|
Album
Last Page
Album
Sách Báo
Ovide phán, lưu vong là để lại cái xác thân
của mình ở quê nhà. Cha mẹ của tôi để lại, không chỉ thân xác, mà còn 1 tí
ti tâm hồn của họ ở xứ Mít.
Chưa lần nào, tôi nghe thấy chúng nhắc tới đám Bắc Kít di cư, và kẻ bỏ đi sau 1975!
Chẳng 1 lời về đám chết đuối ở biển cả, hay bỏ mạng trong Trại Tù.
Doan Bui, nữ ký giả của tờ Obs, có mấy nhận xét, rất giống GCC, tếu thế.
Bà phán, cái xứ Mít mà Bà kể cho mấy đứa con gái của bà, chẳng tên nào nhớ,
khá nhiều điều, mới xẩy ra thôi, CCRD, thảm kịch 1954, 1975.
Thật sự mà nói, trong cái lịch sử chính thức của xứ Mít, lịch sử gia đình của chúng mình không có!
Nếu không có cuộc chiến, mẹ không gặp được bố mày, làm gì có tụi mày.
Lịch sử của chúng ta không có ở đâu hết. Trong viện bảo tàng xứ Mít, không
có, trong phim Mẽo cũng không có. Mẹ chợt hiểu ra rằng, nó đúng là lịch sử
cuộc nội chiến [la guerre de Sécession].
-Bà ơi, sao mà họ buồn như thế, mà họ yêu nhau như thế?
-Bởi là vì bố mày Bắc Kít, còn mẹ mày Nam Kít.
Parce ce qu’elle vient d’une famille sudiste, alors que lui vient du nord, leur amour est IMPOSSIBLE!
Xứ Mít được kể lại cho con gái của tôi
Obs
số 13 & 19 Aout, có bài “Zizek giải thích Hegel”, OK lắm: “Hegel hay
là sự chiến thắng của tinh thần”. Zikek phán, y chang Trần Văn Toàn, khi
kết thúc cuốn về Marx của ông: Cái bóng Hegel phủ quá Marx!
Về cuốn triết học Mác xít của Trần Văn Toàn, Gấu đọc, lúc mới lớn, điều độc
nhất - ngoài cái bóng Hegel - còn nhớ được, là, ông phán, một khi gọi là
“niềm tin”, thì là nó trở thành ngoại lý, luôn cả niềm tin về 1 “con người
hoàn toàn” của Marx.
Zizek được coi là tên đệ tử Hegel khổng lồ cuối cùng, le dernier des grands
Hégéliens, và với độc giả đương thời ông được coi là 1 triết gia “pop” nổi
tiếng, phán: Không phải Hegel bị vượt, nhưng mà là lũ người sau ông cứ suy
tư như là chưa từng có Hegel, “comme si Hegel n’avait pas existé”.
Lại Marx!
« Opium
du peuple»
“La religion est l'opium du
peuple.”
Qui ne connaît cette phrase de Marx, extraite d'une
étude sur Hegel publiée en 1844 ? Un anti-cléricalisme borné a voulu en
faire l’expression
de l'abrutissement engendré par la foi. Remise en contexte, elle est
plus
subtile. “La religion est le soupir de la créature opprimée, l'âme d'un
monde
sans cœur", écrit-il en effet. Non seulement elle apaise, mais elle
rend
tolérable un monde dépourvu d'esprit. “L'abolition de la religion en
tant que
bonheur illusoire, c'est l'exigence de son bonheur réel”, répond par
avance
Marx aux futurs éradicateurs léninistes d'Eglises orthodoxes.
Tôn giáo là thuốc phiện của quần
chúng?
Câu của Marx, ở trong context
của nó, là như vầy:
“Tôn giáo là tiếng thở dài của
sinh vật bị chà đạp, đàn áp, là tâm hồn của một thế giới không có trái
tim”
“Huỷ bỏ tôn giáo như là thứ hạnh
phúc dởm là yêu cầu cấp thiết của hạnh phúc thiệt’
Câu mà Marx mê mà chẳng bảnh sao: "Chẳng có thứ gì có mùi người mà tôi
chưa từng hửi!" [Nguyên văn: Không có gì dính dấp đến con người mà xa
lạ đối với tôi].
Hai nhân vật lịch sử Marx mê
cũng quá bảnh. Kepler là người tìm ra quỹ đạo bầu dục của các hành
tinh, nhân vật
‘thần kỳ’ trong “Những kẻ mộng du” của Koestler. Spartacus thì khỏi
nói, ai cũng
biết. Nhưng chưa ai nhìn ra, đây là anh Mít đầu tiên của lịch sử nhân
loại, đã đi
theo hướng ngón tay trỏ của Đức Thánh Trần, mở con đường máu về phía
biển cả.
Chàng trả tiền cho lũ cướp biển Sicile, nhưng bị chúng lừa!
Đâu có khác chi dân Mít bị lừa
đến nỗi phải chạy ra biển!
Ý nghĩ của ông về hạnh phúc?
