|
Thơ
Mỗi Ngày
A FLAME
God, give us a long winter
and quiet music, and patient mouths,
and a little pride-before
our age ends.
Give us astonishment
and a flame, high, bright.
AZ
Một ngọn lửa
Chúa ơi, cho GNV một mùa đông
dài
và nhạc trầm lặng, những cái miệng nhẫn nại
và một tí phách lối - trước khi những
ngày già của hắn ta chấm dứt!
Hãy cho Gấu Già sự ngỡ ngàng, kinh ngạc
và một ngọn lửa, cao, sáng.
SENHOR SILVA
The barber's son passed away,
A child of just five years.
I know his father-for a year now
We've talked as he shaves my beard.
When he told me the news, as
much
Heart as I have gave a shudder;
All flustered, I hugged him,
And he wept on my shoulder.
In this calm and stupid life,
I never know how I should act.
But, my God, I feel human pain!
Don't ever deny me that!
28 MARCH 1934
FERNANDO PESSOA:
A LITTLE LARGER THAN THE ENTIRE UNIVERS
[Nhỉnh hơn cả vũ trụ 1 tí]
SENHOR SILVA
Thằng Cu Tí con ông
thợ cạo, ngỏm
Nó mới lên năm
Gấu biết ông bô của nó,
Chắc cũng được một niên
Chủ khách thường lèm bèm
trong lúc cắt tóc.
Khi ông ta nói thằng
con mất
Gấu đau nhói 1 phát,
Ở ngay trái tim
Và Gấu ôm ông thợ cạo của Gấu
Và ông khóc trên vai
Gấu
Trong cái cuộc đời cà
chớn ngu đần khốn kiếp này
Gấu đâu biết làm gì khác,
Khi nghe tin thằng bé chết?
Nhưng cầu Trời
Đừng lấy đi của Gấu
Cú đau nhói làm người đó
Đừng bao giờ từ chối Gấu
Cú đau đó nhe!
DAVID LEHMAN
(1948- )
Autumn Evening
(after Holderlin)
The yellow pears hang in the lake.
Life sinks, grace reigns, sins ripen, and
in the north dies an almond tree.
A genius took me by the hand and said
come with me though the time has not yet come
Therefore, when the gods get lonely,
a hero will emerge from the bushes
of a summer evening
bearing the first green figs of the season.
For the glory of the gods has lain asleep
too long in the dark
in the darkness too long
too long in the dark.
ed 2015
RESIGNATION
I like trees because they seem
more resigned
to the way they have to live than other things do.
— Willa Cather
Here the oak and silver-breasted
birches
Stand in their sweet familiarity
While underground, as in a black mirror,
They have concealed their tangled grievances,
Identical to the branching calm above
But there ensnared, each with the others' hold
On what gives-life to which is brutal enough.
Still, in the air, none tries to keep company
Or change its fortune. They seem to lean
On the light, unconcerned with what the world
Makes of their decencies, and will not show
A jealous purchase on their length of days.
To never having been loved as they wanted
Or deserved, to anyone's sudden infatuation
Gouged into their sides, to all they are forced
To shelter and to hide, they have resigned themselves.
—J. D. McClatchy
AN PHẬN
Tôi thích cây
cối bởi vì chúng trông có vẻ an phận
với đời hơn hết thảy những loài khác .
Willa Cather
Này là cây
sồi và những cây bạch dương
Lúc nào trông cũng đứng an lành
Trong khi đó, như thể soi qua một tấm kính
đen,
Dưới lòng đất thì chúng giấu
đi những nỗi oán than đang quặn thắt
Giống hệt những cành vươn ra êm ả ở
trên không
Nhưng dưới kia, bị cầm kẹp, chúng nương nhau
mà bám lấy những gì được trao cho – đời
như thế cũng đã đủ tàn bạo rồi
Vậy mà, trên không kia, chẳng
cành nào chịu tìm cách thích
cánh cùng nhau
Hoặc tìm cách thay đổi vận mệnh mình
. Chúng dường như chỉ
ỷ vào ánh sáng, chẳng hề quan
tâm xem thế giới
đang làm gì với những thứ lịch lãm
của chúng, và cũng sẽ không tỏ ra tranh tìm
gì cho đời sống của mình
Đối với việc chưa bao giờ được yêu mến như chúng mong muốn,
hay xứng đáng, đối với những mê đắm
bất ngờ của ai đó đang đục khoét sườn mình
Đối với tất cả những ai bắt chúng phải che
chở hay giấu giếm ,
Chúng đều nhận tất .
J. D. McClatchy
K dịch
Tks. NQT
DAVID YOUNG
(1936- )
Mother’s Day
-for my children
I see her doing something simple, paying bills,
or leafing through a magazine or book,
and wish that I could say, and she could hear,
that now I start to understand her love
for all of us, the fullness of it
It burns there in the past, beyond my reach,
a modest lamp.
LATE SEPTEMBER
The mail truck goes down the coast
Carrying a single letter.
At the end of a long pier
The bored seagull lifts a leg now and then
And forgets to put it down.
There is a menace in the air
Of tragedies in the making.
Last night you thought you heard television
In the house next door.
You were sure it was some new
Horror they were reporting,
So you went out to find out.
Barefoot, wearing just shorts.
It was only the sea sounding weary
After so many lifetimes
Of pretending to be rushing off somewhere
And never getting anywhere.
This morning, it felt like Sunday.
The heavens did their part
By casting no shadow along the boardwalk
Or the row of vacant cottages,
Among them a small church
With a dozen gray tombstones huddled close
As if they, too, had the shivers.
Charles Simic: The Voice at 3:00 AM
Tháng Mười Cũ
Xe thư chạy xuống bờ biển
Với chỉ một lá thư
Ở cuối một bến tàu dài
Con hải âu chán đời, nhắc,
hết chân phải lại đến chân trái
Và quên bỏ xuống
Trong không khí có mùi đe dọa
Về những bi kịch đang thành hình
Đêm qua bạn nghĩ bạn có nghe tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin chắc
Về một ghê rợn mới
Họ đang báo cáo
Và thế là bạn bò ra đường để kiếm
Chân trần, quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là tiếng sóng biển
Ưu tư về không biết là bao nhiêu là
đời
Cứ phải giả đò, từ đâu đổ xuống nơi đây
Và chẳng bao giờ đi bất cứ nơi đâu
Sáng nay, sao giống như Chủ Nhật
Ông Giời cà chớn chắc là cũng có
góp phần
Trong cái việc, đếch đem một cái bóng
râm nào
Đổ xuống hai bên hè đường
Hay là ở rặng những cái lều trống trơn
Trong số đó, là 1 ngôi nhà thờ
nhỏ
Với trên chục cái bia mộ bằng đá
Xúm lại với nhau
Như thể, chúng, đôi lúc, cũng rùng
mình.
Vợ của thánh
Lót – Anna Akhmatova
Thêm một bài
được đặt hàng. Có lẽ là mình chưa thấm
được bản gốc, nên bản dịch hơi lủng củng
Thánh Lót
ở đây là thánh Lót trong Kinh Thánh.
Khi Chúa trời quyết định trừng phạt hai thành phố Sô-đôm
và Gô-mô-rơ đầy tội ác, thì chỉ
có Lót và gia đình được cứu thoát
– hai thiên sứ dẫn Lót và gia đình ra
khỏi thành phố này, và dặn họ cứ đi, không
được nhìn lại. Tuy nhiên vợ của thánh Lót
đã lỡ nhìn lại thành phố Sô-đôm bốc
lửa, và bị biến thành tượng muối (Sáng thế ký,
chương 19).
Лотова жена
Анна Ахматова
И праведник шел за посланником Бога,
Огромный и светлый, по черной горе.
