Note: Do trục trặc, Trang này tạm thời là front page
Trang Tin Văn lại bị trục
trặc với Nestcape Composer, không làm sao paste & copy được nữa. Chắc
là phải nhờ chuyên viên chỉ cách dùng WordPress. Sorry abt that. Xin tạm
thời đọc trên Facebook Album
Once we had the world
backwards and forwards:
- it was so small it fit in two clasped hands,
so simple that a smile did to describe it,
so common, like old truths echoing in prayers.
History didn't greet us with triumphal fanfares:
- it flung dirty sand into our eyes.
Ahead of us lay long roads leading nowhere,
poisoned wells and bitter bread.
Our wartime loot is knowledge of the world,
- it is so large it fits in two clasped hands,
so hard that a smile does to describe it,
so strange, like old truths echoing in prayers.
Đã có thời chúng ta có thế giới, đi và về:
Gọn, lọt trong hai vòng tay
Giản dị, một nụ cuời có thể diễn tả
Thân quen, như kinh cầu, vang vọng những sự thực cổ xưa
Lịch sử đếch đón chào chúng ta bằng những phô trương chiến thắng
Nó ném kít vào mặt chúng ta
Quá nữa, nó ị vào mặt “chúng ta”, như 1 bà DTH đã từng làm, với lũ Bắc
Kít. (1)
Trước mắt chúng ta là những con đường dài thòng dẫn tới hư vô, huỷ diệt
Giếng nước độc, và bánh mì cay đắng
Nam Kít nhận họ Bắc Kít nhận hàng
Là chiến lợi phẩm của lũ Mít chúng ta
Và cũng là sự hiểu biết về thế giới
Nó, rộng đến nỗi lọt vô vòng tay
Cái gì gì, nối vòng tay nhớn
Cay đắng, nặng nề, đến nỗi chỉ 1 nụ cười vào ngày 30 Tháng Tư là có thể
diễn tả được.
Cái gì gì, vui sao nước mắt lại trào
Lạ lùng, như những sự thực cổ xưa từ thời dựng nước
Cái gì gì, mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra lũ Mít.
(1) Bà vợ góa của Osip Mandelstam, với lũ văn sĩ Liên Xô
SCRIBBLED IN
THE DARK
Sat up Like a
firecracker
In bed,
Startled
By the
thought
Of my death.
*
Hotel of Bad
Dreams.
The night
clerk
Deaf as a
shoe brush.
*
Body and
soul
Dressed up
As shadow
puppets,
Playing
their farces
And tragedies
On the walls
of every room.
*
Oh, laggard
snowflake
Falling and
melting
On my dark
windowpane,
Eternity,
the voiceless,
Wants to
hear you
Make a sound
tonight.
*
Softly now,
the fleas are awake.
Charles
Simic: The Lunatic
Quọt quẹt
trong bóng tối
Bật dậy
Như cây pháo
Ở trên giuờng
Ngỡ ngàng
Với ý nghĩ
Ơ kìa, mình
chết
*
Khách sạn của những giấc
mơ tồi
Gã nhân viên
ca đêm
Điếc đặc, như
cái bàn chải đánh giầy
*
Hồn & xác
Ăn vận như bóng
những con rối
Chơi trò hề
Và bi kịch
Trên tường của
mọi căn phòng.
*
Ôi, những bông
tuyết muộn
Rớt xuống, đông lại trên cửa sổ tối thui của tôi
Vĩnh cửu, câm
Muốn mi làm
cái gì
Nghe lục cà lục cục đêm nay
*
Nhè nhẹ, nhè
nhẹ
Những con bọ
chét thức giấc.
MEET EDDIE
Whose life
is as merry as a beer can
Hurtling
down a mountain stream
Giving some
rocks a wide berth,
Bumping
head-on into the others,
And going
into a head-spinning twirl
Like a
little girl on a piano stool,
The water
shouting as it rushes past:
Are you
ready to meet your Maker?
As the woods
around him begin to thin
And the
trees don their fright wigs
As he
prepares to go over the falls
Like a blind
man strapped to an accordion.
Charles
Simic: The Lunatic
Gặp con K.
Người mà đời
thì vui như là một lon bia
Lao xuống một
con suối từ đỉnh núi
Tránh mấy cục
đá to tổ bố
Trong khi đụng
đầu bồm bộp, vô mấy cục khác.
Và nhập vô một
con xoáy xoay vòng vòng cái đầu
Như cô bé trên
ghế dương cầm
Nước la lớn
khi nó lướt qua:
Mi đã sẵn sàng
chưa, để gặp Người Làm Ra Mi?
Trong khi rừng
quanh mi mỗi lúc một thêm mỏng
Cây ban cho
nỗi sợ của chúng những bộ tóc giả
Và, như con
cá chép ở khúc sông Bạch Hạc, Việt Trì,
Quê hương ngày
nào của mi,
Hăm hở vượt
Vũ Môn
Và, như ông
già của mi đã từng,
Cũng ở khúc sông
đó,
Mi lao qua
con thác,
Như người đàn
ông mù xiết vô chiếc phong cầm.
SINBAD THE
SAILOR
On dark
winter nights in the country,
The poor and
the old keep
A single
light lit in their homes,
Weak and not
easy to see,
Like someone
who had rowed his boat
Beyond the
sight ofland,
And had
lowered his oars
To rest and
light a cigarette
With the sea
quiet around him-
Or would
they be dark fields
Made quiet
by the falling snow?
Charles
Simic: The Lunatic
Sinbad tên
thuỷ thủ
Vào những
đêm
mùa đông lạnh và tối, ở nhà quê
Người nghèo,
người già thường chỉ đốt
Một ngọn đèn
trong nhà
Ánh lửa mới
yếu ớt làm sao
Không dễ nhìn
thấy
Đâu có khác
gì một người nào đó
Một mình với
con thuyền
Cố chèo, quá
cả cái nhìn mảnh đất liền phía trước
Và, bèn hạ mái
chèo
Để nghỉ và
châm 1 điếu thuốc
Với biển cả
quanh mình –
Hay là, không
phải biển
Mà chỉ là những
cánh đồng tối thui
Được tuyết
phủ, làm trở thành im ắng?
Translated
by Linda Asher
128pp.
Faber. £14.99.
978 0
571316465
Note: Bài điểm Lễ Hội Cà
Chớn trên TLS.
Bài này OK, theo Gấu. TV sẽ giới thiệu liền tù tì
IN ON THE JOKE
Milan
Kundera's pointedly unconventional approach to the novel has, over
time,
acquired conventions of its own: characters deprived of surnames,
biographies
and physical or psychological descriptions; an aversion to plot,
background,
realism and length. Instead, Kundera explores and expresses his stated
themes
through the juxtaposition of highly concentrated and wildly diverse
images,
episodes and essays, carefully arranged into chapters and parts. The
resultant
"music" - discords, progressions, rhythmic change, polyphony -
replaces old-fashioned narrative with an attempt to capture the clarity
and
complexity of thought. His oeuvre is strongly reminiscent of the
restless
intellectual high spirits of Diderot, although such depthless
profundity is not
universally enjoyed. The Festival of
Insignificance distils Kundera's method
to its
essence. It simply refuses to be a story. Defying gravity, the novel's
forty-four chapters take up just 115 pages, making this a very thin
slice of
playful existentialism. The setting is modem-day Paris in summer. A man
bumps
into an acquaintance in the Luxembourg Gardens and agrees to organize a
cocktail party for him. That, in its entirety, is the plot. As
expected,
Kundera is more interested in pursuing his theme of insignificance
through the
surprising thoughts, dreams and encounters of his characters - in this
case,
four friends.