Chiến đấu, giành cho bằng được.
Còn về bất hạnh? Chịu thua nó
cho rồi!
Ui chao đúng y chang Gấu, khi
BHD nói “không” là bèn lủi thủi ra về, khóc như chưa bao giờ biết khóc!
Tính xấu ông tha thứ? Cả
tin.
Ui chao đúng là cái tính tốt
của dân Mít. Yankee mũi tẹt nói đánh cho Mẽo cút Ngụy nhào giải phóng
Miền Nam,
thống nhất đất nước, nhưng sự thực, là ăn cướp Miền Nam, thế mà mọi nhà
mọi người
đều tin theo, đưa đến đại họa như bây giờ, khổ thế!
Cái đại hoạ bây giờ của dân Mít, Marx cũng đã tiên tri ra được, như
trong câu tiếp theo:
Cái tính xấu mà ông ghét thậm tệ? Làm đầy tớ cho Đảng!
SN-GCC, 2015
Bài tặng Tứ khúc
gửi GNV
Ta lướt nhẹ trên thời gian
và rưng rưng Tứ Khúc
như làn khói mỏng, rất mỏng
nói những lời nhẹ, rất nhẹ
hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn
nhưng niềm hân hoan nảy nở
trên những nhánh cành khổ hạnh
những giọt nước lóng lánh
điềm triệu của sự sinh.
D.V, 15/8/2015
Bài thơ này, khác hẳn thứ thơ ngồi bên ly cà phê nhớ bạn hiền, “lũ lụt” 1
cõi thơ Mít, Gấu đọc, nghe ra câu thơ thần sầu của T. S. Eliot:
In my beginning is my end.
Trong cái bắt đầu của tôi là cái tận cùng của tôi
Đây là tinh thần Thơ Mỗi Ngày, theo Gấu
Tks
Take Care
NQT
You say I am repeating
Something I have said before.
I shall say it again.
Shall I say it again?
-T. S. Eliot
Note: Bài thơ “Tưởng Niệm Joseph Brodsky”, của Mark Strand, dưới đây, như có cùng air, thơ DV:
Có thể nói ngay cả ở đây, cái còn lại của cái ngã
Tuồn vô 1 thứ ánh sáng cũng đang sắp sửa chuồn, biến mất,
Mong manh, mỏng dính như bụi
Hướng về một nơi
Cái biết và cái hư vô trộn vô nhau…
Thơ
Mỗi Ngày
In Memory of Joseph Brodsky
It could be said, even here, that what remains of the self
Unwinds into a vanishing light, and thins like dust, and heads
To a place where knowing and nothing pass into each other, and
through;
That it moves, unwinding still, beyond the vault of brightness ended,
And continues to a place which may never be found, where the
unsayable,
Finally, once more is uttered, but lightly, quickly, like random rain
That passes in sleep, that one imagines passes in sleep.
What remains of the self unwinds and unwinds, for none
Of the boundaries holds-neither the shapeless one between us,
Nor the one that falls between your body and your voice. Joseph,
Dear Joseph, those sudden reminders of your having been-the
places
And times whose greatest life was the one you gave them-now
appear
Like ghosts in your wake. What remains of the self unwinds
Beyond us, for whom time is only a measure of meanwhile
And the future no more than et cetera et cetera ... but fast and
forever.
Mark Strand: New Selected Poems
Tưởng niệm Joseph Brodsky
Có thể nói ngay cả ở đây, cái còn lại của cái ngã
Tuồn vô 1 thứ ánh sáng cũng đang sắp sửa chuồn, biến mất,
Mong manh, mỏng dính như bụi
Hướng về một nơi
Cái biết và cái hư vô trộn vô nhau;
Rằng, nó chuyển động, vưỡn theo kiểu trải ra, tuồn vô, như thế, quá cả vòm sáng, tận.
Tiếp tục tới một nơi chẳng bao giờ kiếm thấy, không thể nói ra được,
Và sau cùng, một lần nữa nó - cái còn lại của bản ngã - được thốt lên.
Nhẹ, lẹ làm sao,
Như cơn mưa bất chợt, tình cờ
Chìm vào giấc ngủ,
Một người nào đó tưởng tượng, và chìm vào giấc ngủ
Cái còn lại của cái ngã
Trải ra, trải ra, bởi là vì chẳng hề có 1 thứ biên cương bờ cõi nào cầm giữ nổi –
Cái không hình dạng giữa chúng ta, không, mà luôn cả cái té xuống giữa thân thể và giọng nói của bạn, cũng không, Joseph
Joseph thân thương,
Những nhắc nhở bất thần ở những ai đó, về bạn - những nơi chốn, thời gian
có bạn ở đó, cái cuộc đời vĩ đại nhất mà bạn ban cho họ - bây giờ xuất hiện
Như những hồn ma trong cú thức giấc của bạn.
Cái còn lại của cái ngã trải ra, trải ra, quá chúng ta
Bởi là vì thời gian chỉ là cân đo đong đếm của cái “vào lúc này”
Và tương lai thì là cái đếch gì, vân vân và vân vân, nhanh ơi là nhanh, và vô cùng, miên viễn.