Но громко жене говорила тревога:
Не поздно, ты можешь еще посмотреть
На красные башни родного Содома,
На площадь, где пела, на двор, где пряла,
На окна пустые высокого дома,
Где милому мужу детей родила.
Взглянула – и, скованы смертною болью,
Глаза ее больше смотреть не могли;
И сделалось тело прозрачною солью,
И быстрые ноги к земле приросли.
Кто женщину эту оплакивать будет?
Не меньшей ли мнится она из утрат?
Лишь сердце мое никогда не забудет
Отдавшую жизнь за единственный взгляд.
(1924)
|
Vợ của thánh Lót
Anna Akhmatova
Và thánh Lót bước đi sau thiên
sứ của Chúa trời
Cao lớn, sáng ngời, theo núi đen từng bước
Nhưng nỗi lo lắng nói to cùng người vợ:
Vẫn còn chưa muộn, em hãy nhìn nữa
Những tháp đỏ thành phố Sodom thân
thương
Nơi ngày xưa em hát ở quảng trường
Nơi kéo sợi ngoài sân, khung cửa sổ
ngôi nhà.
Nơi những đứa con em đã sinh ra.
Nàng nhìn lại, và cơn đau chết chóc.
Khóa lấy người – mắt không còn nhìn
thấy;
Thân thể nàng trở thành muối trong
suốt
Cặp chân nhanh gắn chặt xuống đường.
Ai sẽ khóc cho người đàn bà
ấy?
Mất mát của nàng có phải cũng ít
thôi?
Nhưng có điều không quên được trong
tôi
Cuộc đời hiến dâng vì cái nhìn
duy nhất.
|
Bản dịch của D.M. Thomas, câu
chót, tuyệt hơn nhiều, so với của Hà Lê, sorry:
"Lot's Wife"
Anna Akhmatova
And the just man trailed God's messenger
His huge, light shape devoured the black hill.
But uneasiness shadowed his wife and spoke to her:
"It's not too late, you can look back still
At the red towers of Sodom, the place that bore you,
The square in which you sang, the spinning-shed,
At the empty windows of that upper storey
Where children blessed your happy marriage-bed."
Her eyes that were still turning when a bolt
Of pain shot through them, were instantly blind;
Her body turned into transparent salt,
And her swift legs were rooted to the ground.
Who mourns one woman in a holocaust?
Surely her death has no significance?
Yet in my heart she will never be lost
She who gave up her life to steal one glance.
translated from the original Russian
D.M. Thomas
Anna Akhmatova:
Lot's Wife
Vợ Lot
‘Và
vợ Lot ngoái nhìn lại
và trở thành tượng muối’
Và người công chính đi theo sứ giả
của Thượng Đế tới đây
Cái bóng rộng và sáng của
anh bèn xực luôn ngọn đồi đen
Nhưng một cú báo động, hay, 1 sự âu
lo phủ lên bà vợ Lot
Và nói lớn vô tai bà:
“Chưa trễ, muộn đâu, mi vẫn có thể ngoái
nhìn lại
Ở những tháp đỏ Sodom, nơi mi sinh ra
Ở quảng trường nơi mi hát, ngồi quay tơ
Ở nơi cửa sổ của những ngôi nhà cao, đìu
hiu, trống vắng
Nơi mi hạ sinh những đứa con hạnh phúc, với người
chồng thương yêu của mi”
Đôi mắt của bà vẫn đang nhìn ngoái
lại
Khi một cú đau quất toàn thân, và,
bèn mù
Và toàn thân biến thành tượng
muối
Đôi chân thì cắm chặt, như đóng
rễ, vào đất.
Ai, tên “Mít” nào,
khóc thương con vợ “Ngụy này”, ở “Lò Cải
Tạo”
[Hà, hà! THNM nặng quá rồi!]
Hẳn nhiên rồi, cái chết của Bà đâu
có ý nghĩa chi?
Nhưng trong trái tim của
tên Gấu Cà Chớn này
Bà sẽ chẳng bao giờ mất
Bà, Người đã từ bỏ đời mình
Chỉ để chôm 1 cú nhìn lại
Cuốn này, dọn qua nhà mới, thẩy xuống hầm, ẩm nước,
đi Lào về, khui ra, tiêu sạch.
SN, Cô Út mừng Bố tí tiền,
đành tậu lại. Nhớ có giới thiệu lai rai... Bài
trên NY cũng tuyệt lắm.
To the Book
Go on then
in your own time
this is as far
as I will take you
I am leaving your words with you
as though they had been yours
all the time
of course you are not finished
how can you be finished
when the morning begins again
or the moon rises
even the words are not finished
though they may claim to be
never mind
I will not be
listening when they say
how you should be
different in some way
you will be able to tell them
that the fault was all mine
whoever I was
when I made you up
When You Go Away
When you go away the wind clicks around to the north
The painters work all day but at sundown the paint falls
Showing the black walls
The clock goes back to striking the same hour
That has no place in the years
And at night wrapped in the bed of ashes
In one breath I wake
It is the time when the beards of the dead get their growth
I remember that I am falling
That I am the reason
And that my words are the garment of what I shall never be
Like the tucked sleeve of a one-armed boy
W. S. MERWIN
1927-
The following poem
inspires us to reflect on what seldom crosses our minds. After all (literally
after all), such an anniversary awaits every one of us.
Bài thơ sau đây gợi hứng cho chúng ta, về
cái điều hiếm chạy qua đầu chúng ta.
Nói cho cùng, "kỷ niệm cái chết của tôi"
đâu bỏ quên, bất cứ ai?
Czeslaw
Milosz
For the Anniversary of My Death
Every year without knowing it I have passed the day
When the last fires will wave to me
And the silence will set out
Tireless traveller
Like the beam of a lightless star
Then I will no longer
Find myself in life as in a strange garment
Surprised at the earth
And the love of one woman
And the shamelessness of men
As today writing after three days of rain
Hearing the wren sing and the falling cease
And bowing not knowing to what
The Ascetic Insight of W. S. Merwin
Cái đốn ngộ khổ hạnh của W.S. Merwin
After escaping the anxiety of influence,
the poet discovered a brilliant, elemental poetry.
Sau khi trốn thoát nỗi băn khoăn, chẳng lẽ mình chuyên
môn chôm thơ kẻ khác, W.S. Merwin bèn khám
phá ra thơ của ông, cực kỳ bảnh tỏng, long lanh sáng
ngời, và rất ư là… đồng ấu [cơ bản, cốt yếu]
The American poet W. S. Merwin, who turns ninety this
year, has for decades written his scanty, unpunctuated poems from
a palm forest on the remote north shore of Maui. Merwin bought the
property in 1977, and began restoring the ancient trees lost when
loggers and the commercial pineapple and sugar farmers started to
move in more than a century ago. “After an age of leaves and feathers
/ someone dead / thought of this mountain as money,” Merwin writes in “Rain
at Night.” He has reclaimed the mountain, and much else, for poetry. His
poems, written in an environment refashioned by his hard restorative work,
are adjuncts of that work, and operate according to their own stringent
verbal restrictions. Wallace Stevens called his collected poems “The
Planet on the Table”; Merwin’s work is more like a terrarium on the table,
its elements balanced and tended in an eerie simulacrum of reality.
