeys, like artists, are
born and not made.
(L. Durrell. Chanh Chát,
Bitter Lemon)
(Lãng Du, như nghệ sĩ, có ở
trong máu, chứ không làm ra được).
Tôi vẫn thường nghĩ, đi chỉ
là để mở ra cõi trong riêng tư, khi đứng trước một cõi ngoài đổi khác.
Thú vị
hơn, nếu bạn đồng hành là một cố nhân tha phương hạnh ngộ.
Tôi và N. ngồi giữa vườn cây
trong lúc hai bà len lỏi giữa lối đi thời gian dẫn về một làng da đỏ
tại vùng
Bắc Mỹ 500 năm trước đây với tất cả nền văn minh, lối sống của họ, nay
được thu
nhỏ lại để trình bày cho du khách. N. trước năm 75 là một giáo sư trung
học,
ngoài ra còn viết văn, làm xuất bản. Thời gian tụi này ở trại cấm Thái
Lan, anh
thường gửi tiền, và cùng một vài người bạn can thiệp, vận động mong cho
tụi này
qua được thanh lọc. Tuyển tập truyện ngắn do anh xuất bản năm 1974,
trong có
bài, hình ảnh cùng vài dòng tiểu sử tụi này tình cờ gặp được trong đám
người
chung số phận, không ngờ thật hữu ích khi thanh lọc. Tấm hình Cao Lĩnh
chụp vào
một buổi chiều tại Sở Thú Sài-gòn là tấm hình độc nhất đánh dấu những
ngày cá
nhân tôi mê mải với những chữ.
N vẫn còn phong độ, nghĩa là
vẫn đẹp trai, vẫn còn những nét lỉnh kỉnh như cái ống vố, cách bập bập
thuốc,
như để giữ ấm hơi đời, ở cõi người lạnh giá này. Và anh vẫn còn đam mê
làm nhà
xuất bản, vẫn muốn có dịp qui tụ một số cây viết, trong một cuốn sách
có những
dòng chữ đẹp như những bức hình của Cao Lĩnh ngày nào. Tôi nói với anh,
có
những cuốn sách tạo nghiệp. Cuốn trước, trong lời tựa, anh coi đây là
vốn liếng
một đời cho quê hương, cho bạn bè. Chưa đầy một năm, Cộng Sản thôn tính
Miền Nam.
Bây giờ anh lại lăm le làm
xuất bản, biết đâu cái nghiệp lần này khá hơn, tụi mình lại có dịp ngồi
lai rai
ở Quán Cái Chùa, tại Sài-gòn.
Tôi vẫn còn nhớ cái nhìn của
anh sinh viên Luật, người Thái Lan, được Bộ Nội Vụ và Cao Uỷ Tỵ Nạn
mướn làm
thẩm tra viên trong buổi thanh lọc. Cái nhìn dừng lại rất lâu trên
khuôn mặt
tiều tuỵ ở ngoài đời so với trong hình. Có vẻ anh tin. Có vẻ anh thông
cảm. Có
vẻ anh sợ hãi, không ngờ sự khủng khiếp của một chế độ so với sức chịu
đựng của
con người.
Trong tuyển tập có một truyện
ngắn đã theo tôi từ ngày học trung học. "Con thằn lằn chọn nghiệp",
của Hồ Hữu Tường. Thời gian đó, tôi đã phải vô Thư viện Quốc gia ở
đường Gia
Long, để nắn nót chép từng chữ truyện ngắn trên, bên cạnh những dòng
chữ Tây,
chép từ cuốn "Biện chứng pháp" của Trần Đức Thảo. Đám chúng tôi vẫn
thường tâm sự, hạnh phúc nhất, mà cũng bất hạnh nhất của những người 20
tuổi
vào những năm 60, đó là chúng tôi có quá nhiều ông thầy, quá nhiều
triết
thuyết, chủ nghĩa, nào hư vô, hiện sinh, hiện tượng luận, cơ cấu
luận... Những
đàn anh chúng tôi, dù sao cũng chỉ chịu khổ với một chủ nghĩa Cộng Sản.
Như nhiều người đã biết, Hồ
Hữu Tường lúc đầu theo Trotsky, dính vô vụ Bình Xuyên và bị ông Diệm
kết án tử
hình, sau nhờ sự can thiệp của một số nhà văn, trí thức tên tuổi trên
thế giới,
án tử hình đổi thành khổ sai chung thân, tại Côn Đảo. Trong lúc đối
diện với
cái chết, ông viết "Trầm tư của một người bị tội tử hình", và mơ
tưởng Đức Phật lại trở lại với thế gian này. Hồi còn mồ ma tờ Nghệ
Thuật, Thanh
Tâm Tuyền có viết một loạt bài về cuốn Trầm Tư, qua đó ông cho rằng
giấc mơ về
sự nhập thế của Đức Phật cũng nát tan như mảnh đồng bằng chằng chịt
những bờ
của Miền Bắc. Thanh Nam, lúc đó là Tổng Thư Ký tòa soạn, nói đùa, bộ
anh tính
đụng vô vị thần linh Miền Nam hay sao. Ít người biết chuyện, chính Hồ
Hữu Tường
đã quyết định con đường cầm bút của ký giả Ba Tê (bút hiệu của Thanh
Tâm Tuyền
khi viết trên mục Tạp Ghi của nhật báo Tiền Tuyến tại Sài-gòn). Khi Hồ
Hữu
Tường làm tờ Phương Đông [hay Đông Phương?] tại Sài-gòn, Thanh Tâm
Tuyền lúc đó
còn là sinh viên ở Hà-nội, có gửi bài tham dự cuộc thi truyện ngắn.
Truyện được
giải nhì, không được đăng, vì không thể đăng được. Người viết được nghe
bà cụ
của thi sĩ kể lại, những ngày còn đi học, đám chúng tôi, những bạn bè
của người
em thi sĩ, vẫn lấy nhà bà cụ làm nơi tụ họp.
Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm
Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi
nhập thế
trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con
người nào,
mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu
hạn, và
chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho
các đa số
các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre:
Con người
bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc.
(Sisyphe là
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh
núi, hòn
đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Tôi cũng nghe nói. chị NG.
phu nhân anh N. là một ca sĩ. Lần trước tụi này lên Montreal, thời gian quá ít ỏi nên
không được
hân hạnh nghe tiếng hát của chị. Tôi nói với N., cũng vẫn một giọng đùa
đùa,
chỉ mong chị đừng có tiếng hát của cô Tơ trong Chùa Đàn.