Mark Strand
A man is, after all, what he loves.
Brodsky
Nói cho cùng, một thằng đàn ông là "cái" [thay bằng "gái", được không, nhỉ] hắn yêu.
"What", ở đây, nghĩa là gì?
Một loài chim biển, được chăng?
The world is ugly,
and the people are sad.
Đời thì xấu xí
Người thì buồn thế!
Viết Mỗi Ngày
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/08/150819_forum_august_revolution_doan_xuan_loc
Theo nhà nghiên cứu Pháp Pierre Roussett, tác
giả cuốn Communisme et Nationalisme Vietnamien, xuất bản năm 1978, thực ra
Việt Minh là lực lượng được mang tới quyền lực, hơn là người đã giành được
quyền lực.
BBC
Note: Cái tên của nhà nghiên cứu, viết trật.
Tên ông này là Pierre Rousset.
GCC đã nói rồi, đám Bi Bì Xèo này dốt lắm! Tên của người ta mà cũng viết trật. Bác Hồ, mà thành Bác Hố [Xí], VC sao chịu nổi!
Cái chuyện khoảng trống quyền lực thì cũng có lý, nhưng tại làm sao chỉ có Vẹm, biết nắm lấy cơ hội?
Trần Trọng Kim, đếch phải Vẹm, tất nhiên, trong cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi
cho biết, ông có tới gặp Vẹm, đề nghị nắm vòng tay nhớn, Vẹm lắc đầu, tụi
mi là Việt Gian, chúng ông sẽ làm thịt sạch, nhớn với chẳng bé gì.
Lẽ tất nhiên, đây là ngôn ngữ của Gấu Cà Chớn, nhưng quả có cái cú gặp gỡ,
và Vẹm vờ. TTK nhận xét, lũ này hiếu chiến quá, thể nào cũng gây họa.
Có khoảng trống quyền lực, cái khoảng trống giữa No Longer và Not Yet Hannah
Arendt đã nói tới, và Vẹm đã lợi dụng nó, chỉ cho Vẹm.
Borges Imaginary Being Book
Thư Tình nơi Sofa
Letter in the Sofa
1957
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
1 YEAR AGO TODAY Fri, Aug 15, 2014
1. Ba trăm năm sau có ai khóc Tố Như ? -Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình. Kiệt trở giọng giận
dữ – Mình là cái quái gì. Anh chỉ mong được mọi người coi thuờng anh… (Thanh Tâm Tuyền: “Một Chủ Nhật Khác”)
Nabokov, nhà văn lưu vong người Nga, viết văn bằng tiếng Anh, trong một
cuộc phỏng vấn, đã tỏ ra bực bội của ông khi thấy thiên hạ chỉ biết tới
Lolita mà chẳng thèm để ý tới cha sinh mẹ đẻ "cô bé" là ai: "... Continue Reading
3 Likes
SN-GCC, 2015
SN_GCC_2014
We’d like to wish you a very happy birthday
full of great friends and everything you like.
|
— The Facebook Team —
16.8.2014
hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn:
Tuyệt!
Tks
NQT
Nhớ là Kundera có nhận xét, cái gì gì, chúng ta có một đời để sống, nhảm.
Một đời thì sống làm khỉ gì. Phải vài đời, nhiều đời, đời đời.
Gấu Cà Chớn cũng nghĩ như thế, và cũng đã kể về vài đời Gấu đã từng trải
qua. Luôn cả 1 tiền kiếp của GCC.
Trong những cuộc đời như thế, khủng nhất là
cuộc đời dởm, chẳng có gì hết, vậy mà cực kỳ thê thương….
Ui chao, Vargas Llosa cũng phán như thế, và không chỉ phán, mà còn đi cả
1 cuốn tiểu thuyết về nó, và ông coi đó là giấc mơ của 1 tên… Bắc Kít, Ái
Nhĩ Lan.
Each one of us is, successively, not one but many. And these
successive personalities that emerge one from the other tend to present the
strangest, most astonishing contrasts among themselves.
-Jose Enrique Rodó, Motives of Proteus
“The Dream of the Celt” is a moral tale. It is about the choice between denial
or denunciation in the face of evil, and the fine line between activism and
fanaticism. That makes an old story strikingly contemporary.
“Giấc mơ của tên Bắc Kít, GCC” là một câu chuyện đạo đức. Đó là về sự chọn
lựa giữa nói “Không” với cái Cái Ác Bắc Kít – hay là ị vào mặt Bắc Bộ Phủ
như 1 bà nhà văn cũng Bắc Kít đã từng làm – và sợi dây mỏng dính, đẹp tuyệt
vời, như sợi sữa, trong 1 bức danh họa, (2) giữa hành động và cuồng tín.
Each one of us is, successively, not one but many. And these successive personalities
that emerge one from the other tend to present the strangest, most astonishing
contrasts among themselves.