“The Essential W. S. Merwin” (Copper Canyon) condenses
the poet’s nearly seventy-year career into a single volume. Merwin’s
poems, like his Maui conservancy, make their mark on the world by recording
its effacement; they reveal what a person finds when he imagines himself
as having been superseded. Here is perhaps his most famous poem, “For
the Anniversary of My Death”:
Every year without knowing it I have
passed the day
When the last fires will wave to me
And the silence will set out
Tireless traveler
Like the beam of a lightless star
Then I will no longer
Find myself in life as in a strange
garment
Surprised at the earth
And the love of one woman
And the shamelessness of men
As today writing after three days of
rain
Hearing the wren sing and the falling
cease
And bowing not knowing to what
The poem’s power is clinched by its title and opening
line; almost anything could follow that bracing conceit. It must
have been a struggle, once Merwin had come to this startling idea,
to decide when and how to deploy it. He was in his thirties when the
poem was written. It faintly mocks its own stodginess—it is a kind
of pleasure, after all, to imagine your own death, provided you’re
young and healthy. A pleasure and an opportunity: the poem strongly implies
the seduction plot that it doesn’t mention outright. The candles wave,
the garments fall away, and this man’s “shamelessness” meets, in the
aura of his personal doomsday, “the love of one woman.” Something deep
in me resists this sexy self-extinction rhetoric. Soft-core, low-fi,
and Aquarian, Merwin’s asceticism has always had about it the prowess of
a sophisticate.
From the beginning, he wanted to mesmerize. In the forties,
under the spell of his Princeton teachers John Berryman and R. P.
Blackmur, he perfected a learned, ominous, allegorical poem, mopping
up for the high modernists. In “A Mask for Janus” (1952), his début
collection, chosen by W. H. Auden for the Yale Series of Younger Poets,
the thread count is high but the starch is unbearable. In one poem, “Dictum:
For a Masque of Deluge,” Noah, post-flood, finds he has his work cut out
for him:
At last the sigh of recession: the
land
Wells from the water; the beasts depart;
the man
Whose shocked speech must conjure a
landscape
As of some country where the dead years
keep
A circle of silence, a drying vista
of ruin,
Musters himself, rises . . .
It helps to think of the “drying vista of ruin” as an
image of war, but this animatronic Noah, who weirdly “musters himself”
while the beasts “depart,” is a clunky vehicle for expressing majesty.
When the batteries in Merwin’s early methods ran out, mercifully he
never replaced them.
It took Merwin several volumes before arriving at a style
barren and bleak enough to make his pronouncements on life’s barrenness
and bleakness feel persuasive. “The Lice” (1967) was his breakthrough.
It remains one of the indelible books about Vietnam: the images coming
out of the war suggested, to Merwin, the utter defenselessness of a
traditional culture against the fury of modernity. It seems to me that
Merwin wanted these new poems to channel apocalyptic prophecy without
suggesting that he was its source. Add punctuation to these lines from
“The Hydra,” and Merwin sounds like his Noah action figure. Strip it back
out, and we have the distinct power of the poet at his finest:
I was young and the dead were in other
Ages
As the grass had its own language
Now I forget where the difference falls
One thing about the living sometimes
a piece of us
Can stop dying for a moment
But you the dead
Once you go into those names you go
on you never
Hesitate
You go on
The phrases are like driftwood scattered on the sand which
nevertheless suggest the outline of a form; their dispersal on the
page is the source of their power. Punctuation would suture the strewn
bits together, like the prosthetic joints you find linking the real bones
in a brontosaurus skeleton. The effect is especially strong in that last
stanza: a period or a colon after “hesitate,” and the range of its power
is drastically narrowed. Those final two lines work as contradictory imperatives,
like the commands in the story of Mr. Fox: Be bold, but not too bold.
Merwin’s verse often gives the impression of language
scavenged from the elements, its power reckoned only as its meanings
assemble, phrase by phrase, against the white of the page. Simple
astonishment, one of the rarest of all literary experiences, is the
most potent outcome; in Merwin’s best poems, he seems brought up short
by his own discoveries. It is another advantage of his style that
it can end without ending, as it does in “James”:
News comes that a friend far away
is dying now
I look up and see small flowers appearing
in spring grass outside the window
and can’t remember their name
The beauty of this elegy is in its pair of mirrored participles,
“dying” and “appearing”: the mind toggles between memory and perception,
between the “far away” but emotionally pressing matter of the friend’s
death and the close but suddenly blurry appearance of the flowers,
which now have a new name, James. The flowers and the friend exist in
a permanent reciprocity established by this little lyric. An instant
later, perhaps, Merwin remembers the flowers’ actual name; the poem
suspends us between recollection and forgetting, right in the spot where
elegy is most poignant and effective.
Video From The New Yorker
Lies and Truth in the Era of Trump
Merwin’s poems seem made from a kit, a highly personalized
but weirdly plain repertoire of details: rain, light, mountains,
water, wind. Since his fundamental stance is passivity, Merwin’s language
can’t feel as though it were summoned from too much effort of learning,
or from casually gleaned perception or overheard conversation, which
would concede the existence of actual other people. The “I” finds itself,
instead, in the combination of those primeval elements: wind across the
water, light on the mountain. This “I” has emotions, but they drift in
from elsewhere; the vessel is empty until sadness, or grief, or expectation
blows in and settles briefly inside it.
It is not hard to imagine how this kind of writing could
go awry, and Merwin’s attempts to expand his range of subjects to
the social or the overtly political often expose his limits. But a sly
ars poetica, “Song of Man Chipping an Arrowhead,” makes his case:
Little children you will all go
but the one you are hiding
will fly
The “little children” here are mortals too young to exist
woefully in time, but also shards of flint that “go” in service of
the core function of the stone. As with any art of imposed constraint,
we look for the moments when the constraints are defied. Once you carve
the arrowhead, it can “fly” on its own; its nature as a stone has been
transformed, just as the nature of these words, bought for nothing,
is transformed. When Merwin’s poems don’t move along this axis of transformation,
when they start too broad or loquacious, they lose their power.
Yet anybody who wants to learn about Merwin’s hardscrabble,
very American childhood as the son of a violent minister, or his
time as a scholarship student at Princeton, or his successful forays
into the worlds of American and European peerage should read his wonderful
prose memoirs. My favorite is “Summer Doorways,” which is mainly about
his time in France, where he keeps a home. Merwin’s prose is lush, companionable,
and funny, alert to the ironies of everyday life and utterly unlike his
flinty poems. You surmise, reading his memoirs, that poetry is for
him a quite distinct animal, specialized, like an arrowhead carved
from stone, from every use but its intrinsic one. As he has held poetry
to its essence, he has deepened it. And his poems in old age attain a
special kind of power only available to an artist who works the same furrows
over and over.
Merwin’s recent work often recalls his monitoring intelligence
from its mission in the landscape to the wreck of his own aged body,
itself now a part of the world of matter so resistant to human transformation.
The fresh appraisal of his old face, in “To the Face in the Mirror,”
draws on the tradition of mirror poems extending from Shakespeare to
Sylvia Plath, Robert Lowell, and John Ashbery. The eye you see in the
mirror is lit up by the sight of you; the mind, revelling in the transaction,
records it, but in the process involves itself inside the exchange:
so how far
away are you
after all who seem to be
so near and eternally
out of reach
you with the white hair
now who still surprise me
day after day
staring back at me
out of nowhere
past present or future
you with no weight or name
no will of your own
and the sight of me
shining in your eye
how do you
know it is me
The poem reminds us, as the image in the mirror reminds
Merwin, of how much has gone on inside the mind and how little trace
its activity leaves on the material world. Merwin’s insistence on
a poetry of imaginative utility, against the encroachments of decades
of literary fads, has succeeded in giving his imagined worlds some
of the tangible pleasures and horrors we associate with real ones.
Like Stevens, whose old-age poems are perhaps the greatest ever written,
Merwin can say he “recomposed” the constituents of his vision. But he
also planted and tended a palm forest that is now permanently protected
and open to the public. His poems, like that forest, are a kind of time
preserve. Until you can make it to Maui, the poems will have to do. Many
of them will be around as long as the palms. ♦
This article appears in the print edition of the September
18, 2017, issue, with the headline “The Ascetic.”