"Nguyệt giãi tàn
nhang...ư... Con sông hồ nước biếc... Bá Nhỡ ngồi trước mặt kia, sinh
mệnh chỉ
còn dính vào cuộc đời bằng một vài khổ đàn nữa thôi. Tắt bản đàn là đời
người
đang cúi xuống cái gẩy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn".
Cũng lại một cuốn sách tạo
nghiệp, Chùa Đàn. Đọc lại tôi thấy tiếc hùi hụi, phải chi Nguyễn Tuân
đừng thêm
vô Mưỡu Cuối. Cũng vẫn chuyện Ngày Mai ăn bánh khỏi trả tiền, trong một
Thị
Trấn Ngày Mai, của một Ngày Mai Ca Hát. Ngày Mai to lớn hơn, huy hoàng
hơn...
Vâng, cũng những bài xưa cũ
đó, buổi tối tại một nhà hàng, đám chúng tôi ngồi nghe chị NG hát.
Cô Tơ đã
chết
rồi, những bài hát không làm sống lại quá khứ nhưng rửa sạch
quá khứ,
đem lại công bình cho những người đã chết.
"Như lính giữa rừng yêu
lá thấp mà thôi...".
Nguyễn Quốc Trụ
Rừng Lá Thấp,
nếu mê nó, thì cũng nên biết, nó được sáng tác trong thời điểm nào.
Trong dĩa
nhạc ASIA về TTT, MC Việt Dzũng cho biết, được sáng tác trong dịp Mậu
Thân, như
lời ai điếu gửi cho 1 chiến hữu của TTT, 1 vị đại uý, GCC không nhớ
tên, sĩ
quan VNCH, ngã xuống tại khu vực Hàng Xanh, trong vụ Mậu Thân.
Thành ra câu “lá
rừng che kín đường về phồn hoa”, đúng là nén hương của TTT tiễn bạn
mình.
Và của GCC.
Nhưng, nếu không vì dung
nhan tàn tạ, chắc gì Thầy nhận ra em?
Bụi
II
Chiều ngu
ngơ phố thị
Gửi T.L
Ngày ủ dột
Buồn dậy muộn
Câu thơ
trong giấc ngủ bỏ quên
Nhớ em thảm
thiết.
Trong câu
thơ chắc có chút hạnh phúc
Cho nên tình
yêu là vất vả đi tìm
Tìm em như
thể tìm chim
Chim bay biển
Bắc anh tìm biển Đông.
Chiều ngu
ngơ phố thị
Mơ gặp em giữa
đám người xa lạ
Với nụ cười
thật ngày xưa
Khi em từ
giã.
Kiếp trước
tôi có nợ nần chi ông đâu
Mà sao kiếp
này ông đòi kiếp khác?
Tôi đã nói
ông đừng gặp tôi nhiều
Khi tôi đi rồi
Ông sẽ khổ
Nhưng thôi
ông hãy quên tôi đi
Quên đi,
quên đi....
Em ở đâu, ở
đâu
Thèm một
chút mồ hôi trên ngấn cổ
Em ở đâu, ở
đâu
Thèm nụ hôn
sầu
Lời biếng
nói
Đôi tay mềm
mại
mãi
trong tôi.
Hôm nay ông thầy trưởng môn Literary London gửi
mail báo cho tôi biết bài viết năm ngoái của tôi đã được chọn vào hợp
tuyển Literary London anthology 2015. Ha, cái này gọi là có linh cảm
đi, mới mấy hôm trước tự dưng tôi nhớ đến môn đó. Năm ngoái, một truyện
ngắn của tôi cũng được chọn cho Creative Writing anthology 2014. Như
mọi khi, tôi được yêu cầu cung cấp vài dòng vắn tắt về tác giả. Tôi nhớ
khi nào gặp yêu cầu tương tự, tôi đều gửi đi một câu đơn giản và cực kỳ
vắn tắt ...
Continue Reading
Chúc Mừng CM
TIN VAN & NQT
Thơ
Mỗi Ngày
http://huyvespa.blogspot.com/2015/05/tho-tren-ky-hai-muoi-1960-saigon.html
Note: Câu
thơ thứ nhì làm nhớ thơ của Cô Bạn của GCC.
Chỉ 1 câu, đủ
là thi sĩ, đúng ý của Borges:
Hồn Đông
Phương thất lạc, buồn Tây Phương
Quách Thoại
có mấy câu, GCC đọc từ hồi còn trẻ, nhớ hoài, và hình như, với GCC, ông
như thế,
đủ là 1 thi sĩ:
Thơ tình đem đọc lại
Ôi ngày xưa ngày xưa
Phút ban đầu cuồng dại
Đâu biết gì gió mưa
The Lunatic
SOME
LATE-SUMMER EVENINC
When the
wind off the lake
Stirs the
trees' memories
And their
dark leaves swell
Against the
fading daylight
With an
outpouring of tenderness-
Or could it
be anguish?
Making us
all fall silent
Around the
picnic table,
Unsure now
whether to linger
Over our
drinks or head home.
Một Buổi Chiều
Cuối Hè
Khi gió hồ
Thổi hồi ức của
cây
Và những cái
lá âm u của chúng
Bay phấp phới,
Căng phồng lên
Như muốn chống
lại
Ánh sáng ban
ngày nhạt nhòa dần
Bằng một nỗi
dịu dàng tràn trề -
Hay, đau nhức khắc khoải?
Bọn mình
bèn trở nên câm nín
Chung quanh bàn dã ngoại
Không làm sao
quyết định
Chơi thêm
vài lon bia
Hay chuồn về
nhà?
Map
Sách
Báo Mới, Cũ
Số dzách. Phải
order. Sách mới về: Nhà văn Ba Lan lầu bầu về chuyện dziết dzăng. Nhân
tiện cầm luôn Người Nữu Ước, số 11.5.2015, trong có bài
Trận đánh bảo vệ Cột Chống Trời,
The Battle
to save Africa's Elephants
Elephant
Watch
As
poachers
grow bolder, Andrea Turkalo records the behavior of a vanishing species.
By
Peter
Canby
Note: Số báo
này, mua ở Paris, lần đi Tây, đúng lúc Grass đợp Nobel. Nhờ đọc nó,
biết
được 1 số sự kiện, đưa vô cái thư ngỏ gửi xừ luỷ.