Mỗi tên GCC trong chúng ta, là tiếp diễn của, không phải một, mà là nhiều
tên GCC. Trong số những tên GCC, tên nọ tiếp tên kia như thế đó, sẽ có 1
tên cực là khủng, chứa chấp trong nó, những tương phản lạ lùng nhất, kinh
ngạc nhất - bảnh nhất trong những tên GCC - giữa chúng.
Chắc là tên GCC làm trang Tin Văn?
Hay là tên chạy theo em BHD, khóc như cha chết ở Đại Lộ Cộng Hòa, bên ngoài cổng trường Đại Học Khoa Học?
Hay là tên khóc thằng em trai, tử trận, khiến một em không làm sao nỡ bỏ đi, lấy sữa cho con uống? (1)
Hay là…
Hay là...
Hà, hà!
(1)
Ui chao, đọc ba chớp ba nháng, as always, tưởng em không nỡ bỏ đi lấy chồng, hóa ra, con khóc, khát sữa, đi lấy sữa cho con!
Wislawa Szymborska's "Vermeer"
A poem against the
apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế
Aug 27th 2010, 16:53 by More
Intelligent Life, A.R. | NEW YORK
(2)
I
love the
shape of the poem—it
thins like a stream of milk,
pouring itself out. I also love the tension she sets up between the
"W" and the "w", which appears hierarchical but is also
slippery.
Tôi mê cái
dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng
cần tới
ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra
đẳng cấp
nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.
Prospero
Trên Tin Văn đã từng giới thiệu cái truyện ngắn thần sầu mà Borges cực mê,
của Hawthorne, "Wakefield". Bi giờ, mời quí độc giả thân mến của Tin Văn,
đọc lời phán của Thầy Kuốc - ấy chết xin lỗi - Thầy Bloom, về nó, về cái
anh chồng cà chớn, một buổi sáng, thay vì đi ra Quán Chùa uống cà phe, thì
lại bỏ nhà đi một mách, tưởng đi đâu, đi tới 1 căn nhà nào đó, trong xóm,
thuê, ở một mách mấy chục năm, lâu lâu hóa trang qua loa dơ măng, rồi ghé
nhà cũ, đứng xa xa, nhìn bà vợ già 1 phát, cho đỡ nhớ!
******
Thế rồi một buổi chiều, Borges điện thoại, và OK ghé thăm chúng tôi, dùng cơm.
Tuy chưa từng gặp lần nào, nhưng thái độ của Borges thực là cởi mở. Ông vừa
từ Concord trở về, và cho biết, rất ngưỡng mộ Hawthorne, thèm được thăm căn
nhà ngày nào của Hawthorne. Và Borges đã quỳ xuống, ở ngay bực thềm căn
nhà, mặc dù trời lạnh, tuyết đầy.
Và Borges hỏi tôi, đã từng đọc “Wakefield”?
Tôi chưa đọc “Wakefield”, và Borges bèn tóm tắt cho tôi nghe, bằng tiếng Tẩy.
Một người đàn ông, nói với vợ, mình phải rời thành phố chừng đôi ngày. Và
ông ta bèn từ giã vợ, với 1 nụ cười ngây ngô [a “sourrire idiot” – Bạn còn
nhớ nụ cười của Trung Uý Kiệt, với bà vợ, trong MCNK:
“Ngửng lên hắn lại nhìn nàng. Nàng giữ nguyên vẻ mặt thách thức. Hắn thở
phì, nhắm mắt rồi bỗng cười. Nụ cười lặng lẽ, mở rộng, lay động khuôn mặt
ngẩn ngơ”].
Ra đường, đi được vài bước, người đàn ông chợt đứng sững, tự hỏi chính mình, đi ư, giang hồ vặt ư? Quận Cam ư, San Diego ư?
Đi xa làm quái gì cơ chứ? Có ai thèm gặp ta nữa đâu?
Hà, hà!
Thế là ông chồng bèn ghé 1 khách sạn cũng quanh quẩn khu đó, muớn 1 căn phòng, tính ngày hôm sau, thì về lại với bà vợ già!
Ngày hôm sau Wakefield bèn tự hỏi chính mình, về làm gì bây giờ, mai về không được ư?
Thế là người đàn ông bèn dời cái ngày trở về gặp lại vợ già, nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm!
Cải trang “qua loa dơ măng”, ông chồng nhiều lần đi qua căn nhà của mình, có lần, từ xa, nhìn thấy bà vợ già…
Và “ông ta” nhận ra 1 điều, trước chưa từng nhận ra, hay để ý tới, ui chao, Gấu Cái già đi quá nhiều rồi!
Robbe-Grillet được coi là giáo chủ của TTT [tân tiểu thuyết] nhưng nếu ai
có đọc nhóm này, thì biết, họ đứng chung với nhau, thành 1 nhóm, nhưng mỗi
người viết một cách. Sartre gọi nó bằng cái tên, “phản tiểu thuyết”, khi
vinh danh Nathalie Sarraute, 1 trong nhóm, và bà này, cám ơn, có, nhưng phán
thêm, thằng chả chẳng hiểu gì về tiểu thuyết của tôi. Còn Nabokov, khi được
hỏi, thì chỉ chọn Robbe-Grilet, còn dzục thùng rác những tác giả còn lại,
như trong Bạo Miệng, Strong Opinions, cho biết. (1)
Nó còn có cái tên tiểu thuyết khách quan, “objective novel”, như trong bài phỏng vấn Robbe Grillet, của tờ The Paris Review.
