|
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ
của
thiên đường | Passage Eden | Sáng
tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch
thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả
sáng tác | Giới
thiệu | Góc
Sài gòn
| Góc Hà nội
| Góc
Thảo Trường
Lý
thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả
ngoại | Tác
giả & Tác phẩm | Text Scan
| Tin văn
vắn
| Thời sự | Thư
tín | Phỏng
vấn |
Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại
| Potin |
Linh tinh
|
Thống kê | Viết ngắn | Tiểu
thuyết | Lướt
Tin Văn Cũ | Kỷ
niệm | Thời
Sự Hình | Gọi
Người Đã Chết
Ghi
chú
trong ngày | Thơ
Mỗi Ngày | Chân
Dung |
Jennifer
Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật
Ký Tin Văn [TV last page]
Album
Tuổi thơ
là một cơn mộng
không biết là cơn mộng.
On Losing
Charles Simic
A New York City summer, 1975
Mùa Hè, Nữu
Ước
Nhìn bức
hình, thì Gấu lại nhớ Hà Nội, cái cảnh mùa hè, xe trải nước lên mặt
đường, cho
bớt nóng. Khi viết về nó -Hà Nội - trong "Những ngày ở Sài Gòn", thì
không phải chỉ hình ảnh đó trở về, mà còn những trái sấu vàng vương
vãi...
Kỷ niệm của
Gấu, có trước tấm hình.
1975 ư?
Không có kỷ
niệm đẹp.
Chán thế!
Như có Bác Hồ trong nhà
thương Chợ Quán
Vừa ló ra bị xe cán bể đầu!
(1)
Sợ đúng cái
hẻm lên nhà ông cậu của Gấu, Cậu Toàn, ở Phố Cổ!
Hà Nội,
thành phố có hương thơm và mặt trời ve vuốt, thành phố mà Cẩn nói, được
dựng
lên cho những nhớ nhung và mơ tưởng của một thời trẻ dại, "con đường
Trường
Thi, hai hàng me bên đường vào khoảng tháng sáu, tháng bẩy như thế này,
lá me bắt
đầu rụng để lộ những nhánh cây nhỏ, những đứa trẻ háu ăn đã vô ý tưởng
là những
quả me, và ngó lên bằng cặp mắt thèm thuồng. Mùa hè vàng nắng không
còn, nhưng
những ngày cuối mùa nóng, người dân Hà Nội có thói quen trước khi ngủ
mở tất cả
những cánh cửa sổ để đón gió mát, đột nhiên trong đêm khuya, có những
cơn gió lạ
từ đâu chợt tới, thổi thốc những chiếc lá khô bay phấp phới, và người
lớn vội
vàng trở dậy đóng bớt cửa sổ, "đó là những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu
mùa
thu trở về."
Mùa Thu, những
đứa trẻ xâu những đôi guốc, dép vào một mẩu dây, rồi một tay cầm cặp,
một tay
xách xâu guốc dép, chúng đi thành từng đàn, tranh nhau cười nói, vung
tay múa
chân, khi đi qua nhà một đứa trong bọn, bọn trẻ đứng từ phía ngoài,
lăng xâu guốc
dép, ném chiếc cặp thật mạnh vào tận trong nhà, rồi sau đó thảnh thơi,
hớn hở
chạy theo bè bạn, mùa hè: những xe phun nước chạy chầm chậm, những tia
nước bắn
tung toé lên mặt đường nóng bỏng, lũ trẻ chạy theo sau ngửa mặt hứng;
mùa lạnh:
những người cảnh binh mặc áo dạ tím, những đứa trẻ không còn dám tháo
bỏ giầy
dép ra khỏi chân, sợ những lần vô ý vấp ngã, những ngón chân sẽ tê
điếng có khi
cả giờ đồng hồ. Hoặc là tôi phải quên, hoặc bắt buộc phải nhớ: sống tức
là sống
trong nỗi nhớ Hà Nội. Chúng tôi: những đứa trẻ rời bỏ Hà Nội và trở
thành những
con bệnh, mỗi lần thời tiết thay đổi, trở nên lạnh, hoặc những đêm đi
chơi về
muộn trong một Sài Gòn đã thuộc về chúng tôi, lúc bấy giờ gió nhiều,
những hơi
thuốc nhỏ nhoi chẳng đủ ấm, thế là tiếng lá cây xôn xao, không gian,
thời gian,
cảnh vật… tất cả biến thành những sợi dây trói, kéo lũ chúng tôi trở
lại Hà Nội,
chúng tôi trở thành những kẻ mộng du, đêm đêm trở dậy đi đi lại lại
trong Hà Nội…
Thơ
Mỗi Ngày
PAST THE
FUNERAL HOME
Where lives
a pretty girl
Who comes
and goes
Twirling her
red dress
Like a
Spanish dancer,
And a blind
old healer
I never laid
eyes on,
who has a
line of women
Waiting on
the stairs
Late into
the night
With their
heads hung low,
Clutching
their purses
Or saying a
silent prayer.
