|
Album
Khi nào qua Cali?
Lâu lâu phải hỏi thăm, còn có mặt hay ngỏm rồi, nhe!
Nguyễn Đình Thuần [họa sĩ]
Tks
Còn đẹp trai chán!
Dương Thanh Liêm [bạn tù Sikew Thái Lan], còm hình trên FB
Tks
Dịch thơ
Em bỏ túi được vài trăm con chữ
Túm một đầu bằng một sợi mây giăng
Anh đưa em cuộn chỉ thơ nhờ dịch
Chỉ muôn màu đẹp hơn một vầng trăng
Em lôi chữ đặt lên bàn tay ngửa
Con thì khô như hoa nở lâu ngày
Con thì ướt như giọt sương trên lá
Con thì mềm như nhang khói tháng hai
Thơ người ta như mây chìm đáy nước
Em làm sao bắt được tiếng chim trời
Em làm sao vẽ được xe thần chết
Em làm sao đo được cửa chia đôi
Em vừa trông con, vừa nấu cơm, vừa đọc
Những dòng thơ như những tiếng thở dài
Trong một cõi buồn mênh mang vô tận
So với đời mình, em thấy một thành hai
Ừ thì dịch, bằng những lời không chữ
Bằng tiếng thơ không có nhạc đi theo
Bằng những ý chỉ anh và em hiểu
Gởi cho anh trên tờ lịch trong veo
Đặng Lệ Khánh
Tks
Bài thơ có mấy câu, quá tuyệt. Nào là vô tự kinh, nào tiếng thở dài.
Cám ơn nhiều
Quà SN thần sầu
Tks again
Take Care
NQT
Ai Điếu Robert Conquest
Tay này, khui ra sự thực về Stalin: Một Con Quỉ
Robert Conquest obituary
Historian and poet who exposed the full extent of Stalin’s terror during the Soviet era
http://www.theguardian.com/books/2015/aug/05/robert-conquest
Trong những sử gia Tây Phương về Liên Xô, Robert
Conquest, mất 4/8/2015, 98 tuổi có 1 vị trí độc nhất. Ông không chỉ là người
thứ nhất viết về khủng bố Stalin, mà còn là người chi tiết nhất, chính xác
nhất về nó: Người nói sự thực về khủng bố Xì, và về tên bạo chúa sát nhân,
the man who told the truth about the terror, and Stalin’s murderous tyranny.
Thay vì đi 1 đường tưởng niệm, Tin Văn sẽ dịch bài viết của Tolstaya, khi
điểm cuốn của Conquest. Nhờ bài viết này, đọc bản dịch, hay tóm tắt chẳng
biết nữa, “Những Thời Ăn Thịt Người”, trên tờ Thế Kỷ 21, tại Trại tạm cư
Panat Nikhom, cc 1989, Gấu mới ngộ ra Cái Ác Bắc Kít
TATYANA
TOLSTAYA
The Great Terror and the Little Terror
Review of “The Great Terror”: A Reassessment, by Robert Conquest (Oxford University Press, 1990)
LAST YEAR Robert Conquest's "The Great Terror" was translated into Russian
and published in the USSR in the journal Neva. (Unfortunately, only the first
edition was published. I hope that the second, revised and enlarged edition
will be published as well, if it is not suppressed by the censorship so recently
revived in the Soviet Union.) The fate of this book in the USSR is truly
remarkable. Many of those who opened Neva in 1989-90 exclaimed: "But I know
all this stuff already!" How did they know it? From Conquest himself. The
first edition appeared twenty years ago in English, was translated into Russian,
and infiltrated what was then a closed country. It quickly became an underground
best seller, and there's not a thinking person who isn't acquainted with
the book in one form or another: those who knew English read it in the original,
while others got hold of the Russian text, made photocopies at night, and
passed them on. The book gave birth to much historical (underground and emigre)
research, the facts were assimilated, reanalyzed, argued, confirmed, elaborated.
In short, the book almost achieved the status of folklore, and many
.....
Conquest does ask this question in regard to Stalin and his regime: he meticulously
and wittily examines the possible motives of Stalin's behavior, both rational
and irrational; he shows the deleterious effect of Bolshevik ideology on
the mass consciousness, how it prepared the way for the Terror. A particularly
wonderful quality of this book is also that when questions, ideas, or suppositions
arise in you, the reader, the author invariably answers these mental queries
a few pages later, develops the thought you've had, and figures things out
along with you, bringing in more arguments on both sides than you ever thought
possible. I was especially struck by this in the third chapter, "Architect
of Terror," which sketches a psychological portrait of Stalin, and in the
fifth chapter, "The Problem of Confession," where Conquest explores the motivations
and behavior of Stalin's victims. This book is not a storeroom of facts but
a profoundly analytical investigation. Instead of getting tangled up in the
abundance of information, you untangle the knots of the Soviet nightmare
under the author's patient direction. Having finished this book, no one can
ever again say: "I didn't know." Now we all know.
