Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật Ký Tin Văn [TV last page]


Thơ Mỗi Ngày

Search

I returned to the town where
I was a child
and a teenager and an old man of thirty.
The town greeted me indifferently
but the streets' loudspeakers whispered:
don't you see the fire is still burning, don't you hear the flame's roar?
Get out.
Find another place.
Search for it.
Search for your true homeland.

Adam Zagajewski”: Mysticism for Beginners

Tìm

Gấu trở về Hà Lội
Nơi Gấu còn là 1 chú nhóc tì
Và một thằng bé mới lớn, và một anh già 30 tuổi.
Thành phố đón Gấu lạnh nhạt
Nhưng mấy cái loa ở đầu đường thì thầm:
Mi không thấy lửa vưỡn còn cháy,
Mi không thấy ngọn lửa còn reo?
Đi chỗ khác chơi, thằng vừa lùn, vừa lé, và ngu!
Tìm một chỗ khác
Tìm một quê khác Gấu ơi là Gấu!


Ui chao, hồi này già quá, cơ thể rệu rạo,
hệ thống miễn nhiễm hết còn OK,
thành thử con vai rớt Bắc Kít hoành hành, đáng sợ thực! (1)
NQT

(1) Xạo!
Một độc giả TV

Những con phố sau của Hà Nội

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.

Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn nạn cái thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.

Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài kiếm một cái gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.

Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu

Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu, cũng thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.

For the Very Soul of Me

At the close of a sweltering night,
I found him at the entrance
Of a bank building made of blue glass,
Crumpled on his side, naked,
Shielding his crotch with both hands,

The missing one, missed by no one,
As all the truly destitute are,
His rags rolled up into a pillow,
His mouth open as if he were dead,
Or recalling some debauchery.

Insomnia and the heat drove me out early,
Made me turn down one street
Instead of another and saw him
Stretched there, crusted with dirt,
His feet bruised and swollen.

The lone yellow cab idled at the light
With windows down, the sleepy driver
Threw him a glance, shook his head
And drove down the deserted avenue
The rising sun had made beautiful.

Charles Simic [from Night Pinic]

Cho linh hồn rất linh hồn của GCC

Vào một đêm ngột ngạt, cận sáng
Gấu kiếm thấy nó ở lối vô
Một tòa nhà ngân hàng làm bằng kiếng màu xanh
Méo mó, trần truồng
Hai tay che cái chạc

Kẻ thiếu nhớ chẳng ai thèm thiếu nhớ
Như mọi điều đáng thiếu nhớ
Mớ rẻ rách quần áo, xoắn lại làm cái gối
Miệng toác hoác như chết rồi
Hay nhớ lại một sa đọa, trụy lạc nào đó

Mất ngủ và cái nóng khiến Gấu mò ra đường sớm
Thay vì chọn con phố này, thì con phố kia
Và thế là, Gấu nhìn thấy nó, cái rất linh hồn tội nghiệp của Gấu Cà Chớn
Nằm 1 đống, bụi đường nghẹt họng
Chân thâm tím, sưng phồng

Cái tắc xi màu vàng, đơn độc, ngồi rồi, dưới ánh đèn
Cửa kính kéo xuống, anh tài xế buồn ngủ
Ném 1 cái nhìn, lắc 1 cái đầu
Rồi chạy xuống con phố hoang
Mặt trời lên, con phố mới đẹp làm sao.


The Lunatic

AT THE JEWELER'S

A small scale accustomed to
Weighing precious stones
Sat still while he tucked
A magnifying lens in his eye.

Outside, an icy drizzle had commenced
Pelting the gray pavement.
Flocks of black umbrellas
Darkened the view of the street

As she leaned on the counter,
Muttering something about how much
That little ring means to her,
While he hastened to give it back.

Ở cửa hàng nữ trang

Cái dĩa nhỏ thường dùng cân hột soàn
Vưỡn ngồi, trong khi gắn cái kính soi lên mắt

Bên ngoài, trận mưa phùn giá băng bắt đầu
Trút xuống vỉa hè
Lũ dù đen
Làm đen thêm cái nhìn con phố

Khi vị nữ khách tì tay lên mặt kính
Lẩm bẩm 1 điều gi đó chắc là về giá cả
Và hắn vội vã đưa lại cái nhẫn.

OH, I SAID

My subject is the soul
Difficult to talk about,
Since it is invisible,
Silent and often absent.

Even when it shows itself
In the eyes of a child
Or a dog without a home,
I'm at a loss for words.

Ui, Gấu phán

Đề tài của Gấu là về “ninh hồn” Mít
Cực khó lèm bèm
Kể từ khi nó vô hình
Câm, và thường xuyên vắng mặt.

Ngay cả khi, chính nó, chường mặt ra
Trước mắt 1 đứa trẻ
Hay 1 con chó đếch có nhà
Thì Gấu cũng chịu thua, đếch kiếm ra lời!

The Dictionary

Maybe there is a word in it somewhere
to describe the world this morning,
a word for the way the early light
takes delight in chasing the darkness
out of store windows and doorways

Another word for the way it lingers
over a pair of wire-rimmed glasses
someone let drop on the sidewalk
last night and staggered off blindly
talking to himself or breaking into song.

Từ điển

Có thể có một từ, đâu đó, trong đó
diễn tả thế giới sáng nay
một từ, theo đó, tia sáng sớm sủa,
sướng điên lên, khi truy đuổi bóng tối,
ra khỏi những khung cửa sổ, những lối ra vô, nơi cửa tiệm, kho hàng. 

Một từ khác, qua đó, nó nấn ná, bịn rịn, với cặp kiếng, gọng bằng dây,
mà một người nào đó, bỏ rơi trên lối đi, đêm qua,
lảo đảo như 1 anh mù, lèm bèm với chính mình, hay bật thành bài ca.

Note: Trên The New Yorker số mới nhất, July 1st, 2013.
Gấu chưa mua tờ này, nhưng thấy trên Blog NL nên bê về đây.
Nay, có trong The Lunatic

*

Epitaph on a Tyrant

Perfection, of a kind, was what he was after,
And the poetry he invented was easy to understand;
He knew human folly like the back of his hand,
And was greatly interested in armies and fleets;
When he laughed, respectable senators burst with laughter,
And when he cried the little children died in the streets.