Charles
Simic: The Lunatic
Quá nhà hòm
Nơi có một
em xinh xinh
Tới tới lui lui
Trong chiếc váy đỏ
Em xoay xoay váy, xoay xoay người
Như một vũ nữ
Tây Bán Nhà
Và một bà già mù,
làm nghề thầy thuốc
Gấu đếch thèm
nhìn bà lần nào
Bà có cả 1 dẫy
khách hàng
Đợi ở cầu
thang
Trễ tận đêm
Với những cái
đầu cúi xuống
Tay giữ chặt cái
bóp
Miệng nói cái
gì đó, trong câm lặng
Như một lời
cầu nguyện.
THE MEDIUM
This round
table belonged to a woman
who used to
summon ghostly visitors
And transmit
their cryptic messages
To her
guests holding hands in a circle,
Their faces
dimly lit by a candle,
Hoping to
see their loved one appear,
Or at least
hear the familiar voice
Greet them
once again, divulge a secret
From beyond
the grave,
Make someone
in the room cover their ears,
Another one
break into sobs,
While beyond
the thick drawn curtains,
The
snowflakes are starting to fall
On this
cold, dark and silent night,
Each one
determined to bury something
No matter
how small, no matter how big.
Charles
Simic: The Lunatic
Cô Đồng
Cái bàn tròn
thuộc về người đàn bà
Làm cái nghề
gọi hồn người chết
Và chuyển những
“mails”, “messages”, những dấu hiệu ngoằn ngoèo trên mặt cát, trong cái
nia
Tới khách hàng
của bà, ngồi xúm quanh, tay cầm tay, thành 1 vòng tròn
Mặt họ mờ mờ dưới
ánh đèn cầy
Hy vọng thấy
người thân yêu ngày nào xuất hiện
Hay ít ra,
nghe được tiếng nói quen thuộc
Chào mừng họ,
bật mí cho họ về 1 bí mật ở bên kia nấm mồ
Làm người nào
đó trong phòng bịt tai
Một người khác
sụt sùi
Trong khi,
quá những bức màn dầy, bên ngoài
Tuyết bắt đầu
rơi
Xuống đêm, lạnh,
tối, và im ắng,
Mỗi người
quyết định chôn một điều gì đó
Cho dù nhỏ cỡ
nào, bự ra sao.
Amour Fou
Black sorrow
running after me
In the
street,
Calling me
Tom Cat
Mr.
Hot-Nuts.
That's why I
break my neck,
Dart left
and right
Looking for
a hole to hide in,
Pretend I
don't know her.
A
lovey-dovey, hootchie-kootchie
Kind of
sorrow.
The people
stopping to watch
Think we are
both wacko.
Charles
Simic: Jackstraws
Tình Khùng
Nỗi buồn đen
rượt Gấu ngoài đường
Nè, Tom Cat,
Nè, Gấu
Khùng!
Đó là lý do
tại sao Gấu gãy cổ
Quẹo phải,
quẹo trái
Kiếm 1 cái lỗ
để chui vô
Làm như
không biết nàng
Một nỗi buồn
“tí yêu, tí nóng, tí lạnh, tí cà chớn”
Người đi đường
dừng lại nhìn
Nghĩ hai đứa
này wacko [khùng]
Tom Cat: Kẻ
chuyên làm thịt đàn bà, a womanizer
Hot Nut: Một
tên “gay”
Sách
Báo
'A
turning point': victims of the My Lai massacre, March 1968. Photograph:
Ronald L. Haeberle/Time & Life Pictures/Getty Image
Violence: A
Modern Obsession review – why the west has renounced savagery
Richard
Bessel argues that we are less violent than we’ve ever been in this
thorough
appraisal of morality
Italy’s
Seriously Playful Genius
Thiên
tài tiếu lâm trầm trọng của Ý Đại Lợi
Tabucchi's
last collection, Time Ages in a Hurry
(2009), now published in English translation,
declares its theme with admirable dispatch in the opening lines:
I asked him
about the old days, when we were still so young, naive, hot-headed,
silly,
green. A little bit's still there, except the young part, he answered.
