|
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ
của
thiên đường | Passage Eden | Sáng
tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch
thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả
sáng tác | Giới
thiệu | Góc
Sài gòn
| Góc Hà nội
| Góc
Thảo Trường
Lý
thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả
ngoại | Tác
giả & Tác phẩm | Text Scan
| Tin văn
vắn
| Thời sự | Thư
tín | Phỏng
vấn |
Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại
| Potin |
Linh tinh
|
Thống kê | Viết ngắn | Tiểu
thuyết | Lướt
Tin Văn Cũ | Kỷ
niệm | Thời
Sự Hình | Gọi
Người Đã Chết
Ghi
chú
trong ngày | Thơ
Mỗi Ngày | Chân
Dung |
Jennifer
Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật
Ký Tin Văn [TV last page]
Album
Bông hồng là bông hồng là
bông hồng
If you sit long on the bank of the river, you may see the
body of your enemy floating by.
Cách ngôn Trung Hoa (Joseph Brodsky trích dẫn trong bài viết
"Collector's Item")
[On finit toujours par voir passer le cadavre de son ennemi]
[Ngồi lâu bên bờ sông, thể nào cũng thấy xác kẻ thù trôi ngang
qua....]
Virtue,
after all, is far from being synonymous with
survival; duplicity is.
Joseph Brodsky
(Sống sót do nhập nhằng,
không phải bởi
đạo hạnh).
Lạ.
Chẳng lẽ "hoa hồng là hoa hồng" mà Nguyễn Quốc
Trụ lại không phải là Nguyễn Quốc Trụ ư?
NHQ
The Paris Review Spring 2015
Hilary
Mantel on the art of fiction: “I suppose if I have a maxim, it is that
there
isn’t any necessary conflict between good history and good
drama.” Lydia
Davis on the art of fiction: “ I find what happens in reality very
interesting
and I don’t find a great need to make up things, but I do like
retelling
stories that are told to me.” Elena Ferrante on the art of
fiction: “ The
media simply can't discuss an artwork unless it can point to some
protagonist
behind it. And yet there is no work of literature that is not the fruit
of
tradition, of many skills, of a sort of collective intelligence.”
Poems
Three Poems
Charles Simic
January
Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.
[Note: Bài thơ này, trên báo giấy, có hai
khúc, như trên.
Trên báo net, ba:
January
Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.]
Tháng Giêng
Vân tay con
nít trên cửa sổ giá lạnh
Của một ngôi
trường nhỏ
Một đế quốc,
Gấu Cà Chớn đọc đâu đó
Tự gìn giữ,
chính nó
Bằng sự độc ác
của những nhà tù của nó
[Ui chao, đọc
bài thơ này, thì GCC bèn THNM, mà ngộ ra rằng, nhờ cái thứ giáo dục,
ngày hôm
nay, em bắn rớt ba Thần Sấm, giết bốn tên Mẽo, chôn sống năm tên
Ngụy, mà xứ Mít VC, không chỉ tự gìn giữ nó, mà còn đánh thắng được cả
hai tên
thực dân đầu sỏ, cũ và mới]
A LIFE OF
VICE BEGINS IN THE CRADLE
Grandpa
loved crawling
Under the
skirts of his mother's friends
As they sat
on the porch
On warm
summer afternoons
Sipping
sweet tea and chatting
About
neighbors and relatives,
Ignoring the
toddler running
His small
hands up their legs.
Một đời trụy lạc bắt đầu
từ trong nôi
Ông nội mê xục xạo
Bên dưới váy mấy bà bạn của mẹ
Khi họ ngồi buôn chuyện
Ở bên dưới vòm cổng
Vào những chiều hè
Về lối xóm và bà con họ hàng
Lim dim chiêu ngụm chè tươi
Vờ ngón tay thằng bé lăn tăn, lăn tăn
Giữa những sợi lông chân
Tới tận háng!
MYSTERY
THEATER
Bald man
smoking in bed,
Naked
lightbulb over his head,
The shadow
of his cigar
Next to him
on the wall,
Its long ash
about to fall
Into a
pitch-dark fishbowl.
Tuồng
Bí Mật
Đầu trọc nằm
hút thuốc lá trên giường
Cái bóng đèn
trộc lốc trên đầu hắn ta
Cái bóng điếu
xì gà
Kế hắn ta,
trên tường
Mẩu tàn
thuốc,
dài ơi là dài
Hăm he rớt
Xuống cái chậu
cá, đen ơi là đen.
1 YEAR AGO TODAY
Wed, May 7, 2014
Quoc Tru Nguyen
May 7, 2014 at
9:43pm ·
Về hai mùa xuân lớn và về anh/chị em
nhà Skvorecky
1
Khi, vào tháng Chín 1968, bị chấn
thương nặng nề do cú Liên Xô xâm lăng Tchécoslovaquie, tôi tới Paris
dưỡng thương
vài ngày. Josef và Zdena Skvorecky cũng có ở đó. Hình ảnh 1 chàng thanh
niên
trở lại với tôi, và 1 giọng điệu thật hung hăng: “Đám Tchèques như các
người,
thực sự muốn gì? Bộ tụi mi quá chán chủ nghĩa xã hội rồi ư?”...
Continue
Reading
The Fashionable Life
Thăm chốn
nghỉ dưỡng nằm giữa mây trời của nhà văn Nguyễn Quí Đức
Nhà văn Nguyễn
Quí Đức đã chia sẻ với Harper’s Bazaar Việt Nam về không gian sáng tạo,
nơi nghỉ
dưỡng độc đáo của mình tại Tam Đảo
The Scene of the Crime
Chuyến đi Mỹ Lai của 1
phóng viên và những bí mật của quá khứ
Seymour M. Hersh
Nguyen Qui
Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular
bar and
restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen.
Thirty-one
years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning
journalist
and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to
come back
and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and
living as
someone else in the United States. I was grateful for the opportunities
in America,
but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time
as a
reporter for National Public Radio, and fell in love with it."