January 1939

Bia mộ Bác Hát

Bảnh, thật bảnh - kiểu đó - đó là cái mà Hắn tìm
Và thơ Hắn phịa ra - hoặc chôm của Tẫu – thì thật dễ hiểu
Hắn rành sự khùng điên của con người như lưng bàn tay
Hắn rất quan tâm tới những binh đoàn kéo nhau ra tiền tuyến
Khi Hắn cười, cả bộ sậu Bắc Bộ Phủ bò ra cười
Và khi Hắn khóc, những đứa trẻ chết như rạ ở đường phố Xề Gòn

Refugee Blues

Say this city has ten million souls,
Some are living in mansions, some are living in holes:
Yet there's no place for us, my dear, yet there's no place for us.

Once we had a country and we thought it fair,
Look in the atlas and you'll find it there:
We cannot go there now, my dear, we cannot go there now.

In the village churchyard there grows an old yew,
Every spring it blossoms anew:
Old passports can't do that, my dear, old passports can't do that.

The consul banged the table and said,
"If you've got no passport you're officially dead":
But we are still alive, my dear, but we are still alive.

Went to a committee; they offered me a chair;
Asked me politely to return next year:
But where shall we go to-day, my dear, but where shall we go
                                                                                  to-day?          

Came to a public meeting; the speaker got up and said;
"If we let them in, they will steal our daily bread":
He was talking of you and me, my dear, he was talking of you
                                                                                   and me.

Thought I heard the thunder rumbling in the sky;
It was Hitler over Europe, saying, "They must die":
O we were in his mind, my dear, O we were in his mind.

Saw a poodle in a jacket fastened with a pin,
Saw a door opened and a cat let in:
But they weren't German Jews, my dear, but they weren't
                                                                  German Jews.

Went down the harbour and stood upon the quay.
Saw the fish swimming as if they were free:
Only ten feet away, my dear, only ten feet away.

Walked through a wood, saw the birds in the trees;
They had no politicians and sang at their ease:
They weren't the human race, my dear, they weren't the
                                                                  human race.

Dreamed I saw a building with a thousand floors,
A thousand windows and a thousand doors:
Not one of them was ours, my dear, not one of them was ours.

Stood on a great plain in the falling snow;
Ten thousand soldiers marched to and fro:
Looking for you and me, my dear, looking for you and me.

March 1939

W.H. Auden

Blues Tị Nạn
 

Thành phố có 10 triệu linh hồn
Có số ở nhà lầu
Có số ở ổ chuột:
Tuy nhiên, chẳng có chỗ cho chúng ta, bạn ơi, tuy nhiên chẳng có chỗ cho chúng ta.

Đã có 1 thời chúng ta có 1 xứ sở, và chúng ta nghĩ, như vậy là OK
Hãy nhìn lên trái địa cầu, và bạn sẽ tìm thấy nó ở đó
Chúng ta không thể đi tới đó bây giờ, bạn ơi, chúng ta không thể đi tới đó bây giờ.

Ở trong sân chùa làng, có cây thuỷ tùng già
Cứ mỗi độ Xuân về là nó nở hoa mới tinh:
Thông hành già không thể làm như vậy, bạn ơi, thông hành già không thể

Tay lãnh sự VC đập bàn quát:
“Nếu mi không có visa, là ta đá đít mi ra khỏi cửa khẩu!”
[Gấu dịch nhảm. Nguyên là: Nếu mi không có thông hành,
thì kể như mi đã chết, theo nhà nước VC]:
Nhưng chúng ta vẫn còn sống, bạn ơi, chúng ta vưỡn còn sống.

Đi đến cuộc họp, họ đưa ghế ra mời tôi ngồi, và lịch sự nói, hãy trở lại năm tới
Nhưng hôm nay, chúng ta sẽ đi đâu, bạn ơi, chúng ta sẽ đi đâu,
bữa nay?

Tới cuộc họp công cộng, người phát ngôn đứng dậy, phán,
“Nếu chúng tôi cho bạn vô, thì tụi nó sẽ ăn cắp bánh mì hàng ngày của chúng ta”:
Hắn ta đang nói về bạn và tôi, bạn ơi, hắn ta đang nói về bạn
và tôi

Tôi nghe sấm động trời
Đó là Hitler lầu bầu trên đầu Âu Châu, “Chúng phải chết”
Ui chao, Tên Quỉ Nazi đang nghĩ đến chúng ta, bạn ơi, Tên Quỉ Nazi đang nghĩ đến chúng ta.

Nhìn thấy 1 con chó trong cái áo jacket đóng khuy bằng những cây kim
Nhìn thấy 1 cái cửa mở, và 1 con mèo chun vô:
Nhưng chúng đâu phải là Đức gốc Do Thái, bạn ơi, chúng đâu phải Đức Do Thái

Đi xuống cảng và đứng ở cầu tầu.
Nhìn thấy cá bay nhảy như thể chúng tự do
Chỉ cách đây vài bước, bạn ơi, chỉ cách đây vài bước.

Đi vô rừng, nhìn thấy chim trên cây;
Chúng đếch cần chính trị gia, và hót lia chia
Chúng đâu phải loài người,
bạn ơi, chúng đâu phải loài người

Mơ, nhìn thấy 1 tòa nhà  1 ngàn tầng lầu
Một ngàn cửa sổ, và 1 ngàn cửa ra vô
Chẳng người nào trong họ là chúng ta, bạn ơi, chẳng người nào trong họ là chúng ta

Ngồi trên cánh đồng lớn tuyết đang rơi
Một ngàn binh sĩ đi đi lại lại
Kiếm bạn và tôi, bạn ơi,
lũ bộ đội VC kiếm bạn và tôi


Sách Báo Mới [new]

Nhân nói về tác giả gối đầu giường, thì, với Gấu, còn có Camus. Đọc hồi mới lớn, quá mê, khác hẳn ông anh TTT. Khi Camus mất vì tai nạn xe hơi, TTT đi 1 bài thật là nặng nề về Camus, kết thúc bài viết bằng 1 câu thật là nặng nề, cái chết của Camus đóng chặt ông vào quá khứ, nhớ đại khái.

Hậu thế cho thấy TTT sai lầm về Camus. Thế giá của Camus, ngày càng sáng chói. Thái độ của Camus, khi chê Camus, tương tự Vargas Llosa, nhưng ông Nobel này có dịp nhận ra sai lầm của mình.
TTT không có cái may mắn này.
Vả chăng người ta nói, yêu Camus, nhiều hơn là mê 1 tác giả nhà văn, đúng như 1 cái tít trên tờ The New Yorker.

