|
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ
của
thiên đường | Passage Eden | Sáng
tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch
thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả
sáng tác | Giới
thiệu | Góc
Sài gòn
| Góc Hà nội
| Góc
Thảo Trường
Lý
thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả
ngoại | Tác
giả & Tác phẩm | Text Scan
| Tin văn
vắn
| Thời sự | Thư
tín | Phỏng
vấn |
Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại
| Potin |
Linh tinh
|
Thống kê | Viết ngắn | Tiểu
thuyết | Lướt
Tin Văn Cũ | Kỷ
niệm | Thời
Sự Hình | Gọi
Người Đã Chết
Ghi
chú
trong ngày | Thơ
Mỗi Ngày | Chân
Dung |
Jennifer
Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật
Ký Tin Văn [TV last page]
Album
1 YEAR AGO
TODAY
Mon, Jun 30, 2014
Anne Frank, một ghi nhận
Source: tanvien.net
Trong một câu chuyện người viết đọc đã lâu, chẳng
còn nhớ gì, ngoại trừ một vài chi tiết: một cháu nhỏ bị bệnh, phải nằm
nhà thương một thời gian dài. Cháu năn nỉ xin được nằm ở một giường bên
cạnh cửa sổ, nhìn xuống đại lộ của một thành phố lớn. Và cháu lấy những
mảnh giấy nhỏ, làm những cánh diều thả xuống đường. Bay theo cùng với
những cánh diều đó, là những ước mơ, những chuyện vụn vặt xẩy ra trong
ngày, bên cạnh, chung quanh ...
Continue Reading
GGM,
Portrait
Cao Huy Khanh Sơ khảo 15 năm văn xuôi miền nam
TTT: “Âm Bản”
[Khởi Hành]
Quả đúng là TTT đã từng phán: Những chữ và những chữ...
Đây đúng là
trang báo mà Thế Nguyên đã chìa cho Gấu đọc, rồi than, TTT bây giờ hỏng
quá rồi!
Bạn chắc còn
nhớ trên TV có kể là Vargas Llosa viết, hồi mới lớn ông rất mê Sartre,
nhất là câu "chữ là hành động" (les mots sont plus forts que les actes,
nhớ đại khái),
sau, nghe Sartre phán, "đứng trước đứa trẻ chết đói, cuốn La Nausée chẳng đáng 1
ký lô", thế là chán Sartre quá!
Thế Nguyên
chê TTT là cũng ý đó!
Folder
Missing Recovered
Gấu Cà
Chớn vs Du Tử Cà
Sinh
nhật
GCC: 16.8.
19.8:
Mừng Cách
Mạng Tháng Tám với hai ông bạn thi sĩ ở Tiểu Cali, tại quán Lan Hương,
tên khai
sinh của BHD
Trong những
kỷ niệm tha hương ngộ cố tri, giữa GCC và cái gọi là dòng văn học Miền
Nam kéo
dài ở hải ngoại, kể từ khi đến được Xứ Lạnh – không kể cái lần bạn quí
bỏ hết
công việc nơi xứ người, cất công qua tận trại tị nạn thăm, không kể cái
lần nhận
được thư của 1 trong 5 nhà văn nữ hàng đầu của Miền Nam trước 1975,
than thở
giùm, mi qua chậm quá, hết mùa biển động, mùa vượt biển, mùa con khỉ gì
gì nữa, rồi – thì cái lần gặp lại bạn Cà, khi qua Cali, thật là tuyệt,
vì thấy bạn
thực sự là mừng, vì thằng bạn ngày nào thực sự sống sót, vượt qua được
cả hai
ngục tù, VC và đệ tử Cô Ba!
Mày đúng là
tái sinh, bạn Cà phán.
Vậy mà bi giờ
mang bạn Cà ra phạng tới tấp, khốn nạn thật!
Hà, hà!
GCC đã kể ra
rồi, trong số bạn bè hồi đó, thì chỉ có
VL và bạn Cà, thực sự mừng, vì Gấu sống sót. Mỗi người mừng 1 kiểu. Cà
phán, mi
tái sinh, còn VL thì khen Gấu Cái, nhờ Hồng mà thằng Trụ sống lại.
Nghe
Bả kể lại,
hồi đó đó, VL thấy Gấu Cái cơ khổ quá, có đưa đề nghị,
thằng Trụ
mà không lo cho em, thì còn khối kẻ khác!
Hà, hà!