The New
Yorker, My Lai Revisited, Mar
30 2015
NQD nhà văn Mít 57 tuổi,
chủ nhân 1 nhà hàng tại Hà Nội, chạy qua Mẽo năm 1975 khi 17 tuổi. Tớ
luôn muốn
về sống ở xứ Mít. Tớ thấy tớ
chưa xong, không đầy đủ, bỏ nhà ra đi khi
17 tuổi,
và sống như 1 ai đó ở Mẽo. Tớ biết ơn Mẽo với những cơ may mà nó
ban
cho tớ. Nhưng
cái tớ cần là 1 cảm quan, ý nghĩa cộng đồng. Gặp Hà Nội, là tớ mê liền.
Note:
Nhà văn NQD trả lời ký giả The New Yorker, về cái vụ ông không làm sao
lưu vong được
Như
vậy, cái phần chưa xong, chưa đầy đủ đó, bây giờ chắc đầy đủ rồi?
Nhân
"Meursault, Phản Điều Tra" đợp Goncourt (1)
Hai cuộc chiến, với Pháp, và
với Mẽo, cuộc chiến đầu thì còn có thể đổ cho dã tâm của anh Tây muốn
trở lại
Việt Nam.
Và câu của Gordimer vinh danh Camus là lời phê bình đích đáng nhất đối
với mẫu
quốc ngày nào của dân Mít:
FOREWORD
Albert
Camus-Political Journalist: Democracy in an Age of Terror
Our
twentieth century is the century of fear.... We live in terror.
-ALBERT
CAMUS,
"The
Century of Fear" (Combat, November 19, 1946)
I have
always believed that if people who placed their hopes in the human
condition
were mad, those who despaired of events were cowards. Henceforth there
will be
only one honorable choice: to wager everything on the belief that in
the end
words will prove stronger than bullets.
Tôi
luôn luôn tin rằng,
nếu những kẻ đặt hy vọng vào phận người - khùng,
thì những kẻ quá chán sự kiện, hèn.
Từ đó, chỉ có 1 chọn lựa cực bảnh: Húc đầu vô mọi chuyện, với niềm tin,
sau
cùng chữ mạnh hơn đạn.
-ALBERT
CAMUS,
"Toward
Dialogue" (Combat, November 30, 1946)
Nadine
Gordimer
chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at
"Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton):
editorials and other texts, letters, published at high personal risk by
Camus
in what began as an underground newspaper during the German of
Occupation of
France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of
passionate
conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes
Camus's
creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider.
As
editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the
Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy
themselves owing to the heavy price they eventually exact when they
seek to
become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria
what held good for other colonial empires as well: "The failure to
peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II
... a
serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả
tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình
luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho
người viết,
trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng
viết, chứa
trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách
quan,
trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng
tạo của
Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa
Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước
Pháp bị]
Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông
chẳng
còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên
chúng ta,
nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ
chúng,
và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần
trong thực
tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là
tốt, không
chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực
dân
thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa
thực
dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại
nghiêm trọng,
nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước
Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo,
có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là
những gợi ý
của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành
lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan
tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao
tránh khỏi
cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc
gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra
một lời
giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp
ngựa để thắng
cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh
Miền Nam,
và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng
chẳng ai
cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở
tung, và con
quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết
trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến,
chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương,
trong hồn,
trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe
nanh múa vuốt
xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên
y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải
thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi
chuồng
heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của
Gogol, sự xuất
hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu
tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn
chân",
hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào
má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ
gọi anh
là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự
mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng
mảnh
dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai
quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao
đổi ma
quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị
(offering) thân
chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ
lấy đi
còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi
chuyến đi với
cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an
bài"!
Tchekhov
và
Kafka
Bạn
cũng có thể hình dung ra
con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp
cho anh
bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made
in China’,
và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu,
núi đâu,
gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?
Nam Le, bestseller
Anh
cũng nhớ ông bố đã từng
quất cho anh hai chục lần rồi xát dầu cù là con hổ lên vết thương. Và
anh
biết được một điều là bố anh đã từng chứng kiến vụ tàn sát Mỹ Lai, khi
ông mới
14 tuổi, và may mắn sống sót, nhờ nằm bên dưới một cái hố, trên là
những xác dân làng,
trong có mẹ ruột của ông, tức bà nội của anh, trên một chục mạng bị
lính Mỹ xả
súng máy, sát hại.
Sau vụ Mỹ Lai, cha của nhân vật
kể chuyện đã gia nhập quân đội VNCH và chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ;
khi được
hỏi tại sao ông có thể chiến đấu cùng với họ sau khi chứng kiến vụ tàn
sát đó, ông
trả lời: “Ta chẳng còn gì ngoài hận thù. Nhưng ta có đủ hận thù cho tất
cả mọi
người.” Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông bị đầy đi trại cải tạo, bị tra
tấn, và bị
bỏ đói. Vào năm 1979, ông tổ chức cuộc vượt trốn của gia đình, qua Úc.
*
Cái tít truyện “Love and
Honor”, là từ Diễn văn Nobel của Faulkner:
THE
BOAT is an engaging and
free-wheeling collection of seven short stories by first-timer Nam Le,
organized in a cleverly self-referential package. In the pivotal first
story,
"Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice" (a
title drawn from William Faulkner's Nobel Prize acceptance speech in
1950), a
young Vietnamese American lawyer-turned-aspiring author named Nam is visited by his father, just
arrived from Australia.
Nam has
settled in Iowa
to attend the renowned Iowa Writer's
Workshop.