Dan Chiasson has been contributing
poems to the magazine since 2000 and reviews since 2007. He teaches
at Wellesley College. His poetry collections include “Where’s the
Moon, There’s the Moon” and, most recently, “Bicentennial.”
https://www.poetryfoundation.org/poets/w-s-merwin
Merwin was once asked what social role a poet plays—if
any—in America. He commented: “I think there’s a kind of desperate hope
built into poetry now that one really wants, hopelessly, to save the world.
One is trying to say everything that can be said for the things that one
loves while there’s still time. I think that’s a social role, don’t
you? ... We keep expressing our anger and our love, and we hope, hopelessly
perhaps, that it will have some effect. But I certainly have moved beyond
the despair, or the searing, dumb vision that I felt after writing The
Lice; one can’t live only in despair and anger without eventually
destroying the thing one is angry in defense of. The world is still here,
and there are aspects of human life that are not purely destructive,
and there is a need to pay attention to the things around us while they
are still around us. And you know, in a way, if you don’t pay that attention,
the anger is just bitterness.”
Album
Arson
Shirts rose on a neighbor’s laundry line,
One or two attempting to fly,
As three fire engines sped by
To save a church going up in flames.
People walking back from the pyre
With their Sunday clothes in tatters
Looked like a troupe of scarecrows
The bank had ousted from their farm.
As for the firebug, we were of two minds:
Some kid trying out a new drug,
Or a drunk ex-soldier angry at God
And Country for making him a cripple.
—Charles Simic
Bà Hỏa
Mấy cái sơ mi trên dây phơi quần áo nhà
hàng xóm
Bèn nhoi lên
Một hay hai cái còn tính đi 1 đường bay lượn
Khi mấy cái xe cứu hỏa la ỏm tỏi, “Cháy! Bà con
ơi! Cháy!
Chúng tính kíu cái nhà thờ đang được
bà hoả thăm viếng
Mọi người ta về, từ giàn hoả
Trong bộ đồ vía Chủ Nhật, rách tả tơi
Chẳng khác chi mấy thằng người rơm
Nhà băng đã xiết mẹ trang trại của họ
À, mà này, về “bọ lửa”
Chúng ta có hai vấn nạn lớn về chúng:
Lũ trẻ, có đứa thử chơi 1 loại ken mới xuất hiện
Hay 1 tên cựu binh Ngụy giận dữ với Chúa Trời
Và Xứ Mít, vì đã làm anh ta què
giò
Note: Firebug chắc là con cánh cam
Charles Simic, a former Poet
Laureate of the United States, is the author most recently of The Lunatic
(poetry) and The Life of Images (prose).
Trịnh
Kim Tiến is with Pham
Doan Trang.
NỮ NHÀ BÁO TIẾP TỤC BỊ BẮT
ĐƯA ĐI VÀO NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ
Sau khi thoát khỏi sự giam cầm phi lý, nhà
báo Phạm Đoan Trang kiên quyết không chịu rời khỏi
Việt Nam. Chị nói chị muốn giữ
trọn lời hứa của mình, người dân Việt Nam đã bị lừa
dối quá nhiều và chị thà bị bắt chứ không để
mọi người phải thất vọng. Chị muốn chứng kiến giây phút đất
nước này thay đổi và chị sẽ không bước dù chỉ
một bước chân ra khỏi biên giới quê hương.
Trước đó, an ninh nói với đôi chân
phải chống nạng rằng chị đừng mong vào Sài Gòn sẽ
thoát. Chính vì sự đe dọa này chị đã
quyết định lẩn tránh tại Hà Nội luôn. Trang biết rằng
đang có một sự truy nã ngầm đang diễn ra với mình,
dù chị có ở đâu. Chân chị đã quá
đau để có thể tiếp tục di chuyển xa.
Nhà báo bình dân đã
nhờ bạn thuê giúp một căn phòng nhỏ và ở đó
trong suốt những ngày qua.
Chiều nay khoảng 3h30 chúng tôi đã
không còn có thể liên hệ với chị. Chủ nhà
nơi thuê trọ thông báo rằng công an khu vực
đã đến. Theo như chúng tôi biết thì hiện nay
dưới nơi chị thuê ở có một số an ninh thường phục vẫn còn
đứng gác. Tác giả sách “Chính Trị Bình
Dân” đã một lần nữa bị bắt đưa đi.
Lần trước là trước ngày giỗ bố và
hôm nay là ngày mà họ luôn hô hào
phải tôn trọng phụ nữ. Ngày Quốc tế phụ nữ, người phụ
nữ với đôi nạng bị an ninh lôi đi đâu chưa rõ
tin tức.
LỜI TỰ THÚ TRƯỚC ĐÊM GIAO THỪA
Thật chẳng vui vẻ gì khi phải viết những dòng
này, vào lúc này.
Trong khoảng nửa năm nay, kể từ mùa hè 2014
khi còn đang ở Mỹ, tôi đã
thường xuyên nhận được từ nhiều trang Facebook nặc danh những tin
nhắn đe dọa với một nội dung chung: Sẽ đưa các clip và hình
ảnh nude, sex của tôi – Phạm Đoan Trang – lên mạng Internet,
nếu tôi tiếp tục các hoạt động mà họ gọi là
“chống phá”.
Tôi im lặng không trả lời một tin nhắn nào,
vì tôi biết tác giả của chúng chỉ có
thể là ai hoặc làm việc cho ai, và tôi… không
biết phải nói gì.
Đó là một câu chuyện buồn, đã
xảy ra từ gần 6 năm về trước, trong một vụ việc mà tôi tự
gọi là “vụ bê bối 2009” của tôi với cơ quan an ninh
điều tra của Việt Nam.
Hẳn nhiều người còn nhớ, vào cuối mùa
hè năm 2009, có ba blogger bị bắt tạm giam 9 ngày
ở một trong những vụ bắt nổi tiếng của năm (nối sau vụ bắt doanh nhân
Trần Huỳnh Duy Thức và luật sư Lê Công Định). Ba blogger
ấy là Mẹ Nấm, Người Buôn Gió, và tôi
– khi đó còn là phóng viên của chuyên
trang Tuần Việt Nam thuộc báo điện tử VietNamNet.
Cả ba blogger bị bắt vì bị cho là có
dính líu đến một “âm mưu” in áo phông
chống dự án bauxite Tây Nguyên.
Trong ba blogger, có lẽ tôi là người
“oan” nhất, theo cái nghĩa tôi không hề tham gia in
áo, chưa từng trông thấy áo, cũng như không một
lần được hỏi ý kiến về vụ áo xống đó. Sau này,
thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ lại câu chuyện ấy, với một ý
nghĩ buồn trong đầu: “Áo em chưa mặc một lần…”.
Cũng về sau này, trong ba blogger, có lẽ
tôi là người ít nói về câu chuyện năm
ấy nhất, không phải vì sợ an ninh, sợ bị trả thù, hay
sợ bất kỳ điều gì khác, mà vì hai lý
do chính:
Lý do thứ nhất, tôi xấu hổ. Xấu hổ vì
mình bị bắt một cách lãng xẹt, và hồi ấy,
tôi ngu ngơ lắm, đần độn lắm, tôi đâu biết gì
về chính trị, luật pháp, nhân quyền, v.v. Tôi
đã là một người hoàn toàn ngây thơ và
nhút nhát. Tôi đã khóc mếu, đã
van lạy, xin khai báo thành khẩn – những việc mà không
bao giờ tôi nghĩ mình có thể làm trong đời nếu
mình vô tội. Nhưng than ôi, làm sao một đứa con
gái nhà lành, chưa từng có chuyện dính
dáng đến pháp luật và cơ quan công quyền, sống
một thời tuổi trẻ và tuổi thơ tràn đầy thi ca nhạc họa, lại
có thể có đủ bản lĩnh để đương đầu với những kẻ được đào
tạo để thị uy, trấn áp người khác?