Ui chao, viết
lại đời của cặp Gấu, chỉ khoảng thời gian, khi gặp nhau, lấy nhau ra
sao, thì
cũng đủ 1 cuốn tiểu thuyết thượng hạng hảo hạng rồi!
Ngày từ hồi
còn mồ ma Quán Chùa, là bạn Cà đã sửa soạn cho mình, 1 thứ đạo Cà, mà
bạn là giáo
chủ, còn tất cả, đệ tử. Toàn một lũ lau nhau, xưng tụng sư phụ. Thú
thực, GCC
chưa từng thấy, trong số những tên ca tụng thi sĩ Cà, 1 tên, chỉ 1 tên,
thực sự
đọc, thực sự mê thơ, và đủ tài để mà nói ra cái hay, cái dở của nó.
Có thằng nào
như Gấu, mê, chỉ hai câu thơ của bạn Cà, như Gấu mê, chưa?
Em đi áo lụa
mềm lưng phố
Có động lòng
thương kẻ cuối đường.
Chưa 1 tên nào
xứng là đệ tử Cà, thứ thiệt, nói gì... bạn!
Thua xa Gấu.
Có bạn thực, chưa kể bạn quí,
hơn Gấu nhiều, như Joseph Huỳnh Văn, như Đỗ Long Vân, thí dụ.
Bạn Cà thử kể
1 tên, đáng là bạn, hoặc đệ tử... thứ thiệt của Cà, coi?
Không lẽ 1 tên
ăn cắp thơ của kẻ khác, mà là... bạn Cà ư?
Cà thân với tôi lắm!
Một tên Cớm VC mà dám tự nhận "thân với Cà" lắm?
Yếu
điểm -
đúng ra phải nói nhược điểm- của bạn Cà, là quá mê thiên hạ ca tụng Kà.
Bất cứ
1 thằng cà chớn nào thổi Cà, là Cà OK!
Khi đếch có
ai thổi Cà, thì Cà bèn thổi Cà!
Cái này là do
DN, người bạn đời cũ của Cà kể cho Gấu nghe, thời gian Bà dành cho Gấu
1 mục
trên tờ SGN của Bà.
Hồi đó đó, thấy ông ta đói quá, tôi bèn để cho ông giữ 1 mục
trên tờ báo của tôi.
Ông đăng toàn những bài thổi ông, với rất nhiều
cái tên
người viết, đều do ông phịa ra!
Dịch lại & Lại dịch
"Hóa Thân" của Kafka qua tiếng Anh
JANUARY
15, 2014
ON
TRANSLATING KAFKA’S “THE METAMORPHOSIS”
POSTED
BY SUSAN BERNOFSKY
This
essay is adapted from the afterword to the
author’s new translation of “The Metamorphosis,” by Franz Kafka.
Cú
khó sau chót, về dịch, là cái từ trong cái tít. Không
giống từ tiếng Anh, “metamorphosis,”
“hóa
thân”, từ tiếng Đức
Verwandlung
không đề nghị cách hiểu tự nhiên, tằm
nhả tơ xong, chui vô kén, biến thành nhộng, nhộng biến thành
bướm, trong vương quốc loài vật. Thay vì
vậy, đây là 1 từ, từ chuyện thần tiên, dùng để tả sự chuyển hóa, thí dụ
như
trong chuyện cổ tích về 1 cô gái đành phải giả câm để cứu mấy người
anh bị bà phù thuỷ biến thành vịt, mà Simone Weil đã từng đi 1 đường
chú giải
tuyệt vời.
“Hóa thân” là phải hiểu theo nghĩa đó, giống như GCC, có thể đếch chết,
và thay vì chết, thì biến thành rồng, như lời chúc SN của bạn DV!
Chả
là ở quê
của Gấu, khúc sông Bạch Hạc, Việt Trì, có loài cá chép kêu là Cá Anh
Vũ, ngon số
1, dùng để tiến vua, và hàng năm, cá tụ về, thi vượt Vũ Môn. Con nào
vượt được,
thì biến thành Rồng!
Thơ
Mỗi Ngày
Gió
Hà Nội trong hồn người xa xứ
Note: LMH có thể nói, là do
GCC khám phá ra, trong khi chính những kẻ ra đi từ Miền Bắc, thì lại dè
bỉu, “cái
Hà mà viết cái gì”, như 1 tay viết mail riêng cho GCC nhận xét, hay như
em Y Bọt
gì đó, 1 nhà văn trong nước được dịp ra hải ngoại, “viết thua cả học
trò của
tui”, hình như bà này đã từng phát biểu.