As he struggles to meet its
creative demands and beat his own writer's block, a friend encourages Nam simply to write about Vietnam,
since
"ethnic literature's hot." Another friend differs: "It's a
license to bore. The characters are always flat, generic." It's that
last
friend who tosses out as an aside, "You could totally exploit the
Vietnamese thing. But instead, you choose to write about lesbian
vampires and
Colombian assassins, and Hiroshima
orphans - and New York
painters with hemorrhoids." And thus is THE BOAT.
The second story follows the
perilous life of Juan Pablo Merendez, an adolescent assassin in Medillin, Colombia
as he is called to task by his boss for failing to carry out an
execution. Next
comes "Meeting Elise," the story of an aging, hemorrhoid-afflicted
painter seeking desperately to make amends with his estranged (and
engaged)
daughter as she makes her Carnegie Hall debut as a concert cellist.
Another
story, titled simpy "Hiroshima,"
traces the life of a young Japanese girl moved to the safety of the
nearby
countryside in the days immediately preceding the dropping of the
atomic bomb.
"Hiroshima" is sandwiched between two
other stories, one a "coming of age" story in a coastal Australian
town, the other a "coming to life's purpose" story in Tehran, Iran.
After this whirlwind tour, Nam Le returns for the finale to Vietnam
for his
title story, "The Boat." Not surprisingly, this one is a flight and
survival story, focusing on Mai, a young girl cast adrift for days in
the
Pacific with two hundred other refugees on a smugglers' trawler that
has lost
its engines.
So what to make of the
metastructure? In Nam Le's opening story, the writer Nam
succumbs to the pressure of his
writing assignment and opts to "exploit the Vietnamese thing." He
interviews his father, a survivor of the My Lai
massacre, and converts this horrific story relatively quickly and
easily into
typewritten copy. He awakens the next morning to discover that his
father has
read and then destroyed the one and only copy. Has Nam Le the author
discarded
ethnic literature of his own (the figurative tearing up of the My Lai story by his fictional father in the
first story)
for that of Colombians, Japanese, Iranians, and Australians? And has
he, upon
attempting to step outside his own ethnicity and into the skins of
others,
returned unsatisfied to his own Vietnamese experience for his closing
story? Is
the reader intended to compare the relative merits of Nam's
own
ethnic (Vietnam-based) stories with those drawn from the world at
large? Or are
we to see the opening and closing stories as literary "brackets" of
the immigrant/ethnic literature genre, one a tale of departure or
escape, the
other of adaptation and assimilation?
There seems little doubt that
the opening and closing stories are Nam Le's most affecting. The opener
is
touching in its treatment of intergenerational relationships and
differences in
perception, while the closer is a harrowing tale of sun, salt, thirst,
and
death for the sake of freedom. In between, the other stories show
notable
flashes of literary command, but only the "Cartegena" story in Colombia
engages the reader with anything approaching the story-telling power of
the
opening and closing Vietnamese stories.
Perhaps Nam's fictional
friend in his opening story is correct, that one writes best about what
one
knows best, that it really is best to "totally exploit" ethnic
literature. In Nam Le's case, THE BOAT shows an emerging authorial
talent that
promises the possibility of compelling ethnic literature as well as a
future
range well beyond "the Vietnamese thing." It is quite easy to
recommend this book on its merits and also advise readers to keep a
watchful
eye out for Nam Le's next effort.
Steve Koss (New York, NY United States)
*
The poet's, the
writer's, duty is to write about these things. It is his privilege to
help man
endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor
and hope
and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the
glory of
his past. The poet's voice need not merely be the record of man, it can
be one
of the props, the pillars to help him endure and prevail.
William
Faulkner: Nobel Prize
Speech
Stockholm, Sweden
December 10, 1950
Như vậy Nam Le này,
cũng một thứ cứ "lải nhải" Faulkner, chăng?
Gặp Hà Nội 1
phát là mê liền.
Chưa ghê bằng
1 ông nhà văn Mít hải ngoại, Bắc Kít 1954, bị bố mẹ bắt di cư, rồi bắt
qua Mẽo,
mất mẹ căn cước Mít, về Hà Nội, nhìn hai vết đạn Tẩy để lại trên thân
thể Hà Nội
mà đau như cắt, và khi hỏi, về không, làm sao không, về đâu, Hà Nội chứ
đâu nữa!
Ở hay Về
Với Hà Nội,
tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng tôi chẳng biết gì về nó. Chưa kịp
có chút
ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ.
Kẻ
lạ cũng
là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Tôi chẳng
bao giờ khóc vì nhớ thương Hà Nội như Vũ Bằng, nhưng một hôm có
người
bạn hỏi
đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ chọn ở nơi đâu.”
Không kịp
suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội chứ còn đâu nữa.”
Nguồn
Thơ
Mỗi Ngày
The Lunatic
THREE COWS
These must
be the cows who prayed
to be born
again
and graze
side by side
on this
pretty meadow.
And did so
all summer long,
lifting
their heads only
to look with
their sad eyes
at some poor
devil like you,
who has
stopped by their fence,
wearied by
some thought or other,
and has now
roused himself
discovering
he has company.
Ba con bò
Hẳn là những
con bò này đã từng cầu khẩn
Được tái
sinh
Và đứng bên
nhau gặm cỏ
Trên cánh đồng
xinh đẹp này
Và lui cui,
cặm cụi gặm cỏ, hoài
Suốt mùa hè
dài
Chỉ nhấc cái
đầu lên
Để nhìn bằng
những con mắt buồn ơi là buồn
Một tên cà
chớn, quỉ tha ma bắt, là mi, Gấu Cà Chớn
Đứng kế bên
hàng giậu
Ưu tư cái
này cái nọ cái chó gì đó
Và chợt giựt
mình
Ngộ ra mình
có bạn!
IN THIS
PRISON OF OURS
Where the
turnkey is so discreet,
No one ever
sees him
Making the
rounds,
It takes a
brave soul
To tap on
the wall of his cell
When the
lights are out,
Hoping to be
overheard,
If not among
the angels in heaven,
Then among
the damned in hell.
