|
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ
của
thiên đường | Passage Eden | Sáng
tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch
thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả
sáng tác | Giới
thiệu | Góc
Sài gòn
| Góc Hà nội
| Góc
Thảo Trường
Lý
thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả
ngoại | Tác
giả & Tác phẩm | Text Scan
| Tin văn
vắn
| Thời sự | Thư
tín | Phỏng
vấn |
Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại
| Potin |
Linh tinh
|
Thống kê | Viết ngắn | Tiểu
thuyết | Lướt
Tin Văn Cũ | Kỷ
niệm | Thời
Sự Hình | Gọi
Người Đã Chết
Ghi
chú
trong ngày | Thơ
Mỗi Ngày | Chân
Dung |
Jennifer
Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật
Ký Tin Văn [TV last page]
Album
GGM,
Portrait
Gửi tặng chú cái ảnh
GGM, nói đến GGM thì dùng ảnh này mới vui: GGM trẻ, beau gosse, cười
rất tươi, nhưng mắt bầm tím, vừa bị Vargas Llosa đấm, hồi giữa thập
niên 70.
cheers,
NL
Tks. NQT
Cao Huy Khanh Sơ khảo 15 năm văn xuôi miền nam
Thơ
Mỗi Ngày
THE
IMPORTANCE OF SIMONE WElL
Mai Thảo, Tuỳ Bút
Khởi Hành
Linh tinh
Milan Kundera có còn quan hệ gì không?
Does Milan Kundera Still Matter? (Atlantic July/August 2015)
GS Kinh
Tế, “Trùm” Trang "Việt Xì Tốp Đi
Thôi", dịch nhảm quá.
Câu này có nghĩa, nôm na, là, có cần
đọc thằng K này nữa hay không? Hay, tay
K này có còn quan trọng không, có còn xứng đáng để đọc không, đại khái
như thế.
Làm gì có “quan hệ” ở đây! [matter: be of importance; have
significance...]
Obituary:
Christopher Lee
Ui chao, lại nhớ đến Phật Giáo Miền Nam ngày nào!
Không khùng, nhưng đa số trốn lính, hoặc phò VC!
Trang Bolano
EXILES
To be exiled
is not to disappear but to shrink, to slowly or quickly get smaller and
smaller
until we reach our real height, the true height of the self. Swift,
master of
exile, knew this. For him exile was the secret word for journey.
Many of the exiled, freighted with more suffering than
reasons to leave, would reject this statement.
All literature carries exile
within it, whether the writer has had to pick up and go at the age of
twenty or
has never left home.
Probably the first exiles on record were Adam and
Eve.
This is indisputable and it raises a few questions: Can it be that
we're all
exiles? Is it possible that all of us are wandering strange lands?
The concept
of "strange lands" (like that of "home ground") has some
holes in it, presents new questions. Are "strange lands" an objective
geographic reality, or a mental construct in constant flux?
[suite]
LITERATURE AND EXILE
I've been
invited to talk about exile. The invitation I received was in English,
and I
don't speak English. There was a time when I did or thought I did, or
at least
there was a time, in my adolescence, when I thought I could read
English almost
as well, or as poorly, as Spanish. Sadly, that time has passed. I can't
read
English. By what I could gather from the letter, I think I was supposed
to talk
about exile. Literature and exile. But it's very possible that I'm
completely mistaken,
which, thinking about it, would actually be an advantage, since I don't
believe
in exile, especially not when the word sits next to the word literature.
It's a
pleasure for me, I should say right away, to be with you here in the
celebrated
city of Vienna. For me Vienna is strongly associated with literature
and with
the lives of some people very near to me who understood exile in the
way I sometimes
understand it myself, which is to say, as life or as an attitude toward
life.
In 1978, or maybe 1979, the Mexican poet Mario Santiago spent a few
days here
on his way back to Israel. As he told it himself, one day the police
arrested
him and then he was expelled. In the deportation order, he was
instructed not
to return to Austria before 1984, a date that struck Mario as
significant and
funny and that today strikes me the same way. George Orwell isn't just
one of
the great writers of the twentieth century; he's also first and
foremost a good
man, and a brave one. So to Mario, back in the now distant year of 1978
or
1979, it seemed funny to be expelled from Austria like that, to be
punished by
being forbidden to set foot on Austrian soil for six years, until the
date of
the novel had arrived, a date that for many was the symbol of ignominy
and
darkness and the moral collapse of humankind. And here, leaving aside
the significance
of the date and the hidden messages that fate-or chance, that even
fiercer
beast-had sent the Mexican poet and through him sent me, we can discuss
or
return to the possible topic of exile or banishment: the Austrian
Ministry of
the Interior or the Austrian police or the Austrian security service
issues a
deportation order and consigns my friend Mario Santiago to limbo, to a no-mans-land, which frankly sounds
better in Spanish than in English, because in Spanish tierra
de nadie means precisely that, barren land, dead land, land
where nothing lives, while in English the suggestion is that there are
simply
no men there, though there are other creatures, animals or insects,
which makes
it much nicer, I don't mean very nice, but infinitely nicer than in the
Spanish
sense, although probably my understanding of both terms is affected by
my
increasing ignorance of English and also by my increasing ignorance of
Spanish
(the term tierra de nadie isn't in
the dictionary of the Royal Spanish Academy, which is no surprise;
either that
or I missed it). But the point is that my Mexican friend was expelled
and
[suite]
Note: Trong "Trong Ngoặc”, có hai
bài về lưu vong. Tin
Văn sẽ scan & post cả hai , và sau đó, dịch & viết lai rai.
Văn Chương và Lưu vong, 1 bài đọc, trong có nhắc tới Vienna,
sợ cùng thời gian nơi chốn với bài của Brodsky, "Phận Lưu Vong", trên
Tin Văn nhắc
tới, trong có nhắc tới thuyền nhân VN.
Sorry. Văn chương và Lưu vong, đọc ngày 3 tháng Tư, 2000, trong cuộc
hội luận về Âu Châu và Mỹ La Tinh: Văn chương, Di trú, và Căn cước, do
Austrian Society tổ chức tại Vienna.
Vấn đề ngôn ngữ là sinh tử nhất, và cũng phức tạp nhất đối với một nhà
văn lưu vong. Với con người bình thường, khi chạy trốn (một thế giới
toàn trị, thí dụ vậy), là để có tự do cho bản thân. Với nhà văn, còn
cộng thêm tự do cho ngôn ngữ, thoát khỏi sợ hãi, bách hại.
Một con người tự do, khi thất bại, không đổ tội cho ai. (A free man,
when he fails, blames nobody), Joseph Brodsky khẳng định trong Phận Lưu
Vong (The condition we call exile).
Đây là một bài đọc trong một hội
nghị tại Vienna vào tháng Một (Nov) 1987, khi làn sóng người Việt bỏ
nước ra đi đang làm nhức nhối lương tâm nhân loại: Hôm nay chúng ta tụ
họp ở đây, trong căn phòng quyến rũ, ánh đèn sáng chưng, vào một buổi
tối tháng Chạp lành lạnh như thế này, để nói về số phận của nhà văn lưu
vong. Xin hãy trầm tư đôi ba phút để nghĩ tới vài người trong số họ...
Hay là hãy tưởng tượng tới những thuyền nhân Việt Nam đang cố vượt lên
trên đầu những đợt sóng dữ, nơi biển cao, hoặc đã tạm yên ổn, về nơi ăn
chốn ở trong một trại tiếp nhận, đâu đó trong vùng Đông Nam Á....
Cho dù bạn có thể đặt cho nó (nhà
văn lưu vong) bất cứ một cái tên
riêng như thế nào, cho dù bất cứ nguyên nhân, mục đích, nơi chôn rau
cắt rốn mà họ đành đoạn bỏ đi; nơi tới, quê hương thứ nhì mà họ mong có
được; chỉ có một điều này là thật hiển nhiên, rõ ràng: Thật khó khăn vô
cùng cho họ khi nói chuyện về số phận nhà văn lưu vong mà phải nhìn
thẳng vào người đối diện.
Và nếu phải cho nó, văn chương
lưu vong, một thể loại, thì đây là
bi-hài. Bởi vì, vốn đã có những hiểu biết (do sự nhập thân trước đó),
nhà văn lưu vong có thể "hưởng thụ" những tiện nghi xã hội và vật chất
của chế độ dân chủ hơn những người bản xứ. Nhưng cũng vì lý do đó, (và
điều này chủ yếu là do hàng rào cản ngôn ngữ, như một phó sản phẩm
chính), họ cảm thấy hoàn toàn bất lực khi (phải) đóng một vai trò có ý
nghĩa nơi xã hội mới. Chế độ dân chủ mà anh ta tới được, cung ứng cho
anh ta một sự an toàn về vật chất, nhưng lại làm cho anh ta trở thành
vô nghĩa về phương diện xã hội. Và thiếu, mất ý nghĩa (lack of
signifiance) là một điều mà nhà văn, lưu vong hay không lưu vong, đều
không thể chịu đựng được. Một bạn văn của người viết, và còn là chủ
nhiệm một tạp chí văn học, đã nói về nỗi đau "viết như vào hư vô, chẳng
có âm vang vọng lại - từ phía độc giả, ít ra", của nhà văn Việt Nam lưu
vong viết bằng tiếng mẹ đẻ.
Nghe kể lại, Võ Phiến đã từng
than: nhà văn
Việt ra khỏi nước, không mang theo được độc giả (của người đó), cùng
với mình. Đây là hậu quả tất nhiên của số phận nghiệt ngã của cái gọi
là văn chương lưu vong, vốn bi-hài như trên đã nói.
Buồn thật, nhưng J. Brodsky "an
ủi" chúng ta, nếu có một điều gì tốt,
thì đó là văn chương lưu vong dậy chúng ta: sự khiêm nhường.
Đẩy thêm bước nữa, hãy giả dụ như
thế này: văn chương lưu vong dậy
chúng ta một bài học tối hậu về đức hạnh. Và nó thật vô giá đối với nhà
văn, bởi vì nó cho anh ta một viễn tượng khả hữu lâu dài nhất. Và nghệ
thuật của anh sẽ còn hoài với nhân loại ("And thou art far in
humanity"), như Keats nói. Bị thất lạc, "bỏ đi" (viết như vào hư vô)
giữa nhân loại, giữa đám đông, (đám đông: người Việt ở hải ngoại?),
giữa cả tỉ người (thế giới tự do?); trở thành cái kim đáy bể, nhưng lại
là cái kim mà một người nào đó đang tìm kiếm: đó là tất cả cái gì được
gọi tên là lưu vong. Vô thường thôi, bạn là gì, may ra chỉ là hạt cát
trong sa mạc. Vinh quang và cũng là bất hạnh: Hãy đo lường chính bạn,
không phải đối với những bạn văn, nhưng với cái vô cùng của trời đất
con người.
Còn một sự thực liên quan tới vấn
đề này là, nhà văn lưu vong hay tra
xét quá khứ, hay hồi phản (retroactive). Như những nhà tiên tri dởm
trong Inferno của Dante, cái đầu của anh ta cứ quay hoài hoài về phía
sau, trong khi nước mắt, nước miếng chẩy ra ròng ròng xuống hai bờ vai:
bị trầm luân bởi một diễn đàn người đọc giới hạn, tiếc nuối hoài hoài
mớ ngàn ngàn triệu triệu độc giả mà anh ta bỏ lại phía sau (không mang
theo cùng với mình được); thế là cứ một Bếp Lửa (Hà-nội?) của một thuở
di cư, đành bỏ lại (Merde!, nhân vật Thạch của Thanh Tâm Tuyền văng
tục, khi ngồi trên máy bay nhìn xuống vực thẳm ở dưới đó. Hạnh phúc
thay, còn văng tục được! Bởi vì vẫn còn yêu thương, vẫn hy vọng được
tha thứ, hoặc được thốt lời cầu xin tha thứ, vì đã bỏ đi?). Cứ một
Sài-gòn muôn đời muôn thuở của một Miền Nam đã mất.