Mà cũng chính vì thế, tôi thấy
xấu hổ thay cho cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an: Làm
sao mà họ có thể biến chuyện in mấy cái áo phông
thành một âm mưu xâm hại an ninh quốc gia được? Làm
sao mà họ có thể thấy tự hào, hãnh diện vì
đã cả phá thành công một “chuyên án”
như thế? Nói cách khác, người bị bắt đã lố
bịch, kẻ đi bắt người còn lố bịch hơn.
Lý do thứ hai, tôi đã trải qua những
giờ phút rất đau khổ. Và đó là lý
do còn ám ảnh tôi mãi mãi về sau này,
cho đến tận bây giờ.
Họ – cơ quan an ninh điều tra của Bộ Công an – đã
thu giữ máy tính của tôi trái phép,
trong lúc tôi đang bị giam ở B14.
Họ đã xâm nhập máy tính của
tôi – đương nhiên là trái phép – và
tệ hơn thế nữa, phục hồi lại toàn bộ một số bức ảnh riêng
tư mà tôi hoặc đã xóa đi, hoặc đang lưu trong
một folder bí mật nào đó mà chính tôi
cũng không ý thức nhớ (vì có bao giờ tôi
từng nghĩ đến chuyện mình có thể bị bắt, máy tính
có thể rơi vào tay an ninh).
Đó là những bức ảnh ghi lại cảnh quan hệ
của tôi – vào cái thời mà tôi cho là
mình lãng mạn nhất, và cũng ngây thơ nhất.
Thời mà tôi quan niệm “yêu là phải hết mình”.
Thời mà tôi như sống trong một thế giới đầy những hình
ảnh đẹp đẽ, những giai điệu huyền ảo: làm báo, yêu
anh, và nghe guitar cổ điển, nghe nhạc Beatles. Tôi đi đâu,
trong đầu cũng rực sáng những hình ảnh ấy: bóng
nụ cười của anh, ánh mắt của anh, đôi môi, bàn
tay…
Tôi đã nghĩ về tình yêu (và
tình dục) như cái gì đó thật sự thiêng
liêng, rất đỗi thiêng liêng.
Và vì thế, tôi đã đau khổ đến
mức nào khi những điều thiêng liêng ấy bị làm
cho vấy bẩn, khi sự riêng tư của mình bị xâm phạm, chà
đạp. Tôi không bao giờ quên cảm giác chua xót
khi hàng chục cặp mắt an ninh cùng soi vào những
bức ảnh đó. Tôi không bao giờ quên được ý
nghĩ đau đớn lướt qua đầu mình khi đó: Phải rồi, tôi
đã có vài mối tình, và đã chụp
ảnh ghi lại một số khoảnh khắc nhạy cảm. Nhưng tôi làm thế
chỉ vì tình cảm – đối với người mình yêu, và
với chính cơ thể mình, tuổi xuân của mình.
Tôi làm thế không phải để cho cả một tiểu đội an ninh
xem, rồi đem ra bình phẩm và răn dạy rằng phàm là
trí thức, là người có đạo đức, thì phải thế
này, thế kia…
Tôi đã im lặng, cố gắng để câu chuyện
buồn thảm của năm 2009 ấy trôi vào quá khứ vĩnh viễn.
Nhưng ký ức của tôi không ngủ được, cứ lâu lâu
nó lại bị đánh thức bởi những tin nhắn đe dọa nặc danh,
những lời lẽ của dư luận viên bóng gió trên mạng.
Tôi hiểu rằng, không sớm thì muộn, những bức ảnh ấy
cũng sẽ bị tung ra, chúng có thể bị rò rỉ trên
một trang mạng “chống phản động” nào đấy, và/hoặc sẽ được
gửi đến những người mà tôi không muốn họ biết đến chúng
nhất. Tệ hơn nữa, chúng có thể được xử lý, được chỉnh
sửa, được công bố kèm những thông tin thêm thắt,
nhào nặn và bịa đặt khác (giống như cách mà
dư luận viên lâu nay vẫn làm đối với người đấu tranh
dân chủ) để cố tình tạo ra những câu chuyện kinh khủng
về tôi.
Tôi không muốn thanh minh gì, ngoài
một điều duy nhất: Tôi đã làm thế chỉ vì tình
cảm đối với người mình yêu và với chính cơ
thể mình, tuổi xuân của mình.
Và bây giờ, tôi buộc lòng phải
viết những dòng này, trong một đêm cuối năm mà
lẽ ra tôi phải thấy rất vui, vì tôi đang được ăn Tết
ở Việt Nam, sau hơn hai năm xa nước.
Tôi thích thú gì khi phải tung
lên mạng những chuyện hết sức riêng tư, mà lại là
vào đêm trước giao thừa?
Tôi thích thú gì khi phải tố
cáo những chuyện liên quan đến một cơ quan công quyền
thật sự rất lớn và rất oai, là cơ quan an ninh điều tra
Bộ Công an Việt Nam?
Tôi thích thú gì khi phải nói
rằng an ninh Việt Nam đã “mẫn cán” đến mức thọc mũi vào
đời tư của một phụ nữ và ra sức huấn thị, dạy đạo đức cho người
phụ nữ (độc thân) ấy?
Nhưng, dù chua xót đến mấy, tôi cũng
đành phải viết lời “tự thú” cuối năm này, bởi vì
biết đâu, một ngày nào đó những bức ảnh riêng
tư của tôi sẽ được bôi đen bôi đỏ, khoanh tròn,
v.v. trên mạng?
Tôi muốn có lời xin lỗi trước đến những người
sẽ bị ảnh hưởng vì sự cố đó, nếu nó xảy ra. Tôi
muốn nói rằng, tôi đã không thể tự vệ được, cũng
như đang không thể chịu trách nhiệm về những bức ảnh riêng
tư của mình một khi nó đã được lưu đầy đủ trong hồ
sơ của cơ quan an ninh.
Tôi cũng muốn cầu nguyện một điều trước phút
giao thừa – dù tôi không phải người có đạo –
rằng ước sao những câu chuyện đau lòng tương tự do an ninh
Việt Nam gây ra sẽ không bao giờ xảy ra với bất kỳ ai trên
đất nước này. Ước sao lực lượng an ninh Việt Nam cũng biết bảo
vệ, tôn trọng nhân quyền, trong đó có quyền
riêng tư của công dân, như họ đã và đang
tích cực bảo vệ chế độ.
Chúng đánh què, chúng dọa tung hê
những clip riêng tư, sau khi trấn lột đồ dùng cá nhân,
chúng làm đủ thứ chuyện thô bỉ, nhơ bẩn, không
làm sao bẻ gãy ý chí của 1 người đàn
bà.
Chúng là ai?
Vẹm chứ còn ai.
Poetry Magazine March 2018
HIEU MINH NGUYEN
Hieu Minh Nguyen là nhà thơ Mẽo gốc Mít,
và còn là nhà trình diễn, performer.
Tác giả của Not Here (Coffee House Press, 2018), và
This Way to the Sugar (Write Bloody Publishing,
2014).
Everyone you loved refused to die in this town before
they died in this town.
Mọi người bạn yêu thương từ chối chết trong thành phố
này trước khi họ chết trong thành phố này.
Câu thơ được tờ báo đưa lên trang bìa,
có gì đó rất khủng khiếp, nếu bạn đọc lé, lệch,
THNM, và liên tưởng tới nhân vật Kurtz, trong Trái
Tim Của Bóng Đen, qua miêu tả của Vila-Matas.
http://www.tanvien.net/Ghi_1/giua_long_den_hn.html
Kurtz hiện giờ vẫn sống ở đó, ở Hà Lội. Nơi
thăm thẳm, thâm sâu của một cõi thả lỏng mọi tội ác,
và của đêm đen dài dằng dặc của chúng ta.
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến
mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông
Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành
phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong,
sau khi thoát hải tặc Thái lan, mãi tít tới
miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại
trở về.
