|
Nhật
Ký Tin Văn
[TV last page]
Vào năm
1962, khi tôi tới Hamburg nhân dịp ra lò ấn bản
tiếng Đức, "Những Đứa Con Giờ Tý", nhà
xb gợi ý, hay là tụi mình đi thăm GG?
Why not?
Thế là chúng tôi làm 1 chuyến ghé thăm ông, ở 1 cái
làng; ông có hai ngôi nhà ở trong làng, một để viết, và sống, một để vẽ
vời, ông
là 1 họa sĩ ra trò.
Sau cú đi thăm,
mọi tên ký giả Đức tôi gặp, đều hỏi tôi, nghĩ gì về GG, và tôi bèn
phán, ông
ta là 1, hoặc, 1 trong 2, hoặc 1 trong 3, nhà văn vĩ đại nhất hiện còn
sống trên
thế giới; vài tên ký giả ngó bộ thất vọng, thằng chả đó ư, "Cái Trống
Thiếc",
OK, nhưng Xưa rồi Diễm ơi, thằng chả teo chim rồi, hết viết được rồi,
hà, hà!
Cu Lùn,
Toronto, 11.5.09
Cái hình này, bữa ghé
thăm Ottawa, làm nhớ, cũng ngày này, SN Bác Hồ, tới Bangkok. Một bữa
Thứ Bảy, năm 1989, 90 cỡ đó. Hai vợ chồng, cũng có cái túi
đựng ba thứ vật dụng cần thiết, từ thành phố U Bôn, nơi biên giới Lào
Thái, đến được thủ đô Thái Lan, đi lang thang đến mệt lả, sau được Chúa
thương tình ra lệnh cho 1 anh lái xe lam, xe túc túc, hay tắc xi, không
nhớ rõ, chở tới nhà thờ St Francis,
Gấu đã kể lại vài lần trên Tin Văn.
Chợ Cũ Hàm
Nghi.
Sau 30
Tháng
Tư 1975, thời gian còn được VC sử dụng, Gấu làm việc ở tòa nhà ngay đầu
đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngã tư Hồng Thập Tự/NBK. Tòa nhà này
là 1 cơ quan của Bưu Điện. Gấu lúc đó chuyên việc kiểm tra tần số tầu
biển làm
việc với viễn thông quốc tế, trụ sở Genève. Tay trưởng phòng, do quen
biết giới tầu biển, bèn đi liền, trước 30 Tháng Tư ít ngày. Từ
trong chung cư 29/8D, đi ra quẹo trái, đi vài bước là tới.
Chiều chiều,
trước khi tan sở, chôm một mớ giấy cũ, nhét vô áo, ra Chợ Cũ, ghé 1
trong những
cái sạp trên.
Bà chủ sạp đưa ngay lên cái cân phía trước mặt, và sau khi đọc
con số, lấy tiền trong cái rổ kế bên đưa Gấu, thẩy mớ giấy vô 1 cái
sọt: Giấy gói đồ!
Cầm tiền, Gấu
đi qua phía bên kia đường, ghé 1 tay bán ken quen, chìa tay ra, thế là
lên thiên
đường!
Ui chao, nhớ
ơi là nhớ!
Nhớ Xuân Thu,
Quán Chùa sao bằng
nhớ… Chợ Cũ!
Hai vợ chồng
tôi tới Bangkok ngày 19 tháng Năm, năm 1990. Đúng ngày sinh của ông Hồ.
Sau
này, tôi tăng thêm một ngày, trong lý lịch Cao Uỷ.
Đó là một bữa
thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong thành phố tới rã người, trước viễn
ảnh một
buổi tối thật đen tối, chợt nhớ tới cái địa chỉ đã từng là cứu tinh
những ngày
đói rã họng ở quê nhà, tụi này bèn kêu tắc xi, nói "Vạt, vạt" (Vạt,
tiếng Thái, có nghĩa là chùa chiền, tu viện). Anh chàng tắc xi người
Thái đưa,
không phải tới cái địa chỉ mà chẳng ai còn biết đó, mà là nhà thờ St.
Francis,
tại một khu sang trọng thuộc trung tâm thành phố. Tới sân nhà thờ, nhìn
thấy một
chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ Cao Uỷ Tị Nạn, tôi
la thầm
trong bụng: Chúa cứu ta rồi!
Vị cha già
trụ trì nhà thờ là người Pháp. Ông không dấu vẻ ngạc nhiên, khi nghe gã
đàn ông
ốm đói, mệt lả, nhưng "thao thao bất tuyệt" xổ ra hàng tràng tiếng
Tây, (sau này, nghĩ lại, tôi cũng không thể hiểu nổi tại sao bữa đó,
mình lưu
loát đến như thế! Nhất là đây là lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975, tôi
mới có
dịp "thực tập" tiếng Tây!)
Sau đó, Cha
cho trú ngụ tại một căn phòng ở bên trường học, kế ngay bên nhà thờ, do
nhà thờ
quản lý, bỏ qua tất cả những lời khuyên nên báo cảnh sát để cho nhà thờ
khỏi bị
liên lụy.
Chúng tôi ở
đây hết ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ hai, Cha đưa tụi này tới cơ
quan
ODP, nằm bên trong tòa nhà khổng lồ City Bank. Ông trình giấy tờ, yêu
cầu được coi
hồ sơ ODP của tụi này. Chỉ tới khi đó, Cha mới thực sự tin tưởng, và có
thể,
hài lòng, vì đã làm đúng ý Chúa!
Cha yêu cầu
cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này khuyên, chỉ có mỗi một cách: đưa
mấy người
này vào đồn cảnh sát. Sau khi hết hạn tù, ông sẽ báo bên Cao Uỷ cho xe
"rước’
về trại tị nạn.
Cha đưa tụi
này tới một đồn cảnh sát Thái.
Trước khi từ
biệt, Cha đã dịch cho tôi nghe những lời cảnh cáo của viên cảnh sát:
Tôi có thể
bắt Cha, vì tội chứa chấp những người nhập cảnh bất hợp pháp.
Sau đó, Cha còn
tới nhà tù thăm tụi này, cho tiền, đưa lại mớ "bản thảo", là mấy cuốn
tập ghi vắn tắt một số sự kiện về những ngày ở Đất Phật, và chuyến vượt
sông
Mekong vào đất Thái của tôi. (1)
Ðúng trưa
ngày 19/5/1989, (1), chiếc xe taxi chở vợ chồng Gấu tới đây. Ở cái sân
có
cái xe van
nhỏ chở đồ cứu trợ, với hàng chữ UNHCR.
Gấu tạ ơn Trời Phật, và nghĩ thầm, tới nơi rồi!
Ðúng bữa Thứ
Bảy. Ngày 19 tháng 5 là sinh nhật Bác H.
Sau này, trước
khi đi xa, thật xa, nghĩ lại, thì mới ngộ ra là, cái thông điệp của
chuyến đi, là
cái phim coi trên chiếc xe buýt chở vợ chồng Gấu, chạy suốt đêm từ
thành phố biên
giới Lào Thái, Ubon, phía bên kia sông Cửu Long, bên này là Parksé. Có
1 cái gì
đó trong phim liên quan đến cuộc đời sắp tới của Gấu, và nó còn liên
quan đến
những lần mò xuống sông Mekong tắm, sau giấc ngủ trưa nằm bên dưới
tượng Quan Công,
ở hành lang phía sau chùa Long Vân, Parksé.
Có cái gì đó
liên quan đến câu của Heraclitus.
Có cái gì đó
liên quan tới dòng sông cuối cùng Ðường Tam Tạng phải vượt qua trước
khi vô Ðất
Phật!
(1)
1990 mới
đúng, vì 1989 là năm xẩy ra cú Thiên An Môn, trong lúc gia đình Gấu
đang trên
đường bỏ chạy quê hương, tới Vientiane đọc báo thì mới biết.
Khi ở Trại tị nạn,
viết
Lần Cuối Sài Gòn, bèn đưa sự kiện này vô, cho cho có tí mùi lịch sử:
Koestler,
enfin, retrouvé, cuốn "Le Zéro et l'Infini", tôi lục lọi cách chuyến
đi không xa, trong mớ sách "ký gởi" - một hình thức mới của sách vỉa
hè- tại một tiệm phía bên kia cầu Thị Nghè. Cái thiểu số hỗn độn may
mắn sống
sót sau những ngày tháng Tư, trở thành những nạn nhân đầu tiên thay con
người
Sài-gòn dãi dầu mưa nắng Trong số những người đang lục lọi quanh tôi,
có kẻ chỉ
tò mò lật vài trang đầu, tìm tên chủ nhân, có thể kèm theo đó là một
lời đề tặng
của chính tác giả cuốn sách. Cả hai đều đã đi xa, vợ con ở nhà mang mớ
sách kỷ
niệm đổi lấy một vài mớ rau, một hai lon gạo.