Trong nhà tù
này của chúng ta
Một khi mà
tên giữ chìa khoá quá thận trọng
Chẳng ai
nhìn thấy hắn ta
Làm những
tua tuần tra,
Phải là 1
linh hồn can đảm
Mới dám gõ
tường xà lim của hắn ta
Khi đèn tắt
Hy vọng nghe
lén
Nếu không,
giữa những thiên thần ở thiên đàng
Thì là, giữa
những kẻ trầm luân nơi địa ngục
AUTUMN
EVENING
Poor
goldfish
Some kid
threw in
A rain
puddle.
No, worse
than that!
Swimming
In a dead
man's
Pickle jar.
Yeah, poor
fish.
Chiều Thu
Tội con cá
vàng
Một tên nhóc
Ném vũng bùn vô
Tệ hại hơn
thế nhiều!
Tung tăng
trong bình nước giầm
Của người chết
Ui dà dà
Tội nghiệp
chú cá vàng
THE FEAST
Dine in
style tonight
With your
misery, Adele.
Put on your
silver wig
And that
black dress
With plenty
of cleavage,
And
haughtily offer it a seat
At the head
of the table,
Leaving the
intimacies
That are
sure to follow
This feast
of empty plates
To your
neighbor's imagination.
Charles
Simic: The Paris Review, Summer 2014
Bữa tiệc
Ăn tối, đúng
điệu, tối nay
Với sự khốn
cùng của em, Adele.
Hãy đội mớ
tóc giả bạc
Mặc cái áo
dài đen
Thiếu vải,
khoe hàng
Và thật kiêu
căng,
Ban cho nó
chỗ ngồi
Ở đầu bàn.
Bỏ mặc những
riêng tư
Thật dễ dàng
theo dõi
Bữa tiệc với
những cái dĩa không
Cho sự tưởng
tượng của lối xóm.
Note: Bản trong The Lunatic, câu chót:
To your friend's imagination
Softly
Lay the
knife and fork by your plate.
Here, where
it's always wartime,
It's prudent
to break bread unobserved,
Take small
sips of wine or beer
Sneaking
glances at your companions.
June
evening, how your birds worry me.
I can hear
them rejoicing in the trees
Oblivious of
the troubles that lie ahead.
The fly on
the table is more cautious
And so are
my bare feet under the table.
Hundreds of
bloody flags fleeing at sunset
Across the
darkening plains.
Some general
leading another army into defeat,
While you
pour honey over the walnuts,
And I wait
my turn to lick the spoon.
Charles
Simic: New and selected Poems
Nhè nhẹ
Để con dao
và cái nĩa kế bên cái dĩa của bạn
Ở đây, nơi
luôn luôn là thời chiến
Nên thận trọng
bẻ mẩu bánh mì, đừng để ai nhìn thấy
Uống những
ngụm nho nhỏ, rượu chát, hay là bia
Lén đưa mắt
nhìn bạn quí cùng ngồi
Buổi chiều
30 Tháng Tư,
Như thế nào
mấy con chim của Cao Bồi làm Gấu tôi bừng bực
Chúng vui mừng
ở trên cây
Rõ ràng là đếch
thèm để ý đến những troubles của lũ Ngụy ở phía bên dưới
Con ruồi
trên mặt bàn cũng thật là thận trọng
Và cũng thế,
là đôi bàn chân của Gấu ở dưới mặt bàn
Hàng trăm lá
cờ máu me, ba que, cà chớn… bỏ chạy vào
lúc hoàng hôn
Qua những
cánh đồng thẫm tối
Vài ông tướng
dẫn một binh đội khác vào thất trận
Trong lúc bạn
quí tưới mật ong lên cái bánh bông lan
Và Gấu thì đợi
đến lượt mình liếm cái muỗng!
Map
Sách
Báo Mới [new]
Cỏ Xanh Đường Làng
Trên TV đã giới
thiệu Anne Enright, được Booker với cuốn "The Gathering", từ
Faulkner, “Trong Khi Nằm Hấp Hối”, mà ra.
(1)
Trở lại nơi một thời vang bóng
Lẽ
dĩ nhiên đường từ St
Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục,
cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn
chương, đã
tuyên bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và
tuyên
bố:
Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.
Nguyễn
Quốc Trụ
Cứ theo lịch
sử mà nói, thì luôn luôn, cá nhân bị buộc tội phản bội xứ sở của nó.
Tại sao
chúng ta không nói ngược lại, theo kiểu đổi bên, nghĩa là, bây giờ đến
lượt Gấu
buộc tội xứ sở Mít phản bội Gấu!
Hà, hà!
Ý trên, là của
Ha Jin, trong bài Ngôn ngữ Phản bội, The
Language of Betrayal, trong
Nhà văn
như là Di dân, The writer as Migrant.
Ông giải
thích thêm:
Rất nhiều xứ
sở là những tên phản bội đối với những công dân của chúng.
Cái tội ác tệ
hại nhất, khốn kiếp nhất mà xứ sở phạm, đối với một nhà văn, là, khiến
nhà văn
đếch làm sao viết với sự chân thật, và với sự toàn vẹn của người nghệ
sĩ.
The worst
crime the country commits against the writer is to make him unable to
write
with honesty and artistic integrity. (1)
Ghi
chú
trong ngày
Trong Khi Chờ
Tầu!
[Tầu, means Tẫu]
Nhân đọc mẩu
viết về “tầu hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo
này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong
Khi Chờ Godot, và đây là dụng ý
của tay viết.
Và của Gấu!
EN ATTENDANT
LE TRAIN
MÉDITANT SUR
TOLSTOI ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner
ouvre une brève
parenthèse pour souligner le role stratégique des quais de gare chez
ces deux auteurs.
