|
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ
của
thiên đường | Passage Eden | Sáng
tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch
thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả
sáng tác | Giới
thiệu | Góc
Sài gòn
| Góc Hà nội
| Góc
Thảo Trường
Lý
thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả
ngoại | Tác
giả & Tác phẩm | Text Scan
| Tin văn
vắn
| Thời sự | Thư
tín | Phỏng
vấn |
Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại
| Potin |
Linh tinh
|
Thống kê | Viết ngắn | Tiểu
thuyết | Lướt
Tin Văn Cũ | Kỷ
niệm | Thời
Sự Hình | Gọi
Người Đã Chết
Ghi
chú
trong ngày | Thơ
Mỗi Ngày | Chân
Dung |
Jennifer
Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật
Ký Tin Văn [TV last page]
Album
Sinh Nhật
GNV, 16/8/2009
Huntington
Beach, Cali
Thơ
Mỗi Ngày
Someday I’ll
Love Ocean Vuong
By Ocean
Vuong
Ocean Vuong
is a Vietnamese-born poet. His first collection, “Night Sky with Exit
Wounds,”
is due out next year.
Note: Trên Tin Văn đã giới
thiệu Ocean Vuong, qua bài thơ xử VC
Ocean Vuong
The Photo
After the infamous 1968
photograph of a Viet Cong officer executed by South Vietnam's
national police
chief.
What hurts the most
is not how death
is made permanent
by the cameras flash
the irony of sunlight
on gunmetal
but the hand gripping the
pistol
is a yellow hand,
and the face squinting
behind the barrel
a yellow face.
Like all photographs this one
fails
to reveal the picture.
Like where the bullet
entered his skull
the phantom of a rose
leapt into light, or how
after smoke cleared
from behind the fool
with blood on his cheek
and the dead dog by his feet
a white man
was lighting a cigarette.
ASIA LITERARY REVIEW
SUMMER 2010
The Lunatic
NIGHT MUSIC
Little
brook, running past my house,
I like the
tune you hum to yourself
When night
comes,
And only the
two of us are awake.
You keep me
company
So I don't
fear
The darkness
round my bed
And the
thoughts in my head
Flying
crookedly like bats
Between the
old church and the graveyard.
Nhạc đêm
Con suối nhỏ
chạy qua nhà tớ
Tớ mê cái điệu
ầm ừ của mi, cho mi nghe
Khi đêm tới
Và chỉ có
hai đứa mình là thức
Mi có tớ là
bạn
Như vậy tớ đếch sợ
Bóng tối
vây quanh giường
Và những ý
nghĩ trong đầu tớ
Bay ngoằn ngoèo
như lũ dơi
Giữa ngôi nhà
thờ cổ và nghĩa địa.
WET MATCHES
Once again
the short, gray days,
The low sky,
the steady rain
Over these
derelict neighborhoods
One catches
sight of a train.
Old people
hold their heads
In windows
of unlit rooms.
Or withdraw
quietly
To lie with
their faces to the wall.
Sweet summer
beyond recall,
The children
are in school
Doing their
wretched lessons
While their
fathers play pool.
Girl in
trouble and the boy to blame,
Soaked
through and shivering,
Holding a
wet match to her cigarette,
Here comes
your bus!
Quẹt ướt
Lại nó, những
ngày cụt, xám, lùn tịt
Mưa hăm he, này, tao đái lên đầu tụi mi liền giờ nè!
Lối xóm không ai thèm dòm ngó
Một kẻ kêu lên, ơ kìa, con tầu!
Lũ già ôm đầu
Bên trong cửa
sổ những căn phòng tối thui
Hay lừ khừ lặng
lẽ thối lui
Leo lên giường
nằm, quay mặt vô tường
Mùa hè ngọt
ngào quá xa vời, làm sao nhớ!
Trẻ con ở trường
với những bài học tệ hại
Trong lúc mấy
ông bố chơi bi da
Gái “in
trouble”, trai, “to blame”
Ướt mèm, run
lẩy bẩy
Cầm cây quẹt
ướt châm điếu thuốc em
May quá, xe
buýt tới rồi kìa!
DON'T NAME
THE CHICKENS
Let them peck
in the yard
As they
please,
Or walk over
to stand
At the edge
of the road.
The rooster
strutting about
will keep an
eye on them,
Till it's
time
To withdraw
under a tree,
And wait for
the heat
To pass and
the children
To return to
the toys
They left
lying in the dust.
For, come
Sunday,
One of the
chickens may lose its head
And hang by
its feet
From a peg
in the barn.
Đừng gọi tên
những chú gà
Cứ để mặc mẹ
chúng mổ mổ những hạt thóc ở trong sân
Như chúng đang
sướng điên người lên được
Hay lang
thang tới bìa con lộ
Chàng gà trống
khệnh khạng
Bèn đi 1 đường
để mắt trông chừng lũ hậu duệ của nó
Cho đến cái
lúc mà
Cả đám rút về 1 cái cây
Đợi cho cái
nóng dịu đi 1 tí
Và lũ trẻ bèn
trở về với mấy món đồ chơi
Chúng bỏ lăn
lóc giữa lớp bụi.