Alain
ponders the twenty-first-century phenomenon of women displaying their
navels as
an erogenous zone (replacing buttocks, breasts and thighs); Ramon
wishes to see
a Chagall exhibition but finds himself repulsed by the queues of people
moronically shuffling towards the museum entrance; Charles, who has
been given
a copy of Nikita Khrushchev's memoirs (apparently by Kundera himself),
contemplates a marionette play featuring Stalin and Kalinin; Caliban
adopts a
fake foreign identity in order to amuse himself when serving as a
waiter. The
cocktail party comes and goes and we find ourselves back in the
Luxembourg
Gardens.
Is this all
just nonsense, a puff of smoke, a caprice, a raised middle finger? In
part,
yes. But it is no accident that Ramon's dreaded zombie-crowd is queuing
for
Chagall, the master of the irrational. Kundera's frivolity, though
indulged to
the full, is only skin-deep; for he is equally interested in the depths
to
which insignificance penetrates our lives. As so often, he finds truth
in
paradox. Take these two striking images. At the cocktail party, a tiny
feather
floats up and down near the ceiling, transfixing everyone, before
landing on
the outstretched finger of a famous guest, Madame Franck. A page later,
Alain
dreams of his mother, who in turn launches into her own ghastly and
furiously
eloquent dream of annihilation: felling the family tree of human
history,
slashing the throat of Eve, and willing "the total disappearance of
mankind together with its future and its past". Through the conjunction
of
these two scenes, Kundera manages to plant the thought that insouciance
is only
obliteration in a good mood. Insignificance is unquestionably
delightful, until
we turn it over to reveal a vast and terrifying emptiness.
One of the
horrors of insignificance is a loss of identity, which is why Alain
realizes
that the exposed navels that so preoccupy him are no passing fashion
but the
sign of an age careless of its individuality, essentially driven by
genetic
reproduction. Similarly, this unthinking drift away from individuality
is at
the root of Ramon's loathing for the sheep-like mentality of museum
queues:
"You think that suddenly they all started to love Chagall?"
Culturally, Ramon is happier with the "benign indifference" of a
tanned adolescent in shorts who is seen selling face masks of French
geniuses.
The indifference of history is far from benign: "[Insignificance] is
present even when no one wants to see it: in horror, in bloody battles,
in the
worst disasters". Yet Kundera implies that if history is an outrageous
joke, we might as well laugh. Stalin, in this novel, is a joke-telling,
affectionate expounder of Kant and Schopenhauer; not dissimilar to the
author.
"Life is stronger than death, because life is
nourished by death!"
This triumphant pronouncement is delivered, through a mouthful of cake,
by the
feather-catching Madame Franck. Kundera, now in his mid-eighties, must
be a
little suspicious of death's nourishing properties. What seems more
certain is
that The Festival of Insignificance a feather light monument against
oblivion,
an exemplary assertion of inchoate individuality, a declaration that if
insignificance is to be faced down at all it can only be through the
permanence
of art, albeit in this case a novel that looks like a vanishing act.
Then
again, one can't prescribe one's immortality. Kundera wrote a very good
book
called Testaments Betrayed (1995),
and a key element of insignificance, repeated throughout this novel, is
the joy
of being ignored, of being saved from other people's meanings. Perhaps,
among
other things, The Festival of
Insignificance is a small prayer for protection from the oncoming
roar of
interpretation.
Bài tiểu luận
của Vargas Llosa về nghệ thuật sex, cực thú vị. Nó làm Gấu nhớ tới lần
đầu tiên
biết may tay, nhờ ông cậu, Cậu Hồng, ông con trai độc nhất của Bà Trẻ
của Gấu. Ông
gọi nó là ‘rung’, “nghệ thuật rung”, nói theo Thầy Vargas Llosa!
Về đường học
vấn, ông cậu của Gấu phải nói là dở, mọi đường khác, ông hơn hẳn Gấu.
Nhớ,
những lần may tay đầu tiên trong đời, sau khi tới đỉnh, Gấu vẫn thường
tự hỏi
làm sao mà ông cậu của mình lại khám phá ra nó, hà hà!
Vargas Llosa
phán, cái trò may tay không cần phải dậy con nít. Phải để chúng tự khám
phá ra!
Masturbation
does not have to be taught; it can be discovered in private. It is one
of the
activities that compose our private lives.
May tay đếch cần phải dạy; nó có thể
được khám phá ra trong riêng tư. Nó là 1 trong những hành vi làm nên
cuộc sống
tư riêng của chúng ta.
Bà Trẻ của Gấu,
người nuôi Gấu những ngày đầu tới Sài Gòn, thời kỳ ở hẻm Đội Có Phú
Nhuận, Gấu đã
kể sơ sơ trong Lần Cuối Sài Gòn.
Trong lần tái ngộ Huỳnh Phan Anh ở
Paris, Gấu
có nhờ anh về trao cho gia đình ông cậu Hồng cuốn sách, và sau đó, đến
khi Gấu
về lại Sài Gòn thì ông cậu đã mất. Bà vợ, mợ Hồng, kể cho Gấu nghe, ông
cậu Gấu
có đọc, và rất ư là bực, cái cảnh kể lại, ông cậu đập đầu bưng bưng vào
tuờng,
mỗi khi bị bà chị, - Dì Nhật, với Gấu - chì chiết.
Bà Dì này thực
quá khủng khiếp. Để trốn Bà, mỗi lần Bà ca cẩm với Bà Trẻ, tại làm sao
lại phải
nuôi thằng Trụ, sao không để cho mẹ ruột nó lo, là Gấu bèn trốn đến nhà
bạn Cẩn,
Phạm Năng Cẩn, một trong Thất Hiền, ở khu Trương Minh Giảng, gần đó,
hoặc trốn lên nhà bạn Chất, em ông
TTT, để ăn
chực.
Trốn tới nhà bạn Chất, là
phải đi bộ suốt con đường từ ngã tư Phú
Nhuận tới
Xóm Gà, phía sau tòa hành chánh Gia Định.
Hồi đó có xe thổ mộ, hoặc xe
buýt vàng,
nhưng tiền đâu là dám đi xe, hà, hà!
Ui chao nhớ
lại sướng làm sao, chẳng tí khổ, mà chỉ cảm thấy bồi hồi cảm động.
Bà Trẻ Gấu
thương Gấu, có lẽ 1 phần là vì ông con trai học dốt quá, không có lấy 1
tí
thông minh của Mẹ. Mà có thể còn là vì ông bố của Gấu nữa. Hai người
cùng học
sư phạm, Bà Trẻ chắc có cái bằng Tiểu Học, còn bố Gấu, Trung Học, của
Tẩy. Đang
học thì bị gia đình kêu về lấy chồng, tức ông Nghị, 1 trong những ông
Ngoại của
Gấu, thế chỗ cho bà chị ruột, chết vì bịnh, chủ yếu là giữ lấy cái gia
tài của
ông Nghị. Bà mẹ Gấu có lần cũng nói, đúng ra là bà Nghị lấy bố mày,
nhưng là do
cái gia tài của người chị không thể để lọt vào tay người khác, mà sự
tình khác
đi.