Nếu không, chưa chắc có cái
thư ngỏ. (1)
Đọc lại, đọc cái bài inédit của Grass, thì lại ngộ ra 1 điều, có thể
Sến hiểu
sai, hoặc không tới, Thầy của Sến.
(1)
Cái thư ngỏ
gửi Grass, khởi từ những dòng sau đây, trong bài trả lời phỏng vấn của
tờ Văn Học
Tẩy:
Và khi (phải)
nghĩ về giải Nobel, tôi đặt cho tôi câu hỏi này: tại sao những người ở
Stockholm không có ý nghĩ trao giải năm nay cho hai tác giả ngôn ngữ
Đức, cho
Christa Wolf (1), và cho tôi - vào thời kỳ đó, nước Đức còn chia cắt
thành hai.
Người ta đã thành công, tiếp theo sau chiến tranh và Chiến Tranh Lạnh,
chia cắt
Âu Châu, và cùng với nó, nước Đức. Cái nước Đức đó đã tuyệt đối bị chia
cắt, về
phương diện ý thức hệ, kinh tế, quân sự (Liên Minh Đại Tây Dương, OTAN,
ở Tây
Phương), tất cả là chia cách. Nhưng văn chương, không. Hai nền văn
chương vẫn
có giao tiếp với nhau, mặc dù nếu xung đột. Và cuộc thoại đó chẳng bao
giờ bị đứt
quãng, mặc dù người ta vẫn cố gắng, hoặc là ngăn cản du lịch, về phía
Cộng Hòa
Dân Chủ Đức, hoặc cấm trình diễn những vở kịch của Brecht, tại Cộng Hòa
Liên
Bang Đức. Một điều tốt, vào thời kỳ đó, như tôi nghĩ, đó là khuyến
khích cái ý
chí đề kháng của văn chương yếu, bằng cách cho cả hai, Christa Wolf và
chính
tôi, giải thưởng. Chuyện đã không xẩy ra. Nhưng bà và tôi, cả hai đã
sống sót.
30.4.2015
Nhân nhắc tới
bài viết “Ôi cuộc chiến đáng yêu làm sao!” [chắc là thuổng cái tít của
VC], của
Simic, GCC bèn nhớ ra là Camus, trong “Camus ở báo Combat” cũng có cả 1
loạt bài,
khi cuộc chiến 1945 chấm dứt, báo động lương tâm thế giới, về cách đối
xử giữa… Vẹm và Ngụy. “Đéo có nạn nhân
& Đao
phủ thủ”, “Neither Victims, nor Executioners”, bài đầu, Nov 19-30.
1946.
Loạt bài
này đòi hỏi bản quyền, copyrighted, trong tất cả những bài viết của
Camus, trên
báo này.
White House
calls Seymour Hersh story about Osama bin Laden raid ‘baseless’
Nhà Trắng phán, nhảm!
GCC cũng
nghi, thế. Đọc cái cú "điều cha" Mỹ Lai, là cũng đã thấy nhảm rồi.
Thí dụ, đoạn phỏng vấn đấng nhà văn Mít NQD, bố mẹ Ngụy, đưa qua Mẽo,
liền sau
30 Tháng Tư, có đủ hết, chỉ còn thiếu cái ngu của VC, thế là bò về!
Nói rõ hơn, cái unfinished, phải kiếm ở Mẽo, ở bất cứ đâu, chứ không
phải ở xứ
Mít.
Về kiếm cái
nhà ngồi lên đầu xứ Mít, dân Mít, thế là đủ rồi!
Khiem
Do
20 hrs · Edited ·
Cái chết của Osama bin Laden, theo Sy
Hersh, tóm tắt:
Từ 2006, Bin và gia đình là con tin-tù
binh của ISI (tình báo Pakistan) tại Abotabbad, giam kín tại căn nhà
đó, có BS
ở nhà gần cạnh điều trị, tổn phí do Saudi đài thọ
1 viên chức ISI báo cho CIA để lấy thưởng 25 triệu. Mỹ áp lực với P, và
P đồng
ý dàn dựng cho Mỹ giết, kịch bản đầu là " bắn hạ tại bên kia biên giới
Afhganistan (ngoài lãnh thổ của P)
Trực thăng Mỹ tai nạn rơi ngay trong sân, khiến KB hỏng, Tòa Nhà
trắng...
See More
Note:
Seymour M. Hersh
cũng là tác giả bài viết "Mỹ Lai nhìn lại"
The Killing
of Osama bin Laden
Seymour M.
Hersh
Pham
Thanh Cong, the director of the My Lai Museum, was eleven at the time
of the
massacre. His mother and four siblings died. “We forgive, but we do not
forget,” he said.
PTC, giám đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Lai, 11 tuổi lúc xẩy ra vụ tàn sát. Mẹ
và bốn anh chị em chết. Chúng tôi tha thứ, nhung chúng tôi không quên
Kẹt, là ông này không biết
cái vụ VC dựng lên cú đầu độc tù
Phú Lợi.
Giả như biết, ông có tha thứ cho... VC không?
Trong khi ông bố của 1 nhân vật của Nam Lê, sống sót cú Mỹ Lai, nhưng
sau đó, theo... Ngụy.
Ông bố giải thích cho ông con nghe lý do:
Tao có đủ hận thù cho tất cả lũ Mít!
Anh
cũng nhớ ông bố đã từng
quất cho anh hai chục lần rồi xát dầu cù là con hổ lên vết thương. Và
anh
biết được một điều là bố anh đã từng chứng kiến vụ tàn sát Mỹ Lai, khi
ông mới
14 tuổi, và may mắn sống sót, nhờ nằm bên dưới một cái hố, trên là
những xác dân làng,
trong có mẹ ruột của ông, tức bà nội của anh, trên một chục mạng bị
lính Mỹ xả
súng máy, sát hại.
Sau vụ Mỹ Lai, cha của nhân vật
kể chuyện đã gia nhập quân đội VNCH và chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ;
khi được
hỏi tại sao ông có thể chiến đấu cùng với họ sau khi chứng kiến vụ tàn
sát đó, ông
trả lời: “Ta chẳng còn gì ngoài hận thù. Nhưng ta có đủ hận thù cho tất
cả mọi
người.” Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông bị đầy đi trại cải tạo, bị tra
tấn, và bị
bỏ đói. Vào năm 1979, ông tổ chức cuộc vượt trốn của gia đình, qua Úc.
Chuyến đi Mỹ Lai của 1
phóng viên và những bí mật của quá khứ
Seymour M. Hersh
Nguyen Qui
Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular
bar and
restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen.