&

Camus @ 100

"Một đời đáng sống". Cuốn này cũng tuyệt lắm. Camus rất mê Nietzsche, nhưng chính cú Lò Thiêu làm ông khựng lại và đọc lại Nietzsche, như đoạn sau đây cho thấy:

Camus first discovered Friedrich Nietzsche as a teenager- his university professor and mentor, Jean Grenier, made the introductions-and his first published essay, edited by Grenier and published in the journal Sud, was on Nietzsche and music. His lifelong engagement with Nietzsche, admiring but critical, sprawls across his notebooks. "I owe to Nietzsche a part of who I am," he acknowledged, gratefully. What Camus most admired was Nietzsche's slashing and mordant style, as well as his fierce clarity about a world that no longer supported the religious or metaphysical fictions with which humankind had burdened it. In The Myth of Sisyphus, Camus praises Nietzsche for having banished all hope for the future: "Nietzsche appears to be the only artist to have derived the extreme consequence of an aesthetic of the Absurd, inasmuch as his final message lies in a sterile and conquering lucidity and an obstinate negation of any supernatural consolation.” Casting himself as the surveyor of the varieties of nihilism flowering in our emptied cosmos, Nietzsche had the courage to call a void a void. Yet, he was a nihilist not by vocation, but by necessity: "He diagnosed in himself, and in others, the inability to believe and the disappearance of the primitive foundation of all faith-namely, the belief in life." Michel Onfray notes that Camus, a serious reader of Nietzsche, was nevertheless not a Nietzschean." By the time he published The Myth of Sisyphus Camus discovered that Nietzsche had dazzled other readers apart from himself, but with catastrophic consequences. In a world relieved of God and morality, everything was indeed permitted. Under the sun of Algiers, the embrace of fate-Nietzsche's amor fati, his Zarathustrian "Yes!" to all joys and all woes-dovetailed with Camus' youthful love of the world. But the iron sky over Auschwitz, Camus insisted, forced us to reconsider the ways in which yet others had interpreted Nietzsche. We know, Camus announced, Nietzsche's "posterity and what kind of politics were to claim the authorization of the man who claimed to be the last anti-political German. He dreamed of tyrants who were artists. But tyranny comes more naturally than art to mediocre men." And yet Nietzsche remained with Camus to the end. On January 2, 1960, when the car in which Camus was driving smashed into the plane tree alongside the road, killing both him and the driver, his friend Michel Gallimard, Camus' briefcase was flung several yards from the car. It contained his identity papers, a copy of Shakespeare's Othello) the manuscript for The First Man and a copy of The Gay Science. In this collection of aphorisms, Nietzsche jousts with Socrates, the philosopher who never wrote, yet at the same time never seemed to be short of words. Not only was Socrates "the wisest chatterer of all time," Nietzsche remarks, "he was equally great in silence." He then laments, ironically, that Socrates failed to be silent when it was most essential: as he died, he uttered his famously elusive remark to his friend Crito: "I owe Asclepius a rooster." For Nietzsche, this meant nothing less than that even Socrates, the most cheerful and courageous of men, nevertheless "suffered life." As a result, Nietzsche concluded: "We must overcome even the Greeks!"

*

Được mê nhất trong số những nhà văn Tẩy (a)

Note: TV sẽ đi hai bài trên, nhân năm sắp tới, 2013, năm nay, là kỷ niệm 100 năm năm sinh của Camus, 1 trong những ông Thầy của Gấu hồi mới lớn.
Về già, Gấu tự hỏi, giả như không gặp ông hồi đó, và những ông như Lukacs, Henri Lefebvre, Koestler.. thì số phận Gấu ra sao?
Có thể nói, ông trời già, chủng cho Gấu, đủ thứ thuốc chủng, ngừa “trùng độc” - chữ này thuổng Da Màu, dịch từ “virus” – có sẵn trong máu, là Cái Ác Bắc Kít, nhằm ngăn ngừa nó gây họa:

Bò lên rừng phò đao phủ thủ HPNT! 

« Camus paie pour sa rectitude, sa droiture, la justesse de ses combats, il paie pour son honnêteté, sa passion pour la vérité. »
Michel Onfray
[Camus trả giá cho tính chính trực, sự cương trực, xác đáng trong những trận đánh của ông, ông trả giá cho sự thành thực, lương thiện, cho đam mê sự thực của mình]

Résistant au mirage du communisme
[Cưỡng lại ảo vọng Cộng Sản]

Sun, Dec 23, 2012

Thư Chào hỏi

K/G ông Cà Chớn,
Một mình ông ( là Bắc Kỳ ) mà dám nói thật, nói thẳng trên văn đàn là tôi đã phục ông rồi, tôi biết là ông sẽ có nhiều người ghét ông lắm ! Mà ông gan thiệt à nghe !


Tks again
Best Tết to U & Family
NQT


Viết như không viết

Đúng như The Great Bolano, [nhà văn Gấu vĩ đại!] đã từng tuyên bố, trong dịp nhận giải thưởng Romulo Gallegos Prize, vào năm 1999:
“Có một người nào đó nói, xứ sở của nhà văn là ngôn ngữ của anh ta. Nghe thì thật là bất cần địa lý, nhưng tôi đồng ý với người này.”

Nhưng sau đó, nhà văn vĩ đại Bolano phán tiếp, rất ư là bảnh, và rất ư là ấn tượng, [và nhà đại phê bình có lẽ cũng nên ghé mắt đọc, để hiểu ra một kinh nghiệm viết văn, của một bậc thầy]:

that it's true that a writer's country isn't his language or isn't only his language. . .. There can be many countries, it occurs to me now, but only one passport, and obviously that passport is the quality of the writing. Which doesn't mean just to write well, because anybody can do that, but to write marvelously well, though not even that, because anybody can do that too. Then what is writing of quality? Well, what it's always been: to know how to thrust your head into the darkness, know how to leap into the void, and to understand that literature is basically a dangerous calling.

Đúng, xứ sở của Gấu không là tiếng Mít, không chỉ là tiếng Mít… Có thể có nhiều xứ sở, như chuyện xẩy ra cho Gấu bây giờ, nào là nước Bắc Kít, nước Nam Kít, xứ Lèo, xứ Thái, xứ Ca na điền, nhưng chỉ có một cái giấy thông hành. Và cái thông hành này, hiển nhiên, là cái gọi là phẩm chất của cái viết ra. Điều này không có nghĩa là viết bảnh, [bất cứ ai mà chẳng làm được chuyện này], nhưng mà là viết thật là bảnh, thật là tuyệt vời, [vưỡn, bất cứ ai mà chẳng làm được, ngay cả chuyện này].