Bởi là vì, vào
ngày Chúa Nhật
Một trong những
chú gà con
Có thể điên
cái đầu
Và bèn treo
cổ tự vẫn
Bằng cách móc
chân
Vào cái chốt
cửa kho thóc.
Bei Dao: The
Rose of Time
Giọng Bắc Kít
Gấu nói giọng
Bắc Kít với cái gương
Công viên có
riêng mùa đông của nó
Gấu vặn nhạc
Mùa đông thì
làm gì có ruồi
Chậm rãi
làm ly cà phê
Ruồi, Bọ, VC... thì làm sao
hiểu quê hương là [cái đéo] gì,
Hà, hà!
Thêm tí
đường
Quê hương là
1 giọng Bắc Kít,
Nghe nhói 1
phát
Ở bên kia đầu
phôn.
Ui chao,
đúng là nhói 1 phát thật, khi lần đầu gọi phôn, nghe cái giọng Bắc Kít,
đúng giọng
Cô Hồng Con của 1 làng Bắc Kít, ở ven đê sông Hồng.
Đúng giọng BHD….
Ta bận chồng, bận con, làm gì có thì giờ cho
mi…. hà, hà!
Take
Care,
Sorry. NQT
THE
EXECUTION
It was the
earliest of sunrises
And the
quietest.
The birds,
for reasons of their own,
Kept mum in
the trees
Whose leaves
remained
Calm
throughout
With only a
small number
In the upper
branches
Sprinkled
with fresh blood.
Tháng Tư Đen,
Hành Quyết
Đó là 1 bữa
buổi sáng, mặt trời lên sớm nhất
Và yên tĩnh
nhất
Ba muơi năm
mới có ngày nay làm sao không thức dậy sớm?
Lũ chim, vì
lý do nào đó, của riêng chúng
Bèn câm như
thóc, giữa đám lá,
Lá,
Cũng trở giọng,
trầm tư, như bị kết án tử hình
Chỉ có 1 dúm
Ở mãi tít trên
ngọn
Hơi bị rùng mình,
Lấm tấm những
giọt máu tươi.
Thơ Tháng Tư
Mother
Tongue
That's the
one the butcher
Wraps in a
newspaper
And throws
on the rusty scale
Before you
take it home
Where a
black cat will leap
Off the cold
stove
Licking its
whiskers
At the sound
of her name
Charles
Simic
Tôi êu tiếng
nước tôi
Đó là thứ tiếng
mà tay đồ tể
Gói trong tờ
báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ
Lăng,
Rồi thẩy lên
cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả
tiền
Và mang về
Nơi con mèo đen
nhảy qua cái bếp lò lạnh tanh
Liếm liếm mấy
sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu
Miu”
FB của GCC, đi 1 đường
nhìn lại quá khứ bằng cách tự động post 2
entries cũ.
Tks. NQT
APR
27
ABOUT
Each day we'll show you all of your
stories from the same date on different years.
Facebook © 2015
1 YEAR AGO TODAY
Sun, Apr 27, 2014
Quoc Tru Nguyen
April
27,
2014 at 3:17pm ·
Giả và thật trong văn chương.
Nhà văn Nga, Andrei Makine, viết văn bằng tiếng Tây, được hai giải
thuởng văn
chương lớn của Pháp, Goncourt và Médicis, trong cùng một năm (1995),
cùng một
tác phẩm, Di chúc Pháp (Le Testament francais); chưa kể giải Goncourt
của giới
học sinh trung học. Khi chưa nổi tiếng, ông đã phải bịa ra những
“nguyên bản
ma”, tức là coi những tác phẩm của ông, là những bản dịch, từ tiếng mẹ
đẻ, bởi
vì chỉ như vậy, nó mới gây được sự chú ý ở giới xuất bản v...
Continue Reading
April
27, 2010 at 4:44am ·
chú
ý, kiệt tác!
ăn cắp cái title của bạn Nhị Linh.
@NQT: chúc mừng anh.
@all: chúc mừng những người muốn tìm 1 quyển sách hay và được dịch hay
để đọc.
@Crimson Mai: lâu lắm mới có người sử dụng ngôn ngữ đến mức làm Crimson
á khẩu.
@BA:
thêm 1 chữ thì thừa, bớt 1 chữ thì thiếu, dùng lệch đi thì sai, dùng từ
khác thì dở; duyên dáng mà ko đến mức làm duyên làm dáng; chuẩn mực mà
ko cứng nhắc; gần gũi ,địa phương mà ko quê mùa. Tất nhiên là ở 1 số
đoạn thôi, người đẹp, nhưng đủ làm ta á khẩu.
A Strangely
Funny Russian Genius
Nói tóm lại,
một gã vui nhộn, quá vui nhộn đối với chủ nghĩa Cộng Sản.
Đối với
bất cứ một ấn bản nào của Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản.
Một thiên tài Nga tức cuời một cách lạ thường.