Dù muốn dù không,
bất cứ một nhà văn lưu vong nào cũng muốn làm cho một miền đất (Bình
Định, chẳng hạn), một thành phố, một người yêu (như một biểu tượng cho
một quê hương ruồng bỏ?) trở thành bất tử, như một La-mã của Ovid,
Florence của Dante - và Dublin của Joyce.
Joseph Conrad là một trong những nguyên mẫu hiện đại, về nhà văn lưu
vong: ông viết toàn bằng tiếng Anh. Ngoại trừ hai truyện ngắn, ông
không hề viết bằng tiếng Ba-lan, thay vì vậy, ông viết về biển, về Đông
Nam Á, Nam Mỹ, Marseilles, London.
Như trong tất cả tiểu thuyết của
ông, nỗi cô đơn "cốt tuỷ" của lưu vong không "mắc mớ" gì tới tính đặc
thù Ba-lan.
Conrad sinh ra là đã lưu vong rồi, bởi vì nơi chôn rau cắt rốn của ông,
miếng đất Ba-lan gần Berdyczow đã bị sát nhập vào Nga, dù ý nghĩa về
một nước Ba-lan và tiếng nói Ba-lan rất mạnh ở đây. Cha ông là một nhà
hoạt động, nhà văn hóa, gia đình sau đó bị đầy đi xa, khi Conrad mới 7
tuổi, trước là tới Vologda phía bắc Moscow, sau trở lại phía nam
Chernikov, không xa Kiev. Sau khi mẹ mất ông trở về Lwow, lúc này là
một phần của Áo quốc, rồi cam phận làm một đứa trẻ mồ côi dưới sự bảo
bọc của một người chú (bên phía mẹ), tại Cracow (cũng là một phần của
nước Aó). Giấc mơ của ông là biển, và khi đưọc 17 tuổi ông rời nhà đi
Marseilles. Ông là một người sinh ra, lưu vong bất đắc dĩ ở Đông
phương, rồi trở thành lưu vong tự nguyện ở Tây phương. Nhưng hiểu biết
của ông về văn chương Ba-lan thật là đậm đà. Cái nền của ông thật là
phức tạp.
Ngay cả bây giờ, Ionesco, Nabokov, và Beckett vẫn là những thí dụ hiếm
hoi, về một hội nhập ngôn ngữ hoàn tất, và về khoảng cách cần thiết, để
chuyển hoá những đề tài mang tính miệt vườn/quốc gia hòa nhập vào những
điều được gọi là thân phận con người ở bất cứ đâu đâu. +
NQT
Bolano viết,
trong "Văn Chương và Lưu Vong":
"I
don't have to leave my house to see the world," says the Tao Te Ching,
yet
even when one doesn't leave one's house, exile and banishment make
their
presence felt from the start. Kafka's oeuvre, the most illuminating and
terrible (and also the humblest) of the twentieth century, proves this
exhaustively.
Ta không cần
phải rời nhà của ta để nhìn thế giới [Đạo Đức Kinh]. Ngay cả khi một
con người
không rời nhà của mình, thì lưu vong và biếm xuất đã cho thấy sự hiện
diện của
chúng, ngay từ lúc thoạt kỳ thuỷ. Tác phẩm của Kafka, sáng ngời, khủng
khiếp nhất
(và cũng khiêm tốn nhất) chứng tỏ hoài hủy điều này.
Đây là điều
Gấu đã có lần Cà Chớn phán, bạn cứ ngồi vô cái bàn, cầm cây viết lên,
là lưu
vong xuất hiện và hỏi thăm, và nắn gân bạn liền!
Nhớ 1 lần
qua Cali, được ông chủ nhà sách, Thầy VTT, giấm giúi vợ, biếu mấy cuốn
sách,
trong có cuốn VHHN gồm hai tập, do KT chủ biên.
Bài mở ra là của Thầy Kuốc, khi đó chắc là Thầy
còn mong về, nên phán dữ lắm, làm gì văn chương lưu vong!
Ông chủ chi
địa ngày nào của Gấu, chủ báo Văn Học, cũng không tin là có thứ văn
chuơng lưu
vong. Thoạt đầu, ngay sau 30 Tháng Tư, có. Sau đó, mò về, thì làm sao
còn lưu
vong, mà phải gọi là di dân!
Bạn quí HPA
của Gấu cũng không tin có thứ văn chương lưu vong. Anh phán, tao phải
đi Mẽo là
vì vấn đề cá nhân gia đình, nhưng suốt đời tao là nhà văn Mít, đếch làm
cái thứ
nhà văn lưu vong, tức mấy tên qua Mẽo, có tiền, bỏ tiền ra in sách, rồi
xưng là
nhà văn lưu vong!
Đây là do ngộ
nhận, hay đúng hơn, do đếch biết [cảm nhận] văn chương nó là cái gì, hà
hà!
Nói rõ hơn,
không có thứ văn chương nào, ở bản chất, cốt lõi của nó, không có mùi
lưu vong.
Đã ngu dốt, mà còn vô ơn.
NQT
Viết nhân mùa mưa
Tự Do Viết
Thơ
Mỗi Ngày
Poems June
22, 2015 Issue
Poem in the
Manner of William Wordsworth
By David
Lehman
I ran with
the wind like a boy
in the journey of my solitude
when joy surrounded me like
an ocean
I could not stand in but could drown in.
And thus was
born my theory of joy
alloyed with fear and more subdued
than a breeze lifting
a lone leaf
to a hill of high altitude.
If such a
thought were vain,
to me it yet remains the breath
of life itself, greater than
grief
and lonelier than a cloudless sky.
Not even—my
sister, my life—not
even if death should be thy lot,
would I lose faith that I,
in body
bruised but with dignity high,
with visage grim to meet the pains
of sleep,
will yet sustain
the never-ending poem of my brain.
THE
IMPORTANCE OF SIMONE WElL
FRANCE
offered a rare gift to the contemporary world in the person of Simone
Weil. The
appearance of such a writer in the twentieth century was against all
the rules of
probability, yet improbable things do happen.
The life of
Simone Weil was short. Born in 1909 in Paris, she died in England in
1943 at
the age of thirty-four. None of her books appeared during her own
lifetime.
Since the end of the war her scattered articles and her
manuscripts-diaries,
essays-have been published and translated into many languages. Her work
has
found admirers all over the world, yet because of its austerity it
attracts
only a limited number of readers in every country. I hope my
presentation will
be useful to those who have never heard of her.
[suite]
Czeslaw
Milosz
Sách
Báo
JEREMY
TREGLOWN
Prague, 1964
The Joy of
the Street
Charles
Simic
I’ve felt at
home in cities as diverse and foreign to me as Barcelona, Krakow,
Mexico City,
and Sarajevo. All I need is a street full of people and I’m happy.
Between
going sightseeing or watching the natives go about their business, I
usually
choose the latter. Even waiting on a street corner for someone who is
always
late is preferable to me than listening to some tour guide. Dickens
grumbled in
his letters while traveling in the Swiss Alps about the lack of street
noise,
which he found indispensable for his writing. He needed the labyrinth
of London
streets and neighborhoods where he could prowl continuously. If one
wishes to
inform oneself about a country, its people, and its customs, there is
no better
way than roaming one of its cities and seeing how the rich and the
destitute
live.
They used to
call an idle well-dressed man a flâneur, now a rare and virtually
extinct type;
an urban explorer and voyeur, equal parts curiosity and laziness.
Baudelaire was
one. In his “The Painter of Modern Life” he recalls a story by Edgar
Allen Poe,
called “The Man in the Crowd,” in which a convalescent, having just
escaped
from the shadow of death, watches with wonder people passing by while
seated
behind a window of a café. Finally, he rushes out into the crowd in
search of
an unknown person whose face he glimpsed just for a moment and which
greatly
intrigued him, and spends the rest of the night pursuing that man
through
London, only to discover that he is constantly on the move, never
resting for
long and seemingly in no need of sleep.
Like most of
our habits, my love of street life has its origins in my childhood. I
was born
and grew up in Belgrade, in the very center of what was then the
capital of
former Yugoslavia. I lived in a four-story apartment building and
thought of
the street below our window as my playground. I think I was about five
when I
first started sneaking out of the building to watch other kids play and
got
yelled at, making the lives of my grandmother and mother even more
frantic than
they were. (When I was a bit older, I was allowed to go out with a
warning not
to stray more than a few steps beyond our front door. Of course, I
disobeyed
and wandered off farther and farther and got caught and yelled at
again.) Like
other women in the neighborhood and men too, they had a lot to worry
about
already. The year was 1943 and Belgrade was occupied by the Nazis whose
vehicles were now and then seen on our street passing through and whose
soldiers stopped and entered some buildings. I don’t recall much from
that time
beyond some isolated images and brief scenes: three skinny little girls
playing
hopscotch, a black and white dog that used to follow me around, an old
woman
feeding crumbs of white bread to sparrows, two women pulling each
other’s hair
and screaming at each other, a German soldier smiling at me.
It was only
a year later, when I was six, that my recollections begin to be more
numerous
and more vivid. I remember not just the Allied bombings in April 1944
and the
liberation of the city by the Russians that October, but spending all
my time
playing with other kids, playing either in the street or in the ruin of
a
bombed building right across the street from us. As far as I was
concerned,
this was as good as life gets. Our parents and relatives were busy or
away and
our grandmothers were often out trying to find something for us to eat.
So, who
kept an eye on us in the street? I asked myself recently, and
remembered it was
the other women in the neighborhood who knew when we were up to no good
and
came to our rescue. Of course, we hated them butting in and
interrupting our
fun, like that time when one of the older boys was passing around a
German
military pistol he found somewhere, but today these women’s worried and
caring
faces mean more to me than the memory of holding that gun in my hand.
After the
war ended, our days of fun were over and we started school. Although I
was an
okay student, I hated going, but forced myself to do so until the sixth
grade
when I started playing hooky and eventually stopped going altogether,
without
my mother knowing. I spent a couple of months roaming the streets of
Belgrade
until the school finally noticed my absence and sent the cops to inform
my
mother. While the weather was balmy I could pass the hours I was
supposed to be
in school easily taking long walks, but once the fall rains and the
cold came,
I was forced to hide in doorways or go to the movies on the rare
occasions when
I had the money. Of course, I was lonely and miserable, but was not
always
bored, and at times almost happy seeing so many strange and interesting
things.
If anything made me who I am, living like a vagrant in the streets did.
Even today,
a kind of exhilaration comes over me roaming an unfamiliar city, a fear
of
being lost and a secret hope that I am. In the meantime, how much more
alive I
feel, how much more readily my eyes notice things and how much better
my mind
and imagination work. Strange cities compel us to look. We take lessons
in
aesthetics and political science without being aware that we are. We
learn
about beauty and mystery by giving some overlooked little street and
neighborhood the friendship it deserves. In cities that are full of
skyscrapers
I feel like I am in a movie and, in the older ones, in a theater
walking past
brightly or dimly illuminated stage sets, mingling with the actors.
Whitman
wrote of the crowd on Broadway:
What hurrying human tides, or day or night!
What passions,
winnings, losses, ardors,
swim thy waters!
What whirls of
evil, bliss and sorrow, stem
thee!
What curious
questioning glances—glints of
love!
Leer, envy,
scorn, contempt, hope,
aspiration!
Walking the
city streets one becomes a collector of faces, some of which stay with
us
forever. “Every human being, from the humblest to the most
distinguished,”
Goethe thought, “carries around with him a secret which would make him
hateful
to all others if it became known.” Or perhaps—I am inclined to
add—would draw
our sympathy and even our love, if by some miracle we were to find out
what it
was.
June 17,
2015, 5:16 p.m.
Đọc bài viết,
loáng thoáng, thì lại nhớ đến “Ám ảnh phố phường”, của 1 anh Cớm Vẹm,
nâng bi Du Tử Táo!