Tôi hỏi ông
ta, GCC, về “những ngày ở Sài Gòn”, khi chúng ta còn trẻ ơi là trẻ,
hùng hục
như trâu nước… “Thì vưỡn còn đó, nhưng thiếu cái phần hùng hục như trâu
nước”,
ông ta trả lời.
Trong bài viết,
tác giả có kể ra là, chính là do quá mê bài thơ tiệm thuốc lá, The Tobacco Shop, của
Pessoa, khi còn là
sinh viên ghé Paris, qua bản dịch tiếng Tây, mà “thiên tài tiếu lâm
trầm trọng”
Tabucchi bèn cố học tiếng Tấy Bán Nhà, để đọc Pessoa.
Bài thơ này, như bạn đọc
TV đã biết, là bài thơ mà GCC coi như là tuyệt vời nhất của Pessoa.
Bài viết tuyệt,
nhưng không cho đọc free. GCC có tờ báo, nhưng lười quá, chưa scan được
hầu quí
độc giả!
Il faut savoir
voir Lisbonne pendant le temps exact d'un sanglot. La voir tout
entière, par
exemple, dans la première lumière du matin. Ou la voir complètement
dans le
dernier reflet du soleil sur la Rua da Prata. Puis pleurer. Parce que,
même si
c'est la première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà
vécu
toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides
exemplaires.
Vous marchez pour la première fois dans les rues de Lisbonne et vous
avez à chaque
coin le vague souvenir d'y être déjà passé. Quand ? Vous ne savez pas.
Mais
vous êtes déjà venu ici avant d'y aller pour la première fois.
le quartier littéraire de
Lisbonne
Ôi chao giá
như
viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà
nức nở.
Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những
cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Camus, rebellion and the
Arab spring
Kamel Daoud
Camus, rebellion and the
Arab spring
During the Arab uprisings and
afterwards, Camus was somehow planted among the crowds
On January 4 1960, the Algerian-born
French novelist and philosopher Albert Camus died in a car accident in
France.
He left a grave in that country, his books to the world, and a curious
legacy
in the Arab world.
His best-known novel, L’Etranger,
first published in 1942, focuses on the story of Meursault, a French
Algerian
who, after attending his mother’s funeral, kills an unnamed Arab. The
Arab
political left has long held the murder of that unnamed man, casually
killed on
a beach, against Camus. (The late scholar Edward Said referred to
Meursault as
a “sign of the colonial unconscious”.) It’s a symbolic murder, of
course, for
Arabs in the novels of Camus are mere shadows, anonymous people,
reaching an
apogee of invisibility in La Peste and L’Etranger.
Only in Le
premier homme, Camus’s final — posthumous — novel does the reader
finally
come across a flesh-and-blood Arab with a first name of his own.
Resentment against Camus in Algeria was
reinforced by his stand during the Algerian war of liberation of the
1950s. The
author of L’homme révolté was silent while the Algerians were
fighting
French colonialism, until he made his famous, much-distorted statement
in
Stockholm in 1957, on receiving the Nobel Prize for literature:
“Between
justice and my mother, I choose my mother.”
The Absurdism Camus described, the hymn
to courage in the face of what cannot be explained, the challenge to
totalitarianism,
will not be perpetuated by the Arab intelligentsia of the generation
that
witnessed decolonisation. The Arab revolutionary is not Camus’s homme
révolté and Camus is largely absent from our school handbooks.
Today, Islamism thrives as a philosophy
of life and death in the Arab world, a way of thinking born of the
crash of
independences, the collapse of the progressives and the failure of an
alternative philosophy to religious revival. In the early 1990s, at an
Islamist
students’ meeting in an Algerian university, voices were heard
clamouring for
Camus’s death, despite the fact that he was already long dead.
What blame is now levelled at the
philosopher? No longer the Arab’s murder in L’Etranger, but
God’s murder
in L’homme révolté and Le mythe de Sisyphe. Absurdism
is an
attack on God. Algerian Islamists, the first to have made an attempt at
restoring the caliphate and planning a coup in the name of Allah, have
developed a strange obsession with Camus, the colonial born under
Allah’s sun,
on Algerian land, whose philosophy is imbued with the strange sincerity
of a
godless saint. They have a dim perception that Camus, through
Absurdism, is
laying bare what is tentatively being hidden under the cover of
preaching and
prayer. It’s a strange reversal. In the sun of the desert, the jihadist
kills
Meursault, who has become a tourist lying in the shade under the rocks,
by the
seaside or the swimming pools.