Bạn Cẩn hồi
đó có cái la dô nhỏ xíu, ui chao sao mà tuyệt vời đến như thế, những
Paloma,
Blue Tango, Tabou... Gấu nằm nghe, ngủ lúc nào không hay, nhưng bạn Cẩn
không
bao giờ nằm nghe nhạc mà ngồi co chân lại, vòng tay ôm hai đầu gối, mắt
lim dim
như đang cầu nguyện, Gấu sau này viết văn, bèn bệ vô luôn, coi như bạn
đang
canh giữ giùm cho cả hai, Hà Nội:
A FASCINATING and frustrating new
production of Franz Kafka’s “The Trial”, directed by Richard Jones,
opens with
the stage rising to become a ceiling. Below that, a black conveyor belt
stretches from one edge of the stage to the other. The audience at the
Young
Vic sits, like a tribunal, on either side of this travelator, as a
quintessential 20th-century nightmare unfolds in the middle. It's on
the
morning of his 30th birthday—his 35th in this adaptation—that Josef K
wakes to
discover he is under arrest for committing an unspecified crime from
which, he
gradually learns, it is impossible to defend himself.
Kafka wrote "The Trial" in
1914, but the novel wasn't published till 1925, the year after his
death. Mr
Jones has moved Kafka’s pre-war world of frock-coats, inkwells and
candle lamps
forward more than half-a-century giving us answerphones, record players
and
wheelie-bins. The free-ranging adaptation by Nick Gill, a playwright,
also
conjures up characters, rearranges scenes and updates the language of
officialese (“Your trial is important to us”). But all this
inventiveness
struggles against the mechanical relentless of Miriam Buether’s design,
which
from the opening moment locks down the direction of travel. There will
be no
sudden reversals here.
Except for those who had arrived with
high hopes. Rory Kinnear won the Olivier award for Best Actor last year
for his
superlative turn as Iago in Nicholas Hytner’s production of “Othello”.
Mr
Kinnear’s Josef K is a sympathetically flawed Everyman—balding, sweaty,
pinstriped—who gets caught up in the never-ending and labyrinthine
process. The
performance is extraordinarily quick-witted and precise, but Kafka’s
plot being
what it is, there are only so many variations on mounting anxiety and
despair
that even Mr Kinnear can find.
His efforts to prove his innocence are
thwarted by Sian Thomas as the preeningly self-confident lawyer, expert
in
ingratiating herself over a breakfast croissant with the upper echelons
of the
Lower Courts. In a nice touch, Hugh Skinner, the gormless intern from
"W1A" (the BBC's satire about itself) plays K's main rival at
work—one Kafka-esque world merging with another. Most of the actors
play two or
three roles, morphing in an almost dreamlike way. This is taken to
virtuoso
lengths by Kate O’Flynn, who plays six young markedly different female
parts—as
if, in K’s eyes, sexual desire is always endlessly shape-shifting.
"The Trial" sits halfway
between Jarndyce and Jarndyce in "Bleak House" and Big Brother in
"1984" and it’s the Dickensian and Orwellian scenes that work best.
The lunacy of bureaucratic form-filling is captured by Sarah Crowden as
the information
officer and Richard Cant as her assistant as they face down ranks of
tweedy
figures fumbling through mountainous stacks of bright yellow papers.
Steven
Beard’s magistrate has lank strands of greasy hair, a grimy grey
t-shirt and
sandals. Another grotesque figure, the defendant Block (Skinner again),
has
been reduced to behaving like an obedient dog, crouching on a table and
sticking his tongue out, while his lawyer (Sian Thomas) pats him on the
head
and says: “Who’s a good client?”
The script makes Kafka’s point
graphically: it's clear there are two ways that the state can entrap
the
individual. The first is by placing a couple of guards at the front
door. The
second is through language. As words are drained of meaning, the
speeches
themselves become the system’s most effective means of imprisonment.
Kinnear’s
K reaches the point where the word “innocence” has become “just a funny
sound”.
In Jones’s production, it’s only the sound effects themselves—the bird
song,
the dogs barking, the whiplashes—that end up standing for exactly what
they
are.
"The Trial"
is on at the Young Vic theatre in London until August 22nd
Có hai cách bỏ
tù con người. Một, là bỏ tù, Cớm gác. Hai, là qua ngôn ngữ. Chữ bị vắt
kiệt
nghĩa, trở thành phương tiện hữu hiệu nhất của sự cầm tù.
"The
Russian soul is a myth. It is nothing but a convention. As translators,
we
don't live with these ideas. We live with words”
The Art of
Translation No.4
RICHARD
PEVEAR &
LARISSA
VOLOKHONSKY
Credited
with starting a "quiet revolution;' Larissa Volokhonsky and Richard
Pevear
have joined the small club of major translators whose interpretation of
a
masterpiece displaces the one read by generations before. Volokhonsky,
who is
Russian, and Pevear, who is American, have been married thirty-three
years. In
that time, they have translated much of Russian literature as we know
it. Their
thirty or so translations include The Brothers Karamazov, Crime and
Punishment,
Demons, The Idiot, Notes from Underground, War and Peace, Anna
Karenina, Hadji
Murat, The Death of Ivan Ilyich and Other Stories, The Master and
Margarita,
Doctor Zhivago, Gogol's Collected Tales, Dead Souls, The Enchanted
Wanderer and
Other Stories by Nikolai Leskov, and Chekhovs Selected Stories.
Until their
translation of The Brothers Karamazov was published in 1990, the
English-speaking world got its Dostoevsky (their preferred spelling -
with one
y) from the great British translator Constance Garnett. Though her
translations
of Turgenev and Chekhov are generally considered virtuosic, her
versions of
Dostoevsky, Gogol, and Tolstoy have drawn criticism for Victorian
elision. Her
Gogol translations are "dry and flat, and always unbearably demure;'
complained Nabokov. "The reason English-speaking readers can barely
tell
the difference between Tolstoy and Dostoevsky is that they aren't
reading the
prose of either one;' grumbled Joseph Brodsky. The critic Korney
Chukovsky
summed it up best and most brutally when he wrote, "Who does not feel
the convulsions,
the nervous trembling of Dostoevsky's style? ... But with Constance
Garnett it
becomes a safe bland script: not a volcano, but a smooth lawn mowed in
the
English manner- which is to say a complete distortion of the original."
For her part, Garnett once wrote, "Dostoievsky is so obscure and so
careless a writer that one can scarcely help clarifying him."
Pevear and
Volokhonsky's translations have been lauded for restoring the
idiosyncrasies of
the originals-the page-long sentences and repetitions of Tolstoy, the
cacophonous competing voices of Dostoevsky. Though almost unanimously
praised
by reviewers and Slavic scholars, they have a few critics who accuse
them, in
fierce blog posts, of being too literal or prone to unidiomatic turns
of phrase.
Pevear, who is sometimes drawn into the online jousting, never
apologizes for
erring on the side of the unfamiliar sounding over muting the original.
In 2.004,
the translators were propelled to commercial success when Oprah Winfrey
chose
their translation of Anna Karenina for her book club, making the
137-year-old
book an instant best seller. (The Moscow Times called it "the greatest
promotion of Russian literature since Omar Sharif cantered across the
steppe in
a fur hat as Doctor Zhivago.") Pevear and Volokhonsky have won the PEN
Translation Prize twice, for The Brothers Karamazov and Anna Karenina.
Pevear,
who has also translated French and Italian works, is Distinguished
Professor
Emeritus of Comparative Literature at the American University of Paris.
In
addition to translating Russian contemporary poets, Volokhonsky, who
attended
Yale Divinity School, has translated theological texts into Russian.
They have
two trilingual children.