Tuy nhiên, khi GCC nhận xét
LMH, hồi mới đọc bà, là từ 1 viễn ảnh của tương lai, của 1 miền đất,
cùng với nó
là thứ văn chương, như con phượng hoàng tái sinh từ tro than, như của
lũ Ngụy,
sau 1975, không phải thứ văn chương hoài niệm - như cách đọc LMH ở đây
- cũng
như cách mà đám VC đọc văn chương trước 1975 của Miền Nam, khi cho in
lại một số
tác phẩm của họ, bằng cách cắt xén, sao cho vừa cái nhìn kiểm duyệt của
chúng.
Đây là 1 cách đọc thất bại,
với cả hai, những tác phẩm như của LMH, và của Miền Nam trước 1975,
theo GCC.
Nhưng, tác giả thất bại, hay
tác phẩm, như Phố Vẫn Gió,
thất bại?
NQT
Khi đọc cái
tít, Phố Vẫn Gió, Gấu nghĩ, liệu nó trong dòng “Gió từ thời khuất mặt?”
Từ “khuất mặt” này, Gấu cũng đã
giải thích bằng
dòng thơ của Akhmatova, và nó liên quan cái thời VC, đếch còn mặt, theo
nghĩa
người ẩn mặt, Ẩn trong Phạm Xuân Ẩn PXA, cứ mỗi lần chàng vô Bưng gặp
Sếp VC là
phải chùm mặt lại.
Dòng văn
chương của LMH, là dòng văn chương của hồi nhớ, nhưng ở cuốn đầu nó có
tính tố
cáo, như ý nghĩa của những dòng sau đây của Susan Sontag nói về cõi thơ
của AZ
The
human face disappeared and also its divine image. In the classical
world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly, one who
cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ
xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn
thấy. Người CS hãnh diện trong "không mặt".]
Nói cho cùng, đó là thời "không mặt". Như một hình ảnh khủng khiếp của
Anna Akhmatova, về Cách Mạng:
As
though, in night's terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear
[Như thể, trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất]
D.M. Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở
trong ta.
****
.... All writing
is a species of remembering. If there is anything triumphalist about Another
Beauty it is that the acts of remembering the book contains
seem so
frictionless. Imagining-that is, bringing the past to mental life-is
there as
needed; it never falters; it is by definition a success. The recovery
of
memory, of course, is an ethical obligation: the obligation to persist
in the
effort to apprehend the truth. This seems less apparent in America,
where the
work of memory has been exuberantly identified with the creation of
useful or
therapeutic fictions, than in Zagajewski's lacerated corner of the
world. To
recover a memory-to secure a truth-is a supreme touch-stone of value in
Another
Beauty.
"I didn't witness the extermination
of the Jews," he writes:
I was born
too late. I bore witness, though, to the gradual process by which
Europe
recovered its memory. This memory moved slowly, more like a lazy,
lowland river
than a mountain stream, but it finally, unambiguously condemned the
evil of the
Holocaust and the Nazis, and the evil of Soviet civilization as well
(though in
this it was less successful, as if reluctant to admit that two such
monstrosities might simultaneously coexist). That memories are
recovered-that
is, that the suppressed truths do reemerge-is the basis of whatever
hope one
can have for justice and a modicum of sanity in the ongoing life of
communities. Once recovered, though, even truth may become complacent
and
self-flattering. Thus, rather than provide yet one more denunciation of
the iniquities
and oppressiveness of the regime that was shut down in 1989, Zagajewski
chooses
to stress the benefits of the struggle against evil that flowed to the
idealistic young in his portrayal of the flawed beginnings of his
vocation, as
a "political poet," and his activities in dissident student and
literary circles in the Krakow of the late 1960s and 1970s. (In 1968,
Zagajewski was twenty-three years old.) In those heady days, poetry and
activism rhymed. Both elevated, heightened; engagement in a just cause,
like
service to poetry, made you feel larger.
That every
generation fears, misunderstands, and condescends to its
successor-this, too,
is a function of the equivalence of history and memory (history being
what it
is agreed on, collectively, to remember). Each generation has its
distinctive
memories, and the elapsing of time, which brings with it a steady
accumulation
of loss, confers on those memories a normativeness which cannot
possibly be
honored by the young, who are busy compiling their memories, their
benchmarks.