Cũng thế, là với nhóm gọi là TTT ở Miền Nam, trước 1975. Chúng chơi với nhau,
có cái tên chung như thế, nhưng mỗi tên viết 1 kiểu, và nếu có tên, có mùi
TTT, thì là Mít Butor. Văn của đấng này rất giống văn Butor, ở cái vỏ, nghĩa
là, tránh sa đà vào cái trò vãi nước mắt, vẫn có cái gọi là tình cảm, nhưng
vậy vậy, và chú trọng đến cái nhìn, trong khi miêu tả.
Bây giờ nhìn lại, thì rõ ràng là cả lũ ghét Gấu, và là do Gấu viết khác hẳn
cả lũ, nếu không muốn nói, trội hẳn, nhất là ở cái khoản phê bình, độc miệng.
Đúng như 1 ông bạn mới quen nhận xét, “viết đanh đá khiếp”!
Tiểu thuyết của Robbe Grillet còn khác hẳn những người cùng nhóm ở cái khoản
sex, rất âm u, rất bịnh, [có thể nói như vậy]; bà vợ của ông, một kịch sĩ
nổi tiếng, là con gái của ông.
Tiểu thuyết của ông có mấy cuốn được chuyển thể thành phim ảnh, trong có
Năm ngoái ở [Last Year at] Marienbad, do Alain Resnais dàn dựng, rất nổi
tiếng.
Barthes, rất coi trọng TTT, và cách viết của Robbe-Grillet. Theo ông, nó đưa tới cách viết trung tính,
cách viết trắng, mà ông vinh danh, trong Độ Không của Cách Viết.
Literature and Meta-language
Logic teaches us to distinguish the language object from meta-language. The
language object is the very matter subject to logical investigation; meta-language
is the necessarily artificial language in which we conduct this investigation.
Thus-and this is the role of logical reflection-I can express in a symbolic
language (meta-language) the relations, the structure of a real language
(language object).
For centuries, our writers did not imagine it was possible to consider literature
(the word itself is recent) as a language, subject, like any other, to logical
distinction: literature never reflected upon itself (sometimes upon its figures,
but never upon its being), it never divided itself into an object at once
scrutinizing and scrutinized; in short, it spoke but did not speak itself.
And then, probably with the first shocks to the good conscience of the bourgeoisie,
literature began to regard itself as double: at once object and scrutiny
of that object, utterance and utterance of that utterance, literature object
and meta-literature. These have been, grosso modo, the phases of the development:
first an artisanal consciousness of literary fabrication, refined to the
point of painful scruple, of the impossible (Flaubert); then, the heroic
will to identify, in one and the same written matter, literature and the
theory of literature (Mallarmé); then, the hope of somehow eluding literary
tautology by ceaselessly postponing literature, by declaring that one is
going to write, and by making this declaration into literature itself (Proust);
then, the testing of literary good faith by deliberately, systematically
multiplying to infinity the meanings of the word object without ever abiding
by anyone sense of what is signified (surrealism); finally, and inversely,
rarefying these meanings to the point of trying to achieve a Dasein of literary
language, a neutrality (though not an innocence) of writing: I am thinking here of the work of Robbe-Grillet.
All these endeavors may someday permit us to define our century (the last
hundred years) as the century of the question What Is Literature? (Sartre
answered it from outside, which gives him an ambiguous literary position.)
And precisely because this interrogation is conducted not from outside but
within literature itself, or more exactly at its extreme verge, in that asymptotic
zone where literature appears to destroy itself as a language object without
destroying itself as a meta-language, and where the meta-language's quest
is defined at the last possible moment as a new language object, it follows
that our literature has been for a hundred years a dangerous game with its
own death, in other words a way of experiencing, of living that death: our
literature is like that Racinean heroine who dies upon learning who she is
but lives by seeking her identity (Eriphile in Éphigenie). Now this situation
defines a truly tragic status: our society, confined for the moment in a
kind of historical impasse, permits its literature only the Oedipal question
par excellence: Who am I? By the same token it forbids the dialectical question:
What is to be done? The truth of our literature is not in the practical order,
but already it is no longer in the natural order: it is a mask which points
to itself.
1959
Tiểu thuyết mới ở Việt Nam
Ông ta là cha tôi và chồng tôi. Chúng tôi biết những giới hạn quá chúng
chúng tôi không muốn tới
"Il est mon père et mon mari. Nous connaissons les limites au-delà
desquelles nous ne voulons pas aller"
Ông
nghĩ sao về cái mà người ta gọi là tiểu thuyết mới ở Pháp?