Và có lẽ phải dùng tới thuật ngữ của Conquest, khi ông nhìn
lại thế kỷ tan hoang vừa qua, trong cuốn sách của ông [Reflections on a Ravaged
Century, by Robert Conquest, New York W.W. Norton & Company, 317 pages,
$26.95] : Mindslaughter. Làm thịt cái đầu.
Đây chính là chấn thương nặng nề mà Miền Bắc đã 'cưu mang' khi đánh chiếm
Miền Nam. Con bọ VC là gì nếu không phải là một thứ sinh vật bị làm thịt
mất cái đầu, của con người, và thay vào đó, của con bọ?
Bởi thế, một nhà phê bình, Michael Young, khi đọc cuốn của Conquest, đã ban cho ông cái tên, Đại Phán Quan, Grand Inquisitor.
Thơ
Mỗi Ngày
Imported Novelties
They didn't answer to repeated knocks,
Or perhaps they were in no hurry.
On the eighteenth floor
Even the sunlight moved lazily
Past the floating dust.
A year could pass here, I thought,
As in a desert solitude.
"Unknown parties, rarely seen,"
The elevator operator warned me.
He wore a New Year's party hat in August;
I was looking for work.
Inside, I imagined rows of file cabinets,
Old desks, dead telephones.
I could have been sitting at one of them myself,
Like someone doused with gasoline
In the moment before the match is lit,
But then the elevator took me down.
Charles Simic: New and Selected Poems
Hàng mới nhập
Họ không trả lời những cú gõ liên tiếp
Có lẽ không vội.
Trên tầng mười tám
Ngay cả tia nắng cũng lừ khà lừ khừ
Lướt qua đám bụi lờ lững
Một năm có thể đã qua đi ở đây, tôi nghĩ,
Trong cô đơn sa mạc
"Không biết, ít khi gặp"
Người giữ thang máy cảnh báo tôi
Khi nói về những bữa tiệc
Hắn đội cái nón dự tiệc Tân Niên, Tháng Tám;
Tôi kiếm việc làm.
Bên trong, tôi tưởng tượng những dẫy văn phòng
Bàn cũ, điện thoại chết.
Tôi có thể ngồi trên 1 trong những cái ghế, chính tôi,
Như 1 kẻ nào đó tưới dầu hôi
Đúng vào lúc cây quẹt được đốt
Nhưng rồi thì là thang máy đưa tôi xuống.
VIA DEL
TRITONE
In Rome, on
the street of that name,
I was
walking alone in the sun
In the
noonday heat, when I saw a house
With
shutters closed, the sight of which
Pained me so
much, I could have
Been born
there and left inconsolably.
The ochre
walls, the battered old door
I was
tempted to push open and didn't,
Knowing
already the coolness of the entrance,
The garden
with a palm tree beyond,
And the dark
stairs on the left.
Shutters
closed to cool shadowy rooms
With
impossibly high ceilings,
And here and
there a watery mirror
And my pale
and contorted face
To greet me
and startle me again and again.
"You
found what you were looking for,"
I expected
someone to whisper.
But there
was no one, neither there
Nor in the
street, which was deserted
In that monstrous heat that gives birth
To false
memories and tritons.
Charles Simic
VIA DEL
TRITONE
Ở Rome, trên
con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một
mình trong ánh mặt trời
Nóng ban trưa,
và tôi nhìn thấy một căn nhà
Những tấm màn
cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát,
là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể
sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc,
không người an ủi.
Tường màu gạch
son, cửa cũ, rệu rạo
Tôi tính đẩy
cửa, nhưng không làm
Biết rõ cái
lạnh lẽo sau cánh cửa, lối dẫn vào căn nhà,
Căn vườn với
1 cây sồi quá nó,
Và những cầu
thang u tối ở phía trái.
Rèm cửa đóng
dẫn tới những căn phòng lờ mờ
Trần hơi bị
thật là cao
Và đâu đó, là
một cái gương long lanh nước
Và khuôn mặt
của tôi nhợt nhạt, méo mó
Ðón chào tôi,
và làm tôi giật mình hoài
"Mi kiếm ra cái mà mi tính
kiếm?"
Tôi uớc ao có ai đó thì thào
Nhưng làm đếch gì có một ai
Ðếch có ai, cả ở trên con phố hoang vắng
Vào cái giờ nóng khùng điên
Làm đẻ ra những hồi ức dởm
Và những con quái vật nửa người nửa cá
One poem is
unlike any I've ever read-if it had appeared in the lineup, I might not
have
recognized it as Simic's. "Via Del Tritone" juxtaposes no surreal
images. It begins simply:
In Rome, on
the street of that name,
I was
walking alone in the sun
In the noonday
heat, when I saw a house
With
shutters closed, the sight of which
Pained me so
much, I could have
Been born
there and left inconsolably.