Leurs trajectoires, si souvent opposées et dont Steiner s'applique à
minorer
les divergences, se trouvent ainsi réunies, en attendant le train, II
ne
faudrait pas toutefois en conclure que le roman russe s'apparente à
l'indicateur
Chaix et encore moins à une littérature de gare, encore que lire Guerre et Paix dans le Transsibérien
demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros de Tolstoi comme
ceux de
Dostoievski aiment voyager par le train, Que l'on songe à l'ouverture
de L'ldiot, quand le prince Muichkine et
Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie. Ou
encore à
la tragédie
d'Anna Karénine qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
Vronsky, on
le sait, part pour la guerre. II existe d'autres destinations plus
enviables. D'autant que
le roman russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses
héros vers
de lointaines et mythiques frontières, là où campent les Cosaques, les
tribus
du Caucase, les vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros
tolstoien s'évade
volontiers à la
campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection
de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son salut dans
le
royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des Possédés
conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
Quand,
rompus de fatigue, les héros restent à quai, c'est l'auteur qui part.
Ainsi Tolstoi,
abandonnant au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les
lieux de sa
jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui
est à ses
trousses. « Je m'en vais dans la solitude», écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une petite gare,
à Astapovo, où il mourra en laissant sur sa table de chevet deux
livres, ultimes compagnons
de voyage: Les Frères Karamazov et
les Essais de Montaigne.
La Russie et
l'Europe sont les deux patries des auteurs russes. Tolstoi admirait
Stendhal. De son coté,
Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif...
Reconnaissant
sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à Ivan
Karamazov: « Je veux
voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir d'ici. Et pourtant, je sais
que je
ne trouverai qu'un cimetière un très précieux cimetière, voilà ce que
c'est! »
Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait à Paris,
Rome ou Vevey.
Indifférente
à tant de transports, l'Europe à longtemps consideré avec froideur et
réticence
les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos, l'absence
de contraintes
esthétiques, trop de vie, trop de pages. Comment faire face aces «
grands monstres
informes », selon la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a
écrit pas
moins de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il
se risqua
à bâtir une pièce de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec
l'infinité,
il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque roman ménage un
prélude à
l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit
même trois
pour éviter de tout à faire conclure
Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles
de la littérature
russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent jamais.+
(1) George
Steiner, Tolstoi ou Dostoievski,
traduit de l'anglais par Rose Celli, réed, 10/18, 2004.
hồng vệ binh
30/4 (1)
Note: Được,
được!
V/v Nhà thơ Đại
Hàn này, TV cũng đã đi 1 đường bình loạn, khi anh “thú tội trước bàn
thờ” [thuổng Kiệt Tấn: anh viết, thú hơn, nhưng Gấu không tiện lập lại
ở đây!], 1 dòng thơ trong bài thơ thần sầu "quê hương", không phải của
ảnh!
Phúc
phương phì
Câu cuối
không hề có!
Ui
chao, trễ quá rùi
Một độc giả Tin Văn,
chắc là nữ độc giả, sau khi đọc bài viết về nỗi thiếu quê hương, không
thể lớn thành người, đã viết mail, trách nhẹ Gấu, không thể so sánh Đỗ
thi sĩ với Kim Phúc được, vì một lý do rất giản dị, không một người phụ
nữ nào muốn cái chuyện, thân thể của mình bị mang ra làm trò, bất cứ
trò gì, đừng nói trò tuyên truyền khốn nạn. For Your Eyes Only, không
nhớ sao, Chú/Bác Gấu?
Bà/Cô nhắc tuồng Gấu:
Phải so sánh với trường hợp Grass, và cái chân lý về thế kỷ bửn, thế kỷ
Lò Thiêu, Lò Cải Tạo: Không ai muốn từ giã nó mà trên người không có
tí… cứt!
Quả có thế: Đỗ Thi Sĩ
chẳng có tí gì dơ dáy, sau một cuộc chiến nhơ bẩn như vậy!
PXA than địa ngục hết chỗ, ông không biết đi đâu, không phải vì ông
nghĩ ông sạch, mà là vì cỡ như ông, phải có một nơi nào khác, thí dụ,
Lò Luyện Ngục. Nhưng nếu nói huỵch tẹt ra thì cao ngạo quá. Nên nhớ,
chỉ những thứ long trời lở đất, khi còn sống, thì chết, mới được đưa
xuống Lò Luyện Ngục, Purgatoire, thí dụ Sartre, Aragon, chẳng hạn.
Văn Hóa vs Cái
Ác Bắc Kít
“Je suis une
sorte de survivant, tôi chỉ tạm coi mình cũng 1 thứ sống sót.
Steiner viết như
vậy về ông, là cũng từ cái ý thế kỷ bửn mà không có tí cứt trên người,
là đếch
có được!
Nhờ ông già khôn như… Bắc Kít,
gia đình ông chạy kịp trên chuyến tầu chót rời cựu lục địa qua Mẽo. Ông
già của
ông sau đó, chắc cũng đau vì sống sót nhờ khôn quá, khi ông con tính
định cư luôn
ở Mẽo, bèn chửi, mi mà ở Mẽo thì thằng Hít Le quá đúng rồi, quá có lý,
còn cái
mẹ gì để mà nói nữa, và ông con bèn ngộ ra liền, bèn về lại Âu Châu,
quanh quẩn
bên mớ tro than Lò Thiêu.
Cái cú gia đình
Steiner thoát Lò Thiêu vào phút chót, gần như 1 phép lạ, như ông kể với
tờ The
Paris Review, (1) làm Gấu nhớ đến “phép lạ Mỹ
Cảnh”: Giả như Gấu, vào phút chót không
bật ra cái ý nghĩ, nhường cho hai ông bạn người Phi hai ghế trong, quay
lưng vào
bờ, nhìn ra sông Sài Gòn về đêm với ánh đèn chói lòa tung tăng trên
sóng nước, thì
đâu còn anh cu Gấu ở trên đời nữa?
