|
Album
Sắp đến Sinh nhật bác Gấu, DV chúc bác có một
ngày sinh nhật vui vẻ đầm ấm bên gia đình thương yêu. Và DV cũng không có
món quà nào đáng giá hơn ngoài...thơ. Và dưới đây là bài thơ DV viết tặng
bác trong dịp đặc biệt này.
Kính!
DV
Bài tặng Tứ khúc
gửi GNV
Ta lướt nhẹ trên thời gian
và rưng rưng Tứ Khúc
như làn khói mỏng, rất mỏng
nói những lời nhẹ, rất nhẹ
hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn
nhưng niềm hân hoan nảy nở
trên những nhánh cành khổ hạnh
những giọt nước lóng lánh
điềm triệu của sự sinh.
D.V, 15/8/2015
Tks
Take care
NQT
Dịch thơ
Em bỏ túi được vài trăm con chữ
Túm một đầu bằng một sợi mây giăng
Anh đưa em cuộn chỉ thơ nhờ dịch
Chỉ muôn màu đẹp hơn một vầng trăng
Em lôi chữ đặt lên bàn tay ngửa
Con thì khô như hoa nở lâu ngày
Con thì ướt như giọt sương trên lá
Con thì mềm như nhang khói tháng hai
Thơ người ta như mây chìm đáy nước
Em làm sao bắt được tiếng chim trời
Em làm sao vẽ được xe thần chết
Em làm sao đo được cửa chia đôi
Em vừa trông con, vừa nấu cơm, vừa đọc
Những dòng thơ như những tiếng thở dài
Trong một cõi buồn mênh mang vô tận
So với đời mình, em thấy một thành hai
Ừ thì dịch, bằng những lời không chữ
Bằng tiếng thơ không có nhạc đi theo
Bằng những ý chỉ anh và em hiểu
Gởi cho anh trên tờ lịch trong veo
Đặng Lệ Khánh
Tks
Bài thơ có mấy câu, quá tuyệt. Nào là vô tự kinh, nào tiếng thở dài.
Cám ơn nhiều
Quà SN thần sầu
Tks again
Take Care
NQT
Nhớ là Kundera có nhận xét, cái gì gì, chúng ta có một đời để sống, nhảm.
Một đời thì sống làm khỉ gì. Phải vài đời, nhiều đời, đời đời.
Gấu Cà Chớn cũng nghĩ như thế, và cũng đã kể về vài đời Gấu đã từng trải
qua. Luôn cả 1 tiền kiếp của GCC.
Trong những cuộc đời như thế, khủng nhất là
cuộc đời dởm, chẳng có gì hết, vậy mà cực kỳ thê thương….
Ui chao, Vargas Llosa cũng phán như thế, và không chỉ phán, mà còn đi cả
1 cuốn tiểu thuyết về nó, và ông coi đó là giấc mơ của 1 tên… Bắc Kít, Ái
Nhĩ Lan.
Each one of us is, successively, not one but many. And these
successive personalities that emerge one from the other tend to present the
strangest, most astonishing contrasts among themselves.
-Jose Enrique Rodó, Motives of Proteus
Tiền
Kiếp của Gấu
Từ níu vạt áo nàng quỳ xuống nài nỉ, nàng dần
dần
xiêu lòng, đưa nhau vào phòng.....
Đây
là câu chuyện tiền kiếp của Gấu, mê một em nhà
giầu, đài gương chẳng thèm soi đến dấu bèo, bèn bịnh đến đi tầu suốt,
trước khi
đi, chỉ xin được hửi tay người đẹp, đến mãi mãi kiếp sau sau, đúng vào
khi xẩy
ra cuộc chiến Việt Nam, trước khi lừng lững khốc liệt đi vô Trung Tâm
Ba Tuyển
Mộ Nhập Ngũ, thì được toại nguyện
Trong
Cầm Dương Xanh, cũng có cái cảnh quỳ xuống năn
nỉ, như trong “Cô Tiêu Thứ Bảy”, nhưng “tình”hơn nhiều:
Lần
đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu,
vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em
như miễn
cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình,
anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được
rồi, tui
thương ông đó. Được chưa?