One of Zagajewski's most moving portraits of elders is of Stefan
Szuman, an
illustrious member of the interwar Polish intelligentsia (he had known
Stanislaw Witkiewicz and Bruno Schulz) and now a retired professor at
the
university living in isolation and penury. Its point is Zagajewski's
realization, thinking back, that he and his literary friends could only
have
seemed like fools and savages, "shaped by a postwar education, by new
schools, new papers, new radio, new TV;" to the defeated, homely,
embittered Szuman and his wife. The rule seems to be: each generation
looks
upon its successor generation as barbarians. Zagajewski, himself no
longer
young and now a teacher of American students, is committed to not
eplicating,
in his turn, that kind of despair and incomprehension. Nor is he
content to
write off an entire older Polish generation of intellectuals and
artists, his
generation's "enemy"-the true believers and those who just sold out-for
turpitude and cowardice: they weren't simply devils, any more than he
and his
friends were angels. As for those "who began by serving Stalin's
civilization" but then changed, Zagajewski writes: "I don't condemn
them for their early, youthful intoxication. I'm more inclined to
marvel at the
generosity of human nature, which offers gifted young people a second
chance,
the opportunity for a moral comeback." At the heart of this assessment
is
the wisdom of the novelist, a professional of empathy, rather than that
of a
lyric poet. (Zagajewski has written four novels, none as yet translated
into
English.) The dramatic monologue "Betrayal" in Two Cities begins: Why
did I do that? Why did I do what? Why was I who I was?
And who was
I? I am already beginning to regret that I agreed to grant you this
interview.
For years I refused; you must have asked me at a weak moment or in a
moment of
anxiety .... What did that world look like? The one you were too late
to get to
know. The same as this one. Completely different. That everything is
always
different ... and the same: a poet's wisdom. Actually, wisdom tout
court. Of
course, history should never be thought of with a capital H. The
governing
sense of Zagajewski's memory-work is his aware- ness of having lived
through
several historical periods, in the course of which things eventually
got
better. Modestly, imperfectly-not utopianly-better. The young
Zagajewski and
his comrades in dissidence had assumed that communism would last
another
hundred, two hundred years, when, in fact, it had less than two decades
to go. Lesson: evil is
not immutable. The reality is, everyone outlives an old self,
often more than one, in the course of a reasonably long life.
Susan Sontag: The Wisdom Project
Tớ đếch chứng
kiến Lò Thiêu, làm cỏ Do Thái. Tớ sinh trễ quá. Tớ sinh ra và chứng
kiến tiến
trình qua đó Âu Châu tìm đường nhớ chính nó.
Hồi ức chậm như sên, nhưng cuối
cùng nó cĩng làm được chuyện tố cáo Cái Ác Nazi.
Hồi nhớ Bắc
Kít, ngay từ bây giờ, đã vờ mấy cú: Quên mẹ cái “ơn trời biển” của
Thiên Triều
Quên mẹ Cái Ác Bắc Kít, qua thành quả “làm cỏ Lũ Ngụy”
Toan tính ve vãn anh Yankee Mũi Lõ, quên mẹ nó đã từng “dầy xéo xứ Mít”!
Trong "Trò
Chuyện với Brodsky", của Volkov, chương chót, "St. Petersburg: Memories
of the
Future", Hồi Nhớ Tương Lai, đọc thú lắm, và áp dụng vô Hà Nội thật là
tuyệt.
Từ
từ, Gấu lèm bèm tiếp.
Thí dụ câu này, của Brodsky mà chẳng thú sao:
Tất cả chúng ta thì đều phóng chiếu chúng ta trên cái nền là thành phố
cổ đó.
Mỗi
thời, lũ Hà Nội có 1 ấn bản của riêng nó, về Hà Nội.
GCC đọc LMH,
để kiếm cái ấn bản của riêng Gấu, về nó.
Hoặc, của nó, về Gấu!
Thí dụ, cái khúc này, H/A thật mê:
Người
đàn ông làm tôi nhớ
tới
người Tầu già bán lạc rang ở bờ hồ Hà Nội. Tôi có nhiều kỷ niệm về
thành phố
nhỏ bé và cũ kỹ đó. Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện. Tôi
thường
tinh nghịch để những viên sỏi nhỏ lên trên đường sắt, rồi hồi hộp chờ
chuyến xe
chạy qua. Suốt thời thơ ấu, tôi bị chiếc xe điện mê hoặc. Một lần trốn
vé xe,
tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai
toa xe lại
với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi
có tiền
mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm
vào thanh
sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm
hộp đồ
nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn
chúng tôi
với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm
thấy thích
thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã
quên từ
lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy
nhìn tôi
cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành
xe ầm
ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát
vé đang
giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục
cười,
tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ
sao, người
soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi
nhìn xuống
con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt
nghĩ tới
đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống,
nhặt
chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo.