Tuy nhiên, câu "All I need is a street full of people and I’m happy",
"Tất cả những gì mà tớ cần, là một con phố đầy người và tớ thung
thướng", của Simic, thì làm Gấu nhớ Quán Chùa, và cái hình ảnh “thần
sầu”, vào sáng Thứ
Bẩy, hoặc Chủ Nhật, ngồi trong quán, nhìn ra ngoài lề đường, phía bên
kia đường,
chỗ có cái công viên nho nhỏ, thể nào cũng có 1 anh Mẽo, mặc đồ dân sự,
đứng dựa
lưng vào 1 cái cột đèn, đại khái nhớ như thế, và đắm đuối nhìn con phố,
nhìn
người qua lại, rất ư là hạnh phúc.
Ui chao cái hình ảnh 1 Sài
Gòn những ngày còn thanh bình, còn Quán Chùa.
Sau này, đọc
Vila-Matas mới cảm khái làm sao!
PESSOA
ET AUTRES MESSIEURS
le
quartier littéraire de Lisbonne
Ôi chao giá như
viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà
nức nở.
Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những
cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Shostakovich
Chostakovitch
intime
“J’ai
surement VÉCU trop LONGTEMPS»
En juin
1937, en pleine terreur stalinienne, Chostakovitch fut convoqué par le
NKVD,
l'effrayante police politique du régime. A l'époque, c'était
l'antichambre de
la mort. Le compositeur ne dut son salut qu'au fait que l'officier
chargé de
son dossier fut lui-même exécuté. Ces deux lettres en témoignent, il se
vécut
dès lors comme un survivant
Tôi rõ ràng
là đã sống quá lâu
Tháng Sáu 1937, đỉnh cao
chói lọi Đại Khủng Bố Xì, en pleine
terreur
stalinenne, Shostakovich được Mật Vụ Xì “kêu lên Phường”, convoqué par
NKVD - tức
KGB sau này - như Mít trong nước thường gọi.
Kết cục mới tiếu lâm làm sao: Không
phải Shostakovich, mà là cái tay hỏi cung ông, bị xử tử.
Nhưng như hai cái thư
mới được công bố, kể từ đó, chàng coi chàng là kẻ sống sót!
Borges
by Cioran
A Critic at Large March
26, 2007 Issue
Vagabonds
Rberto Bolaño and his
fractured masterpiece.
By Daniel Zalewski
When “The Savage
Detectives” was published, Ignacio Echevarría, Spain’s most prominent
literary critic, praised it as “the kind of novel that Borges could
have written.” He got it half right. Borges, whose longest work of
fiction is fifteen pages, would likely have admired the way Bolaño’s
novel emerges from a branching tree of stories. But what would he have
made of the delirious road trip, the frenzied sex, the sloppy displays
of male ego? Bolaño fills his canvas with messy Lawrencian emotions but
places them within a coolly cerebral frame. It’s a style worthy of its
own name: visceral modernism. ♦
Note: Bolano theo GCC, là cũng
từ Borges mà ra. Nhưng trái ngược hẳn nhau, trò viết loạn cào cào, dài
thòng, thầy ngắn ngủn. Thành ra khi cuốn "Những nhà thám tử lạ lùng" ra
đời, và khi cái tay phê bình khen, đây là thứ tiểu thuyết mà Borges có
thể viết, tác giả bài này, "Vagabonds", những tên ma cà bông, nói, chỉ
đúng có 1 nửa.
Bolano nhập thế hơn Borges, cái gì của ông này viết ra thì cũng có mùi
sex.
Borges gần như 1 nhà khổ hạnh, chẳng có tí mùi súng ống đạn dược, bướm
biếc!
Chẳng có tí male ego!
Trang Bolano
EXILES
To be exiled
is not to disappear but to shrink, to slowly or quickly get smaller and
smaller
until we reach our real height, the true height of the self. Swift,
master of
exile, knew this. For him exile was the secret word for journey.
Many of the exiled, freighted with more suffering than
reasons to leave, would reject this statement.
All literature carries exile
within it, whether the writer has had to pick up and go at the age of
twenty or
has never left home.
Probably the first exiles on record were Adam and
Eve.
This is indisputable and it raises a few questions: Can it be that
we're all
exiles? Is it possible that all of us are wandering strange lands?
The concept
of "strange lands" (like that of "home ground") has some
holes in it, presents new questions. Are "strange lands" an objective
geographic reality, or a mental construct in constant flux?
[suite]
Albert Camus vs Kamel Daoud
30.4.2015
The photo took just a second, but it is timeless. She
races towards the
reader on countless front pages, a little girl in torment.
Nine-year-old Kim Phuc, flees down a highway after napalm bombing.
Associated Press photographer Huynh Cong Ut not only took the photo,
but it also changed his life and that of Kim's.
June 8 1972 and Kim hears a soldier screaming, "We
have to run out of this place! They will bomb here and we will be
dead!" Yellow and purple smoke bombs wreathed a temple where her family
took refuge for three days while North and South Vietnamese forces
battled over their village.
Kim watched a South Vietnamese Skyraider swoop
towards her. Canisters tumbled from it, twisting end over end to
evaporate on the ground in unbearable orange flames that leapt onto her
left arm as her cotton clothes shredded. The pain seared her skin and
muscle. Nearby trees exploded and the ground shook.
Kim's first thought as she brushed her blisters with
her right arm was, "I will be ugly, and I'm not normal any more. People
will see me in a different way." As shock took over she ran screaming
down Highway 1 behind her older brother, unaware of the foreign
journalists in front of her. She passed out.
Ut, the 21-year-old Vietnamese photographer, burst
into tears at the sight and took the picture. He then drove Kim to a
hospital, where he was told she was beyond help. He thought, "If I
don't help her - if something happened and she died - I think I'd kill
myself after that." Using his US. press pass, he implored doctors to
save her. They agreed.
Developing his film in the agency's Saigon office he
stared at the naked little girl. His colleagues worried that AP's
anti-nudity policy would kill it. But legendary photographer and AP
photo editor Horst Faas could see that while this picture might break
the rules its impact transcended such boundaries.
A couple of days later a TV correspondent,
Christopher Wain, who gave Kim water from his canteen and poured it on
her burning back on the highway, tracked her down. He fought to have
her moved to an American unit where her burns could be properly treated
and she would have a chance to live.
Thirty percent of her body was raw third-degree
burns, but her face was unscathed. “I had no idea where I was or what
happened to she said. "I woke up and I was in the hospital with so much
pain, and then the nurses were around me."
Her ordeal worsened. At 8 am each day nurses had to
put her into a bath to cut off her dead skin. She fainted with pain.
Thirteen months and countless operations and skin
grafts later she could leave hospital. She wanted to go home.
She had been shown the photo and knew Ut had won the
Pulitzer Prize.
Kim moved to a small village near the Cambodian
border, occasionally visited by Ut and other journalists. Once South
Vietnam came under northern control in April 1975 life became harder
for her. Painkillers and even treatment cost too much. Shocking
headaches and pain filled her teenage years.
She set herself on a path to become a doctor but was
plucked out by the government as a propaganda tool and returned to her
home province. Her interviews were scripted. "I wanted to escape that
picture:' she said. "I got burned by napalm, andI became a victim of
war ... but growing up then, I became another kind of victim."
She began to wish she died in the bombing, with her
cousin and South Vietnamese soldiers. A journey West Germany in 1982
for medical care with the help of a foreign journalist began to change
her life. Vietnam's Prime Minister was touched by her ordeal and
organised study for her in Cuba.
Photographer Ut was now in Los Angeles. They met in
1989, but were never alone. At school, Kim had met Bui Huy Toan,
who could not be less concerned about her scars. They decided to marry
and honeymoon in Moscow in 1992. Their plane stopped in Canada where
they defected. She called Ut.
She wanted nothing more to do with reporters but she
was found near Toronto. A book and a documentary film followed as now
she took control of her story. She became a U.N. Goodwill Ambassador to
help victims of war, meeting Ut many times. In London she was
introduced to the Queen.
Ut still works for AP. "Today, I'm so happy I helped
Kim;' he says."I call her my daughter." As for Kim Phuc, at the age of
49 she said, "I really wanted to escape from that little girl. But it
seems to me that the picture didn't let me go."
Diệm chết, đúng
như Gấu phán, mi làm bồi Mẽo, Mẽo ra lịnh sao, phải làm theo, đéo làm
theo, là ông
xịt!
Bài viết trên tờ “Our Viet Nam”, cho biết, Mẽo ra lệnh khử vợ chồng
Nhu, làm
sao khử, thế là xong đời Diệm.
Những giai thoại về Nhu cho người ra
Bắc,
gặp Bác
Hồ này nọ, theo Gấu, có thể có, vì cái chuyện Diệm không muốn GI vô
Việt Nam là
có thiệt, ông chết vì cú này, đúng hơn.
Trong số báo mới mang về, có bài viết
về liên hệ giữa Tẫu và Bắc Kít, cho thấy, không có Tẫu, là Mít thoát cả
hai cuộc
chiến.
Điều này cũng
dễ đoán. Bắc Kít phải lệ thuộc Tẫu tới cỡ nào thì mới răm rắp nghe theo
Tẫu khi
chúng ra lệnh phát động cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Chính nhờ nó, phát
động sớm, mà
có vụ di cư. Ngụy phải cám ơn Tẫu, không chỉ một, mà hai lần, vụ di cư
và vụ tù
cải tạo.
Không có Tẫu đếch có Ngụy!
Nếu Bắc Kít
bội ơn người bạn quí láng giềng thì Ngụy cám ơn chúng, vậy!
Không có cú CCRD quá sớm, thì làm sao có cú di cư?
Không có cú dạy cho Bắc Kít 1 bài học, thì lũ sĩ quan Ngụy chết hết
trong trại
tù cải tạo rồi!
Note: Bài viết này, phần
dính dáng tới Nick Út & Kim Phúc, được 1
vị
thân hữu post trên FB, đọc thấy có còm, về cả hai, chắc của những người
không
rành về họ.
Về Kim Phúc,
suốt 1 thời mới lớn, đau cái đau không làm sao dám mặc áo cộc tay, khi
lớn lên
1 chút thì bị VC bắt cởi áo cho chúng tố cáo tội ác Mỹ Ngụy, khi có cơ
may, bỏ
chạy được quê hương, lại được Canada nhận, có 1 quê hương mới, được làm
chí
nguyện viên, thiên sứ của LHQ, mang thông điệp về sự thân ái đi khắp
nơi, đến
những nơi cần nó, được gặp nữ hoàng Anh.
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài viết trên về KP.
Còn Nick Út, anh có về VN
thì cũng là do nghề nghiệp, về gặp lại người
thân, có gì
sai đâu?
Anh cũng có lần tỏ ra ân hận, những bức hình của chúng tôi chỉ có tác
dụng xấu đối với VNCH.
Thì hẳn thế rồi. VC, chúng giấu cái ác của chúng như mèo giấu cứt, làm
sao thấy
mà chụp?
Cả 1 cuộc
chiến khủng khiếp như thế, VC chỉ có phạm độc nhất 1 lần ác, như Gấu đã
từng viết,
là chặt đầu 1 ông xã trưởng VNCH, rồi để cái đầu chặn bản án, trên bụng
cái
thây mất đầu của nạn nhân.
Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân
Những người Cộng sản rất khôn
khéo trong việc giấu diếm những tội ác của họ. Và càng giỏi hơn, khi
chối tội, khi không dám nhận ai là tác giả những tội ác đó. Khi chiến
tranh chấm dứt, họ dễ dàng có được những "Viện Bảo Tàng, Nhà Trưng Bầy
Tội Ác Mỹ Ngụy", phần lớn hình ảnh, tài liệu là do báo chí, giới truyền
thông Tây Phương cung cấp. Nhưng thật khó mà kiếm ra, và chắc là vô
phương có được những hình ảnh về cảnh giết người hàng loạt, trong biến
cố Mậu Thân tại Huế chẳng hạn, khi người Cộng Sản phải bỏ chạy. Đã từ
lâu, dư luận đồn đại, đằng sau tội ác đó có bóng dáng của Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Nhưng ông chẳng bao giờ lên tiếng, cho dù chỉ để phủ nhận
(1). Cũng vậy, vụ giết hại những người theo Trotsky. Chẳng ai là đao
phủ. Chỉ có nạn nhân. Ở đây, những người Cộng Sản Việt Nam có vẻ như
không chấp nhận lối của giải thích, về sự dung tục của cái ác (the
banality of evil, chữ của Hannah Arendt khi bàn về tính tình, thái độ
của những tên đao phủ Nazi).