The
interview took place in January over two long afternoons in their
ground-floor
apartment in the 15th arrondissement of Paris, where they have lived
since
1998. Volokhonsky is warm and reserved. She has strong opinions,
sometimes
delivered bluntly. She doesn't like facile answers. She accepts praise
with
sincere embarrassment and pleasure. She speaks with a thick Russian
accent,
which adds to her considerable charm. Pevear looks like a New England
ship
captain, bearded and with an excellent head of hair. He has a slow,
easygoing
manner which belies his precise tastes. He enjoys puns and repartee. In
the
beginning, the couple took turns speaking, listening respectfully in
mortuary
silence as the other spoke. But soon, they were interrupting each
other,
finishing the other's sentence, prodding the other to speak, teasing or
correcting
each other, though they were always in general agreement. At the end of
the
interview, which, like a nine-hundred-page Russian novel, seemed to
contain all
subjects simultaneously, we opened a half bottle of champagne. Pevear
had
bought it to celebrate New Year's Eve, but the two had fallen asleep
before
midnight.
-Susannah
Hunnewell
Trước giờ,
giới đọc tiếng Anh chỉ được đọc những tác phẩm vĩ đại của Nga qua bà
Constance
Garnett. Bà này dịch dở, bị hai đấng Nabokov và Brodsky chê thấu trời.
Nay có vợ
chồng dịch giả trên đây.
Để bào chữa
cho cái việc dở của mình, bà Ăng lê phán, Dos là nhà văn quá tối tăm,
và cực kỳ
cẩu thả khi viết. Tôi có bổn phận phải làm cho ông ta trở nên sáng sủa
hơn!
Tuyệt!
Không có bà
này, là Tây Phương không hề biết tới Dos!
Lydia Davis,
cũng 1 dịch giả nổi tiếng, đã từng dịch lại Proust, cho rằng, bạn phải
thật
rành tiếng của bạn, khi dịch.
Đúng như thế.
Sở dĩ đám
Mít hải ngoại, ngày càng tệ hại, không chỉ trong dịch thuật mà cả ở
trong sáng
tác, là do chúng dốt tiếng Mít quá, trong khi tiếng Anh, thì chỉ biết
thứ tiếng
chợ búa, giao dịch hàng ngày, làm sao mà viết văn?
Ngay cả giỏi
tiếng nước người, đến có thể viết bằng tiếng của họ, như ông bạn Đỗ Khờ
của
GCC, thí dụ, thì cũng vứt đi.
Thiếu mĩ, theo định nghĩa của Brodsky.
Nói rõ hơn,
bạn có thể đọc hay không đọc Đỗ Khờ, thì cũng như nhau!
Ba cái sáng
tác bằng tiếng Tẩy của anh, thiếu phần chìm. Bạn thử đọc thứ bút ký “Đi
và Viết”
của thứ bị...chê, như Durrell chẳng hạn,
Khờ còn lâu mới với tới.
Uổng thật!
Hà, hà!
Tình cảm đẹp,
tiếng Tẩy cực bảnh, đẻ ra tác phẩm tồi.
Hay thử viết
[tiếng Tẩy] tồi đi, chăng?
Cái này, Gấu
được gợi ý từ Bác Hồ, qua Hoàng Văn Hoan. Một lần Bác ra lệnh cho Hoan
viết 1 cái
thư bằng tiếng Tầu. Viết, trình, Bác đọc, tẩy tẩy xóa xóa, rồi đưa lại
cho
Hoan, phán, chú phải viết bằng 1 thứ tiếng Tầu sái văn phạm, thì nhân
dân mới
hiểu được, và mới nghĩ là chúng ta ở trong lòng nhân dân mà ra!
Ui chao, 1 tên
tráo trở lưu manh mạt hạng đến như thế mà làm Cha Già Dân Tộc, thì dân
tộc phải
chết thôi!
Khi ban cho Nguyên
Sa, cái nick "nhà thơ & nhà văn của sự sung sướng, hạnh phúc", và
đáp lại
tấm thịnh
tình, ông gọi Gấu, mi là tên sa đích văn nghệ, khi đó, Gấu chưa đọc
Kafka, chưa
biết đến cái rìu phá băng nó bổ cái não đóng băng của độc giả.
Và, trong cùng nhận
xét đó, ông cám ơn Trời, về thứ văn thơ hạnh phúc, thứ đó, thứ nhân
chúng ta, ai
cũng có thể viết được:
Kafka
viết cho bạn là Oskar Pollak, vào năm 1904: "Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên
đọc
những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta đọc
không
lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú vào
sọ, thì
ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời,
chúng ta hạnh
phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh
phúc,
chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần, chúng đập chúng ta
giống như
gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một người thật
thân thiết
mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị
tống xuất
tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn
sách phải
giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin
như vậy." (Alberto
Manguel
trích dẫn, trong cuốn A
History of Reading, nhà xb
Alfred A. Knopf Canada, 1996)
Khờ,
"bạn của Gấu Cà Chớn", “thừa sức” viết thứ sách rìu phá băng, nhưng anh
bán rẻ văn chương của anh, theo Gấu. Lần đầu đọc "Cây Gậy Làm Mưa" [cái
tít bảnh thật!], của
anh, khi mới ra hải
ngoại, Gấu đã mường tượng ra 1 nhà văn Mít, như anh, viết thứ văn
chương như cách
diễn tả của Kafka.
Mẽo có 1 tay như anh, tác giả cuốn Người Lữ Hành Kỳ Dị. Tay
này, như 1 tác giả trên tờ The New Yorker nhận xét, thừa sức đợp Nobel
văn chương,
nhưng ông ta bán rẻ nó, và viết thứ văn chương best-seller.
Sến
cũng 1 cas như Khờ, khi tạo ra nổi 1 Thiên Sứ, nhưng hóa ra không phải.
(1)
Lần chạy trốn
quê hương, và nhờ Ơn Trên, thoát, cuốn sách bạn đường của Gấu suốt cuộc
hành
trình từ Sài Gòn ra Trung, tới đèo Lao Bảo, qua xứ Phật, là Người lữ
hành kỳ dị
của Harold Robin, [Harold Robbins mới đúng, Gấu mới
check Google] bản tiếng Việt, Gấu quơ vội tại sạp báo của nhà, do
Gấu đích
thân hàng ngày đứng bán, ngay trước cổng chúng cư 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Sài
Gòn.
Cuốn sách thật
tuyệt, và có vẻ như dựa vào cuộc đời nhà tỷ phú kỳ dị Howard Hughes.
Khi ra được
hải ngoại, một lần, Gấu đọc được một bài viết về Harold Robbins trên tờ
Người Nữu
Ước. Cái tay viết bài này nhận xét thật là thú vị, Robbins thừa sức để
đoạt Nobel
văn học, nhưng ông tự bán mình cho thị hiếu quần chúng, đám đông thưởng
ngoạn,
và chọn cho mình thứ nhà văn best-seller.
Chúng ta tự
hỏi, nguyên nhân nào gây ra mối đứt giữa Thiên Sứ và cái còn lại, của
cõi văn Sến
Cô Nương. Ánh lửa "minh triết" sáng rực lên, khi Sến Cô Nương nhận ra
nụ cuời, nụ hôn của cô bé con, ở đâu thất lạc vào gia đình cô, và sau
đó bỏ đi,
nhưng cho dù Thiên Sứ bỏ đi, thì vưỡn còn Sến Cô Nương!
Liệu Sến Cô
Nương cũng "thừa sức đoạt Nobel", nhưng tự chọn cho mình làm vị thủ
lĩnh ảo trên net, do bùi tai trước những lời tung hô xu nịnh của một lũ
lâu la
đệ tử, đám mầm non văn học bất tài đang cần một minh chủ?