Ian Frazier
The
portraits that follow are from a large number of photographs recently
recovered
from sealed archives in Moscow, some-rumor has it-from a cache in the
bottom of
an elevator shaft. Five of those that follow, Akhmatova, Chekhov (with
dog), Nabokov,
Pasternak (with book), and Tolstoy (on horseback) are from a volume
entitled The Russian Century,
published early last year by Random House. Seven
photographs from that research, which were not incorporated in The
Russian
Century, are published here for the first time: Bulgakov, Bunin,
Eisenstein (in
a group with Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov
(with mother
and sister), Tolstoy (with Chekhov), and Yesenin. The photographs of
Andreyev,
Babel, and Kharms were supplied by the writers who did the texts on
them. The photograph
of Dostoyevsky is from the Bettmann archives. Writers who were thought
to have
an especial affinity with particular Russian authors were asked to
provide the
accompanying texts. We are
immensely in their debt for their cooperation.
The Paris
Review
1995 Winter
Daniil
Kharms
Among the
millions killed by Stalin was one of the funniest and most original
writers of
the century, Daniil Kharms. After his death in prison in 1942 at the
age of
thirty-seven, his name and his work almost disappeared, kept alive in
typescript texts circulated among small groups of people in the then
Soviet Union.
Practically no English-speaking readers knew of him. I didn't,
until I went to Russia and came back and read books about it and tried
to learn
the language. My teacher, a young woman who had been in the U.S. only a
few
months, asked me to translate a short piece by Daniil Kharms as a
homework
assignment. The piece, "Anecdotes from the Life of Pushkin,"
appears in CTAPYXA (Old Woman), a
short collection of Kharms's work published in Moscow in 1991. Due to
my
newness to the language and the two dictionaries and grammar text I had
to use,
my first reading of Kharms proceeded in extreme slow motion. As I
wondered over
the meaning of each word, each sentence; as the meaning gradually
emerged, my
delight grew. Every sentence was, funnier than I could have guessed. A
paragraph began: "Pushkin loved to throw rocks." Openings like that
made me breathless to find out what would come next. The well-known
difficulty
of taking humor from one language into another has a lesser-known
correlate:
when, as sometimes happens, the translation succeeds, the joke can seem
even
funnier than it was to begin with. As I translated, I thought Kharms
the
funniest writer I had ever
read.
His
photograph facing the title page only confirmed this. At first glance
he
appeared crazy or fierce, but on closer inspection I could see the
weirdness of
a deeply funny guy. I wanted to know all I could about him. My teacher
told me that
he was a founding member of an artistic movement called OBERIU that the
name
came from the first letters of the Russian words for Association for
Real Art,
that he and other members of the group fell into disfavor and were
killed, that
when she was little she knew him as the author of poems and stories for
children. We read some of his writing for children, work as blithe and
whimsical and heedless as the stories in GTAPYXA
were dark. In Russia's Lost Literature of
the Absurd, a selection edited and translated by George Gibian
(1971), I
learned that Kharms was born Daniil Ivanovich Yuvachev in Petersburg in
1905;
that his father, an intellectual and revolutionary, had been imprisoned
and
exiled to Siberia; that with his father he shared an interest in
stories of
fantasy; that he suffered from melancholy; that he admired Gogol, Knut
Hamsun
and Bach. A colleague said of him, "Kharms is art." Much of his work
consisted of public readings, pranks, performances and daring gestures.
With
the Bolsheviks in power and the nobility vanished or in prison, Kharms
assumed
the guise of an aristocrat, complete with false mustache and a
briefcase
containing his own personal silver drinking cups. To attract
people to a reading performance of the OBERIU group, Kharms strolled on
a
fifth-floor ledge in Saint Petersburg smoking a pipe and loudly
announcing the
event to passersby.
In short, he
was a cool guy, too funny for communism, or at any rate for Stalin's
version of
it. After the successful production of his play, Elizabeth Bam, a
comedy about a
woman who is waiting to be arrested and killed, the press attacked the
OBERIU,
later accusing them of "reactionary jugglerism" and "nonsense
poetry . . . against the dictatorship of the proletariat." Police
arrest d
him on the street in 1941; when his wife went to take him a package at
the prison
hospital in February, 1942, she was told that he had died two days
before.
Fourteen years after his death he was officially "rehabilitated."
Bibliographies
listed him only as an author of children's books. More recently, the
larger outline
of his work has begun to emerge; perhaps soon there will be a complete
collection by which we can get to know him better. So far I have only
scratched
the surface on Kharms.
-Ian Frazier
Trong
số hàng triệu con người bị Stalin sát hại, có một nhà văn tức cười
nhất, uyên
nguyên nhất, của thế kỷ: Daniil Kharms. Sau khi ông chết ở trong tù,
vào năm
1942, khi 37 tuổi, tên và tác phẩm của ông hầu như biến mất, và chỉ còn
sống dưới
dạng chép tay, lưu truyền giữa những nhóm nhỏ, ở một nơi có tên là Liên
Bang Xô
Viết.