Gặp
lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang
nặng những
nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng
máu của
kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành
những
Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn
cả những
lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ,
bắt
họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...",
tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu
mang
trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó
Hemingway chú
giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại
Faulkner... -
Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác.
Staline
bắt chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi
sĩ, một
muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại
tuồng đốt
sách, chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre
của Cách
Mạng Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là
một học
trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của
Cách Mạng
Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không
có một
cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu
thì rất
đáng ngờ.
Lao
Home, 2014 & 15 Trip
Thơ
Mỗi Ngày
Yes,
defending poetry, high
style, etc.,
but also summer evenings in a
small town, where gardens waft and cats sit quietly
on doorsteps, like Chinese
philosophers.
Adam Zagajewski
[Eternal Enemies 2008]
Bảo vệ thơ,
và vân vân.
Đúng
rồi, bảo vệ thơ, văn
phong cao, v...v…
Nhưng cũng bảo vệ những buổi
chiều mùa hạ
trong một thành phố nhỏ,
với những khu vườn đong đưa,
và những con
mèo ngồi trầm tư nơi bậu cửa,
như những nhà hiền triết Trung Hoa
*
Kính
gửi đến ông vài lời, sau
khi làm độc giả thường nhật của tanvien.net hơn một năm nay. Bởi quá
thích, mục
Thơ mỗi ngày, nên hôm nay mới đánh bạo viết mấy dòng gửi ông, để cám ơn
những
gì mà một mình ông làm, kiến tạo và duy trì hào hứng trang web này trong suốt thời gian qua. Kính chúc ông viết hăng
mỗi ngày, và qua việc viết, sẽ đem đến cho đời ông, và độc giả những chất liệu và phương thức sống, đọc
& viết tươi mới mãi.
Trân trọng.
Phúc
đáp: Đa tạ
Mục “Thơ Mỗi Ngày”, do trục trặc
kỹ thuật, một số bài bị ‘delete’. Trong có mấy bài về Pessoa, và mail
của bạn, trên.
Sorry abt that. NQT
[GCC post lại mail trên, hy vọng vị độc giả
vưỡn đọc TV, và reply, vì GCC không còn địa chỉ mail của vị này]
Caliban the
slave
taught human
speech
waits
his mud in
dung
his feet in
paradise
he sniffs at
man waits
waits
nothing arrives
nothing in
Prospero’s magic cloak
nothing from
streets and lips
from pulpits
and towers
nothing from
loudspeakers
speaks to
nothing
about nothing
Tadeusz
Rozewicz: Nothing in Prospero’s Cloak
Milosz trích
dẫn trong bài viết “Điêu Tàn và Thơ Ca”. Một tiểu luận về kinh nghiệm
thơ, ở vào 1 thời điểm và nơi chốn cực kỳ rõ rệt, in a strictly defined
time and place. Thời gian, 1939-1945. Nơi chốn, Ba Lan.
30.4.2015
Pope Francis uses 'genocide'
to refer to mass killings of Armenians by Turks
(CNN)
Pope Francis
risked Turkish anger on Sunday by using the word "genocide" to refer
to the mass killings of Armenians a century ago under the Ottoman
Empire.
Đức Giáo
Hoàng phán, cú diệt chủng mở ra thế kỷ 20, là cú làm cỏ dân Armenians
của lũ Thổ.
Thằng khốn Gấu Cà Chớn làm lũ Bắc Kít phát điên lên, khi phán, cú Mậu Thân mở ra Diệt
Chủng
Ngụy, và xứ Mít sau đó.
"In
the past century,
our human family has lived through three massive and unprecedented
tragedies," the Pope said at a Mass at St. Peter's Basilica to
commemorate
the 100th anniversary of the Armenian massacres.
"The first, which is
widely considered 'the first genocide of the 20th century,' struck your
own
Armenian people," he said, referencing a 2001 declaration by Pope John
Paul II and the head of the Armenian church.
His use of the term genocide - even though he was quoting from the
declaration - upset Turkey.
Đọc 1 phát,
thì Gấu lại nghe thấy 1 ông bạn nhà văn VC bực bội phán, Lò Thiêu là
cái đéo gì
mà anh nhắc tới hoài.
Hơn thế nữa,
nó là tội ác của Âu Châu, mắc mớ gì tới
Mít?
Có thể,
nhưng câu sau đây, Pope nói, về tội diệt chủng đầu tiên của thế kỷ 20,
có mắc míu tới tội ác của… VC:
"Giấu
diếm hoặc chối bỏ nó [Cái Ác Bắc Kít, hà, hà!] thì giống như để cho vết
thương
cứ tiếp tục chảy máu"
Concealing
or denying evil is like allowing a wound to keep bleeding. Pope Francis
Câu trên,
liên quan tới 30 Tháng Tư, 1975.
Bởi là vì càng ngày sự thực lịch sử càng lộ
ra, thật rõ nét:
VC phịa ra hai cuộc chiến, liên minh với Tẫu, để diệt chủng giống
Mít!
Tham ong ba
Gau manh khoe. Nhin hinh moi nhat cua ong tren tanvien thay gia` di
nhieu qua.
Thảo Trường (2009)
Điêu tàn ư, đâu chỉ có “điêu tàn”?
Trong lúc mấy ông Yankee mũi tẹt phàn
nàn, 'nhạy cảm', thì thế giới phàn nàn, đúng ra là phải phát thêm cho
ông Pamuk
này cái Nobel hòa bình nữa ! Và đây mới là điều đám da mầu nên mừng !
This noble winner should get the Peace Prize, too
Robert McCrum
Sunday October 15, 2006
The Observer
He is also a brave one, speaking out
for free expression in a country where powerful factions have wanted to
put him
in prison for daring to describe the Armenian massacres as genocidal,
and for
challenging a repressive silence at the highest levels of government
and
society about the universal issue of human rights. Moreover, he has
done this
with that instinctive determination to assert the duty of literature to
transcend political barriers that has always characterised the great
artist. As
Pamuk himself put it in 2000: 'Freedom of thought and expression are
freedoms
which people long for as much as bread and water. They should never be
limited
by nationalist sentiment, or (worst of all) business and military
interests.'
Ông ta còn là một người can đảm, đòi tự
do diễn đạt tư tưởng, ở một xứ sở mà đám có quyền muốn tống ông vô tù,
vì đã
dám coi những cuộc thảm sát người Armenian, là tội diệt chủng, vì đã
thách đố sự
nín thinh, của nhà nước và xã hội trước vấn đề nhân quyền
Hơn thế nữa, ông làm điều đó, với một sự quyết tâm mang tính tự phát,
mang tính
bản năng, như thể ông tin rằng, nhân chi sơ tính bản thiện, khi khẳng
định rằng,
bổn phận của văn chương là phải vượt lên trên những rào cản chính trị,
và cái
này đúng là dấu ấn phân biệt thứ nghệ sĩ lớn lao: Tự do tư tưởng và tự
do diễn
đạt là những tự do mà dân chúng luôn luôn đòi hỏi, đời đời đòi hỏi, như
bánh
mì, như nước uống. Đừng bao giờ giới hạn chúng, vì một tình cảm
quốc gia,
hay, [tệ hơn mọi tệ], vì những quyền lợi mang tính thương mại hay binh
bị.
Đây là điều Tin Văn đã nhắc tới, và so
sánh, vụ diệt chủng ở nước Thổ, với vụ diệt Ngụy năm Mậu Thân ở Huế.
Chính trị đỉnh cao so với thứ mạt hạng khác nhau là như thế đấy. (2)
AFTER
SEVERAL YEARS doing desk work in Tokyo for United Press International,
Kyoichi
Sawada-rejected when he requested media credentials to photograph
events in
Vietnam-used his own money and vacation time to shoot the war. UPI was
so
impressed with his pictures that in 1965 it sent him back as a staff
photographer.
Within two
months of his return to Vietnam, the Japanese photographer took the
picture
that helped him win the 1966 Pulitzer Prize for photography: two
mothers and their
children crossing a river as they flee a bomb attack (below). He gave
the prize
money to them. In just five years as a photojournalist, Sawada was also
awarded
five World Press Photo Exhibition prizes, an Overseas Press Club award,
a U.S.
Camera magazine award and, posthumously, the Overseas Press Club's
Robert Capa
Award. Sawada and Frank Frosc, UPI's Phnom Penh bureau chief in
Cambodia, were captured
and executed by the Khmer Rouge on Oct. 28, 1970. Sawada was 34 years
old. -
Jennifer E. Berry
Note: Như vậy là Sawada bị
Khờ Me Đỏ hành quyết, cùng với Sếp UPI ở Phnom Penh. Gấu cứ nghĩ
là anh bị chúng giết vì cái máy chụp hình.
Ba tuần lễ
trước khi bị làm thịt, JK đổ trách nhiệm cú làm thịt Diệm cho "Phu Nhân
Rồng".
Sự thực, Xịa
bật đèn xanh cho đám tướng lãnh làm, với giá 40 ngàn đô. Đám tướng Ngụy
OK, với
điều kiện, số phận của anh em Diệm là do chúng quyết định.