Và cùng về với nó, là nhân
vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay
là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như
Kafka, để ở lại đây”.
Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và
những đấng Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là
biến nhà người, đất người thành bãi đánh
hàng!
Mi khùng rồi, Gấu ơi, GCC nghe Gấu Cái la
hoảng! (1)
(1)
GERMANY
Let others speak of her shame,
I speak of my own.
O Germany, pale mother!
How soiled you are
As you sit among the peoples.
You flaunt yourself
Among the besmirched.
The poorest of your sons
Lies struck down.
When his hunger was great
Your other sons
Raised their hands against him.
This is notorious.
With their hands thus raised,
Raised against their brother,
They march insolently around you
And laugh in your face.
This is well known.
In your house
Lies are roared aloud.
But the truth
Must be silent.
Is it so?
Why do the oppressors praise you everywhere,
The oppressed accuse you?
The plundered
Point to you with their fingers, but
The plunderer praises the system
That was invented in your house!
Whereupon everyone sees you
Hiding the hem of your mantle which is bloody
With the blood
Of your best sons.
Hearing the harangues which echo from your house, men laugh.
But whoever sees you reaches for a knife
As at the approach of a robber.
O Germany, pale mother!
How have your sons arrayed you
That you sit among the peoples
A thing of scorn and fear!
Bertolt Bretcht: Selected Poems
“Nhục nhã của riêng Gấu”, kệ cha những tên
Bắc Kít khác: Sự xuất hiện 1 nhân vật như Phạm Đoan
Trang, làm Gấu nhớ đến Sebald, và nhận xét sau đây
của ông.
… Weiss to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He
may also have been motivated before the event by the hope, never quite
extinguished, "that every injury has its equivalent somewhere and can be
truly compensated for, even if it be through the pain of whoever
inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought was the basis
of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual relationship
between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss
Weiss tham dự tòa án xử vụ Lò Thiêu
ở Frankfurt. Có thể là do ông vẫn còn hy vọng,
một niềm hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì
có cái phần tương đương của nó, ở đâu đó,
và có thể thực sự được đền bù, bù trừ, bồi
hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này thông qua nỗi
đau của bất cứ kẻ nào gây ra sự tổn thương”. Tư tưởng
này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của chúng
ta về công lý, và nó, như ông nói,
“nằm trong liên hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và
con nợ, và nó cũng cổ xưa, lâu đời như là quan
niệm về luật pháp, chính nó”
W.G. Sebald: Sự hối hận của con tim.
… even if it be through the pain of whoever inflicted
the injury.
Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je,
pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và
hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc
Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?
Vị bằng hữu Tin Văn, 1 trong hai hộ pháp của nó,
thường vẫn thương hại Gấu, tội nghiệp mi quá, cứ mong một phép
lạ, từ đám tinh anh Bắc Kít.....
Về vị này, có 1 entry của Timothy
Snyder, trong "On Tyranny, 20 bài học của thế kỷ", thật xứng đáng:
Chưa bao giờ vị này sử dụng từ ngữ thô tục, đối với lũ Vẹm.
Ngay cả cái thư trần tình, về lũ Vẹm tính tung hê
mấy cái clip riêng tư, hòng làm nhục Bà,
thì cũng được viết bằng 1 giọng cực kỳ hạnh phúc, như là
dịp để tạ lỗi với người yêu: Áo em chưa mặc 1 lần!
Quá tuyệt!
Làm nhớ Brodsky.
Đức tính thần sầu của Brodsky, như Coetzee
chỉ ra, là, bằng mọi cách đừng bao giờ để cho lũ khốn biết,
bạn bị thương tổn, đau đớn. Đừng bao giờ coi mình là nạn nhân
trước lũ mạt hạng, mạt kiếp là lũ Vẹm (1)
Hãy đối xử thật là dịu dàng
với ngôn ngữ của chúng ta.
Be kind to our language.
(1)
In his autobiographical journeying
Brodsky never reached the 1960s, the time of his notorious trial on charges
of social parasitism and his sentencing to corrective labor in the Russian
far north. This silence was, in all likelihood, deliberate: a refusal to
exhibit his wounds was always one of his more admirable traits ("At all
costs try to avoid granting yourself the status of the victim," he advises
an audience of students; On Grief, p. 144).
Coetzee: Joseph Brodsky
Như Coetzee viết, một trong
những nét đẹp nhất của Brodsky “mình ên”, là không
bao giờ khoe khoang những vết thương của mình. Ông gần như
chẳng bao giờ nhắc tới thời gian đi tù. Nhưng đây là
quãng đời đẹp nhất của chàng, qua bài viết cho thấy.
Y chang GCC, và những ngày ở tù VC ở nông
trường Ðỗ Hòa
Thơ
Mỗi Ngày
http://www.nybooks.com/articles/2018/03/08/on-the-deployment-of-simile-to-understand-good-marriages/
On the Deployment of Simile to Understand
Good Marriages
Vona Groarke
March 8, 2018 Issue
Clothes stiffening into position overnight
on chairs or on the backs of chairs—
that is like a marriage too
and so is the rain crowding the window
so hard I can hardly see through
and so is the sand in the rock pool
when the stick in your hand
or the stone thrown by your hand
is a thing of the past
so the sand settles back
as before
what is obvious
is how the rock hides
inside itself
right there
in front of you.
Vona Groarke’s latest book is her Selected
Poems. She teaches at the University of Manchester. (February
2018)
Bài thơ, vô tình, xuất hiện đúng
vào ngày 8/3. Bèn đi 1 đường tiếng Mít,
tặng 1 nửa linh hồn của bất cứ 1 tên đực rựa.
Về cái sự triển khai từ hoa
“so sánh”, nhằm hiểu biết những cuộc hôn nhân
tốt lành
Quần áo ngay đơ, cái nào vô
chỗ đó trong đêm
Cái trên ghế, cái trên lưng ghế
Thì cũng giống như cuộc hôn nhân
Và cũng thế, mưa rơi lỗ chỗ trên cửa sổ
Dầy đặc đến nhạt nhoà hết cảnh vật
Và cũng thế là cát nơi hồ sỏi
Khi những ngón tay dấp dính
Hay sỏi lọt qua kẽ tay
Là chuyện của quá khứ
Và thế là sỏi đá lại “cũng cần có
nhau”, như trước đó.
Điều hiển nhiên
Là,
Như thế nào sỏi đá giấu mình ở trong
chính nó
Ở ngay đây
Trước mắt bạn.
Re: 8/3 & simile. Bỗng nhớ ra bài thơ sau đây.
Bữa rượu nhỏ
Nàng không tin
nàng còn xinh
Cười đưa hoa ấu chồng mình ngắm chơi
Rót ly rượu nhỏ cùng soi
Chân mày môi má hồng thôi
là hồng (1)
Đặng Lệ Khánh
Note: Bắc Kít nói,
Hồng ơi là Hồng!
Đen ơi là Đen!
Tks
NQT
Người Huế cũng nói "hồng
ơi là hồng!", nhưng nói như vậy thì hơi "liếng"
.
Để nghiêm chỉnh hơn một tí thì dùng
chữ "thôi" !!
Anh Trụ dịch và viết nhiều quá, K đọc không
kịp !!!
Tôi tính chỉ dịch
thơ, và dịch 1 số truyện ngắn, và bỏ hết những mục
khác, nhưng chưa được.
Tôi cũng định chuyển 1 số bài viết cho a2a,
nhưng phải là những bài nhẹ nhàng, và
“hoàn tất”!
Tks agian
NQT
Poems
December 11, 2017 Issue
Autumn
The part of life
devoted to contemplation
was at odds with the part
committed to action.
*
Fall was approaching.
But I remember
it was always approaching
once school ended.
*
Life, my sister said,
is like a torch passed now
from the body to the mind.
Sadly, she went on, the mind is not
there to receive it.