Trước khi chết, tổng thống Pháp, Francois Mitterrand đã "chiến đấu với
chính mình", để có được lời nói cuối, về việc ông đã tham gia trong
chính phủ Vichy, trước khi gia nhập lực lượng kháng chiến. Việc ông cho
tới năm 1986, là bạn thân của René Bousquet, một viên chức trong chính
quyền Vichy theo Đức Quốc Xã, bị kết án năm 1989 về tội ác chống lại
nhân loại, khi đẩy người Do-thái vào lò thiêu. Trong cuốn "Hồi Tưởng
qua hai giọng nói" (Memory in two voices), với người đối thoại là Elie
Wiesel - một nạn nhân sống sót tại lò thiêu người, Nobel Hòa Bình 1986
- khi nói ra những tội ác đó, ông chỉ làm một sửa soạn bất khả tri
trước khi chết, một cái chết không có sự an ủi của một niềm tin. Tôi
không biết tôi có "biết" không. Tôi không biết tôi có "không biết"
không: điều không thể quy định một cách ngay thẳng, công bằng trong từ
"niềm tin", ông nói. Và ông nói thêm, dẫn lời ghi trên bia mộ Willy
Brand, cựu thủ tướng Tây Đức: "Tôi đã làm cái điều tôi có thể làm".
Những người Cộng Sản Việt Nam, tuy không có niềm tin về một Đấng Toàn
Năng, nhưng thừa sức làm điều họ có thể làm.
Nhưng đối với chúng ta, đâu là điều chúng ta có thể làm? Sau này, những
con cháu đời thứ năm, thứ "mười mí" của đám lưu vong, khi phải truy tìm
nguyên nhân bỏ nước ra đi của những ông cố bà cố, họ sẽ hoang mang giữa
đống tài liệu chứa trong thư viện. Và càng hoang mang hơn, giữa đống
hồi ký, được viết ra với quá nhiều niềm tin, của những người quốc gia,
khi phải giải thích vai trò của họ trong biến cố lịch sử, trong việc
làm mất Miền Nam.
Nếu có chăng, một chứng cớ hiển nhiên về tội ác của những ngưòi Cộng
Sản, thì chỉ là một bức hình đăng trên trang bìa tờ Time (Thời Báo)
thời gian sau khi ông Diệm bị giết ít lâu, chụp một ông xã trưởng Miền
Nam bị du kích chặt đầu, rồi đặt cái đầu lên bụng tử thi, bên dưới là
bản án. Bức hình đã làm cả thế giới sáng đó không thể uống cà phê, ăn
điểm tâm. Và đây có thể coi như "niềm tin còn một chút này", đối với
những quân nhân Hoa Kỳ, Đồng Minh, khi họ tham gia cuộc chiến tại Việt
Nam. Nhưng cũng chẳng biết ai là đao phủ. Cũng vậy, thủ phạm hạ sát
những ký giả ngoại quốc trong vụ Mậu Thân tại Chợ Thiếc. Hình như sau
đó, khi được hỏi, Trần Bạch Đằng trả lời không biết, y hệt Trần Văn
Giàu trả lời, trong vụ giết hại Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu.
"Pictures to be killed" (Những tấm hình để giết đi), là một thuật ngữ
được giới báo chí Mỹ dùng, khi gửi những hình ảnh họ biết không thể sử
dụng, ít ra vào thời điểm đó. Trong chiến tranh Việt Nam, đã có những
bức hình chụp cảnh Việt Cộng dùng mã tấu, binh sĩ Mỹ dùng búa, tàn sát
lẫn nhau, như trong một phim, thời kỳ "khai hóa" dân da đỏ. Cảnh tàn
sát ở Mỹ Lai... tất cả những hình ảnh đó, sau này đã được sử dụng, khi
cần một cái cớ để rút khỏi Việt Nam "trong danh dự" đối với tổng thống
Nixon. "Nghe nói", phong trào phản chiến ở Mỹ cũng do CIA bỏ tiền ra,
thuê người đi biểu tình.
Những người Cộng Sản vẫn thường nói, hãy quên quá khứ, xúm nhau lại xây
dựng tương lai. Chúng ta sẵn sàng quên quá khứ, và có khi cũng chẳng
cần điều họ có thể làm, như tổng thống Pháp F. Mitterrand đã làm. Nhưng
chỉ cần họ không quên tinh thần "chống Mỹ cứu nước", không phải của họ,
mà là của những người dân Miền Nam, của những người họ gọi là Ngụy,
giống như những người họ gọi là Tề, ở Miền Bắc, trong cuộc chiến tranh
chống Pháp.
Trong thời gian người Mỹ tham chiến tại Miền Nam, có những gia đình cấm
con em không được làm sở Mỹ, có những công chức, ngày đi làm, tối chạy
xe ôm, nhưng nhất định không để cho người Mỹ vô nhà của họ, với những
hợp đồng thuê mướn thật hấp dẫn. Nghe nói, vẫn chỉ là nghe nói, Ngô
Đình Nhu đã từng cho người ra ngoài Bắc, bảo thẳng với ông Hồ, nếu còn
tiếp tục đánh phá Miền Nam, thì chính ông là người có tội ác với lịch
sử, trong việc đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam, và nếu cần, ông sẽ gửi con
tin, là hai người con ruột của ông, qua một nước trung gian là Thụy sĩ.
Nhiều viên chức Cộng Sản đã cay đắng thú nhận, họ thắng người Mỹ trên
chiến trường, nhưng thua trên thị trường, thua đồng đô la.
Chỉ mong họ đừng bao giờ gây ra cảnh cả nước Việt Nam cay đắng vì Mỹ,
như Miền Nam đã từng cay đắng.
Như các cô gái bán ba đã từng cay đắng khi người Mỹ, bắt chước ông Tú
Vị Xuyên, chơi trò đổi tiền đô la đỏ.
Một
độc giả Tin Văn,
chắc là nữ độc giả, sau khi đọc bài viết về nỗi thiếu quê hương, không
thể lớn thành người, đã viết mail, trách nhẹ Gấu, không thể so sánh Đỗ
thi sĩ với Kim Phúc được, vì một lý do rất giản dị, không một người phụ
nữ nào muốn cái chuyện, thân thể của mình bị mang ra làm trò, bất cứ
trò gì, đừng nói trò tuyên truyền khốn nạn.
For Your Eyes Only, không
nhớ sao, Chú/Bác Gấu? (1)
Trong cuộc
chiến Mít, đám nhà báo quá được ưu đãi, và đó cũng là 1 phần của sự
thất trận của
VNCH.
Gấu đã từng
kể về, tuy là dân sự, nhưng do viết cho tờ Tiền Tuyến, nên được ông chủ bút của nó, là PLP, ban
cho 1 cái thẻ nhà báo. Nhờ cái thẻ mà đêm
trực nào thì cũng giao Đài Liên Lạc VTD cho 1 nhân viên phụ việc, rồi
phóng vô
Chợ Lớn, thăm cô bạn, ngồi tới gần giờ giới nghiêm mới trở lại Đài. Một
đôi lần
bị quân cảnh hỏi thăm, chìa cái thẻ ra, là
được nhìn với ánh mắt kính nể, thôi mời ông đi đi, mà hành nghề nhà báo!
Viết nhân mùa mưa
Tự Do Viết
Thơ
Mỗi Ngày
Extrait
J'ai appris à parler dans
une région brouillée
où le silence tenait lieu de langue.
Les premiers mots, je les ai déchiffrés
sur les lèvres de mon père et de ma mère
au point de confondre parler et trembler
et d'installer en moi cette confusion pour toujours.
Scène
tournante,
Alain Veinstein
Gấu học nói trong 1 vùng
lù tà mù
Nơi im lặng tóm lấy tiếng nói
Những từ “tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”,
Gấu đoán ra trên môi ông cụ, bà cụ
Và đoán lầm, thay vì “nói”, thì thành “run rẩy”
Thành ra suốt đời Gấu cứ lù tà mù,
Đếch biết “êu” nước Mít là cái đéo gì!
Hà, hà!
You Are My Silent Brethren
You are my silent
brethren,
the dead.
I won't forget you.
In old letters I find
traces of your writing,
creeping to the page's top
like a snail on the wall of a psychiatric ward.
Your addresses and phone
numbers pitch camp
in my notebooks, waiting, dozing.
I was in Paris yesterday,
I saw hundreds of tourists,
tired and cold. I thought, they look
like you, they can't get settled, they circle restlessly.
You'd think it would be
easy, living.
All you need is a fistful of earth, a boat, a nest, a jail,
a little breath, some drops of blood, and longing.
You are my masters,
the dead.
Don't forget me.
Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners
Đồng bào
Các bạn là đồng bào im lặng của tớ
Những người chết
Tớ không quên các bạn
Trong những lá thư cũ tớ kiếm
thấy những nét chữ của các bạn,
Tườn vào đầu trang giấy
Như con ốc sên ở trên tường nhà thương điên
Địa chỉ và số phôn của các bạn
thì cắm trại
Trong cuốn sổ tay của tớ,
Chờ đợi, ngủ gà ngủ gật.
Bữa hôm qua, tớ ở Paris, và tớ thấy hàng trăm
du khách, mệt mỏi, rét run.
Tớ nghĩ, họ giống như các bạn, họ không thể có 1 nơi chốn để ở, cứ lòng
vòng không ngừng.
Các bạn nghĩ, sống thì cũng dễ dàng thôi
Tất cả những gì các bạn cần, thì là một dúm đất,
Một cái thuyền, một cái lưới, một nhà tù,
Một tí hơi thở, vài giọt máu, và mong mỏi.
Các bạn là sư phụ của tớ,
Những người chết
Đừng quên tớ.
Canvas
I stood in
silence before a dark picture,
before a
canvas that might have been
coat, shirt,
flag,
but had
turned instead into the world.
I stood in
silence before the dark canvas,
charged with
delight and revolt and I thought
of the arts
of painting and living,
of so many
blank, bitter days,
of moments
of helplessness
and my
chilly imagination
that's the
tongue of a bell,
alive only
when swaying,
striking
what it loves,
loving what
it strikes,
and it came
to me that this canvas
could have
become a winding-sheet, too.
Canvas
Tôi đứng im
lặng trước bức hình tối thui
Trước tấm vải
bố
Có thể là
Áo khoác, áo
sơ mi, cờ quạt
Nhưng thay vì
vậy thì biến thành
Thế giới
Tôi đứng in
lặng trước tấm vải bố tối thui
Tẩm trong nó
là thích thú, đam mê và nổi loạn và tôi nghĩ
Tới nghệ thuật
vẽ và sống
Tới những ngày
trống rỗng, cay đắng
Tới những
khoảnh khắc vô vọng
Và trí tưởng
tượng lạnh lẽo của mình
Cái lưỡi chuông
Chỉ sống khi
lắc lư
Thoi, cái yêu
Yêu, cái đấm
Và bất chợt
tôi ngộ ra rằng thì là
Tấm vải bố này,
cũng, có thể trở thành tấm vải liệm.
FRUIT
For Czeslaw
Milosz
How
unattainable life is, it only reveals
its features
in memory,
in
nonexistence. How unattainable
afternoons,
ripe, tumultuous, leaves
bursting
with sap; swollen fruit, the rustling
silks of
women who pass on the other
side of the
street, and the shouts of boys
leaving
school. Unattainable. The simplest
apple
inscrutable, round.
The crowns
of trees shake in warm
currents of
air. Unattainably distant mountains.
Intangible
rainbows. Huge cliffs of clouds
flowing
slowly through the sky. The sumptuous,
unattainable
afternoon. My life,
swirling,
unattainable, free.