Trên Tin Văn
có kể rõ
vụ này. Tờ báo Mẽo dưới đây, cho thấy lũ tướng lãnh tính tha Diệm, cho
đi nước ngoài, nhưng sau đổi ý kiến, vì sợ Diệm có thể trở lại,
nhưng theo 1 nguồn tin khác, đây là điều kiện của lũ tướng lãnh: Số
phận của Diệm là do chúng quyết định: The cash went to some of
his generals, with
the
undertaking that the US would not oppose their brutal takeover.
It doesn't
sound like much now, but $40,000 from the CIA meant the end of Ngo Dinh
Diem as
leader of South Vietnam. The cash went to some of his generals, with
the
undertaking that the US would not oppose their brutal takeover.
That month the U.S.
ambassador to South Vietnam,
Henry Cabot Lodge, flew into Saigon to tell Diem: "I want you to be
successful.
I want to be useful to you. I don't expect you to be a 'yes man: I
realize that
you must never appear a puppet of the United States." Lodge said Diem
also
had to realize American public opinion had turned against him. Lodge
said the
U.S. favored religious tolerance. Diem's policies were "threatening
American support of Vietnam': Diem had to set his house in order by
removing
Ngo Dinh Nhu, silencing the outspoken Madame Nhu, punishing those
responsible
for the massacre in Hue and coming to terms with the Buddhists.
Washington was
no longer prepared to support his regime unconditionally. Lodge was
ignored and
Diem began to be seen as an obstacle in efforts to unite the South
Vietnamese
against communism. President Kennedy withdrew CIA protection. The
generals
moved early in November, 1963. The plotters promised Diem that he would
be
allowed to leave the country but changed their minds and killed him. He
was 62
and had paved the way for the war to come.
Bốn chục
ngàn đô. Bây giờ thì chẳng đáng gì, nhưng đó là số tiền Xịa chi cho lũ
tướng
lãnh Ngụy để làm thịt ông.
Trong bài viết về Kennedy, “Trong Bịnh Hoạn và bằng
Giấu Giếm, In Sickness and by Stealth”, Christopher Hitchens, điểm cuốn
tiểu sử
của Kennedy, “The Unfinished Life”, của Robert Dallek, phán, đây là đòn
găng tơ
của K. Ông cho biết chính Xịa đốt lãnh sự quán Mẽo ở Cộng Hoà Dominique
để có cớ
xâm lăng nước này.
Đòn Vịnh Bắc Bộ, như Mẽo bật mí, cũng phịa ra để có cớ dội bom Bắc Kít,
phong
toả Hải Phòng, bắt Bắc Bộ Phủ vô bàn hội nghị, chấm dứt cuộc chiến.
Chuyện thường
ngày ở huyện. Tuy nhiên, không có tên nào khốn kiếp như lũ Bắc Kít, khi
chúng
ra lệnh cho đám VC Nam Bộ phịa ra cú đầu độc tù VC ở Phú Lợi, để làm nổ
ra cuộc
chiến: Lấy chính đất nước Mít, dân Mít, xứ Nam Kít làm mồi nhử Mẽo!
VC chuyên
chơi đòn này, suốt hai cuộc chiến. Với Pháp, phải làm thịt Việt Gian,
là lũ đảng
phái quốc gia không theo Vẹm.
Đến bây giờ, chúng vẫn xử
dụng đòn này,
khi cần
làm thịt dân Mít, những ai đòi hỏi dân chủ.
Khi ra lệnh giết Phạm
Quỳnh, cũng là lúc bác Hồ ngồi vô bàn viết, thảo
cái giấy, sau này đưa cho con cái của PQ, ngày sau lịch sử sẽ minh oan
cho cha
cháu!
Những sự kiện trên, bây giờ rõ như ban ngày. Cớm VC vô nhà Bọ Lập,
chúng tớ phòng cháy chữa cháy, đếch phải Cớm.
Không thế, làm sao bắt "quả tang", BL đang.... BL?
Hà, hà!
Thằng em
trai của Gấu, chết lãng nhách, vì 1 viên đạn, trong cả băng AK, bắn từ
bên kia sông,
xuống sông, rồi viên đạn, theo luật khúc xạ chui ra khỏi mặt nước, bay
tới nằm
sau ót cu cậu. Một viên đạn hết đà, giả như đụng bất cứ 1 chỗ nào, thì
chỉ làm
trầy da.
Đang dẫn tiểu đội tuần tra vòng đai phi trường Sóc Trăng, khi
nghe tiếng súng từ phía bên kia sông, do phản xạ, bèn cúi đầu
né, cái
nón sắt, do quên không buộc dây, rớt xuống, phô cái ót trắng hếu cho
viên đạn hết
đà chu vô não, nằm luôn đó. Viên bác sĩ quân y nói với Gấu, tôi không
lấy nó
ra, sợ nát khuôn mặt.
Kennedy chết,
ngược lại. Do bịnh, ngồi xe trần, ngồi thẳng được là nhờ 1 cái giá, 1
thứ “back-brace”,
như Christopher Hitchens cho biết. Chính vì thế, ông không làm sao xoay
sở,
phản xạ
phản xiệc, khi nghe tiếng súng, và đành ngồi chết trân hứng viên
đạn!
Diệm chết, đúng
như Gấu phán, mi làm bồi Mẽo, Mẽo ra lịnh sao, phải làm theo, đéo làm
theo, là ông
xịt!
Bài viết trên tờ “Our Viet Nam”, cho biết, Mẽo ra lệnh khử vợ chồng
Nhu, làm
sao Diệm nghe theo được, thế là xong đời Diệm.
Những giai thoại về Nhu cho người ra
Bắc,
gặp Bác
Hồ này nọ, theo Gấu, có thể có, vì cái chuyện Diệm không muốn GI vô
Việt Nam là
có thiệt, ông chết vì cú này, đúng hơn.
Trong số báo mới mang về, có bài viết
về liên hệ giữa Tẫu và Bắc Kít, cho thấy, không có Tẫu, là Mít thoát cả
hai cuộc
chiến.
Điều này cũng
dễ đoán. Bắc Kít phải lệ thuộc Tẫu tới cỡ nào thì mới răm rắp nghe theo
Tẫu khi
chúng ra lệnh phát động cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Chính nhờ nó, phát
động sớm, mà
có vụ di cư.
Ngụy phải cám ơn Tẫu, không chỉ một, mà hai lần, vụ di cư
và vụ tù
cải tạo.
Nhờ phát động CCRD sớm, có vụ di cư.
Nhờ cuộc chiến biên giới, Ngụy được đưa trở lại Miền Nam, và thoát chết.
Kafka Poet
These
diaries cover the years 1910 to 1923, the year before Kafka's death at
the age
of forty. They provide a penetrating look into life in Prague and into
Kafka's
accounts of his dreams, his feelings for the father he worshipped and
the woman
he could not bring himself to marry, his sense of guilt, and his
feelings of
being an outcast. They offer an account of a life of almost unbearable
intensity.
"In
Kafka we have before us the modern mind splendidly trained for the
great game of
pretending that the world it comprehends in sterilized sobriety is the
only and
ultimate reality there is-yet a mind living in sin with the soul of
Abraham.
Thus he knows two things at once, and both with equal assurance: that
there is
no God and that there must be a God. It is the perspective of the
curse: the
intellect dreaming of its dream of absolute freedom, and the soul
knowing of
its terrible bondage." - Erich Heller "It is likely that these journals
will be regarded as one of [Kafka's] major literary works; his life and
personality
were perfectly suited to the diary form, and in these pages he reveals
what he
customarily hid from the world."
-The New
Yorker
Lời giới thiệu, bìa sau.
GCC có bản tiếng Tẩy, do Marthe Robert dịch. Nay, tiện tay cầm tờ báo,
cầm thêm cuốn này. Tính dịch một số đoạn trong khi đọc cuốn tiểu sử của
Kafka, và cuốn Nhà Thơ Tủi Hổ & Phạm Tội!
Già mà vưỡn hung hăng con bọ xít, hà, hà!
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
BRODSKY
THROUGH THE EYES OF HIS CONTEMPORARIES
Brodsky qua mắt những người cùng thời với ông
Ông thi sỡi có yêu Đất Mẹ?
Ông tình nguyện đi hay ông là một gã lưu vong? Tại sao ông chẳng bao
giờ trở về, ngay cả để viếng thăm? Ông là một tín hữu Ky tô, theo bất
cứ nghĩa nào của từ này? Là một tên Do Thái có nghĩa gì không, đối với
ông? Ông vẫn là và luôn là một nhà thơ Nga, hay thực sự, là một người
Nga, trong bất cứ một ý nghĩa nào có thể chấp nhận được của từ này? Tại
sao ông rao giảng chuyện thờ phụng ngôn ngữ, và theo đường hướng nào
ông thờ phụng nó? Tại sao ông lèm bèm hoài về ‘đế quốc’? Tại sao ông cứ
cố tình tự mình dịch thơ mình qua tiếng Anh, và kết quả của cái việc
dịch đó có khá không?