Since the Tunisian spring of 2011, the
revolutionary has also been Arab. During the uprisings and afterwards,
Camus
was somehow planted among the crowds. At least his books were, or a
phrase, or
a turn of mind, or a way of facing up to the political absurdity of
dictatorships. Or at least L’homme révolté was. The concept of
revolt
that the writer held up high as a destiny is now going through
political
revival.
Camus, however, is not the father of
the Arab spring. He may just offer a way out of the dilemma that
revolutionaries have been locked in for generations: if I rebel,
Islamists will
take power; if I don’t, dictators will stay in power. This is an absurd
trap
indeed for what stands clearly out of Camus’s work is the need to
engage in an
all-out, in-depth struggle: toppling both dictators and gods. It is no
use
cutting off the president’s head if the religious facet goes
unreformed, if
there is no confrontation with it. Revolution will not be complete in
the Arab
world unless it involves both heaven and earth — that is, political
power and
Islamist or religious dictatorship.
Kamel Daoud is author
of ‘The Meursault Investigation’, shortlisted for the 2014 Prix
Goncourt, which
is published in English on July 2 by Oneworld. This piece was
translated by
Yamina Hellal
Bản tiếng Việt
Bài viết, đề ngày May 29, 2015 5:38 pm,
của chính tác giả cuốn sách.
Và cuốn sách, như chúng ta biết, được Goncourt năm
sau [Le journaliste et romancier algérien Kamel Daoud a reçu ce mardi 5
mai le
prix Goncourt du Premier roman pour «Meursault, contre-enquête» (Actes
Sud).]
Như vậy, tờ báo đăng bài này cũng không biết điều này, sau khi cho
đăng, nếu chúng
ta đọc dòng chót:
Kamel Daoud is author of ‘The Meursault
Investigation’,
shortlisted for the 2014 Prix Goncourt, which is published in English
on July 2
by Oneworld. This piece was translated by Yamina Hellal.
Theo GCC, đọc bài điểm trên Người Kinh
Tế, thú hơn bài này!
New Algerian fiction
Stranger and stranger
WHEN Albert Camus first published his best known
work,
“L’Étranger” in 1942, Algeria was still a colony of France, and “the
Arab” killed by the book’s anti-hero, Meursault, had no name. Seventy
years on, that omission is rectified in a scorching debut novel that is
sure to become an essential companion to Camus’s masterpiece. He was
called Musa.
“The Meursault Investigation” by Kamel Daoud, an
Algerian journalist, is a biting, profound response to French
colonialism. It is also a lamentation for a modern Algeria gripped by
pious fundamentalism. And it has earned the author both the 2015 Prix
Goncourt for best first novel and a Facebook fatwa
from a minor Muslim cleric calling for his death.
The book starts as a caustic, rambling monologue
told by
an old man in a bar to an appropriately nameless French expat. The
narrator is Musa’s younger brother, Harun; he says he and his mother
are “the only genuine heroes of that famous story”. Night by night he
unwinds his version of the tale Camus told, seeking justice for Musa,
condemning the “insulting brevity” of a scene in which the victim did
not even merit a name.
To Musa’s brother, the murderer and the famous
writer
are one and the same; in his telling, reality and fiction slip and
collide. The book’s brilliance lies in the gradual way Mr Daoud reveals
Harun to be a perfect mirror: the tragic double of Meursault/Camus. The
plot of his story is similarly twinned with that of Camus’s work.
Harun’s own crime and the consequent condemnation set off reverberating
echoes. “Maman died today,” Camus’s original opening line, becomes
“Mama’s still alive today.”
The reader begins to grasp that Harun is as much a
stranger in his liberated country as Meursault once was. Both men are
consumed by the violence of colonialism and its legacy. Harun has no
use for the imams of his neighbourhood. “Religion”, he quips, “is
public transportation I never use.” In Mr Daoud’s story Harun is duly
hounded, not by the priest who harangues Meursault, but by “a whole
pack of religious fanatics”. When the ghost of Camus sidles up from the
back of the bar, the old man wryly notes: “Ha, ha, I’m his Arab. Or
maybe he’s mine.”
If Camus’s writing is “capable of giving air facets
like
diamonds”, as Harun says, Mr Daoud’s prose is propulsive and charged.
The pages glitter with memorable phrases. This brave book is a
vertiginous response to a century of trauma. But read the Frenchman’s
version first.
Correction: We got our opening lines
muddled.
Camus started “L’Étranger” with “Maman died today”,
not “Maman died yesterday” which was our original suggestion.
Sorry about that. This was changed on May 29th 2015.