Không phải tự
nhiên mà Gấu lẩn thẩn về chuyện này, mà đây là một vấn nạn liên quan
tới cả cõi
văn của Gấu!
Giả như Gấu
tiếp tục viết, bằng cách lần theo những bước chân của những con dã
tràng trên
bãi biển Nha Trang, thì sao?
Cũng thế, có
một quãng cách rất lạ, giữa những truyện ngắn đầu tay của Phạm Hải Anh,
với cõi
văn sau đó của bà.
Liệu, đây là
hiện tượng ‘tẩu hoả nhập ma’, đang chính chuyên biến thành tà ngụy?
Đang tu luyện
để thành nữ bồ tát, bất thình lình bị lũ ma quỷ ở… Tây Vực rủ rê, rù
quyến,
biến thành…
đại ma đầu? (2)
Cõi văn 'bồ
tát' nhất, nhân hậu nhất, của miền đất của giống dân Yankee mũi tẹt, lạ
thay,
chính là cõi văn NHT, theo Gấu, và ông này, cũng vì một nguyên cớ nào
đó, bị tẩu
hoả nhập ma, biến thành, cũng một thứ đại ma đầu!
Thảo nào,
nhà văn đàn bà suốt đời trẻ thơ thú nhận, bà lụy cõi văn NHT, ấy là bởi
vì, chỉ
con nít mới nhìn ra được xứ sở thần tiên của Alice.
(2) Cõi văn
hải ngoại kể như có ba miền, Thành Đô là Tiểu Sài Gòn, Canada là Đông
Ngô, Tây
Vực là xứ Kăng Gu Ru.
Liệu, đúng
vào lúc nữ bồ tát bị tẩu hoả nhập ma biến thành nữ đại ma đầu, thì,
cuộc chiến
đấu thần thánh chống Mỹ cứu nước biến thành xâm lăng, kẻ cứu rỗi biến
thành quỉ
ma, thành bọ, thành ruồi?
Nói rõ hơn,
liệu, tất cả đều do Cái Ác Bắc Kít mà ra?
Thì vẫn câu
chuyện An Nam nhất thốn thổ, cái tam giác nhỏ bé, là đồng bằng Sông
Hồng, “bờ
khe hạ” nhiều hơn ruộng, ruộng nhiều người cầy quá, cầy đi cầy lại,
ngày càng
khô cằn, khiến con người ở đây ngày càng quắt lại.
Đọc lại, bỗng
giật mình, và phát giác ra một điều, đài gương quả là soi đến dấu bèo:
Sến Cô
Nương chưa từng khen một ai, trừ... Gấu!
Cô nương
khen Gấu, không công khai mà là khen riêng, trong mail riêng, những
ngày đầu,
khi Gấu tự nguyện đầu quân dưới trướng ta là gì.
Lần đó, Gấu
viết bài Dịch Là Cướp, cô nương mừng lắm, cám ơn rối rít, vì đã kỳ
vọng, và ban
tặng ta là gì toàn những nhiệm vụ cao cả, [thằng ăn trộm, ăn cắp, ăn
cướp, tên
biệt kích văn hóa...], và cô nương hứa, sẽ quyết tâm thực hiện bằng
được những
nhiệm vụ lớn lao này.
Và cô nương
viết thêm, khi nhận xét về Gấu, nhà văn: Cũng đã từng đọc, thấy thâm
trầm, sâu
sắc, nhưng chưa hề thấy tức cười như bài viết mới này.
Ui chao, mới
đó còn mặn nồng, mà nay sao đau thương như thế này ư, Giời hỡi Giời!
Kể cũng lạ,
Gấu có thói quen, giữ mail của "tri âm tri kỷ", vậy mà không hề giữ,
bất cứ một mail nào của một "nửa linh hồn" của mình!
Đúng là...
tiên tri!
Lời nào em
không nói em ơi,
Meo nào
không gian dối!
[Nhại Tình
Khúc Thứ Nhất]
NQT
Viết tới
đây, bỗng nhớ nhà văn nhớn Mai Thảo, và một giai thoại liên quan tới
ông, do KT
kể.
Bạn ta kể
là, một lần cả đám ngồi hầu rượu MT, bỗng ông quay qua NMG hỏi, này,
cái la dô ở
nhà anh còn chạy tốt không?
NMG ngớ người
ra, MT bèn gật gù:
-Mình hỏi
thăm bà xã của cậu ấy mà. Sao, thế nào, bà C. vẫn nói nhiều như ngày
nào, như mọi
ngày chứ?
Ui chao, Gấu
này quả là not fair (3), khi lợi dụng lúc tang gia bối rối, Sến Cô
Nương tự bịt
miệng, để mà xài xể hết lời!
(3) not
fair: không điệu, [chơi] không đẹp… Đây là từ của Sến Cô Nương, trách
Gấu, cứ một,
hai viết, "ta là gì của Sến Cô Nương".
Anh viết vậy không có
fair, ta
là gì là của một số anh em.
Nhưng Bi Bì
Xèo, mới rồi, trong lời ai điếu, cũng coi ta là gìlà tài sản, "của hồi môn", của Cô Sến,
có anh em nào đâu?
Hay là bỏ chạy
hết cả rồi? NQT
Sonnets and songs about
love capture the real commonality of
the experience while flattering our sense of its singularity.
What are the life lessons in all those
songs and sonnets?
và gì đi nữa...
và gì đi nữa.
chuyến đi. châu âu
cũng. bắt đầu
máy bay xuống.
phi trường. de gaulle
trời. ảm đạm.
úng. nước
chuyến xe điện.
về nhà. trọ
thật sớm
ngày. chủ nhật
người đàn
ông. say khướt. ngồi phía. sau
hát. những
giai điệu. buồn
và thả. những
làn khói. thuốc
cũng buồn.
trong. toa xe
sông seine.
không thơ. mộng
\như đã. một
lần thơ. mộng
và. gì đi nữa.
ánh sáng cũng. thức giấc
soi. bóng
mình vào. dòng sông
chảy. không.
cặn bã
đường xiên của.
nắng
và. hình hài
của. bảy màu
này em. khi
nào. về
cứ vào. cửa.
không bao giờ. khóa
cứ về. như.
lúc đi
closet. vẫn
còn nguyên. vẹn
đồ đạc. của
em
và. gì đi nữa.
cũng đến lúc. rời paris
bằng con
tàu. tốc hành
không. biết
phải làm. gì
khi. nhìn những.
cánh đồng nho
trụi lá. những
thân cây. trơ cành
nói. lời
mùa. đông
không biết.
đã say. từ ly rượu. thứ mấy
cứ đi. lui.
tới hoài. trên con phố
tìm. những đổi.
thay
những quán
rượu. đông người
la rambla. vẫn.
biền biệt
dốc. cạn
túi. không tìm ra. tiền
cho một ly
rượu. kế
barcelona. vắng
bóng. một người
và. gì đi nữa.
khi trở lại
cố đi ra. khỏi
giấc. mơ
nhưng chẳng.
bao giờ được
này. em đừng.
bao giờ vội
nhiều lúc.
không cần phải. nói
chìa khóa cửa.
đã mât. từ lâu lắm. rồi
nên. cửa
không bao giờ. khóa
và gì đi nữa..
em
này. em…
em. gắng nhớ
chuyến bay.