Adam
Zagajewski: Canvas
Trái
Làm sao mà
tó được cuộc đời
Nó chỉ ló ra
ở trong hồi ức
Trong cái
không có, không hiện hữu
Làm sao tó
được những xế trưa chín mũm, xốn xang,
Những chiếc
lá cây nổ đánh đùng một phát, ứa nhựa ra;
Những trái
cây căng phồng
Những tiếng
xột xoạt của những cánh áo lụa mềm lưng phố,
Ở bên kia đường
Những tiếng
la hét của đám học trò rời trường lớp.
Thua. Không
tó được.
Trái táo giản
dị nhất, bí hiểm, tròn vo.
Những chiếc
vương miện, là những chòm lá cây
Ấm áp trong
lòng gió
Những ngọn
núi xa xa, làm sao tóm?
Những chiếc
cầu vồng làm sao sờ được?
Những thành,
vách mây bay lừ đừ trên trời
Buổi xế
trưa, ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung, sao mà lộng lẫy, sao mà tó?
Cái cuộc đời
của tớ, phơi phới, tự do, làm sao tóm?
THE GREAT
POET HAS GONE
THINKING OF
C.M.
Of course
nothing changes
in the
ordinary light of day,
when the great
poet has gone.
Gray
sparrows and dapper starlings
still
squabble heatedly
in the tops
of ancient elms.
When the
great poet has gone,
the city
doesn't miss a beat, the metro
and the
trams still seek a modern Grail
In the
library a lovely girl
looks in
vain for a poem that could explain it all
At noon
the
same noise surges,
while quiet
concentration reigns at night,
among the
stars-eternal agitation.
Soon the
discotheques will open,
indifference
will open-
although the
great poet has died.
When we
part
for a long while
or forever
from someone we love,
we suddenly
sense there are no words,
we must
speak for ourselves now,
there's no one to do it for us
-since the
great poet is gone.
Adam Zagajewski
Nhà thơ lớn
đã ra đi
Nghĩ về C.M.
Lẽ dĩ nhiên
chẳng có gì thay đổi
Trong ánh
dương bình thường của ngày,
Khi nhà thơ
lớn đã ra đi
Bầy sẻ xám,
đám sáo đá lanh lẹn
Vưỡn cãi
nhau loạn sạ trên những ngọn cây đu
Khi nhà thơ
lớn ra đi
Thành phố đếch
thèm hụt 1 nhịp, xe điện ngầm, xe điện,
vưỡn tìm kiếm
một Grail hiện đại
Trong thư viện,
một em xinh ơi là xinh, đáng yêu cực đáng yêu
Kiếm đỏ con
mắt một bài thơ giải thích mọi chuyện cà chớn đó
Tới trưa, vẫn
thứ tiếng ồn đó nổi lên,
Trong khi một
sự chú tâm lặng lẽ ngự trị đêm
giữa những
vì sao - một lay động thiên thu
Chẳng mấy chốc,
quán nhạc mở cửa
sự lạnh
lùng, dửng dưng cũng sẽ mở cửa –
mặc dù nhà
thơ lớn đã chết,
Khi chúng ta
bỏ đi, một chuyến đi dài
Hay mãi mãi,
xa một người nào đó mà chúng ta yêu
Chúng ta bất
thình lình cảm thấy đếch kiếm ra lời.
Đếch có lời.
Chúng ta phải
nói cho chúng ta, bây giờ.
Đếch có ai
làm chuyện này cho chúng ta nữa-
Kể từ khi mà
nhà thơ lớn đã ra đi.
Le poète
intraitable
Il ne peut
toutefois adhérer au marxisme: la lecture de Simone Weil (qu'il traduit
en
polonais) a joué à cet égard un rôle capital dans son évolution
intellectuelle.
Elle aura été la première à dévoiler la contradiction dans les termes
que
représente le « matérialisme dialectique ». Pour une pensée
intégralement
matérialiste (comme celle d'Engels), l'histoire est le produit de
forces
entièrement étrangères à l'individu, et l'avènement de la société
communiste, une
conséquence logique de l'histoire; la liberté n'y a aucune place. En y
introduisant la « dialectique ", Marx réaffirme que l'action des
individus
est malgré tout nécessaire pour qu'advienne la société idéale: mais
cette
notion amène avec elle l'idéalisme hégélien et contredit à elle seule
le
matélialisme. C'est cette contradiction qui va conduire les sociétés «
socialistes" à tenir l'individu pour quantité négligeable tout en
exigeant
de lui qu'il adhère au sens supposé inéluctable de l'histoire. Mais la
philosophie de Simone Weil apporte plus encore à Milosz que cette
critique:
elle lui livre les clés d'une anthropologie chrétienne qui, prolongeant
Pascal,
décrit l'homme comme écartelé entre la « pesanteur" et la « grâce ".
Nhà thơ
không làm sao “xử lý” được.
Tuy nhiên,
ông không thể vô Mác Xít: Việc ông đọc Simone Weil [mà ông dịch qua
tiếng Ba
Lan] đã đóng 1 vai trò chủ yếu trong sự tiến hóa trí thức của ông. Bà
là người
đầu tiên vén màn cho thấy sự mâu thuẫn trong những thuật ngữ mà chủ
nghĩa duy vật
biện chứng đề ra. Ðối với một tư tưởng toàn-duy vật [như của Engels],
lịch sử
là sản phẩm của những sức mạnh hoàn toàn xa lạ với 1 cá nhân con người,
và cùng
với sự lên ngôi của xã hội Cộng Sản, một hậu quả hữu lý của lịch sử; tự
do chẳng
hề có chỗ ở trong đó. Khi đưa ra cái từ “biện chứng”, Marx tái khẳng
định hành
động của những cá nhân dù bất cứ thế nào thì đều cần thiết để đi đến xã
hội lý
tưởng: nhưng quan niệm này kéo theo cùng với nó, chủ nghĩa lý tưởng của
Hegel,
và chỉ nội nó đã chửi bố chủ nghĩa duy vật. Chính mâu thuẫn này dẫn tới
sự kiện,
những xã hội “xã hội chủ nghĩa” coi cá nhân như là thành phần chẳng
đáng kể, bọt
bèo của lịch sử, [như thực tế cho thấy], trong khi đòi hỏi ở cá nhân,
phải tất
yếu bọt bèo như thế. Nhưng triết học của Simone Weil đem đến cho Milosz
quá cả
nền phê bình đó: Bà đem đến cho ông những chiếc chìa khoá của một nhân
bản học
Ky Tô, mà, kéo dài Pascal, diễn tả con người như bị chia xé giữa “trọng
lực” và
“ân sủng”.
Chúng ta phải
coi cái đẹp như là trung gian giữa cái cần và cái tốt (mediation
between
necessity and the good), giữa trầm trọng và ân sủng (gravity and
grace). Milosz
cố triển khai tư tưởng này [của Weil], trong
tác phẩm “Sự Nắm Bắt Quyền Lực”, tiếp theo
“Cầm Tưởng”. Đây là một
cuốn tiểu thuyết viết hối hả, với ý định cho tham dự một cuộc thi văn
chương,
nghĩa là vì tiền, và cuối cùng đã đoạt giải! Viết hối hả, vậy mà chiếm
giải,
nhưng thật khó mà coi đây là một tuyệt phẩm. Ngay chính tác giả cũng vờ
nó đi,
khi viết Lịch Sử Văn Học Ba Lan. Tuy nhiên, đây là câu chuyện của thế
kỷ. Nhân
vật chính của cuốn tiểu thuyết tìm cách vượt biên giới Nga, để sống
dưới chế độ
Nazi, như Milosz đã từng làm như vậy.
THE
IMPORTANCE OF SIMONE WElL
FRANCE
offered a rare gift to the contemporary world in the person of Simone
Weil. The
appearance of such a writer in the twentieth century was against all
the rules of
probability, yet improbable things do happen.
The life of
Simone Weil was short. Born in 1909 in Paris, she died in England in
1943 at
the age of thirty-four. None of her books appeared during her own
lifetime.
Since the end of the war her scattered articles and her
manuscripts-diaries,
essays-have been published and translated into many languages. Her work
has
found admirers all over the world, yet because of its austerity it
attracts
only a limited number of readers in every country. I hope my
presentation will
be useful to those who have never heard of her.
[suite]
Czeslaw
Milosz
Trong số báo
về Lòng Từ Thiện, có bài của Simone Weil, trích từ The Need for Roots. Trong tiểu
sử của bà, có trích dẫn một câu, của Susan Sontag, viết về Weil:
[From The
Need for Roots]. Born in Paris in 1909, Weil dedicated her lift to
advocating
for the poor and disenfranchised. She worked as a teacher, trained with
an
anarchist unit during the Spanish Civil War, and once debated Leon
Trotsky in
her parents' apartment after arranging for him to hold a clandestine
meeting
there. Weil's uncompromising asceticism led Susan Sontag to declare,
"No
one who loves life would wish to imitate her dedication to martyrdom."
The
bulk of Weil's writing was published only after her death from
tuberculosis in
1943.
Gấu không
nghĩ là cái tay “viết lại” Kẻ Xa Lạ
và được Goncourt năm nay, hiểu được
Camus.
Tư tưởng của Camus, là từ Weil mà ra, (b) và Weil, như Susan Sontag,
viết ở
trên, cho
rằng, chẳng ai dám bắt chước Weil, nếu kẻ đó còn yêu cuộc đời này!
Bất giác lại nhớ tới lời
phẩm bình của vị thân hữu của TV. Vị này giải
thích,
Camus đẹp trai quá, “gái” nhiều quá, làm sao bắt chước cái khổ hạnh ghê
gớm như
của Weil!
Bài viết của Milosz về Weil, đúng như ông ao ước, rất quan trọng cho
chúng ta,
trong việc tìm hiểu Weil.
Có 1 cái gì
cực kỳ ngược ngạo, và hình như lại bổ túc cho nhau, giữa câu của Weil,
khi nhìn
những đoàn quân Nazi tiến vào Paris, và của TTT, khi nhìn VC Bắc Kít vô
Saigon.
(b)
Violent in
her judgments and uncompromising, Simone Weil was, at least by
temperament, an
Albigensian, a Cathar; this is the key to her thought. She drew extreme
conclusions from the Platonic current in Christianity. Here we touch perhaps
upon hidden ties between her and Albert Camus. The first work
by Camus was his
university dissertation on Saint Augustine. Camus, in my opinion, was
also a
Cathar, a pure one, and if he rejected God it was out of love for God
because
he was not able to justify Him. The last novel written by Camus, The
Fall, is
nothing else but a treatise on Grace-absent grace-though it is also a
satire:
the talkative hero, Jean-Baptiste Clamence, who reverses the words of
Jesus and
instead of "Judge not and ye shall not be judged" gives the advice
"Judge, and ye shall not be judged," could be, I have reasons to
suspect, Jean-Paul Sartre.
Milosz: The
Importance of Weil
Susan Sontag
Note: Bài viết
cách đây 50 năm, nhân kỷ niệm 50 năm NYRB, bèn cho đăng lại. Susan
Sontag không
đọc được Simone Weil. Cách nhìn của bà thua cả Gấu, đó là sự thực.
Steiner,
Milosz, đọc Simone Weil, "đốn ngộ" hơn nhiều.
Trên TV đã dịch bài của
Steiner. Gấu sẽ đi tiếp bài của Milosz, "Sự quan
trọng
của Simone Weil", in trong “To Begin Where I Am”. Trong cuốn này, có
mấy
bài thật là tuyệt. Bài essay, sau đây, chỉ cái tít không thôi, đã chửi
bố mấy đấng
VC đứng về phe nước mắt:
Essay in which the author
confesses that he is on the
side of man, for lack of anything better: Tớ đứng về phía con
người, vì đếch kiếm
thấy cái gì khá hơn.
Cực phách lối, kiêu ngạo, hà, hà!
Sontag chỉ
chịu nổi cuốn sau đây của Simone Weil:
The
principal value of the collection is simply that anything from Simone
Weil’s
pen is worth reading. It is perhaps not the book to start one’s
acquaintance
with this writer—Waiting for God, I
think, is the best for that. The originality of her psychological
insight, the
passion and subtlety of her theological imagination, the fecundity of
her
exegetical talents are unevenly displayed here. Yet the person of
Simone Weil
is here as surely as in any of her other books—the person who is
excruciatingly
identical with her ideas, the person who is rightly regarded as one of
the most
uncompromising and troubling witnesses to the modern travail of the
spirit.