Những câu
chuyện
Bởi là vì mọi
vật thì đều kể/viết những câu chuyện của riêng chúng
Dù dấu bèo,
dù hèn mọn, dù nhún nhường cỡ nào
Thế giới là
một cuốn sách lớn
Mở ra ở một
trang khác nhau
Tuỳ thuộc giờ
đọc nó trong ngày
Em có thể,
thí dụ, thích trang này
Câu chuyện về
1 tia nắng
Trong im ắng của một buổi xế trưa
Bằng cách nào
nó tìm thấy một cái nút áo bị mất từ hồi nảo hồi nào
Ở dưới một cái
ghế ở góc nhà
Một cái khuy
áo màu đen nho nhỏ, xinh xắn
Của em, đúng
là của em, của 1 cái áo dài đen
Một thứ khuy
áo để cài ở sau lưng
Mà có lần em
ra lệnh, nè, cài cho ta đi, tên ngố
Trong lúc tên
ngố hăm hở, ham hố, hôn đến rách mặt em
Và vò vò, đến
nát, hai đầu vú!
Ai Điếu Robert Conquest
Human life is short. For many people, delving
into history's depths is boring, frightening, and they have no time for it.
Furthermore, in the West the sense of history has weakened or completely
vanished: the West does not live in history; it lives in civilization (by
which I mean the self-awareness of transnational technological culture as
opposed to the subconscious, unquestioned stream of history). But in Russia
there is practically no civilization, and history lies in deep, untouched
layers over the villages, over the small towns that have reverted to near
wilderness, over the large, uncivilized cities, in those places where they
try not to let foreigners in, or where foreigners themselves don't go. Even
in the middle of Moscow, within a ten-minute walk from the Kremlin, live
people with the consciousness of the fifteenth or eleventh century (the eleventh
century was better, more comprehensible to us, because at that time culture
and civilization were more developed in Russia than in the fifteenth century).
When you have any dealings with these people, when you start a conversation,
you feel that you've landed in an episode of The Twilight Zone. The constraints
of a short article don't allow me to adequately describe this terrifying
feeling, well known to Europeanized Russians, of coming into contact with
what we call the absurd, a concept in which we invest far greater meaning
than Western people do. Here one needs literature- Kafka, Ionesco; one needs
academic scholars like Levy-Bruhl with his study of pre-logical thought.
Đời người thì ngắn ngủi. Với nhiều người, cái việc đào bới quá khứ thì chán
ngấy, chưa kể đáng sợ, và họ chẳng có thì giờ. Vả chăng, ở 1 xã hội Tây Phương,
ý niệm lịch sử yếu dần nếu không muốn nói, biến mất theo với năm tháng: Tây
phương không sống với lịch sử, nó sống với văn minh (qua cái từ này, tôi
muốn nói 1 thứ tự quan hoài, của 1 nền văn hóa liên quốc gia, mang tính kỹ
thuật, đối nghịch với dòng tiềm thức, không tra hỏi của lịch sử). Nhưng ở
Nga, gần như không có cái gọi là văn minh, và lịch sử thì nằm trong những
tầng sâu, chưa ai mó tới, trên những làng xóm, thành phố nhỏ mấp mé bờ tiền
sử, thời hoang sơ, trên những thành phố lớn ở những khu vực rộng, không biết
đến cái gọi là có văn hóa, nơi ngăn cấm những người nước ngoài, và chính
họ cũng chẳng dám mò tới. Ngay cả ở trung tâm thành phố Moscow, vẫn có những
khu vực mà đời sống ở đó, thì “huy hoàng thế kỷ” 15, hay 11; thế kỷ 11 thì
dễ hiểu, dễ thông cảm hơn, vì vào thời kỳ này, nước Nga phát triển nhiều
về mặt văn hóa, văn minh, so với thế kỷ 15)
Tây
Phương sống bằng văn minh, Mít sống bằng lịch sử. GCC thuổng ý này, khi viết
về Bác Hồ, giống như cái xác ướp của Đức Thánh Trần, thí dụ, từ quá khứ bốn
ngàn năm bèn sống lại, hoặc, buồn quá, bèn vỗ vai Hùng Vương, “toa” có công
dựng nước, còn “moa”, giữ nước!