Simic goes
on to describe the interior, as he imagines it, a garden with a palm
tree, dark
stairs leading to cool rooms with high ceilings. "'You found what you
were
looking for,' / I expected someone to whisper." Never, in his previous
work, has Simic expressed the pain of his exile in such a
straightforward way.
His outsider's status was always an advantage, teaching him that life
was
unpredictable and that anything might happen, as the antic careening of
his
poetry suggests. In this poem his pain and loss blossom like the most
fragile
of tea roses. He hasn't found what he was looking for. How can you
reclaim a
childhood that never was? Simic, unlike Nabokov, has no Eden to recall.
His are
"false memories," phantasms of heat. And as the war rages on in the
place where his childhood should have been, salvage becomes less
possible. The
poet's cries flutter up from the page: "Help me to find what I've lost,
/
If it was ever, however briefly, mine."
Lisa Sack: Charles
the Great: Charles Simic’s A Wedding
in Hell
Bài thơ này
thật khác với những bài thơ của Simic. Không có sự trộn lẫn những hình
ảnh siêu
thực.
Via Del Tritone mở ra, thật giản dị:
Ở Rome, trên
con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một
mình trong ánh mặt trời
Nóng ban
trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà
Những tấm
màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một
phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể
sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc,
không người an ủi.
Sau đó, tác
giả tiếp tục tả bên trong căn nhà, như ông tưởng tượng ra…Chưa bao giờ,
trong những tác phẩm trước đó, Simic diễn tả nỗi đau lưu vong một cách
thẳng thừng
như ở đây. Cái vị thế kẻ ở ngoài lề luôn luôn là lợi thế, nó dạy ông
rằng đời
thì không thể tiên liệu trước được và chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Ở
đây, nỗi
đau, sự mất mát của ông nở rộ như những cánh trà hồng mảnh mai nhất.
Ông làm
sao kiếm thấy cái mà ông kiếm, một tuổi thơ chẳng hề có? Simic, không
như
Nabokov, chẳng hề có Thiên Ðàng để mà hồi nhớ. Chỉ là hồi nhớ dởm, do
cái nóng
khùng điên tạo ra. Và chiến tranh tàn khốc xẩy ra ở cái nơi đáng lý ra
tuổi thơ
xẩy ra, làm sao có cứu rỗi? Và tiếng la thét của nhà thơ vọng lên từ
trang giấy:
Hãy giúp tôi
tìm cái mà tôi đã mất/Cho dù nhỏ nhoi, cho dù chốc lát, cái tí ti đã
từng là của
tôi.
Sách xon, bìa cứng, mất áo mưa
Nguyễn Bắc Sơn Tribute
Chuyện Hai Bố Con Tôi
Cái ngu đần của kẻ thông minh
Là cái đó chính là cái đó
Bố qua đời đúng năm năm
Tôi viết bài thơ này
Để tâm sự cùng một người khuất núi
Thuở sinh tiền
Ông rất thương tôi
Và tôi rất thương ông
Nhưng hai chúng tôi
Đúng là hai người đàn ông có bề ngoài lãnh đạm
Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng
Ông làm cách mạng chừng nào
Thì loài người càng thêm sặc máu
Tôi ước mơ cõi đời tốt đẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Thì loài người càng xấu xa chừng nấy
Bi kịch của bố con tôi
Là bi kịch của hai thằng tây đen
Cùng đi kiếm con mèo đen
Trong đêm đen mù mịt
Các vị thánh hiền thời xưa
Bảo thế giới loài người
Giống như chiếc đuôi cong
Của loài chó
Chúng ta là những đứa trẻ con
Chổng khu vuốt chiếc đuôi này cho thẳng
Vuốt cho thẳng rồi
Thả tay ra là nó cong trở lại
Nếu mỗi chúng ta có làm điều gì tốt đẹp
Chẳng qua là để phát huy một tấm lòng son
Còn trái đất cứ ngày đêm sáng tối
Thịnh đã rồi suy
Suy rồi lại thịnh
Bố ơi bố đã ra về
Con ở lại làm thơ và chữa bệnh
Chúng ta đến nơi này để phát
huy một tấm lòng son
Thành hay bại chỉ là chuyện
vặt.
Nguyễn Bắc Sơn và tiếng thơ bi hài
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/nguyen-bac-son-v-tieng-tho-bi-hi/
“Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau” (NBS)
Những dòng thơ bi hài trên, phải đến hết cuộc chiến, khi ông bố cùng chơi
trò chơi với thằng con trai, cùng may mắn trở về, chúng ta mới hiểu được.