Vậy thì phẩm chất của viết là cái chó gì?

Nó luôn luôn là cái này này:
Là đâm đầu vào cái lỗ đen được gọi là Cái Ác Bắc Kít, là lao vào trống không, và hiểu ra điều, văn chương là một thiên hướng thật nguy hiểm: Gọi tên Cái Ác Bắc Kít!

Hà, hà!

Note: Tin Văn mới mò ra cái "ký" của Trần Vũ, “Lưng Trần”, post lại ở đây. 
Cái link cũ [Hợp Lưu] broken.

Đọc còm của độc giả Chợ Cá, về bài ký của Trần Vũ, Gấu ngộ ra một sự thực, về cái đọc của độc giả quyết định “số phận” cái diễn đàn của họ.
[Chợ Cá đâu phải bản chất là Chợ Cá, nhưng mà do những người hội họp ở một nơi, và nơi này từ đó có tên là Chợ Cá!]

Mr. TV dùng hình ảnh khoảng lưng trần đẹp ơi là đẹp của phụ nữ, để làm bật lên tấm lưng trần đầy sẹo của một người đàn ông, và nhân đó, nói về cái lưng trần "da beo" của chính TV.
Còn chuyện cái bụng đàn bà Mít đẻ ra cả một lũ ngu Mít, trong có Gấu, tất nhiên, lại là chuyện khác!

Cái tay thi sĩ ở trong nước, nhìn ra hình ảnh Chợ Cá, khi nó chưa là Chợ Cá, quả là thần sầu!

NQT
Lưng Trần

alt

Dân chúng chạy loạn qua cầu Trường Tiền Huế "Tết Mậu Thân"



     Map

EXAMPLE

A gale
stripped all the leaves from the trees last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.

With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to time.

Wislawa Symborska: Here

Thí dụ

Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây trần trụi 

Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày 1945
Bèn chứng tỏ rằng thì là,
Thì tất nhiên, đúng như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta cũng khoái chuyện tiếu lâm của ta!

[Note: Bản tiếng Việt có tí lệch pha với nguyên tác, ở cái từ "violence", bạo lực, lệch, lé ra thành, "lịch sử Mít"]

Ui chao, tiếu lâm thật: VC quả đã làm thịt ông bố, nhưng chừa ông con, để sau này làm nhạc chào mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:

Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!

Bạn có thể áp dụng bài thơ trên, cho rất nhiều trường hợp, với những kẻ, lịch sử tha chết để sau đó, làm 1 công việc, như trên! 

Nào họ Trịnh hầu đờn Hồ Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông, hầu đờn Bắc Bộ Phủ.

Virtue, after all, is far from being synonymous with survival;
duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót, nói cho cùng, là do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).

Đành phải cám ơn VC 1 phát!

STARVATION CAMP NEAR JASLO

Write it down. Write it. With ordinary ink
on ordinary paper: they weren't given food,
they all died of hunger. All. How many?
It's a large meadow. How much grass
per head? Write down: I don't know.
History rounds off skeletons to zero.
A thousand and one is still only a thousand.
That one seems never to have existed:
a fictitious fetus, an empty cradle,
a primer opened for no one,
air that laughs, cries, and grows,
stairs for a void bounding out to the garden,
no one's spot in the ranks.

It became flesh right here, on this meadow.
But the meadow's silent, like a witness who's been bought.
Sunny. Green. A forest close at hand,
with wood to chew on, drops beneath the bark to drink-
a view served round the clock,
until you go blind. Above, a bird
whose shadow flicked its nourishing wings
across their lips. Jaws dropped,
teeth clattered.

At night a sickle glistened in the sky
and reaped the dark for dreamed-ofloaves.
Hands came flying from blackened icons,
each holding an empty chalice.
A man swayed
on a grill of barbed wire.
Some sang, with dirt in their mouths. That lovely song
about war hitting you straight in the heart.
Write how quiet it is.
Yes.

Trại Đói gần Cổng Trời

Viết xuống đi. Viết cái đó đi. Với mực thường
Trên giấy thường: VC đếch cho Ngụy thực phẩm,
Tất cả bọn họ đều chết đói. Tất cả? Bao nhiêu?
Đó là một cánh đồng cỏ. Bao nhiêu cỏ một đầu người? Viết xuống đi: Tớ đếch biết.
Lịch sử vốn cào bằng, đếm xác người sao còn con số không.
"Một nghìn linh một" thì chỉ còn "một nghìn".
Cái “một” đó hình như chẳng hề hiện hữu
Một bào thai dởm, một cái nôi trống
Một cuốn vỡ lòng mở ra cho không ai
Thanh âm cười, khóc, và oà lớn
Cầu thang cho một biên giới rỗng, mở ra khu vườn
Chẳng thấy 1 tên quản giáo nào trong đám VC

Mọi chuyện thì trở nên mới tinh, tươi rói, ở ngay đây, trên cánh đồng cỏ này
Nhưng cánh đồng cỏ thì im lặng, như 1 người chứng đã được VC mua!
Trời nắng. Xanh rờn. Một cánh rừng ngay trong tầm tay.
Có gỗ củi để nghiền ngẫm, có những giọt nước để uống, ở bên dưới lời quát tháo, chửi rủa  – có cái nhìn bầu trời phục vụ suốt thời gian tù, cho đến khi bạn mù mắt vì ngắm nó. Ở bên cao, một con chim mà cái bóng của nó phủi đôi cánh qua cái mỏ. Hàm trễ xuống, răng lách cách (1)

Vào ban đêm, mảnh trăng lưỡi liềm lấp lánh trên bầu trời và thu hoạch bóng tối cho những miếng bánh mì mơ tưởng
Những bàn tay từ những bức tượng đen thùi
Mỗi bàn tay cầm 1 cái chén thánh trống rỗng
Một người đàn ông đong đưa trên lưới kẽm gai
Một anh tù Ngụy hát nữa chứ, với kít trong miệng:
Bài thơ tình về cuộc chiến cắm lưỡi bay on nét đúng tim mi
Viết cái đó xuống,
Viết về cái lặng lẽ, nỗi buồn thánh đó!
Thưa, Vâng, Ngài Quản Giáo VC!