The sun was setting.
Ah, the torch, she said.
It has gone out, I believe.
Our best hope is that it’s flickering,
fort/da, fort/da, like
little Ernst
throwing his toy over the side of his crib
and then pulling it back. It’s too bad,
she said, there are no children here.
We could learn from them, as Freud did.
*
We would sometimes sit
on benches outside the dining room.
The smell of leaves burning.
Old people and fire, she said.
Not a good thing. They burn their houses down.
*
How heavy my mind is,
filled with the past.
Is there enough room
for the world to penetrate?
It must go somewhere,
it cannot simply sit on the surface—
*
Stars gleaming over the water.
The leaves piled, waiting to be lit.
*
Insight, my sister said.
Now it is here.
But hard to see in the darkness.
You must find your footing
before you put your weight on it.
Mùa Thu
Phần đời dâng cho "chiêm
ngưỡng và kính trọng", bà xã
Thì đếch ăn ý với phần đời dâng hiến cho...
Vẹm
Mùa Thu đang mò tới
Nhưng tớ nhớ là, nó luôn tới vào
lúc con nít nghỉ học
Đời, như bà chị của tớ nói
Thì cũng giống như bó đuốc,
Được chuyển từ phần xác qua phần hồn
Chán 1 phát, vưỡn bà, phán
Phần hồn vào lúc này
Chưa sẵn sàng ở đó, để mà nhận!
Mặt trời lặn
À, bó đuốc, bà nói.
Nó đi mẹ mất rồi, tôi nghĩ.
Hy vọng nhất, là,
Nó nhấp nháy
For/da, for/da như thằng bé Ernst
Ném đồ chơi của nó qua phiá bên kia
cái nôi
Rồi kéo trở lại.
Thật quá tệ
Không có 1 đấng con nít ở đây
Chúng ta có thể học từ chúng, như Freud
nói.
Chúng ta cũng, đôi lúc,
có thể ngồi
Ở mấy cái băng ghế ở bên ngoài phòng
ăn
Mùi lá cháy
Mấy anh già, hết xí oát
- từ này chôm của Sến, khi mắng yêu Gấu –
Và lửa.
Đâu phải điều hay,
Lũ già thường đốt nhà
Cái đầu, tâm hồn, phần trí
tuệ, the mind
Của tôi
Mới nặng nề làm sao
Ních chặt quá khứ
Đếch còn chỗ cho thế giới chui vô,
Xin 1 cái vé đi tuổi thơ cái con mẹ gì
đó!
Phải đi chỗ nào khác thôi.
Qua Mẽo sống với lũ Nguỵ cũng được đấy
Nếu đít bạn đỏ choé, như mafia đỏ
Đâu có giản dị ngồi ở trên
mặt
Hay, hì hục đốt lò?
Sao lấp lánh nơi mặt hồ
Lá khô chất đống
Chờ đốt
Đốn ngộ, là lúc này,
bà chị phán
Thật khó mà nhìn vào bóng
tối
Bạn phải biết chân bạn ở đâu
Trước khi bạn ấn mạnh nó 1 phát!
Vào ngày 8/3, Gấu ngộ
ra, bài thơ nào cũng có thể dùng vào
việc tán vợ cả!
Bài này, cũng
nhờ đầu tháng mà lòi ra.
QT là…
nick của Gấu Cái, khi viết
cho 1 tờ báo địa phương, đúng bài viết vào
dịp 30 Tháng Tư, năm đầu tiên qua Xứ Lạnh.
Sau Gấu chôm, đưa vô
“Tự Truyện”, và là cái
thư gửi Cô Út.
NTV,
mastermind, Trùm tờ “Trăm Con”, đọc, gật gù, đúng
rồi, giá mà hồi đó, ta hiểu ra chân lý,
thay vì dzục cờ ba que vô thùng rác, thì
cuộn nó lại, dzím vào trong tim, trong hồn, trong
não, thì tờ "Trăm Con" vưỡn còn!
Bài
viết của Huỳnh Ngọc Chiến, tuyệt, nhưng theo Gấu, chưa tới, chưa hết
được cái đẹp của "nhân vật" này.
Granta 100
Ta
sẽ nhớ mi vô cùng khi ta ngỏm
Đáng
yêu nhất của những nụ cuời
Mềm
mại nhất ở trên giường
Khi
cả hai còn trẻ
Quách
Tường của ta ơi
Hãy
nhớ rằng khi ta ngỏm rồi
Mi
cứ vưỡn còn sống hoài
Trong
tim và trong hồn của ta
Uncertainty
We couldn't tell if it was a fire in the hills
Or the hills themselves on fire, smoky yet
Incandescent, too far away to comprehend.
And all this time we were traveling toward
Something vaguely burning in the distance-
A shadow on the horizon, a fault line-
A blue and cloudy peak which never seemed
To recede or get closer as we approached.
And that was all we knew about it
As we stood by the window in a waning light
Or touched and moved away from each other
And turned back to our books. But it remained
Even so, like the thought of a coal fading
On the upper left-hand side of our chests,
A destination that we bore within ourselves.
And there were those-were they the lucky ones?-
Who were unaware of rushing toward it.
And the blaze awaited them, too.
Edward Hirsch: The Living Fire
Không chắc
Chúng tôi không thể nói,
có 1 đám cháy ở nơi những ngọn đồi
Hay những ngọn đồi, chính chúng, cháy
Tuy nhiên, khói, có, sáng
rực một màu
Nhưng xa quá, không sao hiểu
Và trong tất cả thời gian đó, chúng
tôi đi về một cái gì, mơ mơ hồ hồ, cháy,
từ một khoảng xa –
Một cái bóng ở nơi chân trời,
một đường nét lầm lạc –
Một ngọn đỉnh trời – thì cứ phán đại
như thế - xanh xanh, có mây
Nó có vẻ chẳng bao giờ thèm lùi,
hay, tới gần hơn, trong khi chúng tôi thì cứ
xấn tới.
Và đó là tất cả những gì
chúng tôi biết về nó.
Khi chúng tôi đứng bên cửa sổ trong
ánh sáng nhợt nhạt
Hay mân mê nhau, hay rời xa nhau
Và quay trở lại với những cuốn sách
của chúng tôi
Và nó cứ ỳ ra, mãi như thế
Như ý nghĩ về 1 cục than hồng tàn lụn
dần
Ở phía bên cánh tay trái
của trái tim của chúng tôi
Một chốn tới mà chúng tôi giữ
rịt ở bên trong chính chúng tôi
Và có những kẻ - những kẻ may mắn?-
Họ đếch cần biết, hay đếch thèm để ý
đến chuyện, chạy tới nó.
Và ngọn lửa, hay, đám cháy, tuy
nhiên, vưỡn đợi họ.
NYRB Jan, 2000
Bài
thơ này, được viết khi Brodsky
bị lưu đầy nội xứ, ở 1 nông trại ở phiá
Bắc nước Nga.
Ở Nga, lễ mừng năm mới được coi như lễ mừng Giáng
Sinh.
Bản dịch tiếng Anh, của chính tác giả, được
kiếm thấy trong những giấy tờ của ông.
Ngày 1 Tháng
Giêng, 1965
Những Vì Vua sẽ
đánh mất những địa chỉ cũ của mi
Không một vì sao sẽ sáng lên
nhằm tạo ấn tượng.
Tai của mi bèn chịu thua
Tiếng hú gào nhức nhối của những trận bão.
Cái bóng của mi
Bèn rụng rời, bye bye, cái lưng của mi
Mi bèn tắt đèn cầy, và bèn
đụng cái bao tải
Bởi là vì mi còn phải bóc lịch
dài dài,
Ở cái nông trường cải tạo Đỗ Hoà, Nhà
Bè này
Bao nhiêu đèn cày cho đủ,
Cho những cuộc…. đốt đuốc chơi đêm?