Thành ra cái giấc mơ lỡ mai ta chết vì say rượu, hồn ta bèn thành 1 đám mây, mới là giấc mơ đích thực của NBS.
Bi hài cái con khỉ, ba triệu người chết. Đất nước đứng bên bờ thảm họa: Bi Hài!
Tous les morts sont ivres
&
Nếu ta lỡ
chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến
thành mây bay.
Il fait bon. Dans le foyer doucement traine
La voix du plus mélancolique des mois.
- Ah! les morts, y compris ceux de Lofoten -
Les morts, les morts sont au fond moins morts que moi.
Oscar Vladislas de Lubicz Milosz
Trời thì đẹp.
Trong bếp lửa,
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những
người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người
chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết
bằng Gấu chết.
Thơ NBS, có cái hào sảng, bi thương, và nếu như có cái hài,
là để che giấu nỗi bi thương, cha con giết nhau, thằng anh làm thịt thằng
em, đánh cả trăm năm cũng đánh, chết triệu triệu thằng cũng bỏ, hài gì kiểu
đó.
Thành ra những dòng, "lỡ mai đụng trận ta không chết.... đốt tiền mua lấy
1 đêm vui", là thực, tên Ngụy nào cũng đã từng trải qua tình cảnh thê thảm
này.
Bởi là vì có cái phản chiến của kẻ thực sự tham dự
cuộc chiến, dù không muốn, và có cái phản chiếu của những tên sống bằng máu của
kẻ khác.
Đây là ý của những câu Simic trích dẫn, khi viết về cái xứ sở khốn nạn của ông, Serbia.
Mistaken ideas always end in bloodshed, but in every case it is
someone else's blood. This is why our thinkers feel free to say just about everything.
-CAMUS
Tư tưởng lầm lạc luôn chấm dứt trong biển máu, nhưng trong mọi trường hợp,
máu của ai đó. Chính vì thế mà những nhà triết gia của chúng ta thoải mái
phán tào lao về đủ thứ trên đời.
Sacrifice the children-an old story, pre-Homeric-so that the nation will endure, to create a legend.
-ALEKSANDER WAT
Hy sinh con nít, cái “gì gì”, “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, chuyện Diễm
Xưa từ thời Cổ La Hy, nếu không có nó, làm sao xứ Mít còn đến ngày này, làm
sao có quái vật Núp?
Isn't "we" the problem that little words "we" (which I distrust so profoundly,
which I would forbid the individual man to use).
Cái từ "chúng tôi" gây phiền phức, phải chăng, cái từ nhỏ xíu "chúng
tôi" (mà tôi quá ghê tởm, đếch tin cậy, và cấm 1 cá nhân 1 con người
xử dụng)
-WITOLD GOMBROWICZ
Có những kẻ ngợi ca NBS phản chiến, vì bản thân anh ta sống
sót nó, nhờ bỏ chạy, có những kẻ ngợi ca NBS vì cũng tham dự cuộc chiến nhưng
nhờ may mắn mà sống sót, hai trường hợp khác hẳn nhau.
Một bên ca NBS cho đỡ nhục, một bên ca NBS vì cùng phản chiến, cùng tham dự cuộc chiến như nhau, và cùng may mắn sống sót.
Robert Hass đã đụng vấn nạn này, khi đọc thơ Mandelstam. Trong bài viết "gia
đình và nhà tù", “families and prisons”, ông viết: Tôi thấy mình thường nghĩ
về hình tượng Mandelstam – hay đúng hơn, về những người nghĩ về hình tượng
Mandelstam. Gần như nhà thơ nào còn sống, là có thơ, có viết về ông. Bởi
là vì hầu hết chúng ta đọc những bài thơ khó hiểu của ông qua bản dịch, thành
ra cái cảm quan mạnh về ông, chừng mực nào đó, to some extent, là khen bà
vợ - theo cái kiểu Gấu Cái bảnh hơn Gấu Đực – hơn là về chính những bài thơ
của ông.
Nói thẳng ra ở đây, chính cái gọi là tử đạo làm chúng ta mê mẩn, chứ không
phải thơ ca! [Our fascination exits because his martyrdom flatters us]
My Letter to the World
cái
giá "một nghìn bốn trăm tỉ đồng" khiến mình nghĩ đến những sự tốn kém
khổng lồ và ngu xuẩn khác của nhân loại. thờ hồ chí minh thực ra cũng
chỉ ngớ ngẩn ngang với thờ siddharta hay jesus mà thôi. thậm chí là
không ngớ ngẩn bằng. chúng ta đều biết rằng siddhartha thực ra là một gã
chán đời, liệt dương do chơi gái quá nhiều, nhưng vì vẫn muốn tìm sự
thoả mãn nên phải quay ra cổ suý sự "diệt dục." còn jesus thì rõ ràng là
bị chứng vĩ cuồng nặng, và chắc là phải hơi "thần kin... See More
122 Likes31 Comments2 Shares
Note: HCM là người đương thời. Những gì ông ta làm, đương
thời kiểm chứng được, và lịch sử càng ngày càng cho thấy, HCM là 1 tên tráo
trở, lưu manh, mạt hạng. Sự kiện, ông ta xoá thư viết bằng tiếng Tàu, đúng
văn phạm của đệ tử là Hoàng Văn Hoan, thay bằng 1 lá thư viết sái văn phạm,
do chính HVH kể, được kể lại trong cuốn Hồ Sơ Đệ Tứ, là 1 thí dụ về tính
lưu manh mạt hạng của HCM.