Trong bài viết "Những Thời Ăn Thịt Người" (Thế Kỷ 21, bản dịch), bà cho rằng,
Á Châu sống bằng lịch sử, trong khi Âu Châu, bằng văn minh. Có thể vì sống
bằng lịch sử, cho nên, những nhân vật từ đời thuở nào vẫn "bị", hoặc "được"
đội mồ sống dậy, nhập thân vào những anh hùng, cha già dân tộc.
Có thể cũng vì vậy, câu nói "sĩ phu Bắc Hà chỉ còn có tôi", của Nguyễn Hữu
Chỉnh, và hình ảnh một Nguyễn Huệ tới Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa,
cung Vua, rồi bỏ đi, vẫn "nhức nhối" cho tới bây giờ.
Tôi cũng cố tưởng tượng ra một Nguyễn Huệ "của tôi", và tôi nghe Người vừa
lắc đầu, vừa lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu đền, những ngàn chương sử
nay chỉ là một đống tro tàn: "Ta tìm gì ở đây?" "Nơi này, ta không sinh ra,
và cũng chẳng hề muốn sống ở đó".
Thơ
Mỗi Ngày
Chiều ngồi quán Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm thơ thì phải có "một chút Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT
Những độc giả quen với thơ TTT, thì chắc là dễ nhận ra, “nửa đêm Hanoi”, là một trong cả 1 chùm hình ảnh, của… Hà Nội.
Kể sơ ra ở đây:
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới
Đâu có phải là thứ mưa ô buy vào thành phố
Nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang…
Khủng nhất, là nó làm nhớ đến anh tù Ngụy, đi qua 1 xóm nghèo, bị lũ trẻ xúm lại coi, anh tù thì lại nhớ Hà Nội:
Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi
bóng tối sâu thẳm
Nhưng, khi có dịp về Hà Nội, chàng đếch thèm về:
Dante
Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.
In August 1936, Akhmatova
devoted a poem to Dante, emphasizing as the archetypal poet in exile,
playing the same role as Ovid did in Pushkin’s work. Like Akhmatova's
Petersburg, Dante's Florence represents a way of life and thought. In
his case it will be lost to him because he was exiled for his beliefs.
The poem may also be an indirect allusion to Mandelstam, another poet
in exile. Dante was forced to leave his beloved city in 1302 after the
victory of the opposing party. Several years later he was offered the
possibility of returning under condition of a humiliating public
repentance, which he spurned. He refused to walk "with a lighted
candle"-the ritual of repentance-even to be able to return to Florence.
Unlike Lot's wife, he refused to look back.
Còn hình ảnh “1 chút Paris”, thì cả một lũ tinh anh Nga, cùng chia sẻ với TTT:
Giấc mơ Pháp
thuộc về truyền thống cổ xưa, của Nga. Một người Pháp lẽ dĩ nhiên chẳng
hề mơ mộng
như vậy: anh ta sống ở đó. Những người ngoại quốc khác, nếu mơ đi Tây,
cũng thường
thôi: dành dụm tiền bạc, rồi làm một chuyến ngao du. Người Nga, sau bao
thập kỷ
bị nhốt phía sau bức màn sắt, họ nghĩ ra những giấc mộng hải hồ chẳng
giống ai,
chẳng ai có thể nghĩ ra nổi. Không phải ngẫu nhiên, suốt thế kỷ 19,
tiếng Pháp
được coi là ngôn ngữ học đường tại Nga, dấu hiệu cho thấy thuộc về giai
cấp ở
trên. Không phải một chọn lựa may rủi, sau cơn động đất đổ nhà đổ cửa,
Cách mạng
1917, người Nga đã đổ xô qua Pháp. Sau khi không còn bức màn sắt, đi Mỹ
là những
kẻ "thực dụng"; những con người "lý tưởng" vẫn chọn Pháp.
"Này,
thấy Paris thế nào?", (Well, what is Paris like?), T. Tolstaya đã từng
hỏi
một ông bạn thi sĩ, vào năm 1987. Ông này mới trải qua một tuần, lần
thứ nhất
trong đời, ở Paris. "Y chang trong mộng, của tụi mình!" Không chỉ vì
nó đúng như tất cả những giấc mơ, nhưng Paris "không thể" làm thất
vọng,
bất cứ một hoài vọng nào, về nó.