Tôi không mê mấy thứ nhóm, lực lượng, trường phái văn học. Chỉ nghệ sĩ
cá nhân
làm tôi quan tâm. Làm gì có 'tiểu thuyết mới', thực sự là vậy, nhưng có
một tay
thật bảnh, người Pháp: Robbe-Grillet. Tác phẩm của ông bị một đám cà
chớn bắt
chước một cách thô kệch rồi dán cái nhãn dởm lên, hòng đánh lận con
đen. (1)
Nabokov, Bạo Miệng
Robbe
Grillet được coi là giáo chủ, Le Pape, của TTM, và là tác giả của cuốn
“Vì
một TTM, Pour un nouveau roman”, 1963. Đây là 1 plaidoyer, bài biện hộ, không
phải 1 tuyên ngôn, manifeste, theo tờ ML.
I merely wish to remind the reader
once again (and Robert Conquest knows this very well) that the Soviet state
was not created out of thin air, that its inhabitants were the inhabitants
of yesterday's Russian state who awoke one fine morning to find themselves
under the so-called Soviet regime. The October revolution and the civil war
that soon followed led to the exile and destruction, or de-civilizing, of
the Europeanized Russian population (by Europeanized I mean people who were
literate, educated; who possessed a work ethic, a developed religious consciousness,
respect for law and reason; and who were also familiar with Europe and the
achievements of world culture). Those who survived and remained in Russia
lost the right to speak their mind and were too frightened or weak to influence
anything. Russian society, though it wandered in the dark for centuries,
had nonetheless by 19I7 given birth not only to an educated class but to
a large number of people with high moral standards and a conscience, to honest
people who were not indifferent to issues of social good. This is the intelligentsia
- not really a class but a fellowship of people "with moral law in their
breast," as Kant put it. Lenin hated them more than anyone else, and they
were the first to be slaughtered. When Maxim Gorky wrote to Lenin in their
defense, saying that "the intelligentsia is the brain of the nation," Lenin
answered with the famous phrase: "It's not the brain, it's the shit."
Thơ
Mỗi Ngày
Những con chim én ở Auschwitz
Trong sự trầm
lặng của những doanh trại
trong sự im lặng của một buổi Chủ Nhật mùa hè
tiếng chim én chát chúa
Có thực sự đó là tất cả những gì còn lại
của tiếng người ?
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
*
TRAVELING
BY TRAIN ALONG THE HUDSON
TO
BOGDANA CARPENTER
River
gleaming in the sun-
river,
how can you endure the
sight:
low crumpled train cars
made of steel, and in their
small windows
dull faces, lifeless eyes.
Shining
river, rise up.
How can
you bear the orange
peels,
the Coca-Cola cans, patches
of dirty snow that
once was pure.
Rise
up, river.
And I
too drowse in
semidarkness
above a library book
with someone's pencil marks,
only half living.
Rise
up, lovely river.
Đi xe lửa dọc sông Hudson
Dòng
sông lấp lánh trong ánh mặt
trời –
sông
ơi, làm sao mi chịu nổi cảnh
tượng:
những chiếc xe xe lửa lùn, nhầu
nát,
làm bằng thép, và ở những
khung cửa sổ nhỏ của chúng
là những khuôn mặt đần độn,
những cặp mắt vô hồn.
Sông
sáng kia ơi, hãy nhô lên,
nhô lên.
Làm sao
sông chịu nổi những vỏ
cam,
vỏ Coca-Cola, những mảng tuyết
dơ
có một thời trắng ngần.
Nhô
lên, sông ơi.
Và tớ
thì ngủ gật, trong
tranh tối tranh sáng,
bên trên một cuốn sách thư viện
mà ai đó đánh dấu bằng viết
chì,
nửa đời nửa đoạn.
Nhô
lên, con sông đáng yêu
kia ơi.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
*
SYRACUSE
City with the loveliest name, Syracuse;
don't let me forget the dim
antiquity of your side streets, the pouting balconies
that once caged Spanish ladies,
the way the sea breaks on Ortygia's walls.
Plato met defeat here, escaped with his life,
what can be said about us, unreal tourists.
Your cathedral rose atop a Greek temple
and still grows, but very slowly,
like the heavy pleas of beggars and widows.
At midnight fishing boats radiate
sharp light, demanding prayers
for the perished, the lonely, for you,
city abandoned on a continent’s rim,
and for us, imprisoned in our travels.
Adam Zagajewski: Eternal
Enemies
A BIRD SINGS IN THE EVENING
TO LILLIE ROBERTSON
Above the vast city, plunged in darkness,
breathing slowly, as if its earth were scorched,
you, who sang once for Homer
and for Cromwell, maybe even
over Joan of Arc's gray ashes,
you raise your sweet lament again,
your bright keening; no one hears you,
only in the lilac's black leaves, where
unseen artists hide,
a nightingale stirred, a little envious.
No one hears you, the city is in mourning
for its splendid days, days of greatness,
when it too could grieve
in an almost human voice.