Trong khi đó, Jesus là thuộc 1 thời quá xa vời, thành ra những gì nhân loại
biết về Jesus, với tín hữu Ky Tô, là phép lạ, với 1 tên vô đạo, thì là ngớ
ngẩn…
Những tín hữu Ky Tô, khi họ tin vào đạo của họ, là cho họ chứ đâu phải cho Jesus.
Nhờ niềm tin mà Czeslaw Milosz, Joseph Brodsky, chỉ kể hai trường hợp, sống sót hoả ngục Đỏ.
Viết như thế này, thì đúng là tên khốn nạn, cực kỳ khốn nạn, và nó còn chứng
tỏ, đây là do nền giáo dục vô thần của Miền Bắc gây nên.
Hậu quả sẽ rất là khủng khiếp.
Còn dài dài những tên khốn như tên này.
NQT
Khoan nói đến tính tôn giáo, bạn thử chỉ cho GCC, 1 tên nhà văn Bắc Kít, mà trong văn của nó, có cái gọi là tâm linh?
Khi mới viết, Phạm Hải Anh, khi còn là 1 học sinh, viết từ 1 mái nhà Hà Nội, có cái chất này, sau mất dần.
Sến? Cực độc, cực kỳ vô lễ, thí dụ, rũ bụi cũng không thèm làm quen
Tâm linh, tôn giáo, không. Ngay cái tầm thường, “nhân hậu”, cũng đếch có luôn.
Memory
as a Remedy for Evil
Todorov mở
ra cuốn sách nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc trị Cái Ác
Bắc Kít, Memory as a Remedy for
Evil, bằng nhận xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện
nhất, của dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và chấm
dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver us from evil". Câu
này ngụ ý, trong chúng ta có... quỉ, và
chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng
con, tức
loài người thì lúc nào cũng hăm hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và
chính tham
vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.
Cái giấc mơ
thống nhất nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn trị!
Thế mới chết! (1)
Trong cuốn
trên, Todorov cho biết, câu "Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế giới", là của
Dos.
Nhiều
người biết, nhưng cái này thì ít người biết.
Cái Đẹp mà Dos nhắc tới ở đây, là
Chúa Ky Tô, nhập thân vô Gã Khờ.
Les
aventuriers de l'absolu
… Le prince
Mychkine, qui croit que la beauté sauvera
le monde, est lui-même une variante,
contemporaine, et purement
humaine, du personnage de Jésus. Les
brouillons du roman le disent ouvertement, à maintes reprises: “Le
Prince – le
Christ”
******
Antoine
SPIRE :
Ông có đưa ra một tay già, thông tuệ kinh tan-mút, nói:
Chúng ta cầu
nguyện Chúa Cứu Thế tới, nhưng đâu hẳn như thế, bởi là vì có những đấng
Do
Thái, trong bóng tối, thì thầm với Thượng Đế: Này, đừng có nhập thế đấy
nhé!
George
STEINER:
Tôi mô phỏng Hegel. Tay này
không ưa dân Do Thái. Một bữa ông ta kể chuyện tiếu lâm, Thượng Đế vi
hành, gặp
một tên Do Thái, và đề nghị: Mày chọn gì, giữa 2 món này, hoặc là cứu
chuộc, hoặc
tờ nhật báo buổi sáng, hắn ta bèn chọn tờ báo.
Căng lắm đấy,
cái câu chuyện tiếu lâm này. Chúng tôi là 1 dân tộc bị hớp hồn bởi lịch
sử, bởi
những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt vĩ đại… là cái số mệnh của chúng
tôi, và thỉnh
thoảng, tôi tự nhủ thầm, có khi còn mỉm cười và nhủ thầm: Giá mà “Chúa
Cứu Thế”,
tức anh VC Giải Phóng Bắc Kít, đừng có tới, thì thật đỡ khổ biết là
chừng nào!
*****
Ha Jin cho rằng dân Tẫu của ông không tin có ông Trời, và mọi khốn kiếp là từ đó mà ra.
Ông viết, về Solzhenitsyn, sở dĩ ông này bảnh đến như thế, là nhờ niềm tin Ky Tô của ông, và ông so sánh với Lâm Ngữ Đường.