Với riêng GCC, "1 chút Paris", làm nhớ đến Bông Hồng của Coreridge, The Rose of Coleridge, của Borges:
Đóa hoa hồng vùi quên trong tay
Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi
Like the Coleridge hero who
wakes to find himself holding the rose
of his dreams, I knew these objects were not of the second world, which
had
brought me so much contentment as a child, but of a real world that
matched my
memories
Orhan Pamuk
Như nhân vật của Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay
bông hồng
đen của giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong Tứ Khúc thì
không phải là
từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là
một, với
hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.
Đằng sau ý nghĩ của Coleridge là một ý nghĩ tổng quát
và lâu
đời, của hàng hàng thế hệ những kẻ yêu nhau, cầu xin một bông hồng làm
chứng
tích.
****
Thơ TTT, khó hiểu, một phần là do ông quá mê Hà Nội, và những người không biết gì Hà Nội, đọc, bị dội.
NDT là 1 độc giả đó.
Durrell diễn cái ý trên thật là thần sầu. Ông viết:
Cả thi sĩ lẫn công chúng thực sự chẳng quan tâm đến bài thơ, chính nó, nhưng mà là sắc thái, khía cạnh của nó [ở đây là Hà Nội].
GCC post ở đây, đi lai rai vài đường về nó, sau.
Ideas About Poems
1942
1. Neither poet nor public is really interested in the poem itself but in aspects of it.
2. The poet is interested in the Personal aspect: the poem as an aspect of himself.
3. The public is interested in the Vicarious aspect; that is to say "the
universal application," which is an illusion that grows round a poem once
the logical meaning is clear and the syntax ceases to puzzle.
4. This is why good poems get written despite bad poets and why bad publics often choose right.
MEANWHILE.
the poem itself is there all the time. The sum of these aspects, it is quite
different to what the poet and the public imagine it to be. Like a child
or a climate it is quite outside us and our theories don't affect it in any
way. Just as climate must be endured and children kept amused, the poem as
a Fact must be dressed up sometimes and sent to the Zoo-to get rid of it.
It is part of the ritual of endurance merely. That is the only explanation
for Personal Landscape now. (1). People say that writing Poetry is
one of the only non-Cadarene occupations left-but this is only another theory
or aspect. Poems are Facts, and if they don't speak for themselves it's because
they were born without tongues.
NOTE
1. This short piece appeared at the beginning of the first issue of Personal Landscape,
the periodical edited in Cairo during World War II by Durrell, Robin Fedden,
and Bernard Spencer. Each subsequent issue included an "Ideas About Poems"
segment that personalized rather than politicized poetry, despite their proximity
to, and the immediate threat of, the war. The kindred terminology of "Ideas
About Poems" to the "Attitudes" about Personalism adopted by the New Apocalypse
poets in the following year, 1943, is suggestive. C.S. Fraser, who contributed
to Personal Landscape and was a friend to the three editors, was also an
important contributor to the original New Apocalypse anthologies in London
in the preceding years. The personalist nature of both groups appears antiauthoritarian
in the same manner as Herbert Read's notion of the polities of the unpolitical.
I DREAMED OF
MY CITY
WRITTEN
WHILE ATTENDING
A HERBERT
CONFERENCE IN SIENA
I dreamed of
my distant city-
it spoke the
language of children and the injured,
it spoke in many voices, rushing
to shout one
another down, like simple people suddenly
admitted
to the
presence of a great official:
"There
is no justice," it cried; "All
has been
taken from us," it wailed loudly;
"No one remembers us, not a
soul";
I saw
feminists with dark eyes,
petty nobles
with forgotten family trees,
judges wearing togas sewn of nettles
and devout,
exhausted Jews-
but slowly,
relentlessly
the gray dawn drew near and the speakers faded,
dimmed,
submissively went back to their barracks like
legions of toy soldiers,
and then I
heard completely different words:
"Still
there are miracles, not everyone believes,
but miracles do happen ... " And
waking, slowly,
reluctantly departing the dream's bunker,
I realized
that the arguments continue,
that nothing
has been settled yet ...