đêm về. new york
nhìn. thành
phố. từ trên cao
nghe. nhịp đập.
lệch. của trái tim
Hầu như “tất
cả” những bài thơ trong “The Lunatic” đã được Tin Văn dịch, lai rai
trước đó,
chôm từ những tạp chí, và, khi cuốn thơ được xb, làm trọn cả ổ.
Bài nào cũng
thần sầu.
Nhưng để
coi, tay điểm sách của tờ NYRB nói gì về nó.
Bài không
cbo đọc free, nhưng khó gì chuyện đó!
Hà, hà!
Cũng không
cho đọc free, là 1 bài thật OK, của Vargas Llosa, trong 1 cuốn sách sẽ
xb trong
những ngày sắp tới. Trên tờ Harper's
Lạ, là bài
viết làm Gấu nhớ tới thời gian mới tới Trại Cấm Thái Lan, chưa từng
biết phim
sex là cái gì, bữa đó, nghe 1 em Bắc Kít, hình như là 1 nữ
thương gia
làm ăn thất bát, hoặc, vượt biển theo bồ, 1 anh chàng hình như gốc Tẫu,
quen
thân tay Trưởng Trại Thái Lan, Gấu lúc đó làm tên dậy tiếng Anh cho
những vì học
trò thần thế như thế.
Sáng đó, tới, tính dậy em vài câu tiếng Anh, em phán, bữa nay nghỉ đi
Thầy, tối qua xem
phim
"séc", gần như suốt đêm, bữa nay mệt quá!
Gấu không
làm sao hiểu được phim “séc” là phim gì.
Phải đến khi qua được Xứ Lạnh,
thì mới
“à” 1 phát, thì ra phim này.
Lần đầu coi với anh bạn mới quen,
Bắc Kít,
anh kêu nó là phim mồi.
Giống như chim mồi!
Cũng tại đây, tại Trại Cấm TL,
Gấu nghe Bắc Kít kêu,“ma phia”, trong khi Nam Kít, “ma-fi-a”, ba âm.
Thú nhất là
lần ở tù VC, nghe 1 ông, bạn tù kêu là ông Sơn Mê Ô, cứ tưởng gốc
Tẩy, chỉ đến
khi ông hút điếu thuốc lào thì mới hiểu, đây là ông “Sơn Méo”, vì
ông hút lệch
hẳn miệng qua 1 bên, chỉ một nửa điếu thuốc lào, nửa còn lại là của 1
ông đang
ngồi chờ đến phiên mình!
Cái miệng lệch
hẳn đi, là hình ảnh một nửa bi thuốc lào, phần của ông ta!
Thần sầu!
Nhìn ông ta hút, Gấu nghi, tay này hẳn là 1 đệ tử ruột của Cô Ba, vì
hút thuốc lào tới mức thượng thừa như vậy, chỉ những đấng như...
Gấu chẳng hạn, mới thấu hiểu, và thông cảm!
Bài của
Vargas Llosa, essay, Ars Erotica, on
the art of sex.
Tuyệt nhất, trong The
Lunatic, với riêng Gấu, là bài Lên
Đồi Hóng Gió.
Bạn sẽ thấy bò gặm cỏ trên
đồng Và
có lẽ,
một chú gà con, hay một con rùa Băng
qua
đường trong cái khoảng thời gian Ui
chao
thật là ngọt ngào của chúng Và
một hồ
nhỏ, nơi có lần một đấng con trai Ném
cô
gái của mình xuống đó Cô
gái,
tất nhiên, đếch biết bơi! Hà,
hà!
Và
rất
nhiều cây phong to tổ bố, và sồi Xoè
cái váy của chúng ra, Là
cái bóng dâm rộng lùng thùng là những tầng lá Để
bạn
nằm lên đó Còn
những cành cây, là để bạn treo tòng teng bạn lên Thì
cứ giả như bạn đang thèm Một
buổi xế trưa lười biếng hay, Quá
tí nữa, 1 buổi chiều.
Khi
một
điều gì đó nói, bầy chim, im đi Và
ngọn đèn đường độc nhất ở trong làng, Giữ
mấy con bướm đêm làm bạn đường Và
ngôi nhà thật rộng, cũ mèm, để biển bán Với
mấy cửa sổ bể, gãy, tan hoang.
Bài
thơ
có bề ngoài giống y chang 1 bài ca dao, thí dụ bài “Trèo lên cây bưởi
hái hoa”, ở đây, là lên đồi ngắm cảnh. Những “tỉ” những “hứng” có đủ
cả… Nói
theo
Kim Dung, thì chúng là những đòn gió, chỉ để bất thình lình ra đòn sau
cùng, đòn chí tử, là khổ thơ chót.
Đọc,
sao
mà thê lương chi đâu:
When
something tells the birds to hush, And
the one streetlight in the village To
keep a few moths company And
the large old house put up for sale With
some of its windows broken.
Quái làm
sao, câu thơ đầu,
“khi một điều gì đó nói lũ chim câm đi”, làm Gấu nhớ đến cái mail chót,
của 1 nữ thi sĩ, “mi làm phiền ta quá”… “kiếp trưóc mi đúng là con
đỉa”….
Hà
hà! Nhưng
cái
mail kế chót thì thật là tuyệt vời. Em
quả có tí thương [hại] Gấu!
Passing
Through
An
unidentified,
inconspicuous
someone,
smaller than
a flea
snuck over
my pillow last night,
unbothered
by me,
in a big
rush, I bet,
to get to
his church
and thank
his saints.
London
Review of Books 9 May 2013
Quá Giang
Một tên nào
đó
Làm sao biết
là ai
Lịch sự, kín
đáo
Nhỏ hơn con
bọ chét
Tối qua ghé
ngang cái gối của tôi
Không làm tôi
bực mình.
Phận dấu bèo,
Và hình như đang
rất vội, hẳn thế,
Tới nhà thờ
Cám ơn những
vì thánh của hắn
Ui chao đọc
bài thơ này, thì lại nhớ, 1 lần, Gấu nằm mơ, sống lại những ngày Mậu
Thân, cực
kỳ thê thảm, và hình như khóc khủng khiếp lắm.
Bất chợt thức giấc, thấy 1 em ngồi
bên giường, dáng ảo não.
Em nói, con ta khóc, ta dậy lấy sữa cho nó, mà không
làm sao bỏ mặc mi. Thôi, tỉnh rồi, hãy lo thân mi, đừng làm phiền ta
quá như thế.
Giấc mơ thì
có thật, mơ đúng cái cảnh trên đây.
Phải mãi sau
này, khi nghĩ lại cái lần Gấu xin gặp mặt, nhân cả hai cùng ghé Tiểu
Sài Gòn, và
nghe trả lời, mi muốn gặp ta ư, thì đến dự bữa tiệc ra mắt sách của nhà
văn gì gì đó,
nhà xb Cờ Lăng, ta làm MC, ở…. Gấu mới té ngửa, tại làm sao mà lại có
sự
lầm lẫn
lớn lao như thế này.
Hoá ra cuộc tình "giả" như
thế - thì có gì thực đâu – mà cực kỳ thê lương, đó là vì nó được cuộc
chiến, trong có hai tên
sĩ quan
Ngụy, một, là thằng em trai, một, là người chồng, làm nền cho nó.
Giấc mơ
quả có thực, vì cuộc chiến quả có thực, những người đã chết đều có
thực, như ông
anh có lần viết, và “được” tên thi sĩ Trùm băng đảng Cờ Lăng chôm.