Thirty-one
years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning
journalist
and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to
come back
and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and
living as
someone else in the United States. I was grateful for the opportunities
in America,
but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time
as a
reporter for National Public Radio, and fell in love with it."
The New
Yorker, My Lai Revisited, Mar
30 2015
Nam Le online
Stories to Explore Someone Else’s Skin
Bản tiếng Pháp trên Books, dịch
từ bản tiếng Anh, trên The New York
Times
A World of Stories From a Son of Vietnam
Nam Le, bestseller
Hiện tượng bestseller ở
trong
nước, với Nguyễn Ngọc Tư, và ở ngoài nước, trên thế giới, đúng hơn, của
Nam Le,
theo Gấu, có thể là hồi chuông báo tử của nền văn học Bắc Kít, [lập
lại, văn học
Bắc Kít, không phải văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa], mà đỉnh cao
của nó là
chiến thắng Miền Nam, hiểu theo cả hai nghĩa, đỉnh cao và vực thẳm.
Dùng một hình
ảnh minh họa: nếu Lò Thiêu là đỉnh cao của thời kỳ Ánh Sáng của Âu
Châu, thì Lò
Cải Tạo chính là đỉnh cao của văn học Bắc Kít!
"I had
nothing but hate
in me, but I had enough for everyone.”
[As this story
unfolds] it becomes a meditation not just on fathers and
sons,
but also on the burdens of history and the sense of guilt and
responsibility
that survivors often bequeath to their children.
Đám Bắc Kít không thể viết nổi những câu văn tưởng như đơn giản như
trên.
Giản dị là do chúng không hề có những cảm nghĩ như vậy.
Mặc cảm thắng
trận, mặc
cảm ‘chết trong tâm hồn', đi đâu cũng vác theo mùi chiến lợi phẩm, thí
dụ, một
‘air’ nhạc TCS ‘ăn theo’, “Tôi có người yêu chết trận Pleime” làm đắng
ngắt “Đường
ra trận mùa này đẹp lắm”…
Đấy là chưa kể những chiến lợi phẩm cụ thể!
*
Một
khi đám Yankee mũi tẹt, khoan nói ở trong nước, nói được một lời ân hận
về cái chuyện ăn cướp Miền Nam,
thì may ra mới có sự thay đổi.
Chính
cái sự ăn cướp Miền Nam đã gây nên
tai họa khủng khiếp, và đẩy đất nước chìm đắm vào cơn băng hoại, không
biết đến
bao giờ mới thoát ra được.
Note: Ba trò
hề, hai mươi tên ra khỏi “Hội Nhà Thổ” rồi, chỉ làm thúi thêm!
Charles
Simic, trong bài viết "Ôi cuộc chiến mới đáng yêu làm sao", “Oh, What
a lovely war!”, điểm cuốn “Năm Số Không: 1945, Year Zéro: A History of 1945”, của
Ian Buruma, trích 1 câu của Mary McCarthy làm tiêu đề, Theo 1 nghĩa nào
đó, những
ý nghĩ, tư tưởng là những tên khốn kiếp và dân chúng là những nạn nhân
rủi ro của
chúng [In a certain sense, the ideas are villains and the people their
hapless
victims].
Câu này theo
GCC bảnh hơn của nhà thơ VC Nguyễn Duy nhiều. [Câu của ND, đại khái,
tên khốn nào thắng,
Ngụy hay VC thì dân Mít đều bại]
Bài này, GCC
đọc khi đăng ở trên tờ NYRB, Oct, 10, 2013, nay đưa vô sách.
Điều đầu tiên,
Ian Buruma viết, khi du khách thăm viếng Âu Châu, những tháng, liền sau
khi chiến
tranh châm dứr, là 1 sự im lặng ghê rợn, kỳ quái.
Edmond
Wilson tả lần viếng thăm Anh quốc vào năm 1945.
OH, WHAT A
LOVELY WAR!
In a certain
sense, the ideas are villains and the people their hapless victims.
-MARY
McCARTHY
"How
empty, how sickish, how senseless everything suddenly seems the moment
the war
is over!" Edmund Wilson-who had opposed us involvement in World War
II-said
after a visit to England in 1945. If London looked grim, the appearance
of
Berlin, Cologne, Warsaw, Stalingrad, Tokyo, Hiroshima, and hundreds of
other
places, both in Europe and Asia, defied description. Just in Germany,
where
British planes attacked by night and American planes by day, the Allies
dropped
nearly two million tons of bombs, leaving cities and towns reduced to
smoldering ruins reeking of death. There were 31.1 cubic meters of
rubble for
every person in Cologne and 42.8 cubic meters for every inhabitant of
Dresden.
"The first thing," Ian Buruma writes in Year Zero: A History of 1945,
"that struck many visitors in the early months after the war was the
eerie
silence." The buildings that remained standing often had some
of their floors
caved in and their windows blown out from the explosions. There were no
more
sidewalks, since piles of debris lay where houses
[Review of Year Zero: A
History of
1945, by Ian Buruma. From the New York Review of Books, October 10,
2013]
Bài của
Simic, khi đọc trên báo, là GCC đã có ý giới thiệu với quý độc giả TV
rồi, để
trình ra, cái thái độ của kẻ thắng, đối với người bại, của thế giới, so
với xứ
Mít, mà, vào những ngày 30 Tháng Tư năm nay, lũ thắng trận càng bộc lộ
thêm ra, những
điều ghê rợn.
Thí dụ, ông
con của Lê Duẩn thổi ông bố, chính bố tôi đã nghĩ ra trò cải tạo cho lũ
Ngụy,
thay vì biển máu, vì nó “nhân văn” hơn nhiều.
Hay ông sử
gia Hà Lội, làm gì có đối xử phân biệt với lũ Ngụy sau 30 Tháng Tư,
chúng đi tù
như đi chơi, đi du lịch vậy mà.
Lạ nhất, là chưa thằng nào phun ra cái quả lừa 10
ngày phù du, tên nào thần sầu nghĩ ra!
Note: Đọc bài viết
của Sến về Hội Nhà Thổ Mít VC, và sau đó, đọc bài viết của 1 tên ở
trong nước,
phản biện Sến, GCC nhớ ra trường hợp Kadaré, như là 1 phản ứng tức
khắc. Nhưng đến
hôm nay, bình tĩnh lại, thì GCC lại nhớ thêm ra bài của Pamuk, GCC đọc
lâu rồi,
trên NYRB, nhưng sau được in lại trong Hãy Đốt Cuốn Sách Này.