Cùng với sự sợ hãi, sự
kính trọng, và một tình yêu chân thực, những cuốn sách này còn chứa
đựng một số những nhận xét thật tới, chưa từng có, về Brodsky, về cả
hai, con người và nhà thơ. Về nhà thơ, có nhận xét của Pyotr Vail:
“Pushkin là tất cả về, như thế nào, chúng ta muốn là; Brodsky là tất cả
về, như thế nào, chúng ta thực sự là”. "Pushkin was all about how we wanted to be;
Brodsky was all about how we really are".
Về con
người, Annelisa Allleva đưa ra những nhận xét ‘gay gắt, nhức nhối’, thí
dụ, “Ông ta ăn cắp tình yêu của nhân dân để giấu diếm sự bất an của
mình”. "He stole other people's
love in order to hide his insecurity".
Derek
Walcott nhào lộn cả hai nhận xét trên, thành:
Joseph [Huỳnh Văn] Brodsky đếch thèm để ý đến sự tách biệt giữa thiên
hướng nhà thơ và đời của ông. Ông là thí dụ đẹp nhất mà tôi biết về một
người, là một nhà thơ, theo một cái nghĩa nhà nghề của từ này.
"I was only too glad to be the handmaid of genius, and to be taken for
granted": Tớ thật hạnh phúc được là người hầu của thiên tài, và được
đảm bảo như vậy. Brodsky phán.
CHESS
Jorge Luis Borges
I
In their serious corner,
the players
move the gradual pieces. The board
detains them until dawn in its hard
compass: the hatred of two colors.
In the game, the forms
give off a severe
magic: Homeric castle, gay
knight, warlike queen, king solitary,
oblique bishop, and pawns at war.
Finally, when the players
have gone in,
and when time has eventually consumed them,
surely the rites then will not be done.
In the east, this war has
taken fire.
Today, the whole earth is its provenance.
Like that other, this game is for ever.
II
Tenuous king, slant
bishop, bitter queen,
straightforward castle and the crafty pawn –
over the checkered black and white terrain
they seek out and enjoin their armed campaign.
They do not realize the
dominant
hand of the player rules their destiny.
They do not know an adamantine fate
governs their choices and controls their journey.
The player, too, is
captive of caprice
(the sentence is Omar's) on another ground
crisscrossed with black nights and white days.
God moves the player, he,
in turn, the piece.
But what god beyond God begins the round
of dust and time and dream and agonies?
-Translated
by ALASTAIR REID
Ở cái góc nghiêm trọng của
họ,
Những kỳ thủ di chuyển những quân cờ.
Cái bàn cờ cầm giữ họ tới sáng
Bằng cái la bàn cứng cỏi của nó:
Lòng thù hận giữa hai màu cờ,
Một, cờ máu,
Và một, cờ ba que.
Trong cuộc chơi, là luật
chơi,
Một ma thuật nghiêm ngặt:
Lâu đài Hô me, kỵ sĩ xám, nữ hoàng thiện chiến, hoàng đế cô đơn,
giám mục xiên xẹo, và những con tốt lao vào cuộc chiến
Sau cùng, khi những kỳ thủ
đã nhập cuộc,
Và khi thời gian đã thiêu đốt cả đám
Rõ ràng là chẳng cần gì đến những nghi thức
[Bàn giao cái con khỉ, chúng ông lấy hết rồi,
Minh gà tồ còn gì mà bàn giao?]
Ở phía Ðông, lửa chiến
tranh bừng bừng
Ngày hôm nay, trọn trái đất thuộc về nó,
Như cái khác, trò chơi này là thiên thu, bất tận.
II
Hoàng đế tế nhị, giám mục
xiên xiên, nữ hoàng cay đắng,
Lâu đài thẳng thắn, và anh cu Sài láu cá –
Trên mảnh đất đen trắng của cái bàn cờ
Tất cả hăm hở tìm tòi, và sung sướng tận hưởng những chiến dịch…
Ðiện Biên, Mùa Hè Ðỏ Lửa, thí dụ.
Họ đâu có nhận ra,
Cái bàn tay thống trị của những thế lực quốc tế bửn thỉu,
Và hơn cả thế nữa,
Là những luật chơi của định mệnh.
Họ đâu có biết cái số phần cứng như gang thép,
Trấn ngự, cai quản những lựa chọn và kiểm tra những hành trình của họ
Kỳ thủ kia ơi, mi thì cũng
bị cầm giữ bởi tính bất thường
(Câu này thuổng Omar) trên một mảnh đất khác,
Ðan chéo nhau bằng những đêm đen, và ngày trắng.
Ông Giời di chuyển những
kỳ thủ, và tới luợt họ,
Di chuyển quân cờ
Nhưng Giời nào, ngoài Giời lại có Giời?
Thứ Ông Giời bắt đầu vòng luân hồi
Của bụi, thời gian, và những cơn hấp hối?
*
ECHECS
Ils sont
seuls à leur table austere. Le tournoi
Alterne ses
dangers; lentes, les pieces glissent.
Tout au long
de la nuit deux couleurs se haissent
Dans le
champ agencé qui les tient sous sa loi.
Radieuse
magie où joue un vieil effroi,
Des destins
rigoureux et parés s'accomplissent :
Reine en
armes, brefs pions qui soudain s'anoblissent,
Fou qui
biaise, tour carrée, ultime roi.
Le rite se
poursuit. Il reste ; il faut qu'il reste
Même si le
pied branle à la table déserte,
Même quand
les joueurs seront cherchés en vain.
Le profond
Orient nous légua cette guerre
Dont la
flamme aujourd'hui fait le tour de la terre;
Et comme
l'autre jeu, ce jeu n'a pas de fin.
II
Tour droite,
fou diagonal, reine acharnée,
Roi
vulnérable, pions qu'achemine l'espoir,
Par les
détours fixés d'un ordre blanc et noir
Vous
cherchez, vous livrez la bataille obstinée.
Mais qui de
vous sent sa démarche gouvernée ?
La main ni
le joueur, vous ne sauriez les voir;
Vous ne
sauriez penser qu'un rigoureux pouvoir
Dicte votre
dessein, règle votre journée.
Le joueur, ô
Khayam ! est lui-même en prison,
Et c'est un
échiquier que l'humain horizon:
Jours blancs
et noires nuits, route stricte et finie.
La piece se
soumet à l'homme, et l'homme à Dieu.
Derriere
Dieu, qui d'autre a commencé ce jeu
De
poussière, de temps, de rêve, d'agonie?
J.L. Borges.
[Bản tiếng
Tây của IBARRA, Gallimard, 1970]
Thời gian quen Joseph
Huỳnh Văn, Gấu tình cờ vớ được 1 bài thơ, bản tiếng Tây, của Borges;
một bài thơ nói về hạnh phúc. Ðọc thích quá, Gấu bèn dịch, đưa cho anh
đọc, và 1 tay nữa, nhạc sĩ Vũ Ngọc Giàu, tình cờ gặp lần đầu ở quán cà
phê Bà Lê Chân, của Huy Tưởng.
Ðó có lẽ là lần đầu tiên Gấu biết tới Borges.
Sau này, ra hải ngoại, đọc Borges, Gấu cố kiếm bài thơ cũ, mà không làm
sao kiếm ra. (1)
Khi biết tin anh mất, và có số điện thoại của gia đình,
Gấu có gọi về hỏi thăm, và chia buồn, bà xã của anh có nhắc tới đám bạn
quen từ trước 1975 mà chị còn nhớ, và nhân đó, chị nhắc tới bài thơ về
Hà Nội, mà ông chồng đang làm, chưa xong, cho tới khi anh đi, và chẳng
ai còn biết được nó ra làm sao, dù ai cũng gật gù, hay, hay lắm.
Trong một bài viết về anh,
Gấu có nhắc tới câu chuyện này, Hà Nội anh chưa từng nhìn thấy [vì có
bao giờ tính ra thăm đâu, chắc thế], và bài thơ dang dở về nó.
(1) Kiếm ra rồi. Dịch rồi,
đâu đó, trên TV
Avigdor
Arikha: Samuel Beckett au verre de vin, 1969
Beckett bên ly rượu vang
Beckett in
Love
Nhật
Ký Tin Văn
[TV last page]
7.11.2010, backyard
Lao
Home, 2014 & 15 Trip
8.4.2015
Happy Birthday to Mom
Xì Lô
& All Family
Thơ
Mỗi Ngày
To Laziness
Only you
understood
How little
time we are given,
Not enough
to lift a finger.
The voices
on the stairs,
Thoughts too
quick to pursue,
What do they
all matter?
When
eternity beckons.
The heavy
curtains drawn,
The
newspapers unread.
The keys
collecting dust.
The flies
either sluggish or dead.