(1)

Note: Bài thơ thần sầu, nhưng thú thực, do đếch đi tù VC ở Miền Bắc, nên có “vài chỗ” GCC dịch... loạn.

Câu “Bài thơ tình về cuộc chiến cắm lưỡi bay on nét đúng tim mi”, That lovely song
about war hitting you straight in the heart, khắc trên mồ họ Trịnh thì thật là tuyệt cú mèo!

PARABLE

Some fishermen pulled a bottle from the deep. It held a piece of paper, with these words: "Somebody save me! I'm here. The ocean cast me on this desert island. I am standing on the shore waiting for help. Hurry! I'm here!"
    "There's no date. I bet it's already too late anyway. It could have been floating for years," the first fisherman said.
    "And he doesn't say where. It's not even clear which ocean," the second fisherman said.
    "It's not too late, or too far. The island Here is everywhere," the third fisherman said.
    They all felt awkward. No one spoke. That's how it goes with universal truths.

Wistawa Symborska

Ngụ ngôn dành cho cô bé Phương Uyên

Mấy tay ngư phủ kéo một cái chai từ đáy biển. Trong có mẩu giấy:"Hãy cứu tôi, Mít ơi! Tôi ở đây nè! VC thẩy tôi xuống biển, sóng đánh tôi vô đảo xa, đảo lạ.
Tôi đứng ở bãi biển, đợi dân Mít kíu. Lẹ lên!”
    “Chẳng thấy ghi ngày. Chắc là quá trễ rồi!” Đấng ngư phủ thứ nhất phán
    “Cũng chẳng thấy ghi, ở đâu, đảo nào, biển nào”. Đấng thứ nhì lắc đầu, lèm bèm.
    "Chẳng quá trễ, chẳng quá xa. Đảo "Đây Nè" ở mọi nơi, mọi thời." Đấng thứ ba tuyên bố
    Cả bọn giật nẩy mình, chưng hửng. Đếch ai lên tiếng. Đó là chuyện xảy ra với sự thực phổ cập, muôn đời.


Tưởng niệm Szymborska

Tản văn không cần Thứ Sáu

Ít người biết Wislawa Szymborka, [thi sĩ, sinh năm 1923 tại Krakow, Ba Lan, Nobel văn học 1996], ngoài làm thơ, trong vài thập kỷ, còn là một mục ký gia [columnist], với những bài, viết nhân đọc một cuốn sách nào đó, bà gọi những mẩu thơ xuôi đó bằng cái tên Nonrequired Reading. Viết Bá Láp. Tản văn không cần Thứ Sáu. Mà cũng chẳng cần đọc.
Xin trích đoạn, bài viết của bà, viết nhân đọc cuốn "Khi chó bịnh", When your dog gets sick.

Đọc cuốn sách đó, mới ngộ ra là, chó cũng gặp đủ thứ bịnh, như con người. Về cái điều này, nó cũng cố là... bạn ta. Nhưng có điều chúng chịu đựng nỗi đau trầm lắng hơn, không ồn ào như con người. Lẽ dĩ nhiên, chúng không cố tìm cách diễn tả từng nỗi đau, chẳng làm quá lên, cũng không tìm cách làm ngắn cuộc đời, bằng hít đủ thứ thuốc, nốc đủ thứ rượu. Nhưng điều này không có nghĩa là sức khoẻ của chúng hơn chúng ta.
Nhưng tác giả cuốn sách bỏ qua, đủ thứ bịnh của chó, những bịnh mà chúng ta gọi là bệnh tâm thần. Bỏ qua cuộc sống tâm linh của chú cẩu!
Bởi vì, chú đã từng rất đau đớn, vì trải qua toàn thể cuộc đời, chỉ để tìm hiểu bạn của chúng, để từ đó mà thích ứng với điều kiện mà chúng ta đặt để cho chó. Làm sao biết chú thất vọng như thế nào, mỗi lần chúng ta đi ra khỏi nhà, và không trở về?
Số phận của chó là đời đời kiếp kiếp cứ phải đợi chờ trong tuyệt vọng.
The dog is doomed to an eternity of hopless waiting.
[Thế thì đâu có khác gì... Gấu?]

Nhưng chưa hết, theo bà. Bởi vì chờ đợi trong tuyệt vọng như thế, sẽ tới lúc, chó mất hết mọi ý thức của chó, nghĩa là trở nên điên, và săn đuổi chính cái đuôi của mình. Vậy mà con người cứ đơn giản nghĩ rằng, chó làm thế, là để giết...  thời giờ!
[Hãy tưởng tượng ra rằng, con người, vốn xưa kia có đuôi, và do điên quá, đến nỗi săn đuổi chính cái đuôi của nó, và, tóm được, bèn đem nướng, làm món chả chìa...]
Giữa những con người, thiếu đuôi, bệnh thái này vẫn còn chưa lộ triệu chứng.
[Among humans, who lack tails, this stage of the disease remains asymptomatic]

(1) Bản tiếng Anh, dịch từ tiếng Ba Lan, của Clare Cavanagh, nhà xb Harcourt, Inc, 2002.


30.4.2015

EMPIRES

My grandmother prophesied the end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet. 

One of your heroes was giving a speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.

There was no need to. They were all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure 1 understood.

Charles Simic

 

Đế Quốc [Đỏ]

Bà tôi tiên đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.

Một trong những anh hùng, Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà. 

Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.


*

Search and Rescue

On the evening of May 22, 1988, a hundred and ten Vietnamese men, women, and children huddled aboard a leaky forty-five-foot junk bound for Malaysia. For the price of an ounce of gold each—the traffickers’ fee for orchestrating the escape—they became boat people, joining the million or so others who had taken their chances on the South China Sea to flee Vietnam after the Communist takeover. No one knows how many of them died, but estimates rose as high as one in three. The group on the junk were told that their voyage would take four or five days, but on the third day the engine quit working. For the next two weeks, they drifted, while dozens of ships passed them by. They ran out of food and potable water, and some of them died. Then an American warship appeared, the U.S.S. Dubuque, under the command of Captain Alexander Balian, who stopped to inspect the boat and to give its occupants tinned meat, water, and a map. The rations didn’t last long. The nearest land was the Philippines, more than two hundred miles away, and it took eighteen days to get there. By then, only fifty-two of the boat people were left alive to tell how they had made it—by eating their dead shipmates.