Và nếu không
được VC thưởng cho hai trái mìn, thì Gấu dính cú Tổng Động Viên, và có
thể
cũng mất xác rồi cũng nên, hà hà!
Y chang chuyện
tái ông thất mã!
Ly kỳ nhất,
là cái lần đầu đi trình diện, gặp tay y bác sĩ quân y, ông ta coi cái
hình cánh
tay bị thương của Gấu, phán, đi.
Gấu cũng nghĩ thế, đi thì đi, sợ gì, nhưng Tết
đến đít rồi, thế là Gấu bèn trả lời, OK, đi, nhưng ông cho tôi ăn Tết
với gia đình
1 phát, rồi ra Giêng ngày rộng tháng dài, tha hồ mà đi.
Ông ta bật cười, gật đầu, và cho Gấu
hoãn dịch 3 tháng.
Thế là những
lần sau, mấy ông y sĩ khác bắt chước ông thứ nhất, cho mày 3 tháng!
Kamel Daoud, prix Goncourt
du Premier roman
Hụt năm ngoái, năm nay OK!
Dans
"Meursault, contre-enquête", le journaliste et romancier algérien
proposait une relecture de "l'Etranger" de Camus.
Le journaliste et romancier algérien Kamel Daoud a
reçu ce mardi 5 mai le
prix Goncourt du Premier roman pour «Meursault, contre-enquête» (Actes
Sud).
Dans ce spin-off de «l’Etranger», Daoud fait parler le frère de l’Arabe
tué par
Meursault dans le livre d’Albert Camus. Il donne un nom à cet illustre
inconnu,
Moussa, et raconte son histoire - manière de relire un classique sous
l’angle
du non-dit colonial. L’autre côté de l’histoire, en somme.
Ký giả, tiểu thuyết gia người Algérie,
Kamel Daoud, đã được Goncourt của cuốn đầu tay, với cuốn “Meursault,
Phản điều
tra”. Trong cuốn tiểu thuyết “tháo gỡ” [spin-off, by-product] “Kẻ Xa
Lạ”, Daoud
đã để cho người em trai của tên Ả Rập bị Meursault làm thịt, lên tiếng,
và cách
nói, kể.. ở đây, một cách nào đó, đề nghị đọc lại 1 cuốn tiểu thuyết cổ
điển, dưới
góc cạnh “non-dit”, không-nói, mang tính thực dân thuộc địa. Từ phía
bên kia lịch
sử, có thể nói như vậy.
Dans une récente interview au «New Yorker», Daoud,
célèbre en Algérie pour ses chroniques
tonitruantes, présente son livre comme «une
manière d’analyser l’œuvre de Camus, […] de la faire relire
par un
Algérien et par des lecteurs d’aujourd’hui.»
Trong cuộc
phỏng vấn mới đây với tờ "Người Nữu Ước", Daoud, nổi tiếng tại Algérie
do những
bài ký sấm sét của mình, đã coi
cuốn sách,
như là 1 cách phân tích tác phẩm của Camus… và đề nghị đọc lại nó, bởi
1 tên Algérie,
và bởi giới độc giả bây giờ.
Il ne faudrait pas résumer le roman à cette seule
démarche. Il a sa propre
histoire à raconter, celle de Haroun, le frère de Moussa. Il parle sa
propre
langue, bien plus ronde que la camusienne. Mais c’est bien l’ouverture
du
roman, dans laquelle le narrateur reproche à Camus d’avoir glosé sur
l’absurdité de la condition humaine en taisant la violence de la
condition
coloniale, qui s’est imposée comme le texte le plus fort paru l’année
dernière.
Đừng tóm tắt cuốn sách bằng phương pháp
độc nhất này. Ông ta có tiếng nói của ông ta. Tròn trịa hơn của Camus.
Nhưng chính
ở đoạn mở ra cuốn tiểu thuyết, người kể chuyện đã trách cứ Camus, đã
chú giải tính
phi lý của phận người, bằng cách làm lặng câm bạo lực giáng lên phận
người thuộc
địa
Sorti en 2013 en
Algérie
et en juin dernier chez nous, le roman de Kamel Daoud a connu un très
joli
succès. Il a notamment été finaliste du grand Goncourt, en novembre, et
a reçu le prix des Cinq
Continents. Aujourd’hui, tandis
que son
auteur se trouve menacé par un appel à la
fatwa, il s’exporte. Il paraîtra
en juin aux Etats-Unis, où «l’Etranger» est un classique révéré,
sous le titre «The Meursault
Investigation».
L'Académie
Goncourt a par ailleurs remis d'autres prix. Le prix de la
Poésie/Robert Sabatier,
lui, va à William Cliff, et celui de la Nouvelle à Patrice Franceschi
pour «Première personne du singulier» (Points Seuil).
30.4.2015
Lê
Công Định
3 hrs ·
Xin giới thiệu một bài viết tuyệt vời
của nhạc sĩ Tuấn Khanh.
https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2015/05/08/su-that/
Nhạc
sĩ Tuấn Khanh viết:
Lịch sử đã mở
ra nhiều góc cạnh của sự thật, cho dù sự thật đó được rao giảng, bị
cưỡng ép
như thế nào đi nữa. Sự thật là lối đi mà số phận dân tộc nào may mắn
mới qua suốt
được trên con đường đó, để lớn khôn qua thời gian. Nếu không, dối trá
sẽ làm mù
lòa dân tộc và đẩy quốc gia vào tăm tối.
Tất nhiên như thế, tuy nhiên với xứ
Mít, với VC, làm sao có sự thực lịch sử. Chúng bịp suốt, làm sao biết
đâu là sự
thực?
Theo GCC, muốn biết lịch sử Mít, chỉ có
biết qua… giả tưởng. Đọc tiểu thuyết, thí dụ!
Với lịch sử thời kỳ 1954, đọc Bếp Lửa.
Với cú CCRD, đọc Ba Thằng Lăng Nhăng.
…
Kẹt quá thì đọc trang... Tin Văn!