The bed like
a slow boat,
With its one
listless sail
Made of
cigarette smoke.
When I did
move at last,
The stores
were closed.
Was it
already Sunday?
The weddings
and funerals were over.
The one or
two white clouds left
Above the
dark rooftops,
Not sure
which way to go.
Charles
Simic
Gửi Đại Lãn
Chỉ mi hiểu,
Đôi ta còn tí
ti thì giờ
Chẳng đủ để
nhấc ngón tay
Tiếng nói ở
cầu thang
Ý nghĩ tư tưởng
bỏ chạy, quá nhanh
Làm sao truy
đuổi,
Nhưng để ý làm
chó gì tất cả những chuyện đó
Khi vĩnh cửu
vẫy tay gật đầu
Những bức màn
nặng buông xuống
Những tờ nhật
báo không đọc
Những chiếc
chìa khoá thu gom bụi
Những con ruồi,
hoặc lờ đờ, hoặc ngỏm
Cái giuờng
thì giống như cái thuyền lừ khừ
Với cánh buồm
thờ ơ
Làm bằng khói
thuốc lá
Sau cùng khi
Gấu bèn cố đi 1 đường cử động cái thân xác luời biếng của mình
Những cửa tiệm
đã đóng cửa
Chủ Nhật rồi
ư?
Cưới hỏi, ma
chay thì cũng đã xong
Một, hay hai
đám mây trắng còn lại
Trên mái nhà
tối thui
Đếch biết nhắm
hướng nào.
30.4.2015
Đêm chong đèn nhớ Trịnh.
Đọc
bài này, thì bất giác nhớ bài thơ của Brodsky, “Gửi Con Gái Tôi”, và
cái ước
mong, nếu Ông Giời cho tớ một đời nữa, thì tớ sẽ hát ở 1 phòng trà.
Và tất nhiên, nhớ bài viết của Gấu về TCS, có
lẽ bài viết sớm nhất về chuyện ông đi xa, và, bảnh nhất, theo Đặng
Tiến.
Tuy nhiên,
sau này, GCC khui ra, có hai hình ảnh tuyệt vời nhất, về ông, một, từ
nhạc của ông,
và một là từ thơ của Anna Akhmatova, cũng là để nói về ông.
Một hình ảnh do Le Huu Khoa
khui ra khi viết về ông, trong Mảng Lưu Vong: Chim Thiêng hát lời Mệnh
Bạc.
To My
Daughter
Give me another life, and I’ll be
singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture
in the corner,
in case that life is a bit less
generous than the former.
Yet partly because no century
from now on will ever manage
without caffeine or jazz, I’ll sustain
this damage,
and through my cracks and pores,
varnish and dust all over,
observe you, in twenty years, in your
full flower.
On the whole, bear in mind that I’ll be
around.
Or rather,
that an inanimate object might be your
father,
especially if the objects are older
than you, or larger.
So keep an eye on them always,
for they no doubt will judge you.
Love those things anyway, encounter or
no encounter.
Besides, you may still remember a
silhouette, a contour,
while I’ll lose even that, along with
the other luggage.
Hence, these somewhat wooden lines
in our common language.
1994
Gửi
Con Gái Tôi
Cho tôi một
đời khác, và tôi sẽ đang hát
ở Caflè
Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng
ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường
hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước.
Mà có lẽ, một
phần, là còn do điều này:
không một thế
kỷ nào kể từ nay, mà lại có thể xoay sở, nếu thiếu cà-phê-in và nhạc
jazz,
bố sẽ cố chịu
chuyện đó, như cái bàn cái ghế, với những vết nứt, nẻ, véc ni, mớ bụi
bặm trên
mình,
ngắm con gái
của bố, trong hai mươi năm, nở hết những cánh hoa, và trở thành một đóa
hoa rạng
rỡ.
Thôi thì
thôi, cũng thế thôi, nhưng hãy nhớ điều này,
rằng bố vẫn
quanh quẩn bên con,
cái bàn cái
ghế vô hồn, bất động,
có thể là bố
đó
nhất là khi
chúng già nua, cồng kềnh, kịch cợm hơn con
Vậy thì hãy
để mắt tới chúng
bởi vì,
không nghi ngờ chi, chúng sẽ cân nhắc mọi chuyện giùm cho con,
[hoặc cau
mày nhắc nhở con, một điều gì đó].
Yêu mọi điều,
mọi chuyện ở trên đời, dù gì đi chăng nữa, dù gặp hay không gặp.
Ngoài ra còn
điều này:
Con vẫn còn
nhớ một hình bóng, một dáng vẻ,
Trong khi bố
mất tất cả, cùng với cả một hành lý khác.
Thí dụ như
là những dòng đời khô héo,
của cái tiếng
nói chung,
của cha con
ta...
Gởi
con gái tôi (Joseph Brodsky)
Cái tít bài
viết của Bọ Lập, là cũng từ 1 bản nhạc của TCS, Huyền Thoại Mẹ.
Về những cuộc
tình của TCS, nhiều thì nhiều thực, nhưng theo ý riêng của GCC, đều
không thực.
Thực,
là khi xa nhau, họ đều cảm ơn Ông Trời, đã cho gặp nhau, dù chẳng để
làm 1 chuyện
gì.
Và, 1 khi như
thế, thì chỉ 1 cuộc tình, là đủ cho 1 con người. Một khi nó sống thực
cuộc tình,
thì những cuộc tình sau đó, nếu có, là để lập lại – theo 1 nghĩa thật
đẹp - cuộc
tình thứ nhất, vưỡn theo GCC, khi ngộ ra 1 lời phán về GCC, của 1 độc
giả/thân
hữu/bạn văn.
TCS không có
cuộc tình nào thực cả. Đó là nỗi đau của ông, và nỗi mừng của những
người tình
của ông, đau thế.
Em nào cũng khoe, đã từng yêu và được Trịnh yêu, và đều mừng,
vì... an toàn sau cuộc tình.
Quá đau cho họ Trịnh!
Khác hẳn nhạc
sĩ VTA. Hay PD. Cuộc tình nào của những đấng này đều có cú làm ăn tới
chỉ cả.
Trong Một Chủ
Nhật Khác, khi Oanh từ chối cái hôn của Kiệt, - em yêu ông thầy của
mình, bèn gặp,
để nói ra điều đó, rồi bỏ đi - và Kiệt bèn quê, đếch thèm làm gì cả, và
khi
Oanh đi
rồi, em mới hiểu ra “chân ní”, bèn đánh điện, “ới” 1 tiếng, là em lên
liền, thầy
muốn “biên tập” - từ này của 1 em nữ thi sĩ ở trong lước – thầy muốn
làm gì thì… làm!
Thê lương nhất,
là sau đó, khi nghe 1 cô bạn học, kể lại cuộc tình của Kiệt với Hiền,
em thấy đời
mình thừa thãi, bỏ đi, mơ màng đã thành đàn bà, đếch cần 1 thằng
đàn ông
nào…. biên tập!
Thê lương
hơn nữa, là lần gặp gỡ sau cùng của họ, ở 1 tiệm ăn, hình như thế, ở
phiá
bên ngoài, hay hành lang rạp Rex. Oanh
mua tặng Kiệt cái kèn, và chàng mang về Đà Lạt, để chết. Bạn còn nhớ
cái xen Kiệt
thổi kèn cho bạn là Duy nghe, trước khi “bị” ngỏm?
Quái là GCC cũng có 1 cú gặp gỡ sau cùng với BHD, ở 1 quán, ở đâu đó,
gần Chợ Bến Thành.
Cuộc gặp gỡ của Gấu cảm động hơn nhiều, thực hơn nhiều.
GCC cũng kể đâu đó, vài lần rồi...
-C’est
ridicule, c’est formidable, c’est merveilleux… c’est toi. Oanh. Pleure
pas.
Pleure pas.
Thật kỳ cục,
thật kinh khủng, thật tuyệt vời, thật em. Oanh. Đừng khóc, đừng
khóc.
Đúng buổi sáng ngày
Kiệt bị quật ngã, chàng mới có quyết định đánh bức điện tín cho Oanh.
Chàng đội
mưa chạy đến Bưu Điện. Cơn sốt đã bập bùng bên lỗ tai như tiếng sấm.
Chàng viết
bức điện tín, tay run như đuôi con thằn lằn đứt. Chàng viết, chàng nhớ
đúng như
in chàng đã nói: S.O.S. Au secours. Bớ người ta cứu tôi với.
Kiệt. Kiệt
nghĩa là hết sạch, chẳng còn gì, chẳng còn tí tẹo nào. Cô nhân viên Bưu
Điện vốn
quen vì gặp hàng tuần, trợn mắt: Ông không điên chứ ông Kiệt? -Tôi điên
chớ, rõ
ràng là tôi điên đây thôi. –Ông nhất quyết gửi bức điện này? -Chớ
sao nữa,
còn gì nữa. Tôi đang cần tiền, hết tiền tiêu rồi, phải kêu kiểu đó mới
có tiền.