Viết
CAMEO
APPEARANCE
I had a
small, nonspeaking part
In a bloody
epic. I was one of the
Bombed and
fleeing humanity.
In the
distance our great leader
Crowed like
a rooster from a balcony,
Or was it a
great actor
Impersonating
our great leader?
That's me
there, I said to the kiddies.
I'm squeezed
between the man
With two
bandaged hands raised
And the old
woman with her mouth open
As if she
were showing us a tooth
That hurts
badly. The hundred times
I rewound
the tape, not once
Could they
catch sight of me
In that huge
gray crowd,
That was
like any other gray crowd.
Trot off to
bed, I said finally.
I know I was
there. One take
Is all they
had time for.
We ran, and
the planes grazed our hair,
And then
they were no more
As we stood
dazed in the burning city.
But, of
course, they didn't film that.
Charles
Simic
Cameo
Apperance: Sự xuất hiện của 1 nhân vật nổi tiếng, trong 1 phim….
CAMEO
APPEARANCE
Tớ có cái phần
nhỏ mọn, không nói
Trong cuốn sử
thi đầy máu của dân tộc tớ.
Tớ là một
trong cái nhân loại
Bị bom, oanh
tạc, pháo kích, và bỏ chạy té đái!
Từ xa, vị
lãnh đạo của chúng tớ lúc đó, hình như là Sáu Dân thì phải
Gáy như 1
con gà trống, từ ban công dinh Độc Lập
Hay là thằng
khốn nào đóng vai Sáu Dân vĩ đại?
“Tớ đó”, tớ
nói với lũ con nít
Tớ bẹp dí,
giữa một người đàn ông
Hai tay băng
bó, cùng giơ lên
[Sao giống
TCS quá, khi chào mừng Sáu Dân,
sau khi ca Nối
Vòng Tay Lớn?]
Và một bà
già miệng há hốc
Như thể bà
muốn chỉ cho coi một cái răng của bả.
Đau thật. Nhức
nhối thật.
Hàng trăm lần,
tớ coi đi coi lại You tube,
Không chỉ 1
lần
Liệu họ nhận
ra tớ không nhỉ,
Trong cái
đám đông ở Dinh Độc Lập bữa đó?
Thì cũng như
mọi đám đông xám xịt,
Bè lũ Cách Mạng
30 Tháng Tư,
Đứa nào cũng
có 1 cái băng đỏ ở cánh tay!
Thôi đi ngủ,
tớ sau cùng phán
Tớ biết, có
tớ ở đó.
Một cú
[cameo appearance]
Họ đâu có
thì giờ, 1 cú là đủ rồi.
Chúng tớ chạy,
và những chiếc trực thăng thổi tóc chúng tớ,
Như muốn giật
chúng ra khỏi đầu.
Và rồi chẳng
còn gì hết
Chẳng còn
máy bay trực thăng
Khi chúng tớ
đứng bàng hoàng trong Sài Gòn bốc cháy.
Nhưng, tất
nhiên, lũ khốn VC có bao giờ cho nhân loại coi cảnh này!
Hà, hà!
Note: Bài thơ này, Charles
Simic đi 1 đuờng về nó, trong cuốn GCC mới mua, The Life of Images: Thơ ca và Lịch
sử, Poetry and History, "y chang" GCC, khi đưa Sáu Dân ra đóng
trò.
Bài cũng ngắn, tuyệt. Giới thiệu quí độc giả TV liền tù tì.
Trong khi chờ đợi, trích 1 câu, Simic trích Cioran:
Bụt, Phật, Chúa đều sợ Bắc
Kít. Lịch sử Mít chứng tỏ điều này
"God is afraid of man... man is a monster, and history has proved it"
EXILE
The Literary
Quarterly
Volume 38
No.4
Together we
will undertake the extravagance of living
under a
sharpened conscience, in open honesty,
and we will
see what happens.
The worst
can only be catastrophe,
which is
better by far than a false success.
Paul-Emile
Borduas
The only
true exile
is the
writer who lives in his own country.
Julio Cortazar
Tên nhà văn
lưu vong thứ thiệt độc nhất, là kẻ sống trên chính quê hương của nó.
Đúng như thế!
GCC này chẳng đã từng
phán, bạn ngồi vào bàn viết, là bạn biến thành lưu vong!
Số báo này, “báo nhà”, có 1 bài tuyệt lắm, nó nói về nước Niên Xô,
nhưng đúng
là nói về xứ Mít, bởi là vì cái Hội Nhà Thổ gốc của nó là ở Niên Xô!