In fact, I am always moved by Solzhenitsyn's bravery and his acceptance of
isolation as the condition of his work. "All my life consists of only one
thing-work," he once said. The village of Cavendish didn't even have a doctor
at the time, according to his biographer D. M. Thomas, and, because of sciatica,
the aging Solzhenitsyn would stand at a lectern when writing. What made him
so tenacious, I believe, was not only his dedication to work but also his
Christian faith, which had inculcated in him a sense of continuity beyond
this life. The belief in the afterlife can enable one to live this life fearlessly.
At an interview before departing for Russia, Solzhenitsyn was asked if he
feared death, and he replied with obvious pleasure on his face: "Absolutely
not! I t will just be a peaceful transition. As a Christian, I believe there
is life after death, and so I understand that this is not the end of life.
The soul has a continuation, the soul lives on. Death is only a stage, some
would even say a liberation. In any case, I have no fear of death." In another
context he said, "The goal of Man's existence is not happiness but spiritual
growth." That may account for the spiritual strength with which he completed
his work in exile.
His words remind me of my meeting with a group of Chinese poets in River
Falls, Wisconsin, in the summer of 2001. One of them was my former schoolmate.
He greatly admired the small Midwestern town because its climate and landscape
brought to mind the northeast of China where we were both from. I asked him,
"If possible, would you mind living in this town alone so that you can concentrate
on writing poetry?" He answered, "I need a friend at least." That was a typical
Chinese answer. The Chinese mind does not rely on a power beyond humanity
for spiritual sustenance. This explains why very few Chinese exiles in North
America have lived in isolation and why most of them have been city dwellers.
Gregariousness is only a surface characteristic, and deep down it is the
absence of the religious belief that produces a different outlook on life.
Sự thực, tôi luôn thấm thía bởi sự can đảm của Solz, chấp nhận cô đơn như
là 1 điều kiện để viết của ông. Cả đời tôi, chỉ có 1 điều, viết, làm việc.
Theo nhà viết tiểu sử của ông, D.M. Thomas, làng Cavendish không có bác sĩ,
và vì bị bịnh đau thần kinh hông, ông nhà văn già Solz phải đứng để viết.
Điều gì khiến ông kiên cường như thế, theo tôi, không chỉ do ông dâng hết
mình cho việc viết, mà còn do niềm tin Ky Tô, niềm tin này khiến ông tin
là có sự tiếp tục, quá cả cuộc đời này. Niềm tin vào cõi sau khiến con người
sống mà đếch có sợ chết. Trong 1 cuộc phỏng vấn, khi được hỏi, có sợ chết
không, ông bật cười, tuyệt đối không….
Lần khác, ông phán, làm người không phải là để hưởng hạnh phúc, mà là tăng trưởng tinh thần.
Ông làm tôi nhớ đến Tẫu của tôi. Tẫu đếch tin có đời sau, và sống thì phải
có bầy. Tớ cần có bạn quí, bạn văn, đang ngồi uống cà phê, bỗng nhớ bạn,
đếch có bạn là đếch sống được!
The writer Lin Yutang (1895-1976) discusses the Chinese ideal of life at
length in his book My Country and My People (1935). He points out that to
the Chinese the essence of the ideal life is the enjoyment of this life.
In the absence of a belief in an afterlife, the Chinese hold dearly on to
this life and try their hardest to make the best of it. As a result, most
Chinese fear death and the isolation that leads to loneliness. Their ideal
of life, according to Lin Yutang, is "brilliantly simple" and is a "concentration
on earthy happpiness." Confucius, the man who has influenced Chinese culture
more than anyone else, once replied when asked about death, "I don't know
enough about life, how can I know about death?" It is the deliberate focus
on this life that makes the Chinese afraid of missing out on the joy this
life offers and that makes them believe the best death is inferior to the
worst life-a theme, the novelist Yu Hua dramatized eloquently in his novel
To Live (1993). (1)
Bản thân Gấu, lúc mới lớn, bậm vô chủ
nghĩa hiện sinh, rồi đọc “Bếp Lửa”, quá mê đoạn anh chàng tên Tâm, khi bỏ
Hà Nội qua Gia Lâm làm giáo sư tại một trường đạo, và, bị 1 ông thầy tu cật
vấn về niềm tin, đã trả lời, một khi Christ giáng sinh làm người là bèn chịu
đầy đọa, như 1 con người, và chỉ thoát ra bằng sự thất bại… khiến Gấu bỏ
qua Ky Tô giáo, sau này, đọc Weil, đọc thơ Brodsky, bị trắc trở, thâu hoạch
ít quá, ân hận hoài.