Thực tình là, không có một độc giả Anh ngữ nào biết về ông. Tôi (Ian
Frazier)
cũng vậy, cho tới khi đi Nga, trở về, đọc những cuốn sách về nó, và cố
gắng học
tiếng Nga. Cô giáo của tôi, một người đàn bà trẻ chỉ ở Mỹ được vài
tháng, đã ra
bài làm ở nhà cho tôi như sau: hãy dịch một đoản văn của Daniil Kharms
ra tiếng
Anh. Đoản văn "Những mẩu chuyện từ Cuộc Đời Puskhin", (Anecdotes from
the Life of Puskhin) là ở trong CTAPYXA (Bà Già), một tuyển tập nhỏ tác
phẩm của
Kharms, đã được xuất bản ở Moscow vào năm 1991. Tiếng Nga, hai cuốn từ
điển, và
một cuốn sách văn phạm, tất cả đều quá mới, lần đọc Kharms đầu tiên của
tôi thật
là chậm như sên. Cùng với sự mầy mò từng từ, từng câu, niềm hân hoan
của tôi
gia tăng, khi ý nghĩa của chúng lộ dần ra. Mỗi câu là một tức cười, hơn
cả dự
đoán của tôi về nó. Một đoạn văn bắt đầu như thế này: "Puskhin mê ném
đá". Những mở đầu như vậy làm cho tôi nghẹt thở: làm sao đoán ra nổi
cái
gì sẽ tới liền sau đó.
Giữ được chất tiếu lâm, khi chuyển dịch ngôn ngữ, là một điều khó khăn
vô cùng,
ai nấy đều biết. Nhưng có một hệ quả, ít được biết: đôi khi, trong tiến
trình dịch
thuật, câu chuyện có vẻ tếu hơn là lúc thoạt đầu chúng ta nghĩ về nó.
Trong khi
dịch, tôi nghĩ Kharms là một nhà văn tức cười nhất mà tôi đã từng đọc.
Ian Frazier, qua cuốn Văn Chương Phi Lý Đã Mất của Nga (Russia’s Lost
Literature of the Absurd), được biết, Kharms ra đời với tên Daniil
Ivanovich
Yuvachev, tại Petersburg vào năm 1905. Cha ông, một nhà trí thức cách
mạng bị cầm
tù và đầy đi Siberia. Ông thừa hưởng từ người cha, đam mê chuyện kỳ
quái. Ông
đau khổ vì "buồn" (that he suffered from melancholy). Mê Gogol, Knut
Hamsun và Bach. Một bạn đồng học nói về ông: "Kharms là nghệ thuật"
(Kharms is art). Cùng với sự lên ngôi của "nhà vô sản", và sự vào tù
của "nhà quí tộc", Kharms cảm thấy thích thú trong bộ dạng một nhà
quí phái, cộng thêm hàng ria mép giả thỉnh thoảng lại nhinh nhích, hinh
hỉnh, cộng
thêm chiếc cặp da kè kè bên mình, trong là những… chiếc ly uống rượu
bằng bạc!
Để lôi kéo khán thính giả cho một buổi trình diễn kịch của nhóm OBERIU,
ông di
dạo ở chót vót phía bên trên thành phố Saint Petersburg, miệng ngậm ống
vố, và
la lớn, thông báo cho những bộ hành qua lại phía bên dưới, về "biến cố
quan trọng" kể trên!
Nói tóm lại, một gã vui nhộn, quá vui nhộn đối với chủ nghĩa Cộng Sản.
Đối với
bất cứ một ấn bản nào của Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản. Sau thành công
của vở
kịch "Elizabeth Bam", một hài kịch về một người đàn bà chờ… "được
bắt và được giết", báo chí nhà nước kết án nhóm kịch của ông là… "trò
múa may phản động, thơ ca vô nghĩa… chống lại nền chuyên chính vô sản".
Ông bị bắt ở ngay trên đường phố, vào năm 1941. Khi vợ ông đi thăm
nuôi, vào
năm 1942, bà được thông báo, ông chết hai ngày trước đó. Mười bốn năm
sau khi mất,
tên tuổi của ông được phục hồi. Những nhà chuyên viết tiểu sử xếp ông
vào danh
sách: viết chuyện cho nhi đồng.
Ian
Frazier
Nguyễn Quang
Lập
Tháng 4 năm 1976 tôi tròn 20 tuổi, lần
đầu tiên nghe ca khúc "Mùa xuân đầu tiên" của Văn Cao tôi đã khóc.
Tôi khóc không phải chỉ vì đây là điệu valse hay nhất mọi thời đại của
ca khúc
Việt, chính là vì con người phải sống trong đau khổ bức bối vì một cuộc
sống bị
kiềm thúc là tác giả của điệu valse hào sảng và thơ mộng, ngọt ngào ấm
áp tình
người trong niềm vui thống nhất đất nước, không hề thấy một gram khổ
đau nào
trong từng nốt nhạc của ông.
Lần đầu
tiên tôi biết thế nào là tâm
hồn một nghệ sĩ lớn.
Chỉ tiếc ước mơ của ông sau ngày thống
nhất:"Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người /Từ
đây
người biết yêu người" ... đã không thành sự thật.
Note:
Bài hát
này, nếu lời đúng như trên, thì cùng 1 air bánh vẽ với “Như có Bác Hồ”,
hay,Thắng
trận này sẽ xây dựng cái nhà to đùng....
Bánh vẽ làm
sao thành sự thực?
Rõ ràng là,
nếu lời đúng như trên, thì tại sao bản nhạc bị cấm, mà phải Đài Moscow
mới dám
hát, lần đầu tiên?
Lời nhạc thực
sự, theo GCC, là, “từ nay người biết quên Người”, tức là quên Vua Bịp.
Đó là thông điệp
của Văn Cao ngày 30 Tháng Tư
Văn Cao, giết người, đau quá, bặt tiếng, đến 30 Tháng Tư mới lên
tiếng, nhắn nhủ Mít, phải quên Người [viết hoa] đi, thì mới biết thương
người [không viết hoa].