Sau đó,
tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu
đội chiếc
mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ
nó nhận
ra tôi.
Note:
Hình dưới đây, "cũng" Phố Cổ Hà Nội!
Source
Sách
Báo
James
Ellroy, le justicier magnifique
par Violaine
Binet
VOGUE
"Je
ne
lis plus dorénavant, C'est dans mon sang. On n'apprend pas le gout du
sang à un
tigre. Le tigre a faim, il a besoin de viande. C'est moi le tigre. Je
suis le
tigre du roman noir.”
Tôi đếch
đọc
nữa.
Có sẵn
trong máu. Người ta
đâu dạy
hổ
mùi máu. Nó đói, nó cần
thịt
sống.
Tớ
là con hổ
đó. Tớ
là con hổ
của
tiểu
thuyết
đen.
Trang Bolano
FRIENDS ARE
STRANGE
One is
prepared for friendship, not for friends. And sometimes not even for
friendship, but at least we try: usually we flail in the darkness, a
darkness
that's not foreign to us, a darkness that comes from inside us and
meshes with
a purely external reality, with the darkness of certain gestures,
certain
shadows that we once thought were familiar and that in fact are as
strange as a
dinosaur.
Sometimes that's what a friend is: the distant shape
of a dinosaur
crossing a swamp, a dinosaur that we can't grab or call or warn of
anything.
Friends are strange: they disappear. They're very strange: sometimes,
after
many years, they turn up again and although most have nothing to say to
us anymore,
some do, and they say it.
Recently I had the rare privilege of seeing an old
friend again. I met him in Chile, in 1973, and I saw him again last
year. After
the usual niceties, my friend launched into his story, telling it to my
wife
and me. It was a story full of danger, adventure, prisons, bloodshed.
At a
certain moment he recalled a night on which two kids dodged the bullets
of a
night patrol, leaping through the yards of a suburban neighborhood. My
wife was
listening carefully. I started to listen carefully too. It didn't sound
real.
One of those kids was my friend. When I asked him who the other one
was, he
said: Don't you remember? No, I didn't remember. The other one was you,
he
said. At first I didn't believe him. That night had been erased from my
memory.
But later I remembered and it was then that I saw the dinosaur or the
shadow of
the dinosaur slipping across the swamp with every gun in the world
pointed at
its head.
Bạn thì quái
Bạn được sửa
soạn để “welcome” tình bạn, đếch phải bạn. Và đôi khi, đếch phải tình
bạn, nhưng
ít nhất, phải thử: Bạn quăng mình vô một cái tối tăm, thứ tối tăm bạn
chẳng lạ lùng gì với nó, nó từ bên trong bạn, và thế là nó bèn mắc vô
thực tại rất
ư, hoàn toàn bên ngoài; với cái tối tăm của một vài cử chỉ, điệu bộ,
một vài cái
bóng mà bạn có lần tưởng là quen thuộc - tưởng là bạn thân, bạn quí,
bạn bên
ly cà phê
cái con mẹ gì đó – nhưng sự thực chúng lạ lùng quái quái, y như 1 loài
khủng
long!
Đôi khi, cái
gọi là một người bạn là như thế đó: một cái bóng dáng xa xa của 1 con
khủng
long, vượt qua một
đầm lầy, một con khủng long mà chúng ta không thể chộp bắt, hay kêu
gọi, hay cảnh
báo cái con mẹ gì hết.
Bạn thì quái - không phải quí, mà quái: Chúng biến mất –
thí dụ như khi biết bạn lậm vô xì ke, ma tuý, bạn biến thành hủi, chớ
đến gần mà
mang họa!
Chúng thật quái,
cực quái: đôi khi, sau nhiều năm, chúng lại xuất hiện, lại chường mặt
ra,
và thường là, chúng chẳng có chó gì để nói, hay nói thêm, nhưng vài tên
có,
và chúng bèn nói ra, thí dụ, đúng là mi tái sinh đấy, Gấu ạ!
Hà, hà!
Mới đây tôi
có diễm phúc, gặp lại một đấng bạn cũ.
EXILES
To be exiled
is not to disappear but to shrink, to slowly or quickly get smaller and
smaller
until we reach our real height, the true height of the self. Swift,
master of
exile, knew this. For him exile was the secret word for journey. Many
of the
exiled, freighted with more suffering than reasons to leave, would
reject this
statement.