Susan Sontag
Co ai "noi nang" chi may bai
cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?
Phúc đáp:
Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
Date: Tuesday, March 31, 2009, 5:05 PM
Bac viet phach loi nhu the nay - ky qua...
*
Thi phai phach loi nhu vay, gia roi.
*
Gia roi phai hien ma chet!
Đa tạ.
Nhưng, phách lối, còn thua xa thầy S: Ta là bọ chét!
Phỏng Vấn
Steiner
Tuy cũng thuộc
băng đảng thực dân [mới, so với cũ, là Tẩy], nhưng
quả là Sontag không đọc ra, chỉ ý này, của
Steiner, trong Bad Friday:
For
Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both
religious and political symmetry, to the degradation of the
homeland.
Với Weil, những
“tội ác” của chủ nghĩa thực dân có hồi đáp liền tù tì theo kiểu đối
xứng, cả về
tôn giáo và chính trị, với sự thoái hóa ở nơi quê nhà, tức “mẫu quốc”.
Nhưng Bắc Kít,
giả như có đọc Weil, thì cũng thua thôi, ngay cả ở những đấng cực tinh
anh, là
vì nửa bộ óc của chúng bị liệt, đây là sự thực hiển nhiên, đừng nghĩ là
Gấu cường
điệu. Chúng làm sao nghĩ chúng cũng chỉ 1 thứ thực dân, khi ăn cướp
Miền Nam, vì
chúng biểu là nhà của chúng, vì cũng vẫn nước Mít, tại làm sao mà nói
là chúng ông
ăn cướp được.
Chúng còn nhơ
bẩn hơn cả tụi Tẩy mũi lõ, tụi Yankee mũi lõ.
Steiner còn
bài “Thánh Simone-Simone Weil”, trên TV cũng đã giới thiệu.
For Weil, the "crimes" of
colonialism related immediately, in both religious and political
symmetry, to the degradation of the homeland. Time and again, a Weil
aphorism, a marginalium to a classical or scriptural passage, cuts to
the heart of a dilemma too often masked by cant or taboo. She did not
flinch from contradiction, from the insoluble. She believed that
contradiction "experienced right to the depths of one's being means
spiritual laceration, it means the Cross." Without which "cruciality"
theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To
take seriously, existentially, the question of the significance of
human life and death on a bestialized, wasted planet, to inquire into
the worth or futility of political action and social design is not
merely to risk personal health or the solace of common love: it is to
endanger reason itself. The two individuals who have in our time not
only taught or written or generated conceptually philosophic summonses
of the very first rank but lived them, in pain, in self-punishment, in
rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein and Simone Weil. At
how very many points they walked in the same lit shadows.
Đối với Simone
Weil, những “tội
ác” của chủ nghĩa thực dân thì liền lập tức mắc míu tới băng hoại,
thoái hóa, cả về mặt tôn giáo lẫn chính trị ở nơi quê nhà. Nhiều lần,
một Weil lập ngôn – những lập ngôn này dù được trích ra từ văn chương cổ điển hay
kinh thánh, thì đều như mũi dao - cắt tới tim vấn nạn, thứ thường xuyên
che đậy bằng đạo đức giả, cấm kỵ. Bà không chùn bước trước mâu thuẫn,
điều không sao giải quyết. Bà tin rằng, mâu thuẫn là ‘kinh nghiệm những
khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người là một cõi xé lòng,
và, đây là Thập Giá”. Nếu không ‘rốt ráo’ đến như thế, thì, những cuộc
thảo luận thần học, những định đề triết học chỉ là ba trò tầm phào giữa
đám khoa bảng. Nghiêm túc mà nói, sống chết mà bàn, câu hỏi về ý nghĩa
đời người và cái chết trên hành tinh thú vật hóa, huỷ hoại hoá, đòi hỏi
về đáng hay không đáng, một hành động chính trị hay một phác thảo xã
hội, những tra vấn đòi hỏi như vậy không chỉ gây rủi ro cho sức khoẻ cá
nhân, cho sự khuây khoả của một tình yêu chung, mà nó còn gây họa cho
chính cái gọi là lý lẽ.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này không chỉ nói,
viết, hay đề ra những thảo luận triết học mang tính khái niệm ở đẳng
cấp số 1, nhưng đều sống chúng,
trong đau đớn, tự trừng phạt chính họ, trong sự từ bỏ niềm tin Do Thái
giáo của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil. Đó là vì sao, ở
rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những khoảng tối tù mù như nhau.
Sách
Báo
Cuốn này, mới
ra lò, 2015, GCC tính mua, rồi không tính mua, vì túi tiền, cuối
cùng đành
bệ về!
Nghĩa là, tuyệt lắm!
Bishop là một nữ thi sĩ
Mẽo. Toibin, tiểu thuyết gia. Vậy mà chính là nhờ
thơ của
Bishop mà Toibin trở thành tiểu thuyết gia. Đây là cuốn đệ tử vinh danh
Thầy.
In this
book, novelist Colm Toibin offers a deeply personal introduction to the
work and
life of one of his most important literary influences-the American poet
Elizabeth Bishop. Ranging across her poetry, prose, letters, and
biography,
Toibin creates a vivid picture of Bishop while also revealing how her
work has
helped shape his sensibility as a novelist and how her experiences of
loss and exile
resonate with his own. What emerges is a compelling double portrait
that will
intrigue readers interested in both Bishop and Toibin. ForToibin, the
secret of
Bishop's emotional power is in what she leaves unsaid. Exploring
Bishop's
famous attention to detail, Toibin describes how Bishop is able to
convey great
emotion indirectly, through precise descriptions of particular
settings,
objects, and events. He examines how Bishop's attachment to the Nova
Scotia of
her childhood, despite her later life in Key West and Brazil, is
related to her
early loss of her parents-and how this connection finds echoes in
Toibin's life
as an Irish writer who has lived in Barcelona, New York, and elsewhere.
Beautifully
written and skillfully blending biography, literary appreciation, and
descriptions
of Toibin's travels to Bishop's Nova Scotia, Key West, and Brazil, On
Elizabeth
Bishop provides a fresh and memorable look at a beloved poet even as it
gives
us a window into the mind of one of today's most acclaimed novelists.
Colm Toibin
is the author of eight novels, three of which have been shortlisted for
the Man
Booker Prize: The Blackwater
Lightship, The Master
(the Los Angeles Times Novel
of the Year), and The Testament of
Mary. His other novels include Nora Webster and
Brooklyn. He is the Irene and Sidney B. Silverman Professor of the
Humanities at
Columbia University, a regular contributor to the New York Review of Books, and
a contributing editor at the London
Review of Books.
Cuốn này thuộc tủ sách "nhà văn viết về nhà văn".
Nhắc tới
Bishop thì lại nhớ tới bài thơ Hai Hòn Bi của Ông Số 2. Nhảm thế.
Ấy là vì hai
bài thơ thật giống nhau, mà một thật, một dởm. Tếu thế!
Từ từ GCC kiếm lại, trình
bà con đọc chơi!
CHC: Thay mặt độc giả Sóng,
thành thật cảm ơn anh Đỗ Quý Toàn và xin anh cho độc giả đọc lại một
bài thơ
của anh. Bài gì có câu: “hai đứa ngồi đó như hai hòn bi” ấy. Tưởng cũng
nên hỏi
anh xuất xứ bài này.
ĐQT: Bài
này được nhiều người biết vì anh Phạm Duy phổ nhạc hay quá xá. Vì anh
mà nhiều
người gọi tôi là “thi sĩ hai hòn bi”. Viết vào khoảng năm 1959 in
lần đầu
trên báo Ngàn Khơi khoảng 1960-1961. Ngày đám hỏi tụi tôi, năm
1964, tôi
đọc cho bạn bè nghe. Anh Phạm Duy có ở đó, bảo đưa anh đem về. Một tuần
sau anh
gặp tôi ở đường Lê Lợi dừng lại hát cho tôi nghe liền. Nghe chị Thái
Thanh hát
ở Đêm Màu Hồng đã lắm.
Gấu đã kể về, cả thành phố Sài
Gòn có 1 dạo khổ vì “hai hòn bi” của
nhà thơ, sáng nào cũng ra rả trên Ðài Phát Thanh Sài Gòn. (1) Bây giờ
lại
lôi ra để
mà làm khổ độc giả TV nữa, thì kỳ quá. Nhưng, cũng chỉ là tình cờ, Gấu
đọc bài
viết của Charles Simic, điểm 1 tập thơ của Elizabeth Bishop, trên số
báo NYRB,
27 Tháng 4, 2006, ông có trích dẫn một bài thơ của Bishop, xem ra có
thể so sánh
với bài “hai hòn bi”, ở cái vẻ tự nhiên của nó, nhưng với 1 độc giả
tinh ý, thì
một bên là giả đò, một bên là thực sự.
It is marvelous
to wake up
together
At the same
minute; marvelous to
hear
The rain
begin suddenly all over
the roof,
To feel the
air suddenly clear
As if
electricity had passed
through it .
From a black
mesh of wires in the
sky.
All over the
roof the rain hisses,
And below,
the light falling of
kisses.
An
electrical storm is coming or
moving away;
It is the
prickling air that wakes
us up.
If lightning
struck the house now,
it would run
From the
four blue china balls on
top
Down the
roof and down the rods
all around us,
And we
imagine dreamily
How the
whole house caught in a
bird-cage of lightning
Would be
quite delightful rather
than frightening;
And from the
same simplified
point of view
Of night and
lying flat on one's
back
All things
might change equally
easily,
Since always
to warn us there
must be
these black
Electrical wires dangling.
Without
surprise
The world
might change to
something
quite different,
As the air
changes or the
lightning comes without our blinking,
Change as
the kisses are changing
without our thinking.
Simic phán:
Ðiều mà
Bishop mê nhất trong thơ là tính tự nhiên của giọng thơ. “Phải thật có
tài mới làm
cho nó thật tự nhiên”, bà nói. Bà không
hề sợ nghe có vẻ sến, và tin vào những từ bình thường, để làm ra thứ
thơ siêu phàm.
[What she
most admired in poetry was the naturalness of tone. "It takes great
skill
to make it seem natural," she said. She was never afraid of sounding
flat,
trusting ordinary words to make sublime poetry].
Ðọc hai bài
thơ, đều là thơ tình, của Bishop và của Ông số 2, thì chúng ta sẽ thấy
ngay, một
bên làm ra vẻ tự nhiên, và một, tự nhiên.
(1)
Ông Số Hai
là một thi sĩ. Thơ của ông đã từng được phổ nhạc. Không phải nhạc sĩ
nào cũng
được hân hạnh phổ thơ của ông. Mà phải là một thứ thầy, chuyên phổ thơ
của những
nhà thơ thầy.
Bạn đọc chắc
là đoán ra nhà nhạc sĩ đại tài, nhất là trong cái việc phổ thơ.
Tuy nhiên đại
tài hay không đại tài, vẫn có lần thất bại, và nhè đúng vào bài thơ của
Ông Số
Hai. Nghĩa là chẳng ai thèm nhớ cả thơ lẫn nhạc. Hai Lúa này nhớ, có
một dạo,
đài phát thanh Sài Gòn ngày nào cũng chơi bản nhạc phổ thơ của ông.
Chuyện đó xưa
lắm rồi, từ hồi ông mới bước chân vào làng, nhanh chân cũng chẳng thua
Hai Lúa,
[ông cùng học Nguyễn Trãi, Hà Nội, với Hai Lúa, cùng năm, chỉ không
cùng lớp],
mà nếu có sau HL thì cũng chỉ chừng vài tiếng, hoặc vài ngày! Nghĩa là,
ông
cũng thuộc vào thế hệ văn học thập niên 1960 của Sài Gòn, độc nhất,
tuyệt nhất,
của văn học của chúng ta, như một nhà thơ trong nước cảm thán.