Adam
Zagajewski
Tôi mơ thành
phố của tôi
Viết trong lúc
dự hội nghị ở Siena
Tôi mơ thành
phố xa vời của tôi
nó nói ngôn
ngữ của những đứa trẻ và những người bị thương, bị nhục nhã
nó nói trong
nhiều giọng, tranh nhau nói, như những con người giản dị
bất thình lình được
cho phép vô gặp
Vị Chủ Tịch Nước, hay đồng chí Tấn Dũng.
“Đếch có công
lý”, nó la lớn như thế,
“Tụi Mafia Đỏ lấy hết tất cả của chúng ta”, Nó than van
ỏm tỏi;
“Chẳng ai nhớ
gì đến chúng ta, không hề có lấy 1 mống”;
Tôi nhìn thấy
mấy bà nữ quyền mắt u tối,
Những bậc
phong nhã nhỏ nhen, hèn hạ mất mẹ gia phả,
những đấng
thuộc Viện Kiểm Sát Nhân Dân
vận áo tòa đính gai tầm ma
và chân thành,
mộ đạo là đám Miệt Vườn kiệt quệ -
Nhưng chầm
chậm, chẳng có chút vội vã, hoàng hôn xám xịt lờ đờ tới,
và những người nói
năng láo nháo đó nhạt nhòa đi,
lặng lẽ, an phận trở về lại những trại giam như
những đoàn lính đồ chơi
Và rồi thì tôi
nghe những từ hoàn toàn khác hẳn:
“Vưỡn có phép
lạ, không phải mọi người đều tin, nhưng phép lạ xẩy ra…”
Và giật mình tỉnh dậy,
từ từ, ngần ngừ, rời cái boong ke của những giấc mơ,
Tôi nhận ra,
cuộc tranh luận vẫn tiếp tục
Chưa có gì là
ngã ngũ cả
Nguyễn Bắc Sơn Tribute
Văn học miền Nam: Thơ
Nguyễn Bắc Sơn mới qua đời, không biết có bao nhiêu người thực sự hiểu được rằng nhà thơ Việt Nam lớn nhất vừa qua đời.
Một thời, đã có những nhà thơ rất lớn, sống cùng không gian và một khoảng
thời gian: Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng và Nguyễn Bắc Sơn. Điều đặc biệt của
Nguyễn Bắc Sơn nằm ở ngay cái tên bài thơ và tập thơ ấy: "Chiến tranh Việt
Nam và tôi". "Chiến tranh Việt Nam và..." sau dấu ba chấm người ta chờ đợi
một cái gì đối trọng được với cuộc chiến tranh, nhưng với Nguyễn Bắc Sơn,
ở sau dấu (...) là "tôi". Một vị thế như thế lớn vô cùng, đó là một thơ ca
rất lớn ngay từ đầu, từ chỗ đặt một cá nhân thản nhiên đối diện, một cách
lẻ loi, với chết chóc và chém giết tập thể. Ai đủ sức như thế? Và thơ Nguyễn
Bắc Sơn càng lớn vì cái phần không phải chiến tranh ấy, cái phần "tôi", hay cũng có thể gọi là đời thường. Xuất chúng nhất ở Nguyễn Bắc Sơn chính là phần ngược lại của chiến tranh kia.
Thơ ca của một thời, tôi từng có lần đem ra trưng bày một phần (xem ở đây).
Nhưng lần này tôi làm lại, theo cách thức giản dị nhất, là xếp theo trình
tự thời gian.
Blog NL
Note: Được, được! [Thuổng MT]
Không phải vì khen, thí dụ, thơ NBS “hay”, nhưng vì thấy ra được cái từ "tao" to tổ bố, ngay trong cái tít!
Hà, hà!
Chiến tranh Mít và Tao!
Cái phần hay nhất của thơ NBS, tao & đời thường của tao, là cái thế đối trọng với cái dã man của 1 cuộc chiến.
*****
Thơ NBS, những bài thơ đời thường của
ông, thật là tuyệt, đâu có như Thầy Kuốc phán nhảm. Cuộc chiến, ông đâu màng.