Trên TV hình như đã lèm bèm về vụ này.
Nhưng, hỏi Bọ Lập, có lần nào "tôi đã khóc" cho 1 tên... Ngụy
chưa?
Hình như chưa có tên VC nào thỏ thẻ, tớ có lần thương lũ Ngụy bị nhà
nước cải tạo lâu quá, bật khóc?
Phải 1 Bọ Lập đã khóc vì đã từng dúng tay vào máu Ngụy, thì mới đáng
nói, chứ bánh vẽ khóc hoài, chán lắm!
Phải có 1 tên VC có dũng khí nói ra lời thực, như DTH, thí dụ, thì may
ra
mới có thay đổi.
Nên nhớ, và phải nên nhớ, cả hai cuộc chiến dân Mít đều bị VC bịp. Cả
hai đều bị VC cố tình làm cho nó xẩy ra để thủ lợi.
Khốn nạn nhất,
chúng lạy thằng Tẫu, kẻ thù truyền kiếp của Mit, để chiến thắng, và đẩy
dân Mít vào cái thế như hiện nay.
Làm đéo gì có sự thực mà "không thành sự thực", đúng như câu của Wat
sau đây:
Sacrifice
the children-an old story, pre-Homeric-so that the nation will endure,
to
create a legend.
-ALEKSANDER
WAT
Mistaken
ideas always end in bloodshed, but in every case it is someone else's
blood.
This is why our thinkers feel free to say just about everything.
-CAMUS
Charles
Simic trích dẫn, trong bài viết Bi khúc trong mạng nhện, ELEGY IN A
SPIDER'S WEB, The
Life of Images
Tư tưởng
lầm
lạc tận cùng trong biển máu, nhưng trong mọi trường hợp, máu người
khác, đếch phải
máu Bọ Lập, hay NN!
/Tuong_niem/mua_xuan_dau_tien.html
Chú thích của Tin Văn:
Bài Mùa Xuân Đầu Tiên, do những câu
như: "Từ đây người
biết quên Người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu
Đời...", ngay sau khi sáng tác
xong, đã bị cấm. Nơi trình diễn đầu tiên, mùa xuân đầu tiên của bài
hát, là
đài phát thanh Moscow, nơi cất lên những âm thanh, và những lời ca đầu
tiên của
nó.
Câu hỏi của người con Văn Cao,
"Vậy là
bố lại sáng tác
ca khúc?", là muốn nhắc tới lời của ông bố, trong cuộc nói chuyện với
Hoàng Phủ Ngọc Tường, sau đăng trên Hợp Lưu, trích đoạn:
Hồi nhận viết Tiến Quân Ca tôi không
hề chuẩn bị trước để
làm một bài hát mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là
đội viên
biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu
súng vào
một thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến
tranh và
căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại
căn nhà
ấy. Thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói
điều cần
thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công
hay phải
nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng và chỉ viết nhạc không lời.
Tại sao
tôi viết Tiến Quân Ca
Dostoevsky
bắt đầu viết Những
Con Quỉ năm 1869, khi đó ông 48 tuổi. Ông vừa hoàn tất và cho in Gã
Khờ; ông
viết xong Người Chồng Muôn Thưở. Ông sống ở Âu châu (Florence và
Dresden), từ
hai năm trước đó, vừa để trốn chủ nợ, vừa kiếm một chỗ tương đối thanh
thản.
Ông có trong đầu một cuốn tiểu thuyết về niềm tin và cái sự mất nó, và
ông đặt
tên là Atheism, the Life of a Great Sinner [Vô thần, cuộc đời một tay
tổ sư tội
lỗi]. Ông quá tởm đám Hư vô chủ nghĩa, những kẻ mà chúng ta có thể gọi
là nửa
vô chính phủ, nửa tự do [liberal], và ông đang viết một cuốn tiểu
thuyết chính
trị chế nhạo bọn này về sự thù hận truyền thống Nga, say mê Tây phương,
và
không có niềm tin của họ. Sau khi loay hoay với cuốn sách được một dạo,
ông mất
hứng, và hứng khởi lại bùng lên, (chỉ một tay lưu vong mới có thể có
được cái
sự thú vị này], khi ông đọc báo chí Nga [chắc giống như bi giờ đọc
VN-Express?], và nghe qua một người bạn của bà vợ, về một vụ sát nhân
có tính
chính trị. Năm đó, một sinh viên đại học tên là Ivanov đã bị bốn ông
bạn quí,
cũng sinh viên, làm thịt, vì nghi anh ta là ăng ten của cảnh sát. Cái
tổ cách
mạng mà mấy ông bạn quí giết lẫn nhau đó, là nằm trong một màng lưới
lớn lao hơn,
được cầm đầu bởi Nechayev, thông minh, xảo quyệt, và ma quỉ. Trong
Những Con
Quỉ, nhân vật Stefanovich Verhovensky đóng vai Nechayev, và, như trong
đời
thực, anh ta và mấy ông bạn quí (Tolchenko, Virginski, Shigalev, và
Lamshin)
giết chết ông bạn quí Shatov, vì nghi làm ăng ten, tại một công viên,
rồi ném
xác xuống một cái hồ.