Pamuk vốn rất chán
chính trị, chỉ mê viết tiểu thuyết đẹp, như chính ông thú nhận, nhưng
chính ông
là người khui ra vụ nhà nước thân yêu Thổ [Bắc Kít] của ông, làm cỏ dân
Armenians [Ngụy], và bị chúng hăm he làm thịt!
Bài của
Pamuk, cũng ngắn thôi, đã post bản tiếng Anh trên TV. Nhân dịp này, Gấu
bèn
dịch ra tiếng Việt, để cho thấy thái độ của ông, so với của Sến.
Hoàn cảnh có vẻ
khác, nhưng thật ra cũng như nhau.
Tự Do Viết
Hãy đốt cuốn
sách này
A writer's life and work
are not a gift to mankind;
they are its necessity.
Toni Morrison
Cuộc đời và tác phẩm của
một nhà văn đếch phải là một món quà cho nhân
loại. Chúng là sự cần thiết của nó.
Tuyệt cú mèo!
Nhưng mặt khác, Hội Nhà văn không phải
không hấp dẫn, có khi còn đặc biệt gợi cảm nữa. Chẳng phải những tên
tuổi lớn
nhất của nền văn học Việt Nam đương đại vẫn đang góp mặt ở trong đó, kể
cả tác
giả của Tướng về hưu lẫn Nỗi buồn chiến tranh, hay sao?
Phải giải
thích sức gợi cảm này như thế nào?
Vì quyền lợi (việc làm ở các cơ quan
thuộc Hội, báo Văn nghệ, nhà xuất bản, tài trợ sáng tác, trại
viết văn,
công du nước ngoài, đi thực tế, những chương trình dịch hoặc quảng bá
sách…),
hay vì tránh cô đơn và tìm cảm hứng (những rạo rực hội hè, lửa trại,
bia rượu,
váy áo …)? Tóm lại là tiện, như lời nhà văn Phạm Thị Hoài nói
năm 1990
khi bà muốn gia nhập Hội nhưng bị bác đơn? Có thể. Có thể đúng là tiện
thật.
Bởi nếu không phải là hội viên Hội Nhà văn thì những quyền lợi đó hoặc
là nằm
xa tầm tay, hoặc rất khó với, đặc biệt nếu ta nhớ về cái thời trước
1990, khi
mà tấm thẻ hội viên không những đi kèm quyền lợi vật chất, mà còn có ý
nghĩa
như một chứng chỉ xác nhận nghề nghiệp và địa vị xã hội. Không có thẻ,
không an
tâm được. Vả lại, vào Hội thì có mất gì đâu? Vẫn sáng tác, vẫn in sách
(nếu qua
được kiểm duyệt), vẫn xuất bản ở nước ngoài (nếu muốn), vẫn phê phán
Đảng và
chế độ (trong khuôn khổ), nhưng lại được thêm bảo kê, dễ hơn, tiện
hơn.
Source
Đúng là cháy
nhà ra mặt chuột. Ở Miền Nam, làm đéo gì có 1 thứ Hội Nhà Thổ nào như
thế. Có
PEN, là của cả thế giới, mà VNCH là 1 thành viên.
GCC cả đời, đéo vô 1 cái hội
nào cả. Đến khi qua được Trại Tị Nạn, ông Trưởng PEN Mít hải ngoại,
phải phịa
ra 1 tờ giấy giới thiệu.
Vậy mà cũng được việc. GCC có kể đâu đó, và cũng cám ơn
rồi.
May là gặp 1 ông mới viết sau 1975 ở hải ngoại, Giả sử gặp 1 bạn quí là
Chủ
Tịt, thì chỉ có ô hô ai tai!
Note: V/v “tiện”.
Nhà thơ Brodsky giải thích
“tiện” là, “tán tỉnh thảm họa”:
Một khi bạn
bắt đầu biên tập đạo hạnh, đạo đức của bạn, cái này nên, cái này không
nên, bạn
đang tán tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality –according to what is
or isn't
allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon Volkov.
Nhưng mặt
khác, Hội Nhà văn không phải không hấp dẫn, có khi còn đặc biệt gợi cảm
nữa.
Cái bài viết của 1 tên nhà văn VC ở
trong nước, cũng 1 tên Bắc Kít cực độc. Và chắc là 1 hội viên của Hội
Nhà Thổ. Đụng tới Hội như đụng tới hắn.
GCC ở trong chốn giang hồ quá lâu,
thành ra thành tinh từ hồi nảo hồi nào rồi. [Bạn hẳn là phải đọc truyện
Cửa
Tùng Đôi Cánh Gài của Nhất Hạnh, đại khái, chàng dũng sĩ, thì cũng 1
thứ alter
ego của Nhất Hạnh - rời chùa, rời Thầy, với cây gươm, cái kính
chiếu yêu, hạ
sơn, “vì đời mà đi”, ấy chết xin lỗi, lầm với nhạc sến Trúc Phương, “vì
đời trừ
bạo”, đâu có hiểu được, mình biến thành quỉ từ hồi nào!
Gấu thì cũng thế, con ruồi bay qua, là biết, đực hay cái: Những cái từ
“hấp
dẫn”, “gợi cảm” đúng là cực độc, cực đểu cáng, đúng bản chất Bắc Kít.
Nhất là lại áp dụng vào Sến, một nhà văn nữ!
Chỉ cần
vài dòng, là tên này đã gói
gọn, cả 1 lũ Bắc Kít, vào trong cái kính chiếu yêu của Brodsky:
Lũ mi
đang tán
tỉnh thảm họa!
Biến thành
quỉ hồi nào không hay. Sở dĩ Milosz cực quí Brodsky, một phần là vì
thèm được
như Brodsky, như chính ông viết ra.
Milosz, cũng1 thứ cực độc, vậy mà không
thành quỉ.
Đọc cái này đi, coi chừng THNM, một vị thân hữu gửi sách, với lời dặn
dò.
Tại sao Milosz không thành quỉ?
GCC tự hỏi,
và ngộ ra sau đó, ấy là vì nhờ Thầy.
Thầy của Milosz là Simone Weil. GCC, một cách
nào đó, cũng đã được chích ngừa trùng độc, qua những vị Thầy của GCC,
trong có
cả Weil!
Rồi quà Thượng
Đế trao cho, thưởng công làm trang Tin Văn: Đọc được thơ, làm được tí
thơ [cái
này nhờ gặp lại cô bạn nơi xứ người], và dịch thơ.