Tự Do Viết
30.4.2015
Quyền im lặng.
Ngay ở Tây
Phương, dân trí cao, thì cũng không ai rành luật cả.
Đâu phải job của họ.
Thành
ra mới phải có luật sư, thành ra mới phải có quyền im lặng.
Tao đéo nói gì hết,
mày hỏi luật sư của tao.
Lũ VC này thực
tình ngu quá đỗi, và cực độc, cực ác.
Nhưng ai biểu
Mit ngu, Mít mê VC!
Nghiêng
thương
Tản văn
Nguyễn Ngọc
Tư
Một tuần sau
khi người ta đổi cờ trên nóc đồn Nhơn Thành, bà nội nấu bữa cơm mừng
ngưng bom
đạn. Hai mâm dọn dài trên bộ ván giữa nhà, linh đình như đám giỗ. Cơm
này nấu
đãi đằng con cháu tay chân lành lặn trở về, không phải dành riêng cho
người
thua kẻ thắng nào, nội nói với mấy ông con đang nằm lắc võng, hút thuốc
gò. Thằng
anh vừa hỏi em, “ê, giao nộp súng chưa ?”
Nhưng cái
mùi thuốc súng trộn trong máu khô và tóc cháy vẫn lởn vởn trong bữa
cơm, nhất
là chú Tèo Anh bên sông bơi xuồng qua, trật lưng quần chìa cái thẹo rúm
lại bằng
nắm tay hỏi Hai Sang, “Ê, nhớ cái thẹo này không mậy ?
- Sao quên
được. Tôi đâm chớ ai.
- Dì Ba nghe
rồi đó - Tèo Anh kêu vói ra sau bếp - Thằng Sang nó nhận đâm tôi rồi
nghen. Trước
giờ dì toàn bênh nó.
Giọng chú
chói như cái bữa bỏ dở cuộc càn, nằm trên cáng thương áo quần bê bết
máu, tay vịn
cái tô úp vô chỗ thủng cho ruột khỏi vọt ra, dừng trước nhà kêu, “bớ bà
Ba
Quyên thằng quý tử của bà đâm bể bụng tôi, anh em bạn dì ruột mà chơi
vậy mà
coi được ?”. Bà nội xé cái áo may bằng lãnh Mỹ A ra để buộc ngang bụng
thằng
cháu, một người cáng thương phân trần, “ông trời này không chịu băng,
để về nằm
vạ với dì”. Tự thấy giọng đã đủ quả quyết, bà nội nói, “không phải
thằng Sang
đâu, nó ở miết trong rừng, đâu mà ra tận Giồng Cỏ Xước đụng bây”. Nhưng
chú Tèo
Anh khăng khăng nói thằng Sang chớ ai, nó bật nắp hầm dọt lên, trắng
như cục bột.
Bà nội nghe tiếng mình đuối dần về cuối.
- Ờ, có khi
thằng nhỏ quýnh quá đâm lầm.
Nhưng cuộc
nhậu mừng chiến tranh sực tạnh, Hai Sang nói khi đó súng mình hết đạn,
trong
tay chỉ có cây dao mác, và tính trước sẽ đâm vào bụng Tèo Anh. Quãng
đường từ
cái hầm dưới bụi tre chạy tới mé kinh là mười hai bước, cái hỗn loạn
của một
người đổ xuống sẽ được tận dụng để chạy thoát.
- Sao lại nhắm
vô thằng anh mày ?
- Thì anh đứng
gần miệng hầm nhất. Và còn chỉa súng phía tôi.
- Biết là
mày thì tao đâu bắn.
- Tụi đi
cùng sẽ bắn. Chiến tranh mà. Nhưng anh có chết đâu sao cằn nhằn nhức
xương quá.
Chú Tèo Anh
gãi gãi cái sẹo, cười. Ờ hén, phải tay người khác, có khi họ đâm xoáy
ngay tim,
đâu chỉ gây vết thương hú họa vu vơ như vầy.
Buổi đổi cờ
như dấu chấm xuống dòng. Sau cái trống trải im ắng của khoảng trắng,
chiến
tranh lại miết lên giấy câu chuyện đắng cay dai nhách của nó. Hết lửa
ngọn
nhưng không biết chừng nào mới than mới chịu nguội đây, bà nội rên rẩm
trong bụng,
khua đũa leng keng miệng chén, kêu tụi bây ăn đi, cháo vịt nguội ngơ
đông mỡ rồi
kìa.