Some of
Simic's most powerful, expressive prose can be found in three essays
that deal
with the breakup of Yugoslavia. His opposition to any utopian project,
including nationalism, which would place a collective interest above
the safety
of the individual, is unremitting. As Slobodan Milosevic was taking
power in
Serbia, Simic warned early on that he was "bad news," and for his
pains was denounced by Serbian nationalists as a traitor. His answer:
"The
lyric poet is almost by definition a traitor to his own people." As he
saw
it, "sooner or later our tribe always comes to ask us to agree to
murder," which is one good reason he has resisted tribal identification
with a passion: "I have more in common with some Patagonian or Chinese
lover of Ellington or Emily Dickinson than I have with many of my own
people." Leery of all generalizations, he insists again and again that
"only the individual is real." As the civil war heated up, he found
that his appeals to forgiveness and reasonableness were met with total
incomprehension and finally hatred. Simic, living in America, became
the target
of rumors:
My favorite
one was that the CIA had paid me huge amounts of money to write poems
against
Serbia, so that I now live a life of leisure in a mansion in New
Hampshire
attended by numerous black servants.
If he is
still able to extract wry humor from the situation, elsewhere he rises
to a
furious eloquence. There is no longer any hint of mystery or the
"unsayable" in these political essays; he knows exactly what he wants
to say:
All that became obvious to
me watching the dismemberment of Yugoslavia,
the way opportunists of every stripe over there instantly fell behind
some vile
nationalist program. Yugoslav identity was enthusiastically canceled
overnight
by local nationalists and Western democracies in tandem. Religion and
ethnicity
were to be the main qualifications for citizenship, and that was just
dandy.
Those who still persisted in thinking of themselves as Yugoslavs were
now
regarded as chumps and hopeless utopians, not even interesting enough
to be
pitied. In the West many jumped at the opportunity to join in the fun
and
become ethnic experts. We read countless articles about the rational,
democratic, and civilized Croats and Slovenes, the secular Moslems,
who, thank
God, are not like their fanatic brethren elsewhere, and the primitive,
barbaric, and Byzantine Serbs and Montenegrins .... Anyone
who, like me, regularly
reads the press of the warring sides in former Yugoslavia has a very
different
view. The supreme folly of every nationalism is that it believes itself
unique,
while in truth it's nothing more than a bad xerox copy of every other
nationalism. Unknown to them, their self-delusions and paranoias are
identical.
The chief characteristic of a true nationalist is that special kind of
blindness. In both Serbia and Croatia, and even in Slovenia,
intellectuals are
ready to parrot the foulest neo-fascist imbecilities, believing that
they're
uttering the loftiest homegrown sentiments. Hypocrites who have never
uttered a
word of regret for the evil committed by their side shed copious tears
for real
and imaginary injustices done to their people over the centuries. What
is
astonishing to me is how many in the West find that practice of
selective
morality and machismo attractive.
`With finely controlled
sarcasm, Simic
demonstrates the advantages of an emigre's double vision. It enables
him to see
how his uncle Boris "had a quality of mind that I have often found in
Serbian men. He could be intellectually brilliant one moment and
unbelievably
stupid the next." If Simic is finally harder on the Serbs, despite
acknowledging that there were war criminals in every faction, he
explains:
"Nonetheless, it is with the murderers' in one's own family that one
has
the moral obligation to deal first."
Simic has
summarized his experience- derived, harshly un-American-sounding
outlook as
follows: "Innocents suffer and justice is rare is the story of history
in
a nutshell." Knowing that, he continues to seek to find
a larger
setting for one's personal experience. Without some sort of common
belief,
theology, mythology-or what have you-how is one supposed to figure out
what it
all means? The only option remaining, or so it seems, is for each one
of us to
start from scratch and construct our own cosmology
as we lie in bed at night.
At age seventy-seven he is
still starting from scratch, and writing in bed, his
favorite writing spot, alone with the moth, there being, as he sees it,
no other
option. +
Nhà thơ trữ
tình thì hầu như ngay từ định nghĩa, 1 tên phản bội nhân dân của nó,
chẳng sớm
thì muộn, bộ lạc sẽ tới đề nghị anh ta làm đao phủ thủ.
In the 1980s
everybody was reading The Unbearable Lightness of Being and The Book of
Laughter and Forgetting. But, as he publishes a novel for the first
time in a
dozen years, what is the Czech writer’s reputation today – and is it
irretrievably damaged by his portrayal of women?
Trong những năm 1980 mọi người đều
đọc Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being)và Cười cợt và quên lãng (The
Book of
Laughter
and Forgetting).
Nhưng, khi ông xuất bản cuốn
tiểu thuyết đầu tiên sau hàng chục
năm,
danh tiếng của nhà văn gốc Tiệp này ngày nay ra sao – phải
chăng nó
đã bị hủy hoại không thể cứu vãn do cách miêu tả phụ nữ của
ông?
Câu tiếng Việt,
nhảm. Ý của nó như vầy, "Nhưng, khi ông xuất bản cuốn tiểu thuyết, lần
đầu tiên, sau cả chục năm [bặt tiếng], thế giá của ông bây giờ như thế
nào - liệu nó có bị
sứt mẻ trầm trọng, hết thuốc chữa, do cách ông miêu tả người phụ nữ?"
Cái tít tiếng
Việt cũng nhảm. Tiếng Anh, “sự quan trọng của Kun bây giờ như thế nào”,
là ý muốn
nói, ông này, từ lò CS chui ra, viết 1 cú là nổi như cồn, vì những câu
phán cực
là bảnh tỏng, như "chân lý nước Việt Nam là một", thí dụ, “The struggle
of man against power is the
struggle of
memory against forgetting”, cuộc chiến đấu của con người chống lại
quyền lực là
cuộc chiến đấu của hồi nhớ chống lại sự lãng quên; bây giờ sự quan
trọng của ông như thế nào, là ý đó.
Đây là giật tít câu khách, lấy cái tiểu tít làm tít chính, và làm lệch
pha bài viết.
Gấu có thể là
người đầu tiên giới thiệu Kun với độc giả hải ngoại, nhưng chắc chắn,
là người đầu
tiên khui ra chi tiết này, trong thế giới toàn trị vách nhà giam dán
đầy thơ, và
mọi người nhẩy múa trước những bài thơ đó, và VC Bắc Kít bảnh hơn cả
"Bố của
VC", tức Liên
Xô, bởi là vì ở Liên Xô, ngai vàng Điện Cẩm Linh được thi sĩ và đao phủ
thủ cùng ngồi, nhưng ngai vàng ở Bắc Bộ Phủ, một mình Văn Cao là đủ!
Với tôi, hay
nhất ở Phạm Duy, vẫn là những bản nhạc tình. Ông không thể, và chẳng
bao giờ muốn
đến cõi tiên, không đẩy nhạc của ông tới tột đỉnh như Văn Cao, để rồi
đòi hỏi
"thực hiện" nó, bằng cách giết người. Một cách nào đó, "tinh thần"
Văn Cao là không thể thiếu, bắt buộc phải có, đối với "Mùa Thu", khi
mà nhà thơ ngự trị cùng với đao phủ. Kundera đã nhìn thấy điều đó ở
thiên tài
Mayakovsky, cũng cần thiết cho Cách mạng Nga như trùm cảnh sát, mật vụ
Dzherzhinsky. (Những Di chúc bị Phản bội). Nhạc không lời, ai cũng đều
biết, mấy
tướng lãnh Hitler vừa giết người, vừa ngắm danh họa, vừa nghe nhạc cổ
điển. Cái
đẹp bắt buộc phải "sắt máu", phải "tyranique", (Valéry). Phạm
Duy không nuôi những bi kịch lớn. Ông tự nhận, chỉ là "thằng mất dậy"
(trong bài phỏng vấn kể trên). Với kháng chiến, Phạm Duy cảm nhận ngay
"nỗi
đau, cảnh điêu tàn, phía tối, phía khuất", của nó và đành phải từ chối
vinh quang, niềm hãnh diện "cũng được chính quyền và nhân dân yêu lắm".