Helen Vendler
HELEN VENDLER
Totemic Sifting: Charles Simic's The Book of Gods and Devils, Hotel Insomnia, and Dime-Store Alchemy
Charles Simic's riddling poems, for all that they reproduce many things about
his century (its wars, its cities, its eccentrics, and so on) in the end
chiefly reproduce the Simic sieve-a sorting ma- chine that selects phenomena
that suit Simic's totemic desire. There is no escape-hatch in a Simic poem:
You enter it and are a prisoner within its uncompromising and irremediable
world:
The trembling finger of a woman
Goes down the list of casualties
On the evening of the first snow.
The house is cold and the list is long.
All our names are included.
This short poem, entitled "War," exhibits all the hallmarks of the Simic
style: an apparently speakerless scene; an indefinite article establishing
the vagueness of place and time-" a woman" some- where, anywhere, in a wintry
evening; then a menacing definite article focusing our gaze, in this instance
on "the" list; then a late entrance of the personal pronoun engaging the
speaker's life and ours. This coercive poem of war excludes everything else
that might be going on in "real" wartime-people eating, drinking, going to
school, manufacturing guns, etc.-in favor of a single emblem, the domestic
Muse enumerating the many war dead, followed (as in emblem books) by a motto
underneath: "All our
From "Totemic Sifting: Charles Simic's The Book of Gods and Devils, Hotel
Insomnia, and Dime-Store Alchemy" by Helen Vendler, Parnassus: Poetry in
Review 18, no. 2 and 19, no. I (1993).
[suite]
Viết Mỗi Ngày
IN PRAISE OF INVECTIVE
Ngợi Ca Văng Tục, Chửi Thề
... the tongue we use
When we don't want nuance
To get in the way.
-CORNELIUS EADY
Văng tục, chúng ta viện tới nó, khi muốn là.... “bad Gấu”!
Nghĩa là, đếch cần hoa hoè hoa sói!
Mấy bữa nay bác viết hay
ghê – hết viết tục rồi.
Cám ơn nhiều.
Anh Nguyễn tuyệt quá, càng
già càng dẻo càng dai - Hổng khác gì con trai!!. Cầu chúc anh mạnh khỏe
nhiều nhiều để còn cho ra những bài thật tuyệt.
Tks. NQT
I the end of a murderous century, let's curse the enemies of the individual.
Every modern ideologue and thought policeman continues to say that the private
is political, that there is no such thing as an autonomous self, and if there
is, for the sake of common good it is not desirable to have one. He or she
who refuses to accept the idea that the self is socially constructed and
that it can be manipulated to fit the latest theory of human improvement
is everywhere the enemy. In the academy of lies where new enthusiasms and
hatreds are being concocted, where “only children and madmen speak the truth,"
as Goebbels said, the unrepentant individual is the one standing in the corner
with his face to the wall. Orthodoxy, groupthink, virtue by decree are the
ideals of every religion and every utopian model of society. The only intellectual
problem that the philosophers of such systems have is how to make conformism
attractive. Ideologies from nationalism to racism are
From Raritan 14, [no. 3 (Winter 1995): 60-64]
Charles Simic: The Life of Images
[suite]
Thư Tình nơi Sofa
Letter in the Sofa
1957
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
Note: Trong cuốn “Trên lưng voi”, Gấu lọc ra được hai bài tuyệt. “Thư tình” đi trước. Cực kỳ thê lương.
Sẽ đi 1 đường tiếng Mít sau.
Note: Cái truyện ngắn này, trên trang của K, vậy mà bây giờ, nhờ server, mới được đọc.
Phạm Vũ Thịnh, dịch Murakami, thần sầu. Độc giả TV đọc cái này trước, trong khi chờ GCC dịch “thư tình”, của Durrell.
GCC mê nhất 1 câu, nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực khó, nhưng chết chung, thì OK
Có em nào muốn, chuyện này, thì đăng ký!
Cái truyện “cùng chết thì OK” này, coi lại hóa ra là đã chôm về Tin Văn từ hồi Diễm Xưa rồi.
Ấy là vì Gấu bực quá, không lẽ chưa... chôm, bèn rà lại folder Giới Thiệu…
Ra luôn cái truyện Liêu Trai thần sầu sau đây.
Đọc Tiểu Thu, thì lại phân vân, có khi duyên, kiếp này, là duyên thừa, của bố, hay của mẹ, kiếp trước!
Tiểu Thu
Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên
thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu
nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà
chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì
về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư… và trong
những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được
thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….
Một khi bạn bắt đầu biên tập
đạo hạnh, đạo đức của bạn, cái này
nên, cái này không nên, bạn đang tán tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality –according to what is
or
isn't allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon Volkov.
Gao Interview
... on Nietzsche, Communism and contemporary writers in China.