Hồi còn bắn
nhau, có hai thằng con trong bầy đi theo hai phía chiến tuyến, ông nội
dặn cả
nhà không được nghiêng theo bên nào, “Dân làm ruộng thì cắm đầu làm
ruộng thôi,
cảm tình riêng thì để bụng chớ nói ra”. Nhưng ông nội công khai chở
lúa, gởi tiền
vô rừng cho thằng con lớn. Thằng em hay được tỉnh queo, “có sao đâu,
tía cưng
anh Hai nào giờ ai cũng biết”, rồi lắc võng ngủ khò.
Đứa vắng mặt
thì chỉ cái tên đi lại trên môi người ở lại. Thỉnh thoảng nhận được thơ
viết
tay, nó không xin áo mới thì cũng pin đèn, dầu. Lá thơ nào cũng bắt đầu
bằng
“Con tin thắng lợi đang tới gần rồi”, và lấy “tía má có khỏe không ?”
làm kết
thúc. Bà nội cứ lộn lá thơ hy vọng có dòng nào bí mật rơi ra, một câu
hay một
chữ hỏi tới chứng phong thấp của bà.
Đứa ở gần
ngày nào cũng đảo qua nhà lục cơm cháy. Mùi rượu cuối chiều, tóc tai
phủ gáy
kêu hoài không chịu cắt, nửa đêm huýt sáo chọc chó sủa dậy, có cái áo
mặc hoài
hôi xì mà không chịu thay. Sự sống động đó, tùy tiện đó, bừa bãi đó
khuấy động
bà mẹ, khiến lòng bà trùng trình. Thương lén, thương bằng mắt, bằng cái
điệu bộ
đuổi xua, “cơm chánh phủ đâu sao không ăn, lảng vảng chi trong bếp dân
thường”.
Sau cuộc bãi
khóa, ông anh lớn bỏ học vào rừng, chú Quý cũng trở về Nhơn Thành, vét
sạch hai
bồ lúa mua chức xã trưởng. Ngày nào tân xã trưởng cũng ngồi trước hàng
ba lau
khẩu súng mới được cấp, đuổi dạt mấy người hay tới gặp ông nội hầm hè
chuyện để
con cái trong nhà trốn theo bên đỏ. Một tay ôm con gà nòi chiến, tay
kia xỏ vô
túi quần tây, xã trưởng thả tà tà dài xóm, lâu lâu thò đầu vô nhà ai đó
hỏi,
“Có nuôi chứa ai trong nhà không, thím hai ?”. Chẳng ai dại gì nói có,
nhưng xã
trưởng hết sức hài lòng, “Không hả ? Ờ được”. Rồi huýt sáo bỏ đi, những
nốt nhạc
của bài “nét buồn cuộc chiến” cứ rơi đằng sau gót. Bài hát như nhạc
hiệu của xã
trưởng, chưa thấy bóng Tư Quý đâu người ta đã nghe rười rượi “mắt em
buồn cuộc
chiến quê hương, tóc em buồn màu hỏa châu vương, từng đêm nghe súng nổ,
con tim
mình tan vỡ…”
Thằng con xã
trưởng ở đầu gánh, cân bằng với một thằng con khác ở trong rừng, ông
nội giữ tư
thế người ở giữa, kệ chiến cuộc có nghiêng về bên nào. “Tụi này chỉ
theo đám ruộng”,
ông nội thường nói vậy mỗi khi hai bên tới rủ rê theo họ. Thuyết phục
được ông
điền chủ Năm Tánh, thì coi như giải quyết xong cả xóm Nhơn Thành. Hai
bên đều
nghĩ vậy, nên kẻ thì đẩy cỗng lúc ngày, người gõ vách lúc nửa đêm. Nước
trong
bình trà không quan tâm ai từ đâu tới, cứ đon đả chảy ra mỗi khi khách
tới nhà.
Nhưng tình
thương của bà nội đối với đám con thì khó lòng rạch ròi thế ở giữa. Như
bữa mừng
dứt chiến tranh, ăn uống xong lôi bộ bài tây ra đánh chơi, thấy chú Tư
Quý thua
xiểng liểng, bà nội lén dúi cho mấy chục cắc. Vớ mớ vốn đó chú Tư lội
ngược
dòng, vét sạch túi mấy ông anh. Tàn cuộc, chú phủi đít quần hốt vốc
tiền bỏ vô
túi người anh họ cũng vừa nộp súng xong.
- Đem về mua
gạo cho sắp nhỏ, tụi mình phải đi xa dài ngày mà.