Đành phải cám ơn Ông Giời 1 phát!
Note: Nhắc tới
Milosz. là vì đang đọc cuốn mới mua, “Những nhà văn Ba Lan viết về
viết”,
do Adam Zagajewski biên tập, trong có Milosz, và 1 bài viết ngắn,
với 1 câu
của Weil ở đầu bài viết:
THE SAND IN
THE HOURGLASS
1974
The
contemplation of time is the key to human life. It is a mystery that
cannot be
reduced to anything, and to which no science has access. Humility is
inescapable when we know that we are not certain how we shall behave in
the
future. We achieve stability only by disowning our I, which is subject
to time
and changes. Two things cannot be reduced to any rationalizing: time
and
beauty. One must begin from them.
- SIMONE
WElL, SELECTED WRITINGS
Hai điều
không thể nào giản lược về bất cứ duy lý hóa: Thời gian và
cái đẹp. Bạn phải
bắt đầu bằng chúng
Làm nhớ tới:
Bao thơ tôi,
ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì
con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About
what time does to Man."
Joseph Brodsky.
The Nobel
Prize in Literature 1980 was awarded to Czeslaw Milosz "who with
uncompromising clear-sightedness voices man's exposed condition in a
world of
severe conflicts".
Giải Nobel
văn chương 1980 được trao cho Czeslaw Milosz “người mà, bằng cái nhìn
rạch ròi,
cương quyết, không khoan nhượng, gióng lên phận người bày ra đấy, trong
một thế
giới với những mâu thuẫn gay go, khốc liệt”.
Diễn văn
Nobel
Một trong những
người được Noebel mà tôi đọc khi còn là 1 đứa con nít đã ảnh hưởng đậm
lên tôi,
tới cả những quan niệm về thơ ca. Ðó là Selma Lagerlöf. Cuốn sách thần
kỳ của
bà, Cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng mà tôi thật mê, đã đặt anh cu Nils
vào một
vai kép. Anh cu Nils bay trên lưng ngỗng nhìn Trái Ðất như từ bên trên,
và cùng
lúc, trong mọi chi tiết. Cái nhìn kép này có thể là 1 ẩn dụ về thiên
hướng của
nhà thơ. Tôi tìm thấy 1 ẩn dụ tương tự ở trong một ode La Tinh, của nhà
thơ thế
kỷ 17, Maciej Sarbiewski, người được cả Âu Châu biết dưới bút hiệu
Casimire.
Ông dạy thơ ở đại học của tôi. Trong 1 bài ode, ông miêu tả cuộc du
lịch của
mình - ở trên lưng Pegasus, từ Vilno tới Antwerp, thăm bạn thơ của ông.
Như
Nils Holgersson, ông ôm bên dưới ông, sông, hồ, rừng, nghĩa là 1 cái
bản đồ, vừa
xa nhưng lại vừa cụ thể.
Như thế, thì
đây là hai bí kíp của nhà thơ: đói nhìn và đói, ham muốn miêu tả cái
nhìn thấy.
Simone Weil
mà tôi mang nợ rất nhiều những bài viết của bà, nói: “Khoảng cách là
linh hồn của
cái đẹp”. Tuy nhiên, đôi khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả.
Tôi là Ðứa
bé của Âu châu, như cái tít của 1 trong những bài thơ của tôi thừa
nhận, nhưng
đó là 1 thừa nhận cay đắng, mỉa mai. Tôi còn là tác giả của một cuốn
sách tự
thuật mà bản dịch tiếng Tây có cái tít Một Âu châu khác. Không nghi ngờ
chi, có
tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng tôi, cư dân của một Âu châu
thứ
nhì, bị số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng đen của Thế
Kỷ 20”.
Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca, tổng quát. Tôi phải nói về thơ
ca và
cuộc đụng độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của nó, với một số hoàn cảnh kỳ
cục,
quái dị, về thời gian và nơi chốn…
Czeslaw
Milosz
Chính là nhờ
đọc đoạn trên đây, mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là quãng
đời đẹp
nhất, và “khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là của
những bản
nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó để mang theo vô tù.
Cái câu phán
hãnh diện của Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975 ở trong
những bản nhạc
sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!
Trại Tù VC:
Hoàn cảnh kỳ cục, quái dị về thời gian và nơi chốn, ở nơi đó, nhạc sến
được
cất lên:
sao không
hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua?
và, đâu cần
một dạng hoàn hảo nào cho thơ.
Bèn, tự thưởng Gấu, một
bài thơ.
NEW HAIRCUT
In a head
this old and thick there are all sorts of ideas,
Some of them
cockeyed, of course.
They saw
wood four to a bed under a rope
Tied into a
noose dangling from the ceiling.
In a head
this old there is a woman undressing,
A radio
singing softly to itself,
A small dog
running in circles.
There's a
house detective making his rounds,
Wearing a
funny hat as if it were New Year's Eve.
O mysteries!
Nina Delgado, the greatest of all,
Whose name I
saw spray-painted on a factory wall,
And who like
a leaf that has fallen far from a tree
Is now
floating serenely out to sea, or back to me.
To have so
many screws loose in one's head-
Is that what
God and the Devil wrought?
In a head
this old, there's also someone
who every
now and then peeks into a mirror
And shudders
because there's no one there.
Charles
Simic: The Lunatic
Đầu
mới cắt
tóc
Trong cái đầu
già và nặng này có đủ thứ ý nghĩ quái quỉ
Một số lảo đảo
như 1 tên say rượu, lẽ tất nhiên
Chúng nhìn
thấy 1 khúc gỗ lắc lư vô giường
Buộc vô thòng
lọng, treo lủng lẳng trên trần nhà
Trong cái đầu
của tên Gấu già có 1 em đang cởi đồ
Cái đài thì đang
thủ thỉ hát cho nó nghe
Một con chó
nhỏ quay mòng mòng
Có 1 tên thám
tử tại gia làm những tua kiểm tra
Đội một cái
nón tiếu lâm như trong ngày Tết
Ôi những bí ẩn!
Nina Delgado, vĩ đại nhất trong tất cả
Tên của anh
tớ thấy sơn trên tường một xưởng thợ, hay nhà máy
Và, như 1 cái
lá rời xa cây
Lúc này lềnh
bềnh trôi một cách rất ư là bình thản ra biển
Hay trở lại
với Gấu
Có rất nhiều
cây vít lỏng ở trong đầu của Gấu–
Là do Chúa
hay Quỉ?