Kiệt cười hộc. Chàng ra khỏi Ty Bưu Điện chạy xuống hồ lại vòng lên xin
rút bức
điện lại. Chàng ướt còn hơn buổi sáng đưa Oanh đi. Mưa nhòa hết cảnh
vật, nhòa
hết cảm xúc, ý nghĩ, và quyết định. Oanh cũng bó tay mà thôi.
-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên
để người ta coi thường mình. Kiệt trở giọng giận dữ. – Mình là cái quái
gì. Anh
chỉ mong mọi người coi thường anh. Được coi thường, thường hết, dễ
sống. Không
có ai là ghê gớm, là thiết yếu đối với ai ở đời này. Rỡn chơi vậy. Em
hiểu
không, nói rỡn vậy mà chơi thôi. Chẳng đáng một đồng bạc cắc. Anh đâu
có thiết
yếu cho em, mà em đâu có thiết yếu cho anh.
Oanh như bị cái tát
trái, tá hỏa, cứng đơ. Nàng run rẩy lắp bắp không thành lời.
-Em nghe cho thật kỹ
đây. Kiệt như thể được đà. -Với mọi người đàn bà anh đều nói: đàn bà là
đàn bà,
muôn đời vẫn chỉ là đàn bà không hơn không kém. Anh… (1)
Trịnh Công
Sơn vs Lịch Sử
Milosz,
trong một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn
tại Pháp
tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng
năm, hoàn tất
vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh
toán một
lần cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.
Trong ý nghĩ
đó, theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS
đã được
"thanh toán".
Milosz cho rằng,
cuốn sách không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó,
như kẻ
lưng đụng vô tường, hết đường lui.
Cũng trong
bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của
Pasternak, khi
được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ
Zhivago, chứ
không phải do thơ.
Bản thân
Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.
Tôi nghĩ, Trịnh
Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế
giới, là
nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của
ông".
Như Milosz,
ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình
ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài
người.
Hãy hát tình
ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:
Nếu có gì có
thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của
TCS, là hồi ức, là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã
mất.
“Cái từ, giải
phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người, là hai chữ: Tình
Yêu.”
*
Tôi thu tôi
lại...
Hạt bụi
nào...
He has
turned into the life-giving ear of grain
Or into the
gentlest rain of which he sang
Akhmatova
Người thi sĩ
ấy biến thành mầm sống
Thành hạt
mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó
D.M. Thomas
trích dẫn, cho chương Death of a Poet,
[trong Solzhenitsyn: Thế kỷ ở trong
ta],
nói về cái chết của Pasternak.
Trịnh Công
Sơn:
Chim Thiêng
Hót Lời Mệnh Bạc
L'oiseau
sacré chante le destin tragique
*
Un jour se
noyer et flotter
[Cũng sẽ
chìm trôi]
Ah ! la lune
en haut
Assis je
suis en bas
La course de
l'eau la limpidité
Mon âme
l’eau trouble
Les hérons
s'envolent crient le calme absolu
Les chemins
de la vie proches
Mais les pas
ralentissent de fatigue
Ah ! la lune
en haut
Assis je
suis en bas
Les chemins
tordus
La lumière
soudaine
Depuis
l'oiseau sacré chante le destin tragique
Chaque
goutte de l'infini
Se noie
disparaît sans appel de retour
Lời Việt::
Nhật nguyệt
í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a
trong veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a
bay qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời
í-a không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt
í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường
í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a
chim thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt
í-a vô biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm
Partir et
revenir
[Một cõi đi
về]
Les années
écoulées les départs
Partir
tourner la vie les fatigues
Les épaules
aux deux bouts de la lune
Le reflet
transversal de cent ans partir et revenir
Quelle sera
la parole des arbres
Quelle sera
la parole de l'herbe étrangère
Un seul
coucher du soleil dans l'ivresse
Quelle vie
légère appartient déjà au passé
Ruine du
printemps ruine de l'été
Un jour d'automne
l'écho du galop au loin
Nuage couvre
la tête soleil sur les épaules
Les pas s'en
vont les rivières savent rester
\Soudain
l'otage de l'amour m'appelle
A
l’intérieur apparaît l'ombre de l’être
Le détour de
la pluie dans l'âme
Une pluie
fine
Cent ans l'infini
la chance de rencontre sera nulle
Quel lieu
sera chez moi
Les chemins
les détours les cercles en ruine
Le côté a'
herbe le côté de rêve
Chaque
parole du crépuscule
Chaque
parole de la terre des tombes
Voix de la
mer des fleuves de leurs sources.
Alors qu'on
rentre on se souvient déjà qu'on partira
Partir vers
les monts
Revenir vers
le large
Les bras de
la vie n’offrent jamais l'indulgence
Seul un vent
impossible souffle tout au long de la
jeunesse
Trinh Cong
Son
Traduit par
Le Huu Khoa
Connu avec
Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam
actuel, Trinh
Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de
ses êtres
». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi
l'éphémère de
l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation
sur la
souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du
passage
des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du
bouddhisme, du taoïsme.L'évidence esthétique du texte fait corps avec
l'inexistence de l'être.
Được biết đến
cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của
Việt Nam
hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và
hát
"những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu
vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp.
Từng bước,
Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài
ca của
ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi
cầy lại,
và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư
tưởng
Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô
thường của
kiếp người.
Le Huu Khoa:
Mảng lưu vong [La Part d'Exil]
*
Note: Tks K.
Gấu
Conversations with the Dead
Reading has always been for me a sort
of practical cartography. Like other readers, I have an absolute trust
in the
capability that reading has to map my world. I know that on a page
somewhere on
my shelves, staring down at me now, is the question I’m struggling with
today,
put into words long ago, perhaps, by someone who could not have known
of my
existence. The relationship between a reader and a book is one that
eliminates
the barriers of time and space and allows for what Francisco de
Quevedo, in the
sixteenth century, called “conversations with the dead.” In those
conversations
I’m revealed. They shape me and lend me a certain magical power.
Trò chuyện
với người chết
Đọc đối
với tôi là 1 cách vẽ bản đồ. Như
những độc giả khác, tôi có sự tin vậy tuyệt đối vào khả năng, đọc phải
vẽ ra thế
giới của tôi. Tôi biết, trong 1 trang sách đâu đó, trên những kệ sách
của tôi,
ngó xuống tôi, thì là 1 câu hỏi mà tôi đang đánh vật với nó, bữa nay,
được đặt
thành những từ ngữ từ lâu lắm rồi, bởi 1 người nào đó, có thể chưa từng
biết đến
có tôi ở trên đời. Liên hệ giữa 1 độc giả với cuốn sách, là 1 liên
hệ triệt
tiêu những biên cương của thời gian, không gian, và cho phép điều
mà Francisco
de Quevedo, thế kỷ thứ 16, gọi là “những cuộc trò chuyện với người đã
chết”.
Trong những cuộc trò chuyện như thế, tôi lộ ra, bật mí. Chúng
tạo hình dáng
tôi và cho tôi 1 quyền năng thần kỳ.
Những nhận
xét, như trên, quá đúng, nhưng chỉ với từ ngữ. Với âm thanh, lời nhạc,
GCC
nghĩ, sai, như có lần GCC phán, bạn phải sống cùng thời với TCS, cùng 1
Miền
Nam với ông, thì mới cảm hết nhạc của ông.
Thí dụ, cái
lần GCC vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, lần đầu, đúng thời gian gần
Tết, thời
tiết lạnh lạnh, TCS thì mới cho ra lò bản Tình Nhớ, và trong đêm khuya,
1 tay
tân binh như Gấu cứ huýt sáo hoài bản nhạc đó. Gấu đau quá, vì cùng với
nó, còn
là nỗi đau thằng em vừa mới tử trận - cô bạn vừa mới từ giã, và cùng
với cô, là Sài Gòn - có thể, từng nằm, đúng cái
giường sắt
Gấu đang nằm.
Khủng khiếp lắm. Một Bắc
Kít, sinh ở Bắc Kít, sau 1975, mê nhạc Trịnh, không thể
nào hiểu được nỗi đau này. Một đấng Nam Kít, bỏ chạy, như Đặng Tiến,
thì cũng đếch
cảm ra nỗi đau này, nên ông phán Tình Nhớ mà mắc mớ gì tới cuộc
chiến, phản
chiến!
Những
ngày
Trịnh Công Sơn
Tôi biết Trịnh
Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và qua Nguyễn Đình Toàn, tại một bàn
cà phê ở
quán Cái Chùa, đường Tự Do, Sài Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa
số công
chúng thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc chiến leo thang, người dân miền
nam ngày
càng thấm nhạc của anh.
Anh ngồi
chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ
nào đó, từ
một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm anh, và
thường là
về Huế, và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa
chúng
tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó
phụ trách chương trình nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn, và hai
người
hình như có hẹn gặp nhau tại quán, ấy là tôi suy đoán ra như vậy.