All literature carries exile within it, whether the
writer
has had
to pick up and go at the age of twenty or has never left home. Probably
the
first exiles on record were Adam and Eve. This is indisputable and it
raises a
few questions: Can it be that we're all exiles? Is it possible that all
of us
are wandering strange lands? The concept of "strange lands" (like
that of "home ground") has some holes in it, presents new questions.
Are "strange lands" an objective geographic reality, or a mental
construct
in constant flux?
Lưu vong không
phải là biến mất, nhưng mà là co rút lại, chầm chậm hay mau chóng trở
thành nhỏ
bé, nhỏ bé mãi, cho đến khi chúng ta đạt được cái chiều cao thực của
chúng ta,
cái chiều cao thực của cái tôi. Swift, bậc thầy lưu vong, hiểu điều
này. Với
ông ta, lưu vong là “từ bí mật” của từ du
hành, rong chơi, một cõi đời chỉ biết rong chơi. Rất nhiều đấng bị
VC đá
đít, hay cả những kẻ bị VC giáng cho những đòn chí tử, chịu nhiều đau
khổ hơn cả
tổng số những lý do để bỏ nước ra đi, đếch chịu một giải thích cà chớn
như thế!
Mọi văn
chương cưu mang trong nó “cái gọi là” lưu vong, cho dù nhà văn, hoặc là
đi bụi
vào lúc đôi mươi hay là chẳng bao giờ rời khỏi nhà!
Có lẽ hai
tên lưu vong đầu tiên, thì là A Đam và E Và. Điều này khỏi bàn cãi,
nhưng nó lại
dấy lên vài câu hỏi, không lẽ thằng nào, con nào đều là… "lưu
vong"? “Đàng nào” thì cũng là
Đàng Trong, đếch có Đàng Ngoài?
Nói rõ hơn, cái ý niệm Đất Lạ có vài
cái lỗ hổng
ở trong nó?
Đất Lạ là 1 thực thể địa lý mang tính khách quan?
Hay là 1
cấu trúc
tinh thần luôn trong dòng chảy?
30.4.2015
30.4.2015
Linh Nguyen
with Lê
Công Định and 23 others
11 hrs · Edited
·
MỖI NGÀY MỘT SỰ THẬT
Tại sao bảo tàng chứng tích chiến tranh KHÔNG trưng mấy hình này? Tội
ác của
Việt cộng thì không bao giờ được đề cập.
LIFE Jan 28, 1952 - ẢNH TRONG TUẦN -
Một quả bom biến quảng trường ngập nắng của Sài Gòn thành một lò sát
sinh.
Đoạn dịch từ chú thích (caption) dưới bức ảnh: ...
Note: Đệ tử TMT gây ra, không phải Việt Minh.
NQT
.
1952: Bom
gài trên xe đạp, nổ tại Catinat, mở ra "Người Mỹ Trầm Lặng" của Greene.
(3)
PXA vs Graham Greene
Phạm
Xuân Ẩn cũng là chứng nhân tận mắt vụ nổ giữa trung tâm Sài Gòn, sự
kiện xuất
hiện trong The Quiet American.
Blog
NL
Không
đúng. Người độc nhất ngồi gần nhất cú nổ ở Catinat, do người của lực
lượng thứ
ba, là TMT làm, là anh ký giả Hồng Mao ghiền, Fowler. Anh này lúc đó
ngồi ở Quán
Chùa, có thể đúng cái ghế sau này GCC, cũng ghiền như anh ta,
ngồi, như
trong “Tiểu
sử Greene”, của Sherry, cho biết.
Khi phái đoàn làm phim “Người Mẽo
trầm lặng”
quay cảnh này tại Sài Gòn, thì PXA có ghé coi, và tiện thể tố, Greene
là gián điệp!
Greene đâu có giấu điều này.
Gấu nghi là PXA ghen tài viết văn của
Greene. Mày
vừa viết văn, vừa làm gián điệp, vừa suýt đợp Nobel.
Bởi
thế mới có Nguyễn Khải viết giùm PXA.
Graham
Greene
Đúng như
Greene nhận xét: Bản chất con người không đen và trắng, mà là đen xám,
hay đúng
hơn, xám xịt.
[Human nature is not black and white but black and grey].
Viết nhân mùa mưa
Tự Do Viết
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt trên đê làng
Thanh
Trì, Sơn Tây
|