Vụ
giết người khiến
Dostoevsky có dịp nhìn lại những giấc mơ, cách mạng và không tưởng, của
đám Hư
vô chủ nghĩa Nga, và những kẻ sùng bái Tây phương, và khám phá ra, có
một sự ham
muốn quyền lực dữ dằn, có một nỗi đam mê được ngự trị ở trên đầu trên
cổ, vợ
con, bạn bè, những người chung quanh, và rộng ra, cả thế giới của chúng
ta. Và
chính vì vậy, mà tôi, [Pamuk], khi còn trẻ, một tên tả phái, [as a
young
leftist], đọc Những Con Quỉ, với tôi, có vẻ, đây là câu chuyện không
phải về
một nước Nga một trăm năm trước đó, nhưng mà là về Thổ Nhĩ Kỳ, cái xứ
sở ngã
quỵ, quy hàng trước cái đám chính trị gia mê cải tổ, mê tiến bộ, mê đổi
mới,
nhưng lại ngập đầu, cắm rễ ở trong bạo lực.
Ui
chao, cứ như thể
Dostoevsky thì thầm vào tai tui, dậy cho tui cái ngôn ngữ bí mật của
linh hồn,
đẩy tôi vào xã hội của đám tiến bộ, tuy, bừng bừng vì những giấc mộng
thay đổi
thế giới, nhưng bị khoá chặt ở trong những hội kín hội hở, và hơi bị
thích thú
cái trò khốn nạn, đánh lừa những kẻ khác, nhân danh cách mạng (1), đầy
đọa, làm
nhục, làm mất nhân phẩm, những người không nói thứ ngôn ngữ cách mạng,
không
chịu cùng chia sẻ viễn ảnh về một ngày mai ca hát của chúng.
(1)
Đúng là tình cảnh nước
Mít, năm 1945, trong có hoàn cảnh một nhạc sĩ, nhà thơ, vì bát cơm của
tổ
trưởng tổ cách mạng, me-xừ Vũ Quí nào đó, mà phải cầm súng đi làm thịt
tay ăng
ten cho hiến binh Nhật, Đỗ Đức Phin, và sau này, sám hối, viết Tại sao
tôi viết
Tiến Quân Ca. (a)
Ui chao, cứ
như thể Dostoevsky thì thầm vào tai tui, dậy cho tui cái ngôn ngữ bí
mật của
linh hồn, đẩy tôi vào xã hội của đám tiến bộ, tuy, bừng bừng vì những
giấc mộng
thay đổi thế giới, nhưng bị khoá chặt ở trong những hội kín hội hở, và
hơi bị
thích thú cái trò khốn nạn, đánh lừa những kẻ khác, nhân danh cách
mạng, đầy đọa,
làm nhục, làm mất nhân phẩm, những người không nói thứ ngôn ngữ cách
mạng,
không chịu cùng chia sẻ viễn ảnh về một ngày mai ca hát của chúng.
Pamuk đọc
Dos, và nhìn ra đất nước Thổ của ông. Cũng thế, GCC đọc Dos, đọc Pamuk,
và nhìn
ra xứ Bắc Kít những ngày 1945.
Khi GCC trở về lại Đất Bắc, là cũng muốn chứng
nghiệm cái đọc, cái sống của mình, ở 1 Miền Nam tự do, ở hải ngoại, khi
đối diện
với quá khứ Bắc Kít của mình. Và nhất là, để tìm hiểu, tại làm sao ông
cụ của Gấu
không theo Việt Minh, và nhờ thế, tránh cho đám con cái cái nhục, con
của liệt
sĩ!
Weil, khi nhìn
quân đội Nazi tiến vô Paris, nhìn nước Pháp bị Nazi đô hộ, đã vui mừng
thốt lên,
đây là ngày hội của những nước bị Pháp bắt làm nô lệ, trong có xứ Đông
Dương.
Nước Pháp
sau khi nhờ Đồng Minh giải phóng, đau cái nhục đô hộ mà đến những ngày
giờ này
vưỡn còn đau, qua 1 ông Nobel văn chương Modiano cho thấy, không hề
muốn uýnh
nhau với Vẹm.
Chúng năn nỉ Vẹm hết lời. Gấu đọc những tài liệu mới nhất cho thấy
rõ sự kiện này.
Nhưng Vẹm phải làm cho cuộc chiến xẩy ra, để làm cỏ sạch các đảng
phái khác, không theo chúng.
Cuộc chiến
thứ nhìn mới khủng khiếp. Bắc Kít ra lệnh cho đám miệt vườn phịa ra cú
Diệm đầu
độc tù VC, mà lấy cớ đó, thành lập MTGP, ngòi nổ gây ra cuộc chiến
chống Mỹ.
Mỹ
sợ mất Miền Nam đổ quân vô, gây nên hàng hàng tội ác, là thế.
Bây giờ, sự
thực lịch sử ngày càng lộ ra. Và 1 sự thực lịch sử mới mẻ xuất hiện:
Dân Mít bây
giờ nhìn rõ kẻ thù: chính là cái chế độ VC hiện thời là kẻ thù của họ.