Thời gian
này, tôi chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn. Nói rõ hơn, nó chưa thấm
vào tôi.
Phải tới khi
đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những
đêm cận
Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là
quá nhớ
bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc
bám riết lấy
tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua
lần gặp
gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói
chung của
cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói:
hãy yêu
nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam
chấp nhận
cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với
miền bắc,
vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ
ra đi.
Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh
Công Sơn
nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính
phản chiến
của cả một miền đất.
Và cũng như
cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau vòng tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn
mới hiểu.
Một bạn văn của người viết, còn ở lại Sài Gòn, nhân lần gặp gỡ tại xứ
người, đã
kể chuyện, sau "giải phóng", có thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản
địa phương làm khó dễ, anh phải vô Sài Gòn, và có than thở với anh bạn
văn kể
trên. Anh nói, thì cứ dzô đây, gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu
mang Trịnh Công Sơn không phải chỉ lần đó. Theo như tôi được biết,
những ngày
cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau lên Trung Tâm
Ba, Trịnh
Công Sơn may mắn đã được đại tá không quân Lưu Kim Cương che chở.
Trong số những
quân cảnh tại thành phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh
Công Sơn!
Đại tá Lưu
Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi bảo vệ vòng đai phi
trường Tân
Sơn Nhất.
Riêng tôi,
tôi mong được như anh: được chết tại Sài Gòn.
Xin vĩnh biệt.
The Scene of the Crime
Chuyến đi Mỹ Lai của 1 phóng viên và những bí mật của quá khứ
Seymour M. Hersh
Nguyen Qui
Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular
bar and
restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen.
Thirty-one
years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning
journalist
and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to
come back
and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and
living as
someone else in the United States. I was grateful for the opportunities
in America,
but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time
as a
reporter for National Public Radio, and fell in love with it."
The New
Yorker, My Lai Revisited, Mar
30 2015
NQD nhà văn Mít 57 tuổi,
chủ nhân 1 nhà hàng tại Hà Nội, chạy qua Mẽo năm 1975 khi 17 tuổi. Tớ
luôn muốn
về sống ở xứ Mít. Tớ thấy tớ chưa xong, không đầy đủ, bỏ nhà ra đi khi
17 tuổi,
và sống như 1 ai đó ở Mẽo. Tớ biết ơn Mẽo với những cơ may mà nó ban
cho tớ. Nhưng
cái tớ cần là 1 cảm quan, ý nghĩa cộng đồng. Gặp Hà Nội, là tớ mê liền.
Born Red
Nga Hoàng Đỏ xây dựng Đế Quốc Xô Viết
quyền lực thứ nhì thế giới bằng cách làm thịt dân của mình, chừng 20
triệu, cỡ
đó. Từ tên trộm cướp cách mạng, le bandit révolutionaire, biến thành 1
tên bạo
chúa khùng. Đại Khủng Bố mỗi ngày làm thịt 16 ngàn người.
Đế quốc
VC như hiện giờ,
"cũng" đã được xây dựng lên, bằng cách làm thịt dân Mít của nó.
Cuộc chiến chống Pháp đúng ra không xẩy ra. Nó xẩy ra là vì VC muốn như
thế,
nếu không thế không sao làm thịt lũ Việt gian được. Việt gian là những
kẻ không
theo VC, những đảng phái quốc gia như VNQD, thí dụ. Cuộc chiến chống
Mỹ cũng
không thể xẩy ra, và nó xẩy ra vì Bắc Kít muốn như thế. Bởi thế, chúng
mới nhử
Mẽo vô Miền Nam, khi thành lập MTGP, bằng cách vu cho Diệm đầu độc tù
VC
tại trại
tù Phú Lợi.
Tuy
nhiên, điều chúng ta không biết, là
liên minh ma quỉ giữa Bắc Kinh và Bắc Bộ Phủ. Không có sự giúp đỡ của
Tẫu, cả
hai cuộc chiến vô phương xẩy ra với kết quả như bây giờ. Bởi thế, vào
thời điểm
1975, khi Solzhenitsyn nhận định, Bắc Kít sẽ thôn tính Nam Kít, và đây
là cuộc
chiến tranh giành ảnh hưởng giữa những đế quốc, Paz chỉnh Solz, đây là
cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc; chỉ đến bây giờ chúng ra mới thấy Solz có lý,
khi yếu
tố Tẫu lộ ra. Bởi là vì với dân Mít, Tẫu là kẻ thù ngàn đời của chúng.
Bi giờ, thì Mít mới biết, Bắc Kít dâng cả vợ con cho Tẫu, để làm thịt
cho bằng
được thằng em Nam Kít của nó.
Trước, cũng biết, nhưng giả đò, không.
Gấu về lại đất
Bắc, đọc gia phả dòng họ Nguyễn, đấng nào đấng đó đóng khung những chi
tiết, sự
kiện lịch sử, đã từng học tại trường West Point Tẫu!
Bởi thế, Gấu
mới phục ông già của Gấu, đếch theo VC, chỉ là “cảm tình viên” của
Đảng, như cô
cháu gái của 1 ông chú, Chú Cầm, Huyện Uỷ Bạch Hạc, Việt Trì, giải
thích lý
do tại sao mấy đứa anh chị em của Gấu ở lại đất Bắc, không được công
nhận là
con của liệt sĩ!
Bố của Gấu cực bảnh!
Hà, hà!
Ông tin tên học trò của
mình, nên chết vì nó, như Gấu,
quá mê bạn quí, đến lụy 1 đời vì chúng!
More Modiano.
Readers with long memories may recall a series in which we presented
mostly
French novelists who were also the authors of popular songs. Jean-Paul
Sartre was
one (a handful of songs for Juliette Greco). Raymond Queneau, Louis
Aragon and,
of course, Boris Vian are among the others. The habit is less popular
in the
anglophone realm, but Kazuo Ishiguro writes songs for the jazz singer
Stacey
Kent.
Patrick Modiano continues
to surprise. Three weeks ago, we
wrote about his late mother, the "second role" actress, Louisa
Colpeyn. We can now put him forward as the latest of our French
novelists who
doubles as a songwriter. In the years 1965-70, the Nobel Prize-winner
wrote the
words to several songs, both original compositions and adaptations of
hits from
abroad. Modiano formed a partnership with Hughes de Courson, a former
colleague
from the Lycee Henri-IV, a school about which we read in Le Pedigree.
In 1967,
they released an album, Fonds de tiroir by "Modiano/De Courson" (the
latter is also a musician).
The duo's biggest break
came when some songs were recorded in
the late 60s by Francoise Hardy, then an international star. They
include "San
Salvador" and "Etonnez-moi Benoit", in which the singer asks
Benoit to amaze her by swallowing razor blades. It became "un tube" (a
hit) and eamed some money. We enjoyed listening to Mile Hardy singing
these
songs, and being reminded of what a sweet, understated voice she has.
French
pop music only as good as English wine? Don't believe it.
J.C.
TLS Mar 27,
2015
Modiano, nhà soạn nhạc. Độc giả TLS có
trí nhớ tốt thì chắc chưa quên loạt bài của chúng tôi về những
nhà văn
làm thêm nghề tay trái, soạn nhạc. Sartre thì có chùm nhạc dành
cho Juliette
Gréco. Raymond Queneau, Aragon, và tất nhiên Boris Vian [Lạ, là quên 1
tay
khổng lồ, Jacques Prévert. NQT]. Thói quen này, của giới nói/viết
tiếng Tẩy. Tuy nhiên, Kazuo Ishiguro cũng soạn nhạc cho Stacey Kent, ca
sĩ nhạc Jazz.
Modiano tiếp tục gây kinh ngạc. Hai tuần
trước, chúng tôi có đi 1 bài về bà mẹ
đã mất của ông, nữ diễn viên đóng vai phụ. Hóa ra là ông còn viết lời
nhạc. Vào
thời kỳ 1965-70, ông làm lời cho một số bản nhạc nổi tiếng.
Nhắc tới Modiano, thì GCC lại nhớ, vừa
đọc 1 bài viết về ông của Nguyễn Đăng Thường, trên net, cùng lúc với
cuộc
phỏng vấn của bà Huệ trên Gió-O
MỘT GIẢI
NOBEN VĂN CHƯƠNG KỲ CỤC
sổ tay
nguyễn đăng thường.
phỏng vấn
nhà thơ
Nguyễn Đăng
Thường
Là một người
đọc, có khi tôi tìm đọc những tác giả khó. Những tác giả mà khi đọc cái
đầu ta
phải làm việc theo tác phẩm của họ. Nguyễn Đăng Thường là tác giả thuộc
khuynh
hướng này. Mới thoạt đọc, thấy ông viết hơi xâm lăng tấn công, và ông
va chạm
vào đủ các thứ mạch ẩn nấp. Nhưng bên dưới các bản viết ký tên Nguyễn
Đăng Thường
là các tiêu hóa kiến thức, trí thức, cảm tính, và văn chương, ở mức độ
cực kỳ
cao. Điều này gây nên sự chú ý của tôi. Tôi xem anh như là một trong
những nhà
thơ gây ảnh hưởng trên lớp tác giả trí thức cùng thời tôi, vì các vận
động viết
có tính trí tuệ, đối xoáy, và tấn công thẳng thắn của cõi viết Nguyễn
Đăng Thường.