Cựu trào như
thế, mà cho tới bi giờ chẳng ai thèm nhớ một câu văn, một bài thơ nào
của
"ổng" cả!
Có lẽ chính
vì vậy, khi Khi Tôi Chết Hãy Ném Thây Tôi Xuống Biển của nhà thơ Du Tử
Táo nổi
lên như cồn, Ông Số Hai phán, bài thơ này, ai làm mà chẳng được!
Cựu trào như
thế, nhưng may mắn cho Hai Lúa, cả đời chưa từng phải nhắc tới nhà thơ
lớn này
một lần nào. Có lỡ gặp nhau, thì cũng đành gật đầu, hoặc kẹt lắm, bắt
tay cho
nó đỡ trơ, đỡ chuế, cho cả hai bên!
Vậy mà bi giờ
đành phải chiếu cố tới nhà thơ, cũng là sự vạn bất đắc dĩ!
From good to
evil is one quaver
Từ tốt tới xấu
là một cái run rẩy
Russian
Proverb
D.M. Thomas
trích dẫn, trong Solzhenitsyn, một
thế kỷ ở trong ta.
Bài thơ này,
ai làm mà chẳng được.
Đúng như thế,
và đây là một trong những chân lý của văn chương, theo đó, những bài
thơ hay
cho chúng ta cái cảm giác tuyệt vời, là, khi đọc, mình có cảm tưởng,
mình thừa
sức làm bài thơ như vầy. Nhưng từ "mình dư sức làm câu này", tới
"bệ luôn câu này về nhà mình", là cả một... sát na!
Chỉ hơi run
tay một tí thôi!
Tự Kiểm
Bỏi vì ông số
2 không cho biết những bài thơ “có lúc thét lên, nghe đọc thấy rùng
mình” của ông,
nội dung nó ra làm sao, phản chiến, thù hận Mỹ Nguỵ, phò VC… khiến kiểm duyệt của VNCH không cho xb, phải
in ronéo, và cái đám sinh viên bạn ông có HPNT trong đó không, thành ra
độc giả
cũng đành chỉ biết có vậy. Tuy nhiên những nhận xét về thơ tự do, về
nhóm Sáng
Tạo của ông, qua bài phỏng vấn, theo Gấu, nhảm, theo nghĩa, ba vạ, huề
vốn. Ðiều
này chứng tỏ ông không thể là 1 thi sĩ của cái thời của ông, như những
nhà thơ
của thời đó, như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, thí dụ, và cũng không
thể thuộc,
cũng lớp này, nhưng làm thơ trễ hơn, như Nguyễn Xuân Thiệp, vẫn thí dụ
[có thể ông
này đã từng làm thơ trước khi đi tù, nhưng nhờ đi tù mà thơ nổi hẳn
lên, đại khái
như thế]. “Hai hòn bi” thì thời nào cũng làm được, nhưng thứ thơ “khóc
thét lên,
rùng cả mình”, nếu sự thực ông có làm, thì tiếc quá, vì có ai được
thưởng thức đâu!
Ðể đỡ tiếc,
chúng ta đành đọc Milosz: Nào, bây giờ tôi có ý định nói về kinh nghiệm
thơ
trong một thời gian và nơi chốn cực kỳ chi tiết, xác định. Thời gian
1939-1945.
Nơi chốn: Ba Lan.
Thành thực mà
nói, Gấu này chưa từng gặp 1 thi sĩ bốc phét về thơ của mình như Ông Số
2 này,
thơ "nghe như thét lên, nghe rùng cả mình", cả 1 chế độ Ngụy sợ quá,
kiểm duyệt, không
cho xb, phải in lén bằng ronéo.
Trong khi đó thì rẻ rúng thơ của thi sĩ bạn thân
của mình, và chôm thơ của thi sĩ "bạn quí" của ông ta, Ông Số 1!
Có thể có người
nghĩ Gấu thù hằn ông ta! May quá, không có chuyện đó!
Cái sự chửi
như "ba dòng thác cách mạng của VC”, ở trên trang TV, là 1 cú đánh chót
của
Gấu, gọi hứng từ đám“mafia Do Thái”,
trao giải Nobel văn chương, dựa trên câu của Walter Benjamin, mọi tài
liệu về
văn minh là 1 tài liệu về dã man: Bởi vì chỉ có mỗi 1 cách, lôi cái
đống kít ở
dưới chân tượng đài văn minh dởm bốn ngàn năm văn hiến ra, quậy cho nát
bấy
lên, rồi bắt chước NH của NHT, nhét vô miệng đám tinh anh Mít, cả ở
trong lẫn
ngoài nước, may ra mới có sự thay đổi! (1)
Chuyện Tình
[Hai Hòn Bi]
Thơ Đỗ Quý
Toàn
Ôi anh yêu
em vì em biết nói
Em đã biết
thưa em còn biết gọi
buổi sáng trời
mưa khiến anh nhớ em
bây giờ trời
nắng anh nhớ em hơn
ngồi xuống
đây đi nghe chim đang hót
đồng cỏ bàn
tay trời cao mắt ướt
khi ngó nhau
thôi còn biết nói gì
hai đứa ngồi
đó như hai hòn bi
có cánh hoa
đẹp anh hái cho em
em không
thèm nhận anh chết cho xem
và anh sẽ
khóc miên man suốt ngày
ôi chả bao
giờ buồn như bữa nay
này em yêu
quý em có biết nghe
trên cánh đồng
cỏ có con bò kia
nó kêu “bò”
“bò” và nó ăn cỏ
trời hôm nay
cao, yêu em, hỡi gió
và trên đỉnh
đồi có cây to tướng
ở một cành
ngang có một tổ kiến
có con đi ra
có con đi vào
trời hôm nay
nắng, yêu em xiết bao
này em yêu dấu
em nào có hay
hồi nãy trên
trời có con chim bay
có con chim
nó bay qua trên trời
trời xanh đến
thế đôi mình lứa đôi
*
Trích tạp
chí Sóng, số 71 phát hành vào
tháng 4 năm 1988
Ghi chú:
1/ Tạp chí
Sóng (ISSN 08222-4266) là tờ báo
của
thuyền nhân Việt Nam (The Vietnamese
Boat People’s Magazine), Chủ nhiệm Nguyễn Tăng Chương (nhà giáo). Chủ
bút: nhà
văn Minh Đức Hoài Trinh. Tòa soạn đặt tại
thành phố Toronto Canada. Hiện nay báo đã đình bản.
2/ Nhà thơ Đỗ
Quý Toàn còn dùng các bút danh Vương Hữu Bột, Đạo Cấy, Ngô Nhân
Dụng…Hiện ông sống
và làm việc tại Hoa Kỳ. Từng giữ chức Chủ bút tạp chí Thế Kỷ 21 trong
nhiều
năm. Bạn đọc có thể gặp bài viết của ông đều đặn trên tạp chí Thể Kỷ
21. Người
Việt Oline qua các bài bình luận chính trị, kinh tế,văn học,câu chuyện
bàn tròn
vv…
Tác phẩm in
tại hải ngoại: Yêu Con, Dạy Con Nên
Người Việt (tiểu luận, 1988), Cỏ Và
Tuyết
(thơ, 1989), Đổi Mới Kinh Tế (biên khảo), Tìm Thơ Trong Tiếng Nói (biên
khảo,
1992)
Nguồn: Trang
Luân Hoán
Bài thơ của
Bishop, TV đã dịch ra tiếng Mít, để kiếm sau
Shostakovich
Trên tờ Điểm
Sách Nữu Ước, NYRB số đề ngày 10 tháng Sáu, 2004, Orlando Figes điểm
hai cuốn
sách mới xuất bản, viết về nhà soạn nhạc lớn lao của Liên Xô,
Shostakovich [một
nhân vật được coi là li khai, chống đối chế độ...], cho biết, Shos. đã
từng ký
tên trong danh sách đăng trên tờ Sự Thật., tố cáo nhà bác học nguyên tử
của
Nga, Andrei Sakharov.
"Không
ai bắt ông ta phải làm như vậy." Bạn của Shos, Lev Lebedinsky nhớ lại. Và tác giả bài viết giải thích: Đây không phải
hành động của một con người phản kháng, như ông đã từng, mà của một con
người sống
quá lâu trong nỗi sợ hãi.
Hai mươi năm
sau khi Stalin mất, ông ta vẫn còn sợ Ông Trùm Đỏ! (1)
Linh Tinh
Bài của
Likhachev, “Phẩm tính trí thức”, là bài rất có ích cho các nhà văn. Tôi
đặc biệt
chú ý đến đoạn nói về cách sống và phong độ của giới trí thức Nga, cũng
như đoạn
về nhà văn Solzhenitsyn. Không trách gì nhiều nhà văn nước ta (chứ
không phải
là nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế. Mà mê là đúng, vì
họ lớn
quá. Sang trọng. Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền Nam
và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết
bao
nhiêu điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner? Tuy nhiên
theo thiển
nghĩ của tôi, sự phân chia hướng Âu hay Á-Âu thật ra không quan trọng
lắm.
Điềm
Trong nước mà
biết khỉ gì về Solzhenitsyn? Nhưng thôi, kệ mẹ tên khốn này lo thổi đít
VC.
Có điều
hắn phán, sao cứ đọc hoài về Frost với lại Faulkner, làm Gấu buồn cười.
Hải ngoại
nào đọc hoài hai đấng này, ngoài trang Tin Văn? Đọc 1 phát, là thấy rõ
tên này
tính cà khịa với GCC!
Gấu với hắn đâu có gì hận thù, nếu không muốn nói, là cũng
thuộc loại có quen biết, như dã từng viết.
Mà đâu phải
ra đến hải ngoại Gấu mới viết về Faulkner. Trong truyện
ngắn,
viết sau khi thằng em tử trận, "Mộ Tuyết", sau đưa vô
"Hai mươi
năm văn học Miền Nam", của Nguyễn Đông Ngạc, Gấu đã vinh danh Thầy của
mình rồi:
Khi anh định
viết về những chuyện đó, chắc là anh đã lập gia đình (đã yêu thương một
người
đàn bà), đã có con (đã có hai con, một trai, một gái), và như một kinh
nghiệm của
một nhà văn nước ngoài mà anh đã đọc và ngưỡng mộ (W. Faulkner), khi
đó, bởi vì
anh cần chút tiền để trả chút nợ, hay để mua cho vợ anh một chiếc áo
mới nhân dịp
sinh nhật, mua đôi giầy, đôi dép cho hai đứa nhỏ, chỉ vì chút nhu cầu
tầm thường
đó mà anh viết. Tất cả những nhu cầu nhỏ mọn chẳng liên quan gì đến văn
chương,
và cũng chẳng liên quan gì tới những nỗi đau khổ mà gia đình anh đã
trải qua
đó, đã xui khiến anh viết, đã cho anh thêm chút can đảm để bỏ một cuộc
vui, một
cuộc tụ tập với đám bạn bè nơi nhà hàng, quán nước (cái không khí túm
năm tụm
ba đó lúc nào mà chẳng toát ra một vẻ quyến rũ), đã cho anh thêm một
chút sức mạnh
để chống lại những giấc ngủ lết bết, chống lại sự lười biếng làm tê
liệt mọi dự
tính: anh sẽ viết về những gì thật nghiêm trang (những cái gì từa tựa
như là là
ý nghĩa về đời sống, cái chết, chiến tranh...) chỉ vì những nguyên nhân
thật tầm
thường giản dị, và đem tập bản thảo đi gạ bán cho một nhà xuất bản.
Bây giờ nhớ
lại, thì lại nhớ ra, lần đầu chỉ là 1 mẩu, đăng trên phụ trang VHNT
cuối tuần của
tờ Tiền Tuyến, thời gian TTT còn phụ trách, và bị ông anh nhắc nhở, cái
mục của
mày, là chỉ để lo phê bình, điểm sách, giới thiệu tác phẩm mới xb, đừng
viết cái
gì khác thế vô.