Trong đầu tên
Gấu già này, còn có một ai đó
Một kẻ mà lúc
này, hay lúc nọ, bèn nhìn vô cái gương
Và nhún vai
1 phát, vì làm gì có ai ở trong đó!
Note: Simic mà cũng biết
tới lá, lá đa,
Đang bình thản trôi ra biển cả
Hay trở lại với Gấu Cà Chớn!
Brodsky và
Milosz, cùng sống trong thế giới CS, cùng được Nobel, không bị ảnh
hưởng bởi
Cái Ác, là còn nhờ cả hai đều là dân Ky Tô. Hồi còn đi học, Gầu rất mê
TTT, và
cực mê cái đoạn nhân vật tên là Tâm, trong Bếp Lửa, thuyết giảng về
Chúa, về Phật,
về Thượng Đế (1). Chỉ mãi đến khi về già, đọc Weil, Gấu mới tiếc, phải
chi mà biết
đến Ky Tô giáo, có thể GCC còn thâu hoạch được nhiều hơn nhiều, khi đọc
Weil.
(1)
Trong
Bếp Lửa, Thanh Tâm
Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi
nhập thế
trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con
người nào,
mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu
hạn, và
chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho
các đa số
các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre:
Con người
bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc.
(Sisyphe là
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh
núi, hòn
đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Nhắc đến hiện
sinh, bèn nhớ ra, trong bài chưa từng in ấn, inédit, Văn Chương và
Huyền Thoại,
Gunter Grass viết:
Và cuối Đệ
Nhị Chiến, khi tôi, còn trẻ măng, như tất cả thế hệ chúng tôi, vô tri,
tò mò vô
cùng tò mò, do thách đố hơn là do thèm tri thức, bèn mò vô hiện sinh và
những cái
trò thời thượng của nó [Ui chao, sao giống GCC thế, cầm 1 cuốn de
poche, chìa cái
trang bìa La Nausée ra cho mọi người qua đường nhìn thấy, ghé 1 quán cà
phê lề đường
Lê Lợi, ngồi rửa mắt nhiều hơn là đọc, mà, tiếng Tây ăn đong, đọc gì
nổi], tôi đọc
lần đầu tiên Huyền Thoại Sisyphe, và chẳng hiểu cái chó gì cả… Bây giờ
Camus
sao quá gần gụi với tôi. Ông ta làm tôi vãi linh hồn [Il me touche],
với giai thoại
viên đá, đếch chịu nằm yên một chỗ, hết lên núi lại xuống núi: Thế là
hình ảnh
phi lý hùng dũng, anh hùng [đếch phải anh hùng Núp nhe!] của Sisyphe,
chọc quê
mọi vị thần [se moque des dieux], chỉ gật đầu hài lòng viên đá [et
approuve la pierre]
ăn vào đầu tôi….
-Ông đã ở
Pháp thời gian 1955-1956. Ông cũng nói tới Camus...
-Camus, vào
thời kỳ trước đó, đầu những năm 50, khi tôi là sinh viên mỹ nghệ ở
Dusseldorf.
Những buổi bàn luận buổi đêm của chúng tôi thường là về ông, về cuộc
đụng độ giữa
Camus và Sartre. Trong những buổi trò chuyện như vậy đã đưa đến việc
chọn bên.
Với tôi, việc chọn lựa Camus, bên cạnh rất nhiều ảnh hưởng khác nữa, đã
là một
quyết định rất quan trọng.
-Tôi tin rằng
ông luôn luôn có những khó khăn với Sartre.
-Ông ta quá
mang tính ý thức hệ, quá đề thuyết đối với tôi. Ông ta quá chăm chú tới
mục
tiêu của ông, tới cái xã hội xã hội chủ nghĩa hay một cái khác. Điều mà
tôi
quan tâm, đó là hòn đá không bất động ở trên đỉnh núi. Điều Camus đòi
hỏi: khi
người ta không ngừng vần hòn đá lên cao (điều mà chính tôi làm), phải
coi mình
là một người hạnh phúc!
In the Light
of Friendship
Trong ánh
sáng tình bạn
Simone Weil,
Czeslaw Milosz, and Albert Camus
\
…. in
Stockholm, on the occasion of the Nobel
Prize, he gave the most vibrant public confirmation of her influence.
During
the press conference before the ceremony, when he was asked which
living
writers mattered to him most, he named various Algerian and French
friends, and
add: “And Simone Weil - for there are dead people who are closer to us
than many
of the living.”
Vào dịp lãnh Nobel, ở
Stockholm, ông công khai bày tỏ trước công chúng ảnh hưởng
của Simone Weil ở nơi ông:
“Và Simone Weil - bởi là vì có những người chết cận kề với chúng ta hơn
so với
nhiều kẻ đang sống”.
Trong bài diễn văn nhận
giải, ông cũng không quên nhắc tới Simone Weil:
Simone Weil, to whose
writings I am profoundly indebted, says:
"Distance
is the soul of beauty."
MILOSZ
DEFINED HIMSELF as an "ecstatic pessimist;' and perhaps it is in this
that
he is closest to Simone Weil. In the face of the mystery of evil, there
is
little room in their faith for Providence (which would alleviate
suffering) or
for the communion of saints (which would give it meaning). Is a
consoling
religion a baser form of religion? "Love is not consolation, it is
light" - this phrase of Simone Weil's is admirable; but why would light
not bring some consolation? In any case, that is what simple souls
naturally
perceive when they piously go to light a votive candle before an image
of the
Virgin or some saint.
*
Camus,
Albert
Tôi theo dõi
chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn
[L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi
Loạn [The Rebel]. Ông
viết như một con người tự
do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con
người tự do
là con người chống Mẽo, phò Xô Viết, nói
theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch
xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự
tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir,
xẩy ra
đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre
dậy dỗ
Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ
còn có một
chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.
Camus ban
cho tôi món quà hậu hĩ, là tình bạn của ông, và thật là quan trọng, khi
có một
đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm việc. Ông khoái
bản tiếng
Tây, do Jeanne Hersch dịch, tác phẩm
Thung Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết
của tôi làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời thơ ấu của
ông ta,
ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa
tôi và nhà xb Gallimard không khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng
Văn học
Âu châu, họ in Cướp Chính Quyền [The
Seizure of Power], và liền theo đó, Cái Đầu
Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn
thấy nó được bầy
ở tiệm sách, và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ mấy ông chủ tiệm tẩy
chay, vì
những lý do chính trị. Họ in cuốn Thung
Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng
theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách đã chẳng được đem ra
khỏi
kho - cùng lúc đó, có người đem cho tôi,
bản in lần thứ tư, của nó, tại Phi Châu.