Người đàn
ông nhẹ nhõm với thắng thua ấy, ngày về thành con người khác. Như thời
gian ở
trại cải tạo, người ta đã đánh thức chú giữa giấc ngủ, giữa bữa ăn, lúc
đi tắm
để dí ngón tay giữa trán, nhiếc móc “anh là kẻ thua cuộc”. Là kẻ thua
cuộc. Kẻ
thua cuộc. Thua cuộc. Như thể trong hai mươi lăm ngày lao động cải tạo,
cây cuốc,
cọng rau, và cỏ dại đều day đi day lại, nhét đầy những lằn rãnh những
tia máu
trong đầu chú, “đồ thua cuộc”
Cả tiếng đũa
khua, hôm đầu tiên chú về, cũng rón rén, phập phồng. Cái thằng nhỏ ung
dung,
hay phẩy tay phớt đời của mình đâu rồi, bà nội nghĩ vậy lúc thắp cây
đèn ngồi kế
bên, gắp cá bống kho tiêu bỏ vào chén nó.
Một bữa sớm,
Tư Quý đổ dầu máy cày, rồi lái thẳng ra đồng. Không bao giờ chú quay về
nhà nữa.
Người ta đã lần theo vết máy cày rằn trên đất, đi hết đồng Nhơn Thành
đến Phong
Điền, Trảng Gió, Mù Sương cho đến khi không còn nhận ra dấu hằn của
chiếc máy
cày Tư Quý với những chiếc máy cày miệt khác chạy ngang dọc trên đồng
đất tháng
Năm.
Bằng cách đi
vào mịt mù, chú Tư Quý khiến bà nội nghiêng thương về phía mình, cho
đến lúc
tàn hơi, “Bữa thằng nhỏ đi chỉ đem theo có nắm cơm nếp đậu, nó có thể
đi đâu chớ
?”.
Note/Errata: Làm gì
tới 15 ngày cải tạo?
10 ngày
thui!
GCC, 3 ngày!
Chép lại bản Tư gởi!
NQT
Note: Đọc cái này,
thì lại nhớ tới 1 vị độc giả của TV.
Vị này nói, Tara của Gấu Cái mới thực là Tara.
Tara của Cô Tư có mùi Cách Mạng!
7.4.2010
Ấp Tara ở
đâu xa? Nó ở đây:
Chỉ có ngoại
là nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái chòi sát bên căn
nhà đổ
nát cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu người con nhưng cuối cùng
tan nát, mỗi
người mỗi nơi, kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình
ngoại, già
nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà đổ nát.
Đến con đường
dẫn về nhà ngoại, tôi muốn khóc. Con đường mòn vừa lối trâu đi, hai bên
có hai
hàng su đũa, ngày xưa tôi vẫn thường được cậu tư dẫn đi thả diều, hoặc
hai cậu
cháu lang thang khi nắng chiều đã nhạt. Con đường tiêu điều, hàng chục
thứ dây
leo chằng chịt, quấn quít trên cành cây hai bên đường, tôi chợt thấy
trong đám
dây leo đó có những sợi mầu vàng. Đây là loại dây leo không rễ, bám vào
cây nào
thì cây đó sẽ khô héo dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây tơ hồng.
Tôi thẫn thờ
bước vào nhà ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc
dừa đã
lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi, ngọn bị bom chặt gãy vắt lên
gốc. Liếp
sầu riêng của ngoại cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn
mấy cây ổi
sống dai, xanh um, trái chín vàng ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già,
mốc. Ngày
xưa tôi và dì út thay phiên nhau hành nó, không ngày nào mà hai dì cháu
không
trèo cây, hay lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín đầy cành, rơi đầy
gốc...
Tôi chợt nghe tiếng chim, lạc lõng, hốt hoảng, không còn những âm thanh
ríu rít
như ngày xưa, hay là nó cũng như tôi, đang lần mò trở về gặp lại vườn
cũ. Tôi
ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe tiếng ngoại đánh
thức...
… Và Gấu có
còn muốn trở về với nó nữa không?
Uyên đã thực
sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều: biển
cả, bởi vì
mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm
thấy được,
con đường trở về...
Kính GNV,
tôi rất thích truyện ngắn của Thảo Trần.
Giọng kể của
bà thanh thản mà gây buồn da diết, đúng là viết mà như không.
Đoạn
"Tara" mà tôi mới trích, hay hơn cô Tư đó, vì nó rất tự nhiên.
Chúc mừng
bà. Xin cảm ơn đã cho tôi được đọc.
Kính,
HÂ
Đa tạ
TT/GNV
TTT 2006-2015
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt trên đê làng
Thanh
Trì, Sơn Tây
|