Ngụy, làm sao ông ca, khi bố ông theo… Cách Mạng. Ông trốn nó - trốn lính,
như ông cho biết, chỉ đến khi bị Ngụy bắt vì trốn quân dịch, thì mới đành
làm 1 tên lính thường, 1 gã địa phương quân thì phải. Thành ra cái giấc mơ
chết vì say rượu quả là tuyệt vời với ông, thay vì chết vì đạn của ông bố
hay của 1 tên Cách Mạng nào khác.
Hai cõi trốn lính, trốn cuộc chiến của ông là rượu và đời thường của ông,
với những tình cảm bình thường, chân thật của đời thường, trong có tình yêu.
TTT cũng làm sao ca nổi những dòng thơ phản chiến của NBS, khi chính ông,
là 1 tên sĩ quan Ngụy, dù cũng bất đắc dĩ, chưa từng bắn phát súng.
Và như thế, giấc mơ chết vì say rượu cũng là của ông luôn. Thành ra ông mê
thơ Oscar Milosz, và thơ NBS, ở khoản lỡ chết vì say rượu. Nhưng ông cảm
nhận ra, cũng cái điều, “chưa tên nào chết bằng ta chết, ngay cả những người
đã chết”, của Oscar Milosz.
Trời thì đẹp.
Trong bếp lửa,
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những
người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người
chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết
bằng Gấu chết.
My Letter to the World
Helen Vendler
Sách Báo
Quà SN của Xì Lô.
Cuốn này về lâu rồi, đọc sơ sơ ở tiệm vài lần rồi, nhưng không dám bệ về.
Trong những cuốn của Bloom mà Gấu có, cuốn này bảnh nhất, dù mới đọc thoáng
qua. Viết về 12 đấng số 1 của văn học Mẽo.
Kẻ mạo tiếng
Viết Mỗi Ngày
Thư Tình nơi Sofa
Letter in the Sofa
1957
Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau
Gao Interview
. .. on political correctness and authenticity.
Boundless freedom does not exist in real life. But freedom of thought does
exist in any era even under authoritarian rule, political oppression, or
social constraints, including religious ones. In a democratic society, does
one have full freedom? No. The market does not give you freedom. The market
exerts massive pressure. Political correctness is like a straitjacket that
inhibits one's thinking. In past eras, public morality was the judge and
there were 'morality trials'. In our era, political correctness has taken
the place of morality trials.
Within the writer's society, politically incorrect ideas are considered heretical
and are banned. Today, in our comparatively democratic and free western societies,
we have prohibitions. Political correctness is omnipresent. Politically incorrect
thinking is criticized and inhibited. But the writer is a unique being: his
existence is conditional upon absolute freedom of thought. Absolute freedom
of thought does not mean one does not have a confirmed set of moral values.
Behind absolute freedom of thought lies a set of values. For the writer,
I believe, the most wide-ranging value is that of 'authenticity'. Sincerity
is the writer's ethic, and authenticity the writer's moral compass. He transcends
political correctness, ethical judgments and society. These are the values
the writer must maintain. This thinking is not constructed upon unbridled
imagination, but rather upon a freedom based on authentic, confirmed values,
and the premise that the writer has a sincere attitude.
Tự
do vô bờ bến không có trong đời thực. Nhưng tự do tư tuởng, có, trong bất
cứ thời đại, ngay cả dưới chế độ quyền thế, đàn áp chính trị, hay những o
ép xã hội.
Trong một xã hội dân chủ, liệu có thứ tự do tràn đầy? Không. Thị trường không
cho bạn tự do. Thị trường tạo sức ép khổng lồ. Chính trị phải đạo trói tay
trói chân bạn.
Trong thời quá khứ, “đạo đức công cộng” là ông tòa và có những “tòa án, vụ
án đạo đức”. Thời chúng ta, chính trị phải đạo thế chỗ phiên toà đạo đức
Trong vòng xã hội của nhà văn, những ý tưởng không đúng về mặt chính trị
thì bị coi là dị giáo, và bị khu trục, cấm đoán. Ngày nay, trong những xã
hội tương đối dân chủ, tự do Tây Phương, chúng ta có những ngăn cấm. Chính
trị phải đạo thì hiện diện khắp mọi nơi. Chính trị không phải đạo bị phê
bình, cấm đoán.