Sau khi
Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ
hợp đồng
vẫn còn giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi
Quê [Native Realm], qua bản dịch của
Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban
ngoại
văn [foreign division] đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên
Đảng Cộng Sản
Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách, với chủ ý làm thịt nó, y
hệt như
thế kỷ 19 toà đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính trị
của những
di dân Nga. Tay này viết một bài điểm, khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in.
Nhưng
sau đó, là rã đám.
Tôi nhớ một
lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo quan niệm của bạn, một tên vô
thần như
tớ [Camus] có nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò chuyện xẩy ra,
chỉ ít
lâu sau khi tôi ghé thăm Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi
hỏi ông,
về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm vô], có nên dậy dỗ
con cái
như những tín đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant,
ông ta
không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con, theo ông, là phải được
dậy dỗ
theo đúng như niềm tin của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng
tiếp cận
truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng sẽ tự chọn cho chúng một tín
ngưỡng.
Thế là tôi
bèn trả lời Camus, đại khái như trên.
Milosz's
ABC's
Simone Weil
Cách đây vài
năm, tôi trải qua rất nhiều buổi chiều tại căn phòng của gia đình bà,
nhìn ra
những khu vườn Luxembourg Gardens, tại cái bàn đầy vết mực từ cây viết
của bà,
nói chuyện với bà mẹ, một người đàn bà tuyệt vời, ở vào tuổi tám mươi.
Albert
Camus, ngày được Nobel văn chương, đã trốn đám phóng viên, bằng cách
trú ẩn
trong căn phòng này.
Milosz: Sự
quan trọng của Simone Weil (1)
(1): Note:
TV sẽ đi bài này.
Czeslaw Milosz, "The
Importance of Simone Weil" in Emperor of the Earth: Modes of
Eccentric Vision (University of California Press, 1977), p. 91:
Violent in
her judgments and uncompromising, Simone Weil was, at least by
temperament, an Albigensian, a Cathar;
this is the key to her thought. She drew extreme conclusions from the
Platonic current in Christianity. Here we touch upon hidden ties
between her and Albert Camus. The first work by Camus was his
university dissertation on St. Augustine. Camus, in my opinion, was
also a Cathar, a pure one, ['Cathar' from Gr. katharos, pure]
and if he rejected God it was out of love for God because he was not
able to justify Him. The last novel written by Camus, The Fall,
is nothing else but a treatise on Grace — absent grace — though it is
also a satire: the talkative hero, Jean-Baptiste Clamence, who reverses
the words of Jesus and instead of "Judge not and ye shall not be
judged: gives the advice "Judge, and ye shall not be judged," could be,
I have reason to suspect, Jean-Paul Sartre.
TTT 2006-2015
Carol: the women behind
Patricia Highsmith's lesbian novel
Todd
Haynes’s film of Highsmith’s only
openly lesbian novel, Carol, is about to premiere in Cannes, starring
Cate
Blanchett, who has herself revealed her past relationships with women.
Novelist
Jill Dawson writes about the women behind the book
Patricia
Highsmith was in love many times and with many women – “more times than
rats have orgasms”, to use one of her own more disquieting similes.
La petite-fille de Staline est une femme
libre
Cô cháu
của
ông Trùm Đỏ là 1 người đàn bà tự do
Cháu ngoại của
Staline
Cháu ngoại của
Staline, Chrese Evans, người Mỹ, có dáng dấp rock’n’roll, bà sống trong
một khu
vực khiêm tốn ở Portland, Oregon, quản lý một tiệm bán đồ cổ.
Mẹ cô sống một
cuộc đời ẩn dật, bà sống ở đâu những năm cuối đời?
Ba năm cuối,
bà sống trong một phòng nhỏ ở trung tâm y tế Richland Center dành cho
người
nghèo, các nông dân bị phá sản ở bang Wisconsin. Bà may vá rất nhiều,
may cho
những người cũng ở nhà già như bà. Bà bằng lòng ở đó, cuối cùng thì bà
cũng được
nghỉ ngơi. Mẹ tôi thay đổi địa chỉ cả đời.
Bà có chết
bình an không?
Cuối tháng
chín, bác sĩ chẩn đoán mẹ tôi bị ung thư ruột già. Bệnh phát rất nhanh,
nhưng
cám ơn Chúa, bà ra đi bình an. Giống như cuối cùng bà đã thắng được một
cuộc
chiến đấu mà bà mang tận trong sâu thẳm con người mình, cuộc chiến chối bỏ con
quỷ Staline mà con quỷ này lại là cha mình.
Bà có khơi
ra để nói về tuổi thơ ấu, về tuổi thanh xuân của bà?
Mẹ
tôi có một
trí nhớ phi thường, bà nhớ rất nhiều chi tiết, từ mùi thuốc lá đến bộ
râu chích
chích của ông ngoại.. Bà ngoại của tôi, Nadejda Allilouea, tên ở nhà là
Nadia,
để lại một dấu ấn rất sâu trong lòng mẹ tôi. Bà ngoại tôi rất bứt rứt
và là một
người cực kỳ vị kỷ. Thân sinh bà ngoại tôi cũng chấp nhận bà bị xáo
trộn tâm thần.
Chẳng hạn, bà ngoại tôi không bao giờ ôm mẹ tôi, bởi vì bà nghĩ những
người bôn sê vích
chỉ có một gia đình là: đảng. Bà thuộc
giới thượng lưu, khi nào cũng nói mình không
được để lộ tình cảm.
Bà ngoại vẽ một khuôn trên quả tim con gái, để cho con thấy mình phải
chôn các
bí mật vào đây. Khi mẹ tôi lên sáu, thì bà ngoại tôi chết, người ta
loan tin
chính thức chết vì đau ruột dư. Khi tang lễ, Staline khóc như đứa con
nít, biết
chắc chắn đây là một bội phản riêng tư. Chỉ đến khi 20 tuổi, nhờ một tờ
báo
Anh, mẹ tôi mới biết thật ra bà ngoại Nadia dùng súng tự tử. Bà cố tôi
xác nhận
thông tin của tạp chí này, từ đó cuộc sống của mẹ tôi tan vỡ.
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt trên đê làng
Thanh
Trì, Sơn Tây
|