Adam Zagajewski: Eternal
Enemies
WAIT
FOR AN AUTUMN DAY
(FROM EKELOF)
Wait for an autumn day, for a
slightly
weary sun, for dusty air,
a pale day's weather.
Wait for the maple's rough,
brown leaves,
etched like an old man's hands,
for chestnuts and acorns,
for an evening when you sit in
the garden
with a notebook and the bonfire's smoke contains
the heady taste of ungettable wisdom.
Wait for afternoons shorter
than an athlete's breath,
for a truce among the clouds,
for the silence of trees,
for the moment when you reach
absolute peace
and accept the thought that what you've lost
is gone for good.
Wait for the moment when you
might not
even miss those you loved
who are no more.
Wait for a bright, high day,
for an hour without doubt or pain.
Wait for an autumn day.
Adam Zagajewski: Eternal
Enemies
Đợi một ngày thu
[Từ Ekelof]
Đợi một ngày thu, trời mền mệt,
oai oải,
không gian có tí bụi và tiết trời thì nhợt nhạt
Đợi những chiếc lá phong mầu
nâu, cộc cằn, khắc khổ,
giống như những bàn tay của một người già,
đợi hạt rẻ, hạt sồi, quả đấu
ngóng một buổi chiều, bạn ngồi
ngoài vuờn
với một cuốn sổ tay và khói từ đống lửa bay lên
chứa trong nó những lời thánh hiền bạn không thể nào với lại kịp.
Đợi những buổi chiều cụt thun
lủn,
cụt hơn cả hơi thở của một gã điền kinh,
đợi tí hưu chiến giữa những đám mây,
sự im lặng của cây cối,
đợi khoảnh khắc khi bạn đạt tới
sự bình an tuyệt tối,
và khi đó, bạn đành chấp nhận,
điều bạn mất đi thì đã mất, một cách tốt đẹp.
Đợi giây phút một khi mà bạn
chẳng thèm nhớ nhung
ngay cả những người thân yêu ,
đã chẳng còn nữa.
Đợi một
ngày sáng, cao
đợi một giờ đồng hồ chẳng hồ nghi, chẳng đau đớn.
Đợi một ngày thu (2)
My Letter to the World
Viết Mỗi Ngày
http://www.viet-studies.info/VuQuanPhuong_ToHoai.htm
Lại một lần, vào năm 1994 thì phải, tôi hỏi
ông: Xưởng phim muốn làm một phim tài liệu về anh. Theo anh, nên mời ai viết
kịch bản. Ai biết về anh hơn cả?
Nghĩ một chút rồi Tô Hoài lại thủng thẳng:
Chẳng ai biết về tôi bằng tôi. Tôi viết lấy là tốt nhất. Rồi ông
chép miệng như nói về một người nào: Người như ma, lúc là ma, lúc là người,
bố ai biết được là thế nào.
Note: Nhân mới đọc bài về Tô Hoài trên blog NL.
Bài viết về Tô Hoài hay nhất, đúng bài do ông viết, nhưng đề tên Vương Trí Nhàn.
Hay nói rõ hơn, ông để cho đệ tử của ông, viết về ông, tốt hơn là chính ông viết ra.
Cái tệ nhất của TH, theo Gấu, là không chịu nổi những người bỏ xứ Bắc mà
đi, như Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Hoạt, và luôn cả Võ Phiến, khi bỏ kháng chiến
về thành.
Cái gì làm cho ông tệ như thế?
Đây là 1 câu hỏi “lớn”, với những người như ông.
GCC có câu trả lời, nhưng thay vì nói ra, thì lấy chính câu của Tô Hoài,
tiện hơn. Người như ma, lúc là ma, lúc là người, bố ai biết được thế nào.
Cái lũ bỏ đi, chúng chọn làm người, bỏ lại phần ma.
Đúng như thế.
Một khi bạn bỏ đi được, có thể chưa chắc đã thành người, nhưng không lâm vào tình trạng lúc là ma lúc là người
Vĩnh Biệt Tô Hoài
Nhớ Walter Benjamin có phán, đâu đó, người
ta thích nghe kẻ đi xa về nhà nói khoác, nhưng chính cái kẻ ngồi bên Bếp
Lửa, mới rành chuyện quê nhà.
Tô Hoài là cả hai.
Nhờ Dế Mèn chở ông đi khắp thế gian, hưởng đủ thứ phần
thịt nhờ nó, nhưng ông chính là ngồi bên Bếp Lửa kể chuyện Bắc Kỳ!
Youwarkee
In his Short History of English Literature, Saintsbury
finds the flying girl Youwarkee one of the most charming heroines of the
eighteenth-century novel. Half woman and half bird, or-as Browning was to
write of his dead wife, Elizabeth Barrett-half angel and half bird, she can
open her arms and make wings of them, and a silky down covers her body. She
lives on an island lost in Antarctic seas and was discovered there by Peter
Wilkins, a shipwrecked sailor, who marries her. Youwarkee is a gawry (or flying woman) and belongs to a race of flying people known as glumms.