Nhưng nhà văn là 1 sinh vật độc nhất: sự hiện hữu, hiện diện của nó thì được
đặt dưới 1 điều kiện, tự do tuyệt đối về suy tưởng.
Tự do tuyệt đối về suy tưởng, ý nghĩ, không có nghĩa, người đó không có một
bộ những giá trị đạo đức được xác nhận. Đằng sau tự do tuyệt đối tư tưởng,
là 1 bộ những giá trị. Với 1 nhà văn, tôi tin rằng, cái bộ rộng rãi nhất,
dàn trài nhất, về giá trị, đó là sự “chân thực”. Chân thành là đạo hạnh của
nhà văn. Và chân thực là cái la bàn đạo đức của người này. Hắn ta chuyển
hóa, “vượt” chính trị phải đạo. những phán đoán mỹ học, và xã hội. Đây là
những giá trị mà nhà văn phải gìn giữ. Tư tưởng này không được xây dựng trên
tưởng tượng tào lao, thả lỏng, nhưng mà là trên những giá trị chân thực,
được xác nhận, và trên tiền đề, nhà văn có 1 thái độ chân thành.
... on the influence of Buddhism.
Huineng [638-713] was an important figure
in Buddhism. People always see him as a religious man and leader, but I see
him as first and foremost a thinker. He had very deep understanding of the
lives of ordinary people and in this way he was a source of liberation and
not of repression. He didn't worship idols - in religion, people always worship
idols or images - and in this way he was a liberator. He smashed people's
obsessions. I wanted to bring that out in Snow in August, which is much more
than a play about an historical Buddhist figure and I think everyone understood
it, both in the East and the West. Many people thought it would not be possible
to use western opera in a play like this, but it worked. This year it was
played in Dusseldorf, translated into German, and it was very warmly received.
The French conductor Marc Trautman really hopes it will go around the world.
But it needs 250 people, including the workmen, to mount. It's a big thing,
very expensive, a big cast and set. But it cannot be staged in China. My
works are all banned there.
.... Về ảnh hưởng của Phật giáo
Huineng
[638- 713] là một nhân vật quan trọng của Phật giáo. Mọi người nhìn ông như
một nhà tôn giáo, một vị lãnh đạo, nhưng tôi nhìn ông, trước tiên và trên
hết, như một tư tưởng gia. Ông có 1 sự hiểu biết rất sâu xa về cuộc sống
của những con người bình thường và trong đường hướng này, ông là nguồn giải
phóng, không phải, đàn áp. Ông không thờ phụng thần tượng – trong tôn giáo,
con người luôn luôn thờ phụng thần tượng, hay hình ảnh, và theo đường hướng
này, ông là người giải phóng. Ông đập nát, chà vụn, những ám ảnh của con
người. Tôi tính làm rõ ra điều này, trong"Tuyết Tháng Tám", một vở kịch mà
ý nghĩa của nó thì hơn cả, về một hình tượng Phật giáo mang tính lịch sử,
mà tôi nghĩ mọi người đều hiểu, cả ở Đông lẫn Tây Phương.
Nhiều người không nghĩ điều này có thể thực hiện được, khi sử dụng hình thức
kịch opera của Tây Phương, nhưng mà được. Năm nay,
kịch được chơi ở Dusseldorf, dịch qua tiếng Đức, và được đón chào nồng nhiệt.
Nhà điều hợp người Pháp, Marc Trautman, tính cho nó đi chu du toàn thế giới.
Nhưng nó cần 250 con người, trong có cả những công nhân, để dàn dựng. Tốn
tiền quá, thua.
Thua, luôn cả ở TQ. Mọi kịch của tôi đều bị cấm, ở đó.
.... on the writer as a witness?
Where are we going in the twenty-first century?
We should be going to a place where we can observe reality with clarity.
We need to see the problems of people's lives, and the complicatedness of
people and their weakness. We are all mere witnesses, and the best thing
we can do is see things as they are. You are not the creator, you can't overcome
the world, but you can bear witness. And when it comes to art, to talk about
a country is meaningless. A writer is a witness to humankind, a witness to
humanity. +
CHK
|
|