Ngay cả với thế giới, họ cũng phải sử
dụng cách này, khi không làm sao kiếm ra được sự thực thì bèn đề nghị 1
thứ sự
thực của… giả tưởng
Trường hợp Hitler, thí dụ, đám tiểu thuyết gia đưa ra hằng hà giả
tưởng, để
giải thích lịch sử Hitler, do làm sao mà ông thù Do Thái đến như thế.
Cũng thế, với xứ Mít.
Có hai đề nghị của… GCC, xem ra có lý, về hai cuộc chiến
thần thánh, chống Tẩy, và chống Mẽo. Cả hai đều do VC bịp và cả nước
Mít bị
bịp.
Bịp ra làm sao thì GCC đã giải thích rồi.
Hilary Mantel, một nữ tiểu thuyết gia,
chuyên viết những đề tài lịch sử, khi trả lời tờ The Paris Review, cho
biết, bà
hụt cơ may làm sử gia nên đành chọn thứ sái của nó!
Tuyệt!
INTERVIEWER
You started
with historical fiction and then you returned to it. How did that
happen?
MANTEL
I only
became a novelist because I thought I had missed my chance to become a
historian. So it began as second best. I had to tell myself a story
about the French
Revolution-the story of the revolution by some of the people who made
it,
rather than by the revolution's enemies.
INTERVIEWER
Why that
story?
Lê
Công
Định shared BBC Vietnamese's photo.
28 mins ·
Hoan hô nhà văn Võ Thị Hảo! Thứ văn nô,
bồi bút đứng chung xuồng với họ làm chi.
Note: Ít ra
phải có 1 người.
Nhưng không ép phê bằng tên già NN, thí dụ, cha đẻ quái vật Núp,
tay đầy máu Ngụy, khi dám xổ toẹt.
Hay đao phủ MT.
Hay anh hùng Cổ Thành, Bọ Lập (?)
Hay anh hùng Trường Sơn
Tạ lỗi chưa đủ.
Phải sám hối thế nào đó cơ!
VTH “tay
sạch” [chữ từ Sartre,"les mains sales"] quá!
Epitaph for
a Poet
He wanted to
sing, to sing
to forget
his true
life of lies
and to
remember
his lying
life of truths.
Bia mộ nhà
thơ
Anh ta muốn
hát, hát
Để quên
Cuộc đời thực toàn dối trá
Và để nhớ
Cuộc đời dối trá toàn sự
thực
Của anh ta
Octavio Paz: Poems [1941-1948]
DL: Nếu rõ
ràng hội NVVN là một tổ chức của đảng CSVN nhằm thao túng và khống chế
lực lượng
cầm bút ở VN, đã góp phần giúp chế độ toàn trị của đảng CS bưng bít
thông tin,
tô hồng xã hội và nô lệ hóa dân trí thì tại sao trong một dân tộc có
truyền thống
văn chương như VN, lại rất ít tiếng nói phản đối hành động đó của hội ?
Liệu những
nhà văn ưu tú và được hâm mộ một thời, cha đẻ của những tác phẩm mang
nặng tính
nhân đạo, tinh thần khai sáng như „Nỗi buồn chiến tranh“, „Vàng lửa“,
„Tướng về
hưu“, „Thời xa vắng“, „Mùa lá rụng trong vườn“... có biết những điều đó
không?
VTH: Tôi
nghĩ rằng nhiều người biết, rất biết nhưng họ đã chọn im lặng khi đụng
đến những
vấn đề nước sôi lửa bỏng mà người dân cần nhà văn lên tiếng một cách
trực diện.
Người Việt vẫn tự che đậy sự vô cảm của mình bằng câu „im lặng là
vàng“, hoặc
là „tôi không thích tuyên ngôn“, „tôi không quan tâm đến chính trị“…đó
là những
câu nói không những lệch lạc mà còn mang tính phản động – tức phản lại
tiến bộ
xã hội và sự minh bạch, che đậy sự hèn mà thôi. Thật đáng tiếc. Tôi
mong những
nhà văn có tài năng và nhân cách, đã được bạn đọc trong nước nhiều năm
nay ngưỡng
mộ và ủng hộ, ngoài việc bày tỏ thái độ trong những tác phẩm hư cấu,
lại càng phải
lên tiếng trực diện, luôn luôn để bảo vệ lẽ công bằng. Vì hậu quả của
việc né
tránh không lên tiếng là có nhiều người chết đuối khi anh chỉ đứng trên
bờ nhìn
họ kêu cứu, lý do rằng tôi chỉ biết viết văn, tôi đang bận xây dựng
hình tượng
một anh hùng cứu người chết đuối, hoặc tâm trạng của một người sắp chết
đuối chứ
tôi không có trách nhiệm cứu người. (1)
Grass, who
was born in 1927, never pretended to have escaped the war unstained.
Lịch sử, hay
chính xác hơn, lịch sử Đức quả đúng là một cái nhà xí bị tắc. Chúng ta
cứ thế
móc cứt và cứt cứ thể đùn lên. Một nhân vật của Grass lầu bầu.
Bây giờ cứt
ngập đến tận cổ me-xừ Grass.
Nhưng đây là
một con người đếch chịu trốn thoát lịch sử mà không có tí cứt ở trên
người...
Grass và
SS
Nếu như thế,
thì không thể có chuyện 1 cú Nhân Văn được lập lại, như bà Hảo cảnh
cáo, về cái
chuyện ông Trùm gạch tên 1 số vị ra khỏi Hội Nhà Thổ, và bà Hảo, thì tự
mình cho phép
mình xóa tên ra khỏi sổ đoạn trường, chẳng cần khúc sông Tiền Đường.
Già rồi,
quỹ thời gian đâu còn?
Nói rõ hơn,
để ra ngoài trường hợp tay sạch của bà Hảo, với đám còn lại, phải là 1
tay tay
đầy máu Ngụy, thì mới xứng với cas của Grass, cứt ngập đến tận cổ!