Domain www.tanvien.net Base info : (1)
Domain Ip Address:
192.254.190.216
Domain IP Server Addr
CH / Geneva / Plan-les-Ouates
Domain Value: 7,350,646$
Trị
giá trang TV, như net cho thấy, bảy triệu rưởi!
Xạo!
Hà, hà!
30.4.2015
20 năm trước ở Sài Gòn tôi gặp Thanh Huyền, người
biên tập phóng sự này, một cô em Bắc kỳ nho nhỏ, tóc demi-garcon, có
giọng nói mê hoặc lòng người.
20 năm sau, nàng vẫn xinh đẹp và giọng nói vẫn
quyến rũ như xưa. Huyền đề nghị phỏng vấn, tôi khó lòng từ chối.
Bây giờ xem phóng sự càng cảm thấy thán phục, vì
nó được biên tập và trau chuốt bởi bàn tay nhà nghề.
— with Lê Công Định.
Quốc hội Canada thông qua
Luật '30/4'
Đọc tin này thì GCC lại nhớ đến
vị trưởng phái đoàn Canada của UNHCR, lần được chấp nhận cho tái định
cư tại Xứ
Lạnh, 1994.
Gấu đã viết đôi ba lần rồi.
Chính trong tinh thần này,
Canada chấp nhận Luật 30/4.
Nhân
đây cũng xin được nói lời cảm tạ đất nước đã cưu mang Gấu tui trên mười
năm trời, kể từ ngày lên máy bay, rời trại chuyển tiếp Panat Nikhom ở
Thái Lan, với tờ giấy mầu vàng "landed immigrant" [di dân thường trú],
vượt hai đại dương, tới thành phố Toronto, vào đúng một ngày bão tuyết,
trận bão tuyết khủng khiếp nhất kể từ 40 năm, theo như báo chí địa
phương lúc đó, 44 độ âm. Đó là ngày 23 tháng 11 năm 1994.
Trên
mười năm trời, mới thỏ thẻ một lời cám ơn, liệu như vậy là quá trễ
chăng?
Trong
một câu chuyện mà Gấu tôi đọc từ hồi còn nhỏ, [hình như trong tập
"Những Tâm Hồn Cao Thượng" do Hà Mai Anh dịch từ một tác giá Ý, De
Amicis (?)], có một cô bé bị câm, được một bác sĩ chữa trị. Một đêm nọ,
cô bé trong lúc cố tập nói, bất thình lình âm thanh phát ra. Thế là cô
bé cứ âm thầm ngậm những âm thanh đầu tiên đó, đợi tới sáng, khi vị bác
sĩ tới giường cô, bấy giờ cô mới thốt lên mấy âm thanh mà cô tập nói
suốt trong đêm: Con cám ơn bác sĩ.
Trường hợp của
Gấu tôi cũng tương tự như vậy, nhưng không phải những âm thanh đầu
tiên, mà có thể, cuối cùng, của một người già cảm thấy sắp sửa đi hết
cuộc đời của mình. (1)
Canada thường
được 1 số Mít coi như nơi tạm trú, thay vì quê hương thứ nhì, theo
nghĩa, tạm
qua đây, chờ dịp chuồn qua thiên đường Mẽo.
Và không phải nhà nước Canada không
biết trò mù tịt này. Họ biết và rất ư là bực. Họ có nói với Gấu, là,
chúng tao bực
lắm.
Đừng có nghĩ
là Gấu phịa ra. Trên TV Gấu đã từng kể ra rồi, nhưng cám ơn thêm Canada
nhiều lần
cũng không có dư, bèn kể thêm 1 lần nữa, giai thoại “thần sầu”, về cái
sự hào sảng
của Xứ Lạnh!
Huế Mậu Thân
Tắm trong
cái ánh sáng làm nhớ tới tuyệt tác của danh họa Vermeer, TQLC Mẽo chiến
đấu từ
nhà này qua nhà khác với VC ở Huế, Tết Mậu Thân 1968.
Kafka Poet
How German
was he?
Hắn [?] bao
nhiêu phần trăm Bắc Kít [German], bao nhiêu phần trăm Nam Kít [Do Thái]?
Hà, hà!
Một trong những
nhân vật nổi cộm của trường phái Frankfurt, bạn quí của Walter
Benjamin, Adorno.
Tin Văn đi bài này, song song với những bài viết về Kafka, vì đấng này,
cũng 1
chuyên viên về Kafka, về Do Thái.
How German was he?
JEREMY
ADLER
đọc
Gerold
Necker, Elke Morlok
and Matthias Morgenstern,
editors
GERSHOM SCHOLEM IN
DEUTSCHLAND
Zwischen
Seelenverwandtschaft und
Sprachlosigkeit
302pp. Tubingen: Mohr Siebeck. €30.
9783
16 1532627
Gershom
Scholem was one of those extraordinary German-Jewish intellectuals who
changed
the course of twentieth-century European thought. Along with Hannah Arendt,
Martin
Buber and Walter Benjamin, with all of whom he had complicated
relationships,
Scholem's thinking was both recognizably Jewish and deeply German.