Nhớ luôn, lần ở Trại Tị
Nạn Thái Lan, có được cuốn của Nguyễn Đông Ngạc, nhờ nó qua được thanh
lọc, một
bà cũng tập tành viết lách, hỏi mượn đọc,
sau đó nói với 1 bà bạn khác, truyện như thế mà "hay nhất của quê hương
chúng ta" ư?
[Cuốn của Ngạc còn có cái tên, “Những truyện ngắn hay nhất của quê
hương chúng
ta”]: Thằng em trai chết, mà tìm không thấy 1 giọt nước mắt!
Cái ý, "cần tiền
mua mấy cái tã cho con, bèn viết, và sau đó đem tác phẩm đi gạ bán", là
thuổng của
Faulkner.
Về cái gọi là
thơ hải ngoại, hay nói rõ 1 một chút, căn bịnh trầm kha của nó, của thơ
Mít, GCC nhận ra từ
khuya rồi,
và cố chữa trị, qua mục thơ mỗi ngày, tức là dịch, giới thiệu
thơ thế
giới.
Thơ Mít, ngoài thứ, phải có máu, của Bắc Kít, thì còn có, thơ
của
Miền Nam quy vào hai món, thơ tán gái, thơ ngồi bên ly cà phê nhớ bạn
hiền, bạn
quí.
Nếu không dịch thơ thế giới là còn khổ với Thầy Kuốc, cứ mỗi lần viết,
là lại bèn đọc chơi vài bài
ca
dao, vài bài tiền chiến!
Tay này khủng thật, vốn liếng chỉ có thế mà dám đi cả
1 cuốn sách về thơ, nhìn cái đéo gì thì qua góc độ thơ!
Bài viết dài
thòng của tên khốn này, thì cũng tệ hại như vậy, đó là sự thực.
Vậy mà hắn cho đăng
trên 3 diễn đàn, Da Mùi, Văn Học Vịt, rồi Văn Vịt!
Tởm thật.
Borges
by Cioran
A Critic at Large March
26, 2007 Issue
Vagabonds
Rberto Bolaño and his
fractured masterpiece.
By Daniel Zalewski
When “The Savage
Detectives” was published, Ignacio Echevarría, Spain’s most prominent
literary critic, praised it as “the kind of novel that Borges could
have written.” He got it half right. Borges, whose longest work of
fiction is fifteen pages, would likely have admired the way Bolaño’s
novel emerges from a branching tree of stories. But what would he have
made of the delirious road trip, the frenzied sex, the sloppy displays
of male ego? Bolaño fills his canvas with messy Lawrencian emotions but
places them within a coolly cerebral frame. It’s a style worthy of its
own name: visceral modernism. ♦
Note: Bolano theo GCC, là cũng
từ Borges mà ra. Nhưng trái ngược hẳn nhau, trò viết loạn cào cào, dài
thòng, thầy ngắn ngủn. Thành ra khi cuốn "Những nhà thám tử lạ lùng" ra
đời, và khi cái tay phê bình khen, đây là thứ tiểu thuyết mà Borges có
thể viết, tác giả bài này, "Vagabonds", những tên ma cà bông, nói, chỉ
đúng có 1 nửa.
Bolano nhập thế hơn Borges, cái gì của ông này viết ra thì cũng có mùi
sex.
Borges gần như 1 nhà khổ hạnh, chẳng có tí mùi súng ống đạn dược, bướm
biếc!
Chẳng có tí male ego!
Trang Bolano
EXILES
To be exiled
is not to disappear but to shrink, to slowly or quickly get smaller and
smaller
until we reach our real height, the true height of the self. Swift,
master of
exile, knew this. For him exile was the secret word for journey.
Many of the exiled, freighted with more suffering than
reasons to leave, would reject this statement.
All literature carries exile
within it, whether the writer has had to pick up and go at the age of
twenty or
has never left home.
Probably the first exiles on record were Adam and
Eve.
This is indisputable and it raises a few questions: Can it be that
we're all
exiles? Is it possible that all of us are wandering strange lands?
The concept
of "strange lands" (like that of "home ground") has some
holes in it, presents new questions. Are "strange lands" an objective
geographic reality, or a mental construct in constant flux?
[suite]
Albert Camus vs Kamel Daoud
30.4.2015
Nhà văn
Nguyên Ngọc: 'Chúng tôi đã được gỡ mặt nạ'
"Chúng
tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường,
giản dị,
có thể nói với nhau về những ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên
này và
bên kia".
Note: Tên
già này, hết thuốc chữa!
GCC đã
khuyên hắn ta, ra nghĩa trang Ngụy quỳ lạy xin lỗi, sám hối, vì đã sống
bằng
máu của kẻ khác, trong 1 cuộc chiến mà cả hai tên VC và Mẽo đều bị bịp,
từ cú “báo động hoảng”, do Bắc Bộ Phủ ngụy tạo, khi hô hoán Diệm đầu
độc tù ở
Trại Tù
Phú Lợi, lấy cớ tạo ra cái lũ bù nhìn là MTGP, cuộc chiến thảm khốc bắt
từ cú bịa
đặt này.
Gỡ mặt nạ
cái con khỉ.
Bịp bợm
hoài!
Hết bịp người,
bây giờ tự bịp chính hắn ta.
Bịa đặt ra 1
cuộc chiến, cốt nhục tương tàn, bằng cách rước thằng Tẫu kẻ thù muôn
đời vô
nhà, vô đến tận giường ngủ - cái gì gì hộ lý quan Tẫu – để đánh cho
bằng được Mỹ
cút Ngụy nhào, bây giờ lại ve vãn thằng Yankee mũi lõ.
Giáo sư Huệ
Chi nói việc liên minh với Hoa Kỳ hiện nay là một 'mệnh lệnh của lịch
sử'. (b)
Như vậy là
sau khi dâng vợ con cho Tẫu, để chúng trang bị đến tận lông chim anh bộ
đội Cụ
Hồ cũng made in China, để ăn cướp cho bằng được Miền Nam, bây giờ lại
đi với Mẽo,
vì đây là mệnh lệnh của lịch sử.
Graham Greene
đã cảnh cáo cái mệnh lệnh lịch sử này, qua cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng",
mà thế giá
của nó càng ngày càng bảnh, theo cái nghĩa, thằng Mẽo không hề tốt lành
gì đâu,
coi chừng, coi chừng.
Khí giới khủng khiếp mà Mẽo sử dụng, theo Greene, chính là…
thiện ý của chúng, hà, hà!
AFTERWORD
Cuộc
chiến Mít, với những tội ác của nó, con
số người chết, 1 đất nước ngày càng tàn tạ, mất mẹ lương tâm đạo đức,
mất tất cả
"cái gọi là Mít", là do VC phịa ra, rồi biến nó thành hiện thực, khởi
từ "ý hướng tốt" của anh Mẽo trầm lặng, cố tìm 1 lực lượng thứ ba,
không
theo Tẩy, Tẫu, Mút Ku.... 1 tên Mít đúng là Mít, cho xứ Mít!
Những
tài liệu,
văn kiện, sự kiện liên quan tới cuộc chiến giữa anh Tẩy và Việt Minh,
mới nhất,
từ phía Tẩy đưa ra, mà Gấu đọc, thời gian sau này, cho thấy, cuộc chiến
đó có thể
tránh được, ít ra là về phía Tẩy, nhưng Vẹm, không chỉ cố tình và còn
mong mỏi,
làm đủ mọi cách cho nó xẩy ra, để làm cỏ sạch những đảng phái khác, mà
chúng gán
cho tội Việt Gian, bán nước, chưa kể những nhà ái quốc như Phạm Quỳnh,
thí dụ.
Bởi vì chỉ có cách đó, mới thu gom mọi quyền lực vào tay chúng.
Cũng
thế là
cuộc chiến thứ nhì, với Mẽo, chỉ có cách đó, mới biến cả 1 miền đất
thành thù
nghịch.
Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng
là 1 bằng chứng chết người, của
những thiện ý, của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít
bắt đúng gân Mẽo, khi thành lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc
chiến Mít thì mới thắng nó!
Nên nhớ,
lịch sử Mít đã từng xẩy ra Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng
Ngoài và Đàng Trong.
Bắc Kít
thua, không làm sao lấy được Miền Nam.
Nhờ
nhử Mẽo vô mà thắng!
Reading
Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali
Đầu năm nay, trong khi dậy khóa
MFA ở Đại Học Columnia, tôi có 1 cuộc bàn luận sôi nổi với một nhóm
sinh viên về Người Mỹ Trầm Lặng.
Với một số, ở giữa tuổi đôi mươi thì đây là lần đầu gặp GG, qua sách.
Hầu hết thì coi phim, ấn bản mới, làm lại, với Brendan Fraser là diễn
viên. Ai cũng có nhiều điều để nói, đặc biệt là về tính cách của nhân
vật chính Alden Pyle, và, anh ta là cái gì đối với xã hội văn hoá, và
chính trị Mẽo.
Điều thú vị của buổi nói chuyện, là, nếu có ai tình cờ
ghé qua, và trong đầu chẳng có gì về cuốn sách, hay là có tí ti, thì
cũng đều tỏ ra ngỡ ngàng, tại làm sao mà 1 cuốn tiểu thuyết được xb
cách cả nữa thế kỷ, mà lại "hot" đến như thế
Lẽ dĩ
nhiên,
sinh viên của tôi khó có thể, là những người đầu tiên, nhận ra sự thích
đáng của
những đóng góp, xây dựng trong những giả tưởng của Graham Greene lên
thực tại,
là chính trị của thế giới thực của thế kỷ thứ 21. Phillip Noyce, giám
đốc 2002
film version, đã làm 1 đường so sánh, trong 1 cuộc phỏng vấn với tạp
chí Salon, trước khi xẩy ra cú xâm lăng
Iraq:
“G. Bush đúng là từ cái bóng của anh chàng Mẽo, Pyle, trong Người
Mỹ Trầm
Lặng, bò ra!” Anh ta thật khó mà là người dưng, kẻ xa lạ, kẻ ở
bên lề,
mà đúng "một trăm phần dầu" Mẽo, đi tới đâu là mang đủ hành lý Mẽo,
chật cứng
những
thiện ý, luôn tin tưởng, ta là người đem đến câu trả lời: Anh ta rất ư
là ngây
thơ, naïve, nói cho cùng, đếch phải thứ cực kỳ thông minh, cực kỳ sáng
suốt, thật
sáng ngời, nhưng than ôi, bất hạnh thay, cực kỳ nguy hiểm!”
Monica
Ali
Gấu
phải đi
1 đường dài dòng như vậy, để cánh cáo lũ VC, vào lúc này, chúng mê Mẽo
hơn
bao giờ hết, sau khi dâng vợ con cho thằng Tẫu, để đánh cho bằng được
Mỹ
Cút, Ngụy
Nhào, ăn cướp cho bằng được, Miền Nam, tống cho bằng được lũ Ngụy vô Lò
Cải Tạo.
Trên net, trên
báo chí, cả của VC, lẫn của thế giới, nói rất nhiều về tội ác Mỹ Ngụy.
Cực đau
thương, là những tội ác đó, sẽ chẳng hề có, nếu không có cú nhử Mẽo vô
Miền Nam,
biến nó
thành đầm lầy, để cầm chân đế quốc, giùm cho cả một phe Đỏ. Một công
đôi việc,
vừa ăn cướp được Miền Nam, tức thống nhất đất nước, vừa đúng ý của Lê
Duẩn, chúng
ta đánh Mỹ Ngụy giùm cho TQ, cho Liên Xô!
Cứt một phát,
là chúng hy sinh cả 1 miền đất cho những tham vọng của chúng.
Đọc, nghe những
lời phát biểu của những tên như Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh… mới hỡi ơi,
chúng không
hề “quí” máu của kẻ khác, những tên Mít khác.
Tên già NN
thì cũng rứa.
Đó là ý câu của Camus: Tư
tưởng lầm lẫn luôn kết thúc trong biển máu, nhưng máu kẻ khác, đếch
phải của 1 tên như NN, thí dụ.
Viết nhân mùa mưa
Tự Do Viết
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt trên đê làng
Thanh
Trì, Sơn Tây
|