Wilkins converts them to Christianity and, after the death of his wife, succeeds
in making his way back to England. The story of this strange love affair
may be read in the novel Peter Wilkins (1751) by Robert Paltock.
Trong Lịch sử bỏ túi văn học Anh, Saintsbury nhận
ra người đẹp bay, Youwarkee, là nhân vật nữ tuyệt vời nhất của tiểu thuyết
thế kỷ 18. Nửa đờn bà, nửa chim, hay là - như Browning viết về bà vợ đã mất
của mình, là Elizabeth Barrett- nửa thiên thần, nửa chim, nàng có thể mở
rộng đôi tay, làm thành đôi cánh, và mượn mà phủ nó lên cái body thần tiên
của nàng.
Nàng sống tại 1 hòn đảo mất tích ở vùng biển Bắc Cực. Một anh thuỷ
thủ, tầu đắm, khám phá ra nàng và lấy nàng làm vợ. Anh chàng cho vợ theo
đạo Chúa, và sau khi vợ chết, bèn kiếm đường về lại cõi trần.
The Double
Suggested or
stimulated by reflections in mirrors and in water and by twins, the
idea of the
Double is common to many countries. It is likely that sentences such as
A
friend is another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were
inspired
by it. In Germany this Double is called Doppelganger, which means
"double
walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man to
bring him to his death; there is also the Scottish word wraith for an
apparition thought to be seen by a person in his exact image just
before death.
To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad
"Ticonderoga" by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this
theme. There is also the strange picture by Rossetti ("How They Met
Themselves") in which two lovers come upon themselves in the dusky
gloom
of a woods. We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's
Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly
Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn
(Some Chinese Ghosts).
The ancient Egyptians
believed that the
Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his same walk and
his
same dress. Not only men, but gods and beasts, stones and trees, chairs
and
knives had their ka, which was invisible except to certain priests who
could
see the Doubles of the gods and were granted by them a knowledge of
things past
and things to come.
To the Jews
the appearance of one's Double was not an omen of imminent death. On
the
contrary, it was proof of having attained prophetic powers. This is how
it is
explained by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the
story
of a man who, in search of God, met himself.
In
the story "William Wilson" by
Poe, the Double is the hero's conscience. He kills it and dies. In a
similar
way, Dorian Gray in Wilde's novel stabs his portrait and meets his
death. In
Yeats’s poems the Double is our other side, our opposite, the one who
complements us, the one we are not nor will ever become.
Plutarch
writes that the Greeks gave the
name other self to a king's ambassador.
Kẻ Kép
Ðược đề xuất,
dẫn dụ, huých huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ
cặp song
sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu
này “Bạn
Quí là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư tưởng Hãy Biết Mình của
trường
phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là
Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”. Trong tiếng
Scotland thì
là từ fetch, cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái
chết đến
cho bạn. Còn có từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang
bạn, và
bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái
chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác
của
mình trôi qua, quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương
"Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài
này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How
They
Met Themselves"], hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc
chạng
vạng. Còn nhiều thí dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"),
Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist,
Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người
Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích thị
của 1 con
người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con
người mà thần
thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ
một vài
ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần
ban cho
khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do
Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha
nội, lẹ
lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao
Bồi, bạn của
Gấu, như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính... đi,
là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ
đòi mạng, thì đi thế
đéo nào được?]. Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã
thành, đạt
được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom
Scholem.
Một giai thoại
được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm
hoài
Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong
“William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong
truyện. Anh ta
thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian
Gray,
trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ
Thần Chết.
Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ
bổ túc,
hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở
thành.
Plutarch viết,
người Hy Lạp gọi, “cái ngã khác”, bằng cái tên, viên “đại sứ của hoàng
đế”.
An Animal
Imagined by Kafka
It is the
animal with the big tail, a tail many yards long and like a fox's
brush. How I
should like to get my hands on this tail some time, but it is
impossible, the
animal is constantly moving about, the tail is constantly being flung
this way
and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face,
which is
flat almost like a human face, and small and oval; only its teeth have
any
power of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I
have the
feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose could
it have
in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again waiting
calmly
until I am tempted again, and then leaping away once more?
FRANZ KAFKA:
Dearest Father (Translated from the German by Ernst Kaiser and
Eithne Wilkins)
Một con
vật Kafka
tưởng tượng ra
Ðó là 1 con
vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn. Ðòi phen tôi
thèm được sờ
1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh học sinh, xa nhà,
trọ học,
đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu
Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái đuôi, thân
hình luôn
uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt không giống, bèn
bẹt y
chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương bầu dục, chỉ có hàm
răng là
biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn này, lúc thì giấu biệt,
lúc thì
phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần hóa tôi, biến tôi thành
1 con vật
nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn là thế, nếu không tại sao em thu
cái
đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1 phát, và sau đó lại nhu mì ngồi,
cho tới
khi tôi thèm quá, thò tay ra, và em lại nguẩy 1 phát, đau nhói
tim?
Thư Tình nơi Sofa
Letter in the Sofa
1957
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
|
|