Ông được xem
như là một trong những người khởi xướng nhóm Trình Bày cùng 3 tên tuổi:
Diễm
Châu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường. Một trong những đóng góp
đáng kể của
nhóm Trình Bày là chọn lọc và dịch tốt các tác phẩm thơ văn Tây Phương,
giới
thiệu vào không khí văn nghệ Sài Gòn thời 1954-1975.
Ra hải ngoại,
ngòi viết của Nguyễn Đăng Thường vẫn tiếp tục hàng tiền đạo trên các
trang Tạp
Chí Thơ (Khế Iêm, Đỗ Kh.), Tiền Vệ (Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Hưng Quốc),
Thế Kỷ
21 (Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Xuân Đài, đã đóng cửa) từ đó đến nay.
Sau năm
1975, ông định cư hẳn ở Thành Phố Sương Mù London.
Gió O rất
hân hạnh nhận được sự cọng tác trả lời phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn
Đăng Thường.
(LTH)
Lý Quang Diệu by Người
Kinh Tế
Bài viết này
thật là tuyệt. Tin Văn sẽ làm 1 cú dịch thuật. Nhân ngày 30 Tháng Tư
năm nay, thay vì buồn buồn nhìn về xứ Mít!
Không có tí
vinh quang hão, cha già dân tộc, thí
dụ, trong cái tít tập đầu của
hồi ký của họ Lý, "Câu chuyện Singapore". Ít nhà lãnh đạo nhập thân vào
với đất nước, và rồi làm ông Trùm của nó: Fidel Castro và Kim, vào cái
thời của họ. Tuy
nhiên, cả hai thì đều thua Lý, trong tiến trình, và hoàn tất nó, biến
Sing từ
"Thế Giới Thứ Ba thành Thế Giới Thứ Nhất" (như cuốn thứ ba được giật
tít). Hơn thế
nữa, ông làm được điều này, trước sóng giữ, chống lại tất cả những ngặt
nghèo, thiên nhiên khắc nghiệt: không gian không, không quá 1 hòn đảo
nhỏ
xíu, không tài nguyên thiên nhiên, chỉ là một hòn đảo với cư dân của nó
là những
di dân tạp chủng, đa thành phần, không chia sẻ cùng 1 lịch sử dựng
nước. Cái công cuộc tìm
kiếm cái di sản chung, coi bộ hơi tiếu lâm, nếu không muốn nói tức
cười, hoặc… hổ
thẹn, vậy mà vào thập niên 1990, Sing trở thành số 1, về những "giá trị
Á Châu". Vào thời kỳ này, Sing là một trong
những nơi
chốn Tây Phương hóa số 1 ở Á Châu.
Lý biến Sing thành 1 khuôn mẫu tuyệt hảo
về phát triển; nhưng những nhà cầm quyền sau ông đã rút ra những
bài học sai lầm từ sự thành công của ông.
Ảnh hưởng bởi Harold Laski mà ông gặp
ở LSE, ông gia nhập phong trào chống chế độ thực dân thuộc địa thập
niên
1950, và, ở Anh, cổ võ cho Đảng Lao Động. Nhưng với ông, ý thức hệ chỉ
đóng
vai trò thứ yếu trong nhận thức, đánh giá mang tính thực dụng, về
chuyện quyền
lực làm ăn ra làm sao. Về già, ông cực kỳ chống lại hình thức bảo hiểm
xã hội,
coi như gốc rễ của nó là nỗi bực Anh, Britain malaise. Ông cũng bốc
phét về trò
dũng sĩ đường phố của mình. Thằng nào đụng vô tao, là tao sẽ cho thằng
đó ngửi
bụi, liếm đất, hoặc trấn vô tuyệt lộ. Ông quả là 1 tay ăn nói, xoay sở,
lèo lái
tàn nhẫn, tự xoay sở mình vào chức Đảng Trưởng Đảng Hành Động Nhân Dân,
và trở
thành Thủ Tướng của Singapore vào năm 1959, và giữ chức này trong 31
năm.
TTT 2006-2015
Nhà văn Mít
về mặt đạo hạnh, quá tệ, nhất là lũ viết dưới ánh sáng của Đảng. Cho
đến giờ phút
này, thì lịch sử Mít thời vừa qua, hiện ra thật rõ nét. Phải có 1 tên
nào đó, có
tí ti can đảm để lập lại câu của DTH, chúng ta đã bị lừa. Phải có 1
tên, nhỏ 1
giọt nước mắt cá sấu cho lũ Ngụy. Nước mắt cá sấu thôi, cũng được rồi.
Cái sự kiện,
TTT không cho xb Ung Thư có thể là do, trong đó, có những dòng thật là
tuyệt vời
của những người bạn cũ của ông, ở lại Hà Nội, những nhân vật như thi sĩ
Đồng chẳng
hạn.
Bởi là vì có lần GCC hỏi ông, thời gian đi tù ở đất Bắc, có người nào
đi
thăm ông, ông bật cười, sặc ly cà phê buổi sáng, nói, sức mấy mà có
chuyện đó!
Kỵ Binh Đỏ
Tin Văn vừa đi
bài điểm cuốn Kỵ Binh Đỏ, bản dịch mới nhất qua tiếng Anh của tờ
TLS.
Số mới,
có ngay 1 cái thư độc giả phạng tay điểm sách. Mi viết như thế về cái
chết, và
số phận của Babel thì nhảm quá.
Isaac Babel
Sir, - To
write, as Philip Ross Bullock does (March 13), that Isaac Babel was
"arrested in 1939 [and] died in the Lubyanka a year later" is an oddly bloodless way to describe Babel's
fate. Late at night on January 26, 1940, Babel was condemned to death
after a
twenty-minute trial and was executed by firing squad at 1: 40 the next
morning.
HENRY D.
FETTER
2646 Creston
Drive,
Los Angeles,
California 90068.
Cũng số báo,
có bài điểm cuốn “Kỉu Long Cạn Dòng, Biển Đông Nổi Sóng” của bạn quí
của GCC.
LANDSCAPES OF THE MIND
Phong cảnh của tâm hồn
Robert
Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”
Đây có lẽ là
1 bài viết lạ thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1
đứa con nít:
Cái sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra
cánh cửa địa
ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel:
“Lolita”
unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế đó, 1 "phòng
giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".
Quái làm
sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên viên kỹ thuật, và
những
chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy, và phải ngủ khách sạn.
Mộ Tuyết
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Avigdor
Arikha: Samuel Beckett au verre de vin, 1969
Beckett bên ly rượu vang
Beckett in
Love
“If
you do not love
me I shall not be loved.”
“Nếu
em
không thương anh, thì chẳng có ai thương anh”.
The Swiss tennis champion Stan Wawrinka
has the words “Ever tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail
again. Fail
better” tattooed in blue ink on the inside of his left forearm. The
lachrymose
ending of Israel Horovitz’s recent movie My Old Lady has Kevin
Kline
paying his respects at a tombstone on which are engraved the words “If
you do
not love me I shall not be loved.” The first of these quotations is
from Samuel
Beckett’s late prose piece Worstward Ho, the second from his
1936 poem
“Cascando.”
In their original contexts, they do not
work quite so well as motivational mottoes or sentimental consolations.
“Fail
better” (which I recently saw on a recruitment advertisement for a
financial
services company) is followed a few lines later by a reminder that, for
Beckett, the phrase is an exhortation, not to keep trying until you
succeed but
to keep failing until you fail completely: “Fail again. Better again.
Or better
worse. Fail worse again. Still worse again. Till sick for good. Throw
up for
good.” This doesn’t quite work on an athlete’s arm. As for “If you do
not love
me I shall not be loved,” it is quickly followed by another bout of
verbal
nausea:
the churn of stale words in the heart again
love love love thud of the old plunger
pestling the unalterable
whey of words
We are unlikely to see that on a
Valentine’s Day greeting card anytime soon.
Beckett loved tennis and his sense of
humor might have been gratified by the joke that contemporary culture
is
playing on him, making his enactments of futility themselves futile by
reading
them as cheerleaders’ chants. And he would have recognized the ironies
involved
in this transformation of wretchedness into celebration, for he faced
them in
his own lifetime, not least in the years after the utterly unexpected
success
of Waiting for Godot in the mid-1950s, which brought him money
and fame.
Success was not what Beckett had bargained for: his compact with the
Muses
stipulated that he must embrace, as his biographer James Knowlson
summarizes,
“poverty, failure, exile, and loss.” Instead of failing better, he was
now
succeeding worse.
Once upon... a sea
Trân trọng giới
thiệu.
|
|