Những bài kháng chiến hay nhất của Phạm Duy: khi người thương binh trở
về. Ở
đây, ngoài nỗi đau còn có sự tủi hổ. Bản chất của văn chương "lưu vong,
hải
ngoại", và cũng là bản chất của văn chương hiện đại, khởi từ Kafka, là
niềm
tủi hổ, là sự cảm nhận về thất bại khi muốn đồng nhất với đám đông, với
lịch sử,
với Mùa Thu đầu tiên của định mệnh lưu vong.
Phạm Duy muốn
làm một người tự do tuyệt đối nên đã bỏ vào thành. Nhưng Văn Cao, chỉ
vì muốn đồng
nhất với tự do tuyệt đối, nên đã cầm súng giết người. Thiên tài
Mayakovski cần
thiết cho Cách Mạng Nga cũng như trùm công an mật vụ, là vậy.
"Mặt trời
chân lý chiếu qua tim". (Tố Hữu). Tính chất trữ tình không thể thiếu,
trong thế giới toàn trị (totalitarian world): Tự thân, thế giới đó
không là ngục
tù, gulag. Nó là ngục tù, khi trên tường nhà giam dán đầy thơ và mọi
người nhẩy
múa trước những bài thơ đó, (Kundera, sđd).
« Ce n'était
pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme!
Le
poète régnait avec le bourreau ".
Đâu chỉ là
thời của ghê rợn, của CCRD, của Đấu Tố, của Nhân Văn Giai Phẩm, mà còn
là thời
của thơ ca trữ tình, Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, Đường Ra Trận Mùa
Này Đẹp Lắm.
Thời Của Văn Cao: Thi sĩ
lên
ngôi trị vì cùng với đao phủ.
Tờ LRB,
Michael Hofmann đọc “Lễ Hội Cà Chớn” của Kun.“Cũng” chê. Hết thời rồi.Thập niên 80 là của Kun. Khi bạn không kịp
đọc cuốn cũ, thì có ngay cuốnmới. Nhưng
bạn
trẻ ơi, young reader, tôi – Michael Hofmann - hết đọc rồi. Ít ra, hết
đọc Kun,
no more Kundera!
[Essay]
ARS EROTICA
By Mario
Vargas Llosa, from Notes on the Death of Culture: Essays on Spectacle
and
Society, out next month from Farrar, Straus and Giroux. Vargas Llosa,
who is
the author of more than a dozen novels, received the Nobel Prize for
Literature
in 2010.
Translated
from the Spanish by John King.
A few years
ago, a small media storm erupted in Spain when the Socialist government
in the region of
Extremadura introduced, as part of its sex-education curriculum,
masturbation
workshops for girls and boys over the age of thirteen-a program that it
somewhat
mischievously called Pleasure Is in Your Own Hands. Faced with
protests, the
regional government argued that sex education for children was
necessary to
"prevent undesirable pregnancies" and that masturbation classes would
help young people "avoid greater ills." In the ensuing debate, the
regional
government of Extremadura received support from the regional government
of
Andalucfa, which announced that it would soon roll out a similar
program. An
attempt by an organization close to the Popular Party to close down the
masturbation workshops by way of a legal challenge-called, equally
mischievously, Clean Hands-failed when the public prosecutor's office
refused
to take up the complaint. How things have changed since my childhood,
when the
Salesian fathers and La Salle brothers who ran the schools scared us
with the
idea that "improper touching" caused blindness, tuberculosis, and
insanity. Six decades later schools have jerking-off classes. Now that
is
progress. But is it really? I acknowledge the good intentions behind
the
program and I concede that campaigns of this sort might well lead to a
reduction
in unwanted pregnancies. My criticism is of a sensual nature. Instead
of liberating
children from the superstitions, lies, and prejudices that have
traditionally
surrounded sex, might these masturbation workshops trivialize the act
even more
than it has already been trivialized in today's society? Might they
continue the process of turning sex into an exercise without mystery,
dissociating it from feeling and passion, and thus depriving future
generations
of a source of pleasure that has long nurtured human imagination and
creativity? Masturbation does not have to be taught; it can be
discovered in
private. It is one of the activities that compose our private lives. It
helps boys
and girls break out of their family environment, making them individual
and
revealing to them the secret world of desire. To destroy these private
rituals
and put an end to discretion and shame-which have accompanied sex since
the beginning
of civilization-is to deprive sex of the dimension it took on when
culture
turned it into a work of art. The disappearance of the idea of form in
sexual
matters-like its disappearance from art and literature-is a kind of
regression. It reduces
sex to something purely instinctive and animalistic. Masturbation
classes in
schools might do away with stupid prejudices, but they are also another
stab at
the heart of eroticism- perhaps a fatal one. And who would benefit from
eroticism's
final death? Not the libertarians and the libertines, but the puritans
and the
churches. Of course, these workshops are only a minor manifestation of
a sexual
liberation that is among modern democratic' society's most important
achievements.
They are another step in the ongoing effort to do away with the
religious and
ideological restrictions that have constrained sexual behavior from
time
immemorial, causing enormous suffering. This movement has had many
suite
Bài tiểu luận
của Vargas Llosa về nghệ thuật sex, cực thú vị. Nó làm Gấu nhớ tới lần
đầu tiên
biết may tay, nhờ ông cậu, Cậu Hồng, ông con trai độc nhất của Bà Trẻ
của Gấu. Ông
gọi nó là ‘rung’, “nghệ thuật rung”, nói theo Thầy Vargas Llosa!
Về đường học
vấn, ông cậu của Gấu phải nói là dở, mọi đường khác, ông hơn hẳn Gấu.
Nhớ,
những lần may tay đầu tiên trong đời, sau khi tới đỉnh, Gấu vẫn thường
tự hỏi
làm sao mà ông cậu của mình lại khám phá ra nó, hà hà!
Vargas Llosa
phán, cái trò may tay không cần phải dậy con nít. Phải để chúng tự khám
phá ra!
Masturbation
does not have to be taught; it can be discovered in private. It is one
of the
activities that compose our private lives.
May tay đếch cần phải dạy; nó có thể
được khám phá ra trong riêng tư. Nó là 1 trong những hành vi làm nên
cuộc sống
tư riêng của chúng ta.
Đọc lại, thì
lại nhớ tới câu phán thật bảnh tỏng của Sáu Dân, thời gian mới ở Rừng
về thành
phố, nhìn vầng trán mấy cháu ngoan Bác Hồ - tức thế hệ Lê Công Định -
thấy
tương
lai của đất nước.
Nếu đúng như
thế, hóa ra tương lai của đất nước là nhà tù!
Đúng như thế!
Tếu thế!
Lạ, là, làm
sao 1 tên chăn trâu học lớp 1, mà tiên tri được điều trên?
Có cái gì khác, giữa con nít Ngụy và con nít VC Bắc Kít?
Đúng như thế!
Hình manhhai, net
Giáp & Cố
vấn Tẫu DBP: Đâu phải đợi đến hội nghị Thành Đô, đến Nguyễn Văn Linh
mới nô lệ
Tẫu.