For the past hundred years the impact of politics on Chinese writing was
too large. The whole left-wing writing movement was just too much politics
and not enough literature. You can see that at the Frankfurt Book Fair. For
too long politics has been overwhelming literature in China. There are a
lot of writers who themselves think they are very strong. But that's an illusion,
a kind of self-inflation, ego, a narcissism. It's linked to Nietzsche. And
Marxism. Last century, the major streams of thought in China came from Europe:
Marxism, Communism, Idealism, the belief that we could change society. It
was an illusion. Marxism hasn't the first understanding of human society.
Marxists used politics to change literature, they judged it by political
standards, they used literature as a tool to condemn capitalism. That was
what happened in the twentieth century and it's a strong current still. A
lot of western intellectuals joined in and supported the Russian revolution,
the Chinese revolution. We have to walk out of the shadows of the twentieth
century.
Then Nietzsche killed God, and this inflated people's sense of their own
importance. Nietzsche was a madman. Most of his life he had to be taken care
of by his sister and his mother. He couldn't even manage his own life. He
wrote some interesting things, but I don't think you can use him as a guide
for life in the twentieth century. How can you think that every person is
God and that that is a legitimate position from which to judge life? Intellectuals,
especially left-wing ones, used the position of being God to judge the world,
to condemn it. They judged people, and forgot that the judge was also a weak
person full of contradictions, full of weakness and perplexity. They wanted
to play God. How else can we explain why so many intellectuals ran madly
after revolution, madly advocated violence? We can only see problems from
the perspective of people's limitations. And we can't solve many problems.
[Laughs] And the problems that there are to be solved might be ones you haven't
even thought of [Laughs]
Về Nietzsche, Chủ nghĩa CS và những nhà văn đương thời ở TQ
Một trăm năm qua chính trị tác động nặng lên văn học TQ. Trọn nền văn học
tả phái toàn chính trị, văn học nhẹ hều. Bạn có thể nhận ra điều này ở Hội
Chợ Frankfurt. Chính trị lậm vô văn. Rất nhiều nhà văn coi mình rất mạnh.
Đó chỉ là ảo tưởng, một thứ tự sướng.
Và nó liên quan tới Nietzsche, Marx. Thế kỷ vừa qua, những dòng tư tưởng
lớn ùa vô TQ, từ Âu Châu: Mác Xít, Cộng Sản, Chủ Nghĩa Lý Tưởng, niềm tin
rằng chúng ta có thể thay đổi xã hội. Ảo tưởng. Mác Xít không phải là thứ
hiểu biết đầu tiên về xã hội loài người. Người Mác xít sử dụng chính trị
thay đổi văn học. Họ đánh giá nó, bằng những tiêu chuẩn chính trị, họ sử
dụng như là 1 công cụ để kết án chủ nghĩa tư bản. Đó là điều xẩy ra trong
thế kỷ 20 và bây giờ vẫn còn mạnh. Rất nhiều nhà trí thức Tây Phương gia
nhập, và ủng hộ Cách Mạng Nga, Cách Mạng Trung Hoa. Chúng ta phải bước ra
khỏi những cái bóng của thế kỷ 20.
Khi Nietzsche giết Thượng Đế, điều này làm con người cảm thấy mình quan trọng,
bởi là vì bây giờ mình là Thượng Đế. Nietzsche là tên khùng. Trọn đời ông
bịnh, được chị và mẹ săn sóc. Ông ta, tự ông ta không làm sao xoay sở, lo
liệu cho chính cuộc đời của ông ta. Ông ta có viết ra được một số điều đáng
quan tâm, nhưng tôi không nghĩ bạn có thể coi ông ta như 1 kẻ hướng dẫn cho
cuộc đời ở thế kỷ 20. Bạn nghĩ thế nào về chuyện mọi người, bất cứ một con
người, lại tự coi mình là 1 đấng Thượng Đế, và từ cái thế Duy Ngã Độc Tôn
đó, xét đoán cuộc đời? Trí thức, đặc biệt trí thức tả phái sử dụng vị trí
Thượng Đế như thế đó, để đánh giá cuộc đời, để kết án nó. Họ xét đoán, đánh
giá những con người, và quên rằng, kẻ xét đoán, ông quan toà thì cũng là
1 con người yếu đuối, đầy những mâu thuẫn, đầy những ngất ngư con tầu đi,
yếu xìu. Họ muốn chơi trò Thượng Đế. Nếu không như thế, thì làm sao chúng
ta có thể giải thích được, trường hợp, rất nhiều nhà trí thức trở thành khùng,
sau cách mạng?
Chúng ta chỉ có thể nhìn những vấn đề, từ viễn ảnh, một con người, ở
trong hoàn cảnh giới hạn, hữu hạn, như 1 con người. Và chúng ta không thể
giải quyết nhiều vấn đề. Và có những vấn đề cần phải giải quyết, có khi chúng
ta chưa từng nghĩ tới!
|
|