Ẩn dụ bóc hành đã một lần được Günter Grass sử dụng ngoạn mục trong một chương gần cuối cuốn "Cái trống sắt". Ông cho giới khá giả ở thành phố Düsseldorf đêm đêm đến một tiệm ở tầng hầm, nơi họ được phát dao, thớt và một củ hành để bóc, để thái, để tràn nước mắt, những giọt nước mắt mà tự họ không biết khóc nếu thiếu chất kích thích. Bóc hành, họ được khóc thả cửa, được xả hết những lời sám hối và thú nhận, những ẩn ức, mặc cảm tội lỗi và những nhát cắn của lương tâm. Nửa thế kỉ xen vào giữa hai lần bóc hành. Lần đầu là nước mắt của các nhân vật tiểu thuyết. Lần sau là nước mắt của chính nhà văn.
Nhà văn Việt Nam, ai sẽ phải bóc hành để trả lời biết bao nhiêu câu hỏi từ di sản của những cuộc chiến tranh cũng đầy tội lỗi? 

FB / PTH 

Gấu Cà Chớn đọc Grass, mà không biết là Grass, từ hồi còn Miền Nam, qua 1 truyện ngắn đăng trên tờ Bách Khoa, Quán Củ Hành, mà ý nghĩa của nó, không ghê gớm như Sến giải thích, ở trên, mà chỉ như 1 nơi chốn, đến để xả xú bắp, như thường gọi.
Bạn cần 1 chỗ để khóc, hay để cười, như trong bài viết dưới đây, của Simic cho thấy (1) 

Sau này, ra hải ngoại, có biết đến Grass, qua những bài viết của thí dụ, Rushdie, nhưng ông không phải thứ nhà văn thuộc dòng Gấu mê, như, thí dụ Faulkner, Borges. 

(1)  Trên tràng kỷ với Philip Roth, Ở nhà xác, với Pol Pot 

Như là luật, tôi đọc thơ ở trên giường; triết và tiểu luận nghiêm túc ngồi trên ghế, ở nơi bàn viết; báo chí khi ăn sáng hay trưa, và tiểu thuyết thì nằm dài trên tràng kỷ.
Căng nhất là tìm ra một chỗ thật ngon để đọc lịch sử, bởi vì cái thứ mà bạn đọc đó, thì đầy rẫy những bất công, những điều ghê rợn, và một khi bạn đọc nó, thì có lẽ nên đọc ở ngoài vườn, vào một ngày hè đẹp trời hay là khi đi xe buýt trong thành phố, bạn cảm thấy bực bội, bị làm phiền, nhờ vậy mà thành ra may mắn. Nhưng có lẽ nhà xác của một thành phố là chỗ thật thích hợp để đọc về Stalin và Pol Pot.
Lạ lùng làm sao, cũng như vậy, là với hài kịch. Ðâu có dễ mà tìm được đúng chỗ, và hoàn cảnh để tự cho phép mình cười một cách thoải mái, tự do. Tôi lại nhớ cái lần đọc Joseph Heller’s Catch 22 cách đây nhiều năm, khi ngồi trên xe điện ngầm đông người ở New York, trên đường đi làm, và cứ vài phút lại cười hô hố một cách thật là sảng khoái. Một vài hành khách nhìn tôi mỉm cười, trong khi những người khác tỏ ra rất ư là bực bội. 

Tuy nhiên, câu cuối của bài viết của Sến, về ông thầy đã hết còn là thầy của Sến, làm Gấu nghĩ đến cõi văn Bắc Kít.
Bà này quá hoang tưởng về đám Bắc Kít.
Làm gì ra 1 tên Bắc Kít….  bóc hành.
Một tên già như NN, sau khi tuyên bố, quá sợ anh hùng, bản thân anh già là cha đẻ quái vật Núp, sau khi cho xb toàn tập tác phẩm, đâu có dzục thùng rác quái vật Núp?
Phải có 1 tên ngập máu Ngụy dám sám hối, thì mới mong có chuyện bếp núc bóc hành thường ngày.

*

Bếp Lửa Ottawa

*

Grass cực bảnh, theo GCC. Cái cú thú tội của ông thần sầu, khó có ai bắt chước được.
Chỉ cần 1 tên nhà văn Bắc Kít làm được như ông, là lịch sử xứ Mít đổi khác.
Lũ tinh anh của chúng, tên nào, não cũng bị thiến 1 mẩu, là thế!
*

Bức "Tự họa & Hành", chính tay Grass vẽ, cho cuốn sách của ông. Báo Người Quan Sát Mới, số 24-30 Tháng Tám.
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài phỏng vấn Daniel Cohn-Bendi, một nghị viên Âu Châu, của tờ Người Quan sát Mới, nhân cú Tự Thú Trước Bình Minh của Grass.
Tại sao lại phải để bằng đó năm tháng, mới dám xì ra, chỉ một cú bốc đồng của tuổi trẻ, nhất là đây lại là một nhà văn lớn, một ông luật sư của sự thực?
Cái đầu đề bài phỏng vấn, mới thật là ngộ: "tache", vết chàm, "lâcheté", sự hèn nhát, hai từ đọc lên na ná, lại còn kéo thêm từ "tâche", bổn phận, nhiệm vụ.

*

-Ông nghĩ sao về cái cú tự thú của Grass?
Daniel Cohn-Bendi: Tôi nghĩ đến cuốn tiểu thuyết Vết Chàm của Philip Roth. Sau cùng vậy là ai cũng có một vết chàm trong cuộc đời của mình, ngay cả những ông tổ sư đạo đức của thời đại chúng ta. Gunter Grass như vậy là cũng có vết chàm của ông ta trong đời. Thật buồn cho ông ta, và những lời giải thích của ông ta thì thật là thảm hại. Nhưng như vậy làm cho ông càng thêm người hơn. Theo một nghĩa nào đó, điều này còn làm cho chúng ta an tâm.
-An tâm, khi tiếng tăm của ông ta trở thành tăm [tai] tiếng? Một người như Grass?
Tôi nghĩ như vậy. Điều này làm cho chúng ta an tâm, về chính cuộc đời đáng thương của chúng ta! Nó cho thấy, ngay cả trong văn chương, cũng đếch có siêu nhân!
...

-Nhưng còn giải thưởng Nobel văn chương thì sao? Chẳng lẽ Grass phải trả lại?
Hỏi gì ngu thế. Nếu phải trả lại, thì Garcia Marquez cũng phải trả. Nobel văn chương, cho ông nhà văn, chứ đâu cho ông thánh!