Chứ cái kiểu,
"không có câu đó", "sợ anh hùng quá rồi", nhưng toàn tập vẫn "vũ như
cẩn", vưỡn có quái
vật Núp ở trỏng, thì còn ra cái đéo gì nữa!
Vậy mà một….
“Nhăn Dzăng” khác ư?
Vậy mà cũng
bày đặt “ni hôn” [hình như tên 1 tác phẩm của 1 đấng văn sĩ VC], ra ở riêng, thành lập văn đàn riêng…
Ra cái điều
mấy đứa chúng ông “sạch”
TTT 2006-2015
Em có biết
anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó
anh đã thấy
nhân vật đó là anh rồi.
Thư gửi đảo
xa.
TTT trải qua
thời thơ ấu ở Sài Gòn. Thành ra không hiểu lớp ba là lớp mấy, so với
thời của
GCC.
Ấy là vì, phải
đến năm học Đệ Tam trường Hồng Lạc, khoảng đó, thì Gấu mới được học
cuốn
"Le Petit Chose", cuốn sách “tủ” của Thầy Roch Cường.
Mỗi ông Thầy
của Gấu thì đều có 1 cuốn sách. Với Thầy Kỳ, dạy Anh văn lớp Đệ Ngũ,
Nguyễn
Trãi, thì là cuốn "She stoops to conquer".
Tuy nhiên,
cái nhân vật con nít mà Gấu bị ấn tượng, thì là "Poil de Carrote",
cũng 1 tuổi trẻ bất hạnh của Jules Renard.
Nhớ hoài cái
xen, thằng bé, được cả nhà o bế, chỉ có mày là nhất, can đảm nhất, cái
gì cũng
nhất, chỉ có mày mới ra khỏi nhà vào lúc đêm tối như thế này, để đóng
cửa chuồng
gà vịt.
Thằng bé bèn
xung phong, xung phong.
Khi xong việc,
trở về căn nhà, mái ấm gia đình, thì cả nhà thản nhiên phán, nếu vậy,
đêm nào
mày cũng nhớ đóng cửa chuồng vịt nhe!
ALPHONSE
DAUDET
Time passes
at dizzying speed. When I was an adolescent and I lived in
the south of Chile, I discovered Daudet, Alfonso Daudet, as
he was called then, his name Hispanicized to make it more
familiar, though I've never heard of Charles Baudelaire or Paul
Verlaine being
called Carlos Baudelaire or Pablo Verlaine.
Reading
Daudet back then was (and still is) a pleasure and a luxury that only
an
adolescent lost at the end of the world could fully appreciate, with
the happy
sense of license that comes after a perfect theft and the feeling of
freedom
derived from smoking one's first cigarettes, outside under a tree on a
rainy
afternoon. His books have accompanied me ever since, especially Tartarin of
Tarascon, a treatise on the joy of living which can be
ridiculous at times,
though it isn't unusual to come upon the truth, hidden beneath the
ridiculous,
a brave, relative truth containing great doses of epicureanism; and
also Letters
from my Mill, a collection of cameos and miscellaneous prose to
which the early
work of Arreola is much indebted; or the Memoirs, a melancholy book in
which
Daudet, so well sketched by Jules Renard in his Journal, doesn't
lecture on the human and
the divine but rather glides, like a sleepwalker, from the human to the
divine,
from Cartesian clarity to pure song, from the useful to the useless,
and even
from the useless to the
useless, this last a feat worthy of real writers; or The Nabob, a
reflection on
the figure of a politician; or L'Arlesienne, which Bizet set to music;
not to
forget the sequels to the unforgettable
Tartarin: Tartarin on the Alps
and Port Tarascon.
Daudet was a friend of Victor
Hugo, whose work he admired, and yet he didn't allow Hugo's titantic
force to
negatively influence his own work, which is much lighter, more
delicate,
approaching at moments the naturalism of Zola and Maupassant. Despite
his
prestige and success, he always saw himself as a lesser writer, easy to
like.
In other words, he never look himself too seriously. He was generous
and,
according to his contemporaries, lacking in envy, a sentiment all too
common in
the backbiting world of letters (which pretends to be so civilized). He
loved
his children. One of them, Leon Daudet, born in 1867, when his father
was
twenty-seven, became a writer, and his works rank among the worst of
French literature,
though it would've hurt his father more to know that in 1907, his
crooked
offspring would found, with Maurras, the Action Francaise, organ of the
far
right and seed of French fascism. But Alfonso Daudet didn't live to see
it. He died
in 1897, after suffering from a nervous complaint for many years.
Today, in the
south of Chile, almost no one reads Daudet. Not even writers, to whom
Daudet
sounds vaguely like the name of a pop singer or balladeer.
Bolano: Trong
ngoặc
Thời gian
qua nhanh đến chóng mặt. Khi mới lớn, sống ở miền nam Chile, tôi khám
phá ra
Daudet, qua cái tên mang mùi Tây Bán Nhà, Alfonso Daudet, như ông được
gọi,
nghe thân quen hơn.
Đọc Daudet vào
lúc đó (và bi giờ cũng thế) là 1 lạc thú, và một thú vui xa xỉ, mà chỉ
một tuổi
mới lớn, mất tiêu vào lúc tận cùng thế giới, mới có thể tràn trề hưởng
thụ và gật
gù tán thưởng, với cảm quan hạnh phúc phóng túng, sau một cú chôm chĩa
hoàn hảo,
và một cảm nghĩ về tự do, có được nhờ những điếu thuốc lá đầu tiên
trong đời, ở
bên ngoài trời, dưới 1 tàn cây trong một chiều mưa. Những cuốn sách của
ông từ đó
không bao giờ rời tôi, đặc biệt là Tác Ta Ranh ở Tarascon, một tiểu
luận về nguồn
vui của cuộc sống
|
|