Nobody since
Maimonides has explained the complexities of Jewish thought with such
lofty
clarity, and no German scholar since the Grimms has owed more to early
German
Romanticism. Yet with typical vehemence, he famously denied that "the
German Jewish dialogue" had ever existed - a statement often wrongly
taken
to mean that there had been no German-Jewish symbiosis. Gershom
Scholem in Deutschland aims to refute his refutation. If
the reader nonetheless remains puzzled as to exactly how the creator of
an
obscure academic discipline, the study of the Kabbalah, could exert
such great
influence over scholars such as Peter Szondi and George Steiner, as
well as
poets like Franz Baermann Steiner and Paul Celan, this is part of the
mystery.
Scholem
was a self-confessed rebel. His passion for the truth
and exegetical candor frequently involved him in scandal. It is hard to
avoid
the impression that this most private of men thrived on the oxygen
generated by
scholarly dogfights. In his very public falling out with Hannah Arendt
over her
book Eichmann in Jerusalem (1963),
here analyzed in detail by Noam Zadoff, Scholem adopted the position of
Israel's leading public intellectual to explain the most sensitive
issue in
German-Jewish relations, the Shoah. Zadoff adds many new facets to this
absorbing story, including a hitherto unreported conversation between
Scholem
and Isaiah Berlin, who refused to read Arendt's book because, as he
said, it
was "an obvious... case of Jewish
self-hatred" - an interpretation that Scholem rejected.
Even so
worthy a cause as the publication of Walter
Benjamin's papers, which led to what his publisher, Siegfried Unseld,
called
the greatest posthumous success of any modem intellectual,
was mired in scandal. The story, here recounted by Elke MorIok and
Frederek Musall,
involved a bitter struggle for Benjamin's heritage between Arendt,
Scholem and Theodor W.
Adorno. For Scholem, it was critical to accept that Benjamin was not a
German but a Jew. Notwithstanding
this unhelpful dichotomy, there can be no doubt about the nobility of
their
friendship. Scholem gave his own version in Walter
Benjamin: Die Geschichte einer Freundschaft
(1975; Walter Benjamin: The story of a
friendship), and this was complemented by the publication of their
very substantial
correspondence soon afterwards. A high point in these letters, which
gives a flavor
of their debates, concerns the interpretation of Kafka. Scholem's poem
on The Trial, which he sent to Benjamin,
has been accorded classic status in the literature, as has his letter
to
Benjamin of July 17 1934: "Kafka's world is the world of revelation
.... I cannot possibly accept your denial of this aspect". Benjamin
responded by asserting the "theological" side of his own standpoint.
The apodictic certainty
with which Scholem treats every issue
he addresses disguises an underlying unease, not to say ambiguity,
about his
own personality. Indeed, despite the dichotomy he envisages regarding
Benjamin,
on occasion Scholem accepted his own German identity, as Gerold Necker
shows in
a contribuation to the present volume. On being awarded the Reuchlin
Prize (in
1969), Scholem went so far as to claim that he was himself a
re-embodiment of
the great German humanist: "If believed in the transmigration of souls,
I
would sometimes think that I was a sort of reincarnation of Reuchlin
under the
conditions of modem scholarship, of the first student of Judaism, its
language
and its world, especially of the Kabbalah ... ". Nowhere, perhaps, is
this
acceptance of ' his German identity more apparent than in Scholem's
attitude to
Holderlin, whom he considers a Jewish author. Exactly how Holderlin -
could be
regarded as a Jewish poet other than by virtue of Scholem's categorical
assertion is not really clear, though it seems likely that Walter
Benjamin's
reading of Holderlin as a mythical poet
had something to do with it. Exactly how Holderlin could be regarded as
a
Jewish poet other than by virtue of Scholem's categorical assertion is
not
really clear, though it seems likely that Walter Benjamin's reading of
Holderlin
as a mythical poet had something to do with it. As the following
passage
illustrates, Scholem was given to somewhat scandalous hyperbole when
interpreting Holderlin:
Holderlin
lived the
Zionist life. Holderlin's existence is the canon of every historical
life.... The
Bible is the canon of the Scriptures; Holderlin is also a canon, which
is to
say: existence. Holderlin and the Bible are the only things in the
world which
cannot suffer self-contradiction.
As
Necker explains, for Scholem the secular poet Holderlin is
a messianic figure whose life is to be identified with holy writ. The
penchant for
blasphemy evident in this judgement reaches its climax in one of
Scholem's
great monographs, Sabbatai Sevi: The
mystica Messiah (1973), in which his religious sympathies clearly
lie with
the apostate.
Everything about Scholem was legendary - his intellect, his
learning, his
passion, his uncompromising attitude, his ferocity in debate. Yet the
veneration he once so widely enjoyed for being somehow larger than life
has lately
come under attack. In his contribution, Klaus Hermann quotes George
Mosse to
the effect that Scholem was none other than that very paradoxical
creature, a
German Jew whose "interest in mysticism could only have grown on German
soil". The German-Jewish Scholem so lucidly revealed to us by the
essays
collected in Gershom Scholem in
Deutschland may be less heroic than he once was, but he is more
complex,
more subtle, and more interesting.
TTT 2006-2015
Tao [VL] đã phải nhờ
thằng
Nguyễn Thuỵ Long đi lùng khắp mấy tiệm bán sách báo cũ mới có được mấy
số này đấy! (2)
Ngô Vương Toại & Gấu & Đặng Phú Phong &
Dương văn Hùng
|
|