*

Chuyện của Grass làm Gấu nhớ một câu chuyện ngụ ngôn đọc khi còn nhỏ, về một anh chàng cứ mỗi lần phục vụ Quỉ Sứ là bèn đóng một cái đinh lên "thập tự thơ". [Chữ này Gấu chôm của thi sĩ NĐT khi ông vinh danh một nhà thơ đang còn sống và hiện đang sống ở trong nước]. Sau này, khi đã buông dao đồ tể, mỗi lần làm được một việc phúc đức, thì lại nhổ một cây đinh ra khỏi thập tự ác. Thế rồi, cây thập tự sạch đinh. Anh ta mừng quá, ngồi... khóc.
Hỏi tại sao. Vưỡn còn những dấu đinh!
Ôi chao còn dấu đinh, là một điều quá tuyệt vời, chứ sao lại khóc?
Một cái thập tự không có dấu đóng đinh, thì ai thèm!
Mong sao nhà thơ ở trong nước vào lúc này đang hì hục nhổ những cái đinh ra khỏi thập tự thơ, cùng với cả thế hệ nhà văn nhà thơ của ông ta! NQT.


Tầm nhìn ở đầu gối

Note: Cái tít làm GCC nhớ đến cuốn sách của ông thầy tiếng Anh, năm học Đệ Thất, hay Đệ Lục, ở trường Nguyễn Trãi, Hà Nội, “She stoops to conquer”, nàng cúi xuống để chinh phục!
Bài viết này cũng nhắm đúng ý đó.
Tưởng dzậy mà không phải dzậy!
Biết chết liền!
NQT


The Life of Images

On the Couch with Philip Roth, at the Morgue with Pol Pot

Charles Simic

As a rule, I read and write poetry in bed; philosophy and serious essays sitting down at my desk; newspapers and magazines while I eat breakfast or lunch, and novels while lying on the couch. It’s toughest to find a good place to read history, since what one is reading usually is a story of injustices and atrocities and wherever one does that, be it in the garden on a fine summer day or riding a bus in a city, one feels embarrassed to be so lucky. Perhaps the waiting room in a city morgue is the only suitable place to read about Stalin and Pol Pot?

Oddly, the same is true of comedy. It’s not always easy to find the right spot and circumstances to allow oneself to laugh freely. I recall attracting attention years ago riding to work on the packed New York subway while reading Joseph Heller’s Catch 22 and bursting into guffaws every few minutes. One or two passengers smiled back at me while others appeared annoyed by my behavior. On the other hand, cackling in the dead of the night in an empty country house while reading a biography of W.C. Fields may be thought pretty strange behavior too. 

Wherever and whatever I read, I have to have a pencil, not a pen—preferably a stub of a pencil so I can get close to the words, underline well-turned sentences, brilliant or stupid ideas, interesting words and bits of information, and write short or elaborate comments in the margins, put question marks, check marks and other private notations next to paragraphs that only I—and sometimes not even I—can later decipher. I would love to see an anthology of comments and underlined passages by readers of history books in public libraries, who despite the strict prohibition of such activity could not help themselves and had to register their complaints about the author of the book or the direction in which humanity has been heading for the last few thousand years.

Witold Gombrowicz says somewhere in his diaries that we write not in the name of some higher purpose, but to assert our very existence. This is true not only of poets and novelists, I think, but also of anyone who feels moved to deface pristine pages of books. With that in mind, for someone like me, the attraction some people have for the Kindle and other electronic reading devices is unfathomable. I prefer my Plato dog-eared, my Philip Roth with coffee stains, and can’t wait to get my hands on that new volume of poetry by Sharon Olds I saw in a bookstore window late last night.

December 14, 2009 12:55 p.m.

Trên tràng kỷ với Philip Roth,
 Ở nhà xác, với Pol Pot

Như là luật, tôi đọc thơ ở trên giường; triết và tiểu luận nghiêm túc ngồi trên ghế, ở nơi bàn viết; báo chí khi ăn sáng hay trưa, và tiểu thuyết thì nằm dài trên tràng kỷ.
Căng nhất là tìm ra một chỗ thật ngon để đọc lịch sử, bởi vì cái thứ mà bạn đọc đó, thì đầy rẫy những bất công, những điều ghê rợn, và một khi bạn đọc nó, thì có lẽ nên đọc ở ngoài vườn, vào một ngày hè đẹp trời hay là khi đi xe buýt trong thành phố, bạn cảm thấy bực bội, bị làm phiền, nhờ vậy mà thành ra may mắn. Nhưng có lẽ nhà xác của một thành phố là chỗ thật thích hợp để đọc về Stalin và Pol Pot.
Lạ lùng làm sao, cũng như vậy, là với hài kịch. Ðâu có dễ mà tìm được đúng chỗ, và hoàn cảnh để tự cho phép mình cười một cách thoải mái, tự do. Tôi lại nhớ cái lần đọc Joseph Heller’s Catch 22 cách đây nhiều năm, khi ngồi trên xe điện ngầm đông người ở New York, trên đường đi làm, và cứ vài phút lại cười hô hố một cách thật là sảng khoái. Một vài hành khách nhìn tôi mỉm cười, trong khi những người khác tỏ ra rất ư là bực bội.

Mặt khác, quang quác như gà mái đẻ trong cái chết của một đêm đen, trong một căn nhà ở miền quê, khi đọc tiểu sử W.C. Fields thì tâm thần có vấn đề, hơi bị mát dây, hẳn là như vậy.
Ở đâu, đọc, bất cứ cái chi chi, là tôi phải thủ cho mình 1 cây viết chì, không phải viết mực - tốt nhất là một mẩu viết chì, như thế tôi có thể tới thật gần với những chữ, gạch đít những câu kêu như chuông, viết tới chỉ, những ý nghĩ sáng láng, hay, ngu thấy mẹ, những từ thú vị, đáng quân tâm, những mẩu thông tin, và chơi một cái còm ở bên lề trang sách, một cái dấu hỏi, đánh dấu trang, đoạn, đi 1 đường mật mã mà chỉ tôi mới hiểu được, [và có khi, chính tôi cũng chịu thua], như là dấu chỉ đường, nhằm đọc tiếp những trang sau đó. Tôi rất mê đọc một tuyển tập những cái còm, và những đoạn được gạch đít, của những độc giả, trong những cuốn sách lịch sử ở trong thư viện công cộng, đã từng có mặt ở trên trái đất này hàng ngàn năm, mặc dù sự cấm đoán rất ư là chặt chẽ.
Witold Gombrowicz có nói đâu đó, trong nhật ký của ông, là chúng ta viết không phải là để nhân danh những mục đích cao cả, nhưng chỉ để khẳng định cái sự hiện hữu rất ư là mình ên của mình. Ðiều này không chỉ đúng với thi sĩ, tiểu thuyết gia, mà còn đúng với bất cứ 1 kẻ nào cảm thấy bị kích thích, chỉ muốn làm xấu đi 1 trang sách cổ xưa.
Với ý nghĩ này ở trong đầu, một kẻ như tôi thật không thể chịu nổi cái sự ngu si của người đời, khi bị quyến rũ bởi ba thứ quỉ quái như là sách điện tử, “tân bí kíp” Kindle! Tôi khoái cuốn Plato quăn góc của tôi, cuốn Philip Roth của tôi với những vết cà phe, và nóng lòng chờ đợi cái giây phút cực khoái: được mân mê tuyển tập thơ mới ra lò của Sharon Olds mà tôi nhìn thấy vào lúc thật khuya đêm qua, tại khung kính của 1 tiệm sách.

ELEGY IN A SPIDER'S WEB

In a letter to Hannah Arendt, Karl Jaspers describes how the philosopher Spinoza used to amuse himself by placing flies in a spider's web, then adding two spiders so he could watch them fight over the flies. "Very strange and difficult to interpret," concludes Jasper. As it turns out, this was the only time the otherwise somber philosopher was known to laugh.

A friend from Yugoslavia called me about a year ago and said, "Charlie, why don't you come home and hate with your own people?"
    I knew he was pulling my leg, but I was shocked nevertheless. I told him that I was never very good at hating, that I've managed to loathe a few individuals here and there, but had never managed to progress to hating whole peoples.
    "In that case," he replied, "you're missing out on the greatest happiness one can have in life."

I’m surprised that there is no History of Stupidity. I envision a work of many volumes, encyclopedic, cumulative, with an index listing millions of names. I only have to think about history for a moment or two before I realize the absolute necessity of such a book. I do not underestimate the influence of religion, nationalism, economics, personal ambition, and even chance on events, but the historian who does not admit that men are also fools has not really understood his subject.

    Watching Yugoslavia dismember itself, for instance, is like watching a man mutilate himself in public. He has already managed to make himself legless, armless, and blind, and now in his frenzy he's struggling to tear his heart out with his teeth. Between bites he shouts to us that he is a martyr for a holy cause, but we know that he is mad, that he is monstrously stupid.

Bi khúc trong mạng nhện

Trong 1 lá thư viết cho Hannah Arendt, Karl Jaspers kể, về triết gia Spinoza, giải khuây bằng cách bắt mấy con ruồi bỏ vô một cái mạng nhện, và sau đó, bỏ thêm vô hai con nhện, và theo dõi hai đấng nhện quần thảo lẫn nhau, tranh giành mồi.
“Thật khó giải thích, diễn nghĩa”, to interpret, Jaspers kết luận.
Hoá ra là, đó là những khoảnh khắc độc nhất, mà người đời được biết, triết gia nổi tiếng là u sầu này, bật cười.
Một tên bạn của tôi, từ Yugoslavia [Nam Tư ngày nào], một năm trước đây, gọi điện cho tôi, và nói, “Charlie, tại sao mi không về nhà, mà thù hận với đồng bào của chính mi?
Hắn chọc quê tôi. Tuy biết, nhưng tôi vẫn quê. Tôi bèn trả lời, cái chuyện thù hận, thù ghét, tớ không quen, rằng, lâu lâu ghét thằng này, ưa thằng kia, giữa lũ lưu vong hải ngoại, OK, nhưng làm sao mà thù hận trọn dân tộc của tớ cho được.

"Vậy là mi đánh mất cái hạnh phúc lớn lao nhất mà 1 con người có được ở trên cõi đời này rồi!”

Tôi ngạc nhiên, tại sao không có Lịch Sử của sự Ngu Đần, và bèn mơ tưởng một tác phẩm, rất nhiều tập, một bách khoa toàn thư, tích luỹ, thu thập…  với 1 index gồm rất nhiều tên. Cứ mỗi lần nghĩ đến lịch sử, chừng một, hai phút là tôi thèm viết nó, và bèn nhận ra cái sự cần thiết của cuốn sách như thế. Tôi không coi thường, đánh giá thấp, ảnh hưởng của tôn giáo, chủ nghĩa quốc gia, kinh tế học, tham vọng cá nhân, và ngay cả cái gọi là cơ may trong những sự kiện, nhưng một sử gia mà không thừa nhận rằng, con người là lũ khùng, thì người đó chưa thấu đáo về cái đề tài của mình.

           

THE TRUE ADVENTURES OF FRANZ KAFKA'S CAGE

A cage went in search of a bird.
                                 -KAFKA

Cái lồng bèn lên đường làm cách mạng, để tìm con chim.

It occurred to Chairman Mao one day to find out from his chief of secret police how many empty cages there were in China and whether they were being carried about at night by suspicious individuals he was not aware of or were they ghosts of some of his old party comrades whom he had imprisoned and tortured over the years?

Những cuộc phiêu lưu thực của cái lồng chim của Kafka

Khác với "Bác Hồ có 1 con chim, hỏi thăm chị Định, để xìn[xin] cái lông", Bác Mao, một bữa, qua Cớm Tẫu báo cáo, biết được con số lồng trống rỗng, bèn ra lệnh điều tra, liệu chúng đã được những phần tử nghi ngờ làm chuyện hồ nghi trong đêm khuya, hay là đó là hồn ma của những cựu đảng viên bị Bác cầm tù, tra tấn dòng dã qua bao năm tháng.

"Birdcages of the world, free yourself from filthy birds," shouted the young Peruvian revolutionary as he was being led blindfolded before the firing squad.

Vùng lên, hỡi những cái lồng chim trầm luân ở trên thế gian này,"
Anh Trỗi la lớn, trước khi bị Ngụy làm thịt.

Kafka Poet


TTT 2006-2015

Cảnh đẹp VN

Giới Thiệu Sách, CD

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

30. 4. 2013

Thơ JHV

TMT

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

TTT 2011
TTT 2012
7 năm TTT mất

Tribute to PCL & VHNT
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life


Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi
Blog TV


Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

NQT vs DPQ

@ NMG's

Lolita vs BHD