Cái gì, cái này?
Nỗi buồn ư?
Nhớ Xề Gòn ư?
Nhớ mấy đứa nhỏ ư?
Đúng rồi, có lẽ nó, đấy,
Một khúc nhạc sến sẽ chẳng bao giờ ngưng
Cái gì gì,
Ngọn đèn đêm đứng im, “cuối” đầu!
Lũ Ngụy gần như thuộc nằm lòng, những khúc
trầm bổng
Cầu cho nó được chơi rất đúng tông,
cùng với những điều sắp tới
Với góc khuất của một ai đó
Bằng sự biết ơn, của mắt và của môi
Về những gì cho chúng biết,
Làm sao xoay sở
Về 1 điều xa xưa
Những
ngày tháng cũ.
Và bèn ngước mắt nhìn lên,
nơi không một đám mây trôi giạt
Bởi là vì mi cạn láng đời rồi, Gấu
ơi là Gấu ơi.
Mi sẽ
hiểu, tiện tặn nghĩa là gì:
Nó hợp với tuổi của mi.
Không phải 1 sự coi thường.
Quá trễ rồi, cho đột phá
Dành cho những phép lạ
Dành cho Ông Già Noel và bầy
đoàn thê tử của Xừ Lủy
Và bất thình lình mi hiểu ra được
Mi, chính mi, là Phép Lạ
Hay, khiêm tốn hơn,
Một món quà triệt để, dứt khoát.
Note: Bài thơ này, cũng có trong cuốn
Thơ Kíu Đời. Sẽ giới thiệu lời còm của nữ thi sĩ, tác
giả cuốn sách sau
WHAT LIPS MY LIPS HAVE KISSED,
AND WHERE, AND WHY
Edna St. Vincent Millay (1892-1950)
What lips my lips have kissed, and where, and why,
I have forgotten, and what arms have lain
Under my head till morning; but the rain
Is full of ghosts tonight, that tap and sigh
Upon the glass and listen for reply,
And in my heart there stirs a quiet pain
For unremembered lads that not again
Will turn to me at midnight with a cry.
Thus in the winter stands the lonely tree,
Nor knows what birds have vanished one by one,
Yet knows its boughs more silent than before:
I cannot say what loves have come and gone,
I only know that summer sang in me
A little while, that in me sings no more.
Edna St. Vincent Millay had many love affairs. Her biographer,
Nancy Milford, said of her: She smoked in public when it was against
the law for women to do so, she lived in Greenwich Village during the
halcyon days of that starry bohemia, she slept with men and women and
wrote about it in lyrics and sonnets that blazed with wit and a sexual
daring that captured the nation. This wistful sonnet was written in 1923
when Millay was thirty-one years old. The poem opens with the speaker
in contemplation, alone at night, listening to the rain, remembering
the ghosts of past lovers that "tap against the window." The last lines
are terribly sad and beautiful, softened and consoled perhaps by memory
of a love affair and the notion that at one time "summer sang in me," even
though no more. I once heard that Sigmund Freud said all literature is
about love and sex or was it love and death? I would venture to say that
all poetry to an extent is about unrequited love, not necessarily carnal
or romantic love, but yearning.
Note: Bài thơ trên, có tính vô
8/3?
Why not?
Môi nào môi tôi hôn, và
ở đâu, và tại sao
Tớ quên mẹ nó mất rồi.
http://www.nybooks.com/articles/2018/03/08/on-the-deployment-of-simile-to-understand-good-marriages/
On the Deployment of Simile to Understand
Good Marriages
[tạm dịch: Về cái chuyện khoe hàng để hiểu những
cuộc hôn nhân tốt lành]
Vona Groarke
March 8, 2018 Issue
Clothes stiffening into position overnight
on chairs or on the backs of chairs—
that is like a marriage too
and so is the rain crowding the window
so hard I can hardly see through
and so is the sand in the rock pool
when the stick in your hand
or the stone thrown by your hand
is a thing of the past
so the sand settles back
as before
what is obvious
is how the rock hides
inside itself
right there
in front of you.
Từ
từ tính.
“A writer needs
his poisons,” Roth said in his Paris Review interview. “The antidote
to his poisons is often a book.” He published more than two dozen such
books. Why Write? is not one of them. It more closely resembles an
account of the poisons Roth was made to swallow and the symptoms they
caused—the headaches, the convulsions, the bouts of delirium. Roth may
still resent his exposure to these toxins, but there’s no denying that
they did their job.
Nhà văn
cần độc dược.
Thuốc giải độc, là cuốn sách của hắn.
GCC cần xì
ke.
Giải xì ke, là trang Tin Văn!
Tin Văn sẽ lèm bèm thêm, về bài viết
này.
Cuốn này,
thấy lâu rồi, nhưng chê. Cái tít nghe bất bình
quá. Thơ kíu đời?
Bữa nay, lỡ cầm lên, đọc 1 phát, là mê
liền. Rất nhiều bài viết, là về 1 số những bài
thơ đã được post trên Tin Văn, tếu thế.
Thí dụ, đường kiếm, về bài thơ của Adam Zagajewski:
Cố mà ca ngợi 1 thế giới bị tùng xẻo.
Hay, Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết xuống của Frost.
Adam
Zagajewski's "Try to praise the mutilated world", first published in the
post-September 11 "black" issue of the New Yorker, takes its title from its
opening line:
Try
to praise the mutilated world.
Remember June's long days,
and wild strawberries, drops of rose wine.
The nettles that methodically overgrow
the abandoned homesteads of exiles.
You must praise the mutilated world.
You watched the stylish yachts and ships;
one of them had a long trip ahead of it,
while salty oblivion awaited others.
You've seen the refugees going nowhere,
you've heard the executioners sing joyfully.
You should praise the mutilated world.
Remember the moments when we were together
in a white room and the curtain fluttered.
Return in thought to the concert where music
flared.
You gathered acorns in the park in autumn
and leaves eddied over the earth's scars.
Praise the mutilated world
and the gray feather a thrush lost,
and the gentle light that strays and vanishes
and returns.
When
I read it I was struck, first, by an awareness that, far from lecturing
his reader, the speaker was speaking to himself; his use of "You" (a
Zagajewski trademark) a welcome change from the self-important I-deology
of so many contemporary poets. It struck me, then, that he had brilliantly
obeyed his own imperatives - "Remember .... Remember .... Return .... Praise"
- and had made me do the same. More generally, I was arrested by the authority
of the voice, the courage and wisdom of a call to praise in a time (like
any other) of mutilation: praise, a word with Christian associations, repeated
with increasing urgency in the refrain, acquiring the force of a liturgical
response, a prayer. Behind the distinctive new voice, one can hear a voice
heard in Auden's "Musée des Beaux Arts" ("About suffering they were
never wrong / The Old Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful
martyrdom" in which "the torturer" plays a part. At some level, Zagajewski
remembers this as well as his own love, a fluttering curtain (in a window
Auden had opened), and a "mutilated world" where "the executioners sing
joyfully". Surely, too, Auden's "expensive delicate ship" must be one
of Zagajewski's "stylish ships" - perhaps one heading for the "salty oblivion"
that awaits Icarus in the Bruegel painting on which Auden's poem is based.
Zagajewski's praise poem has the variable line-length of Auden's
which, despite its unobtrusive rhymes, gives it the easy assurance of
the best free verse; and one cannot l pay Clare Cavanagh a greater compliment
than to say her English poem does not suffer by comparison with Auden's.
These poems have a similarly antithetical structure: Auden's moving from
birth to death to life continuing; Zagajewski's, from "June's long days"
to "light that strays and vanishes / and returns". They tell us "we must
praise" the life continuing, the light returning. They are both Christian
poets, intimately involved in human tragedy, yet endowed with the detached
perspective of the Old Masters.
Adam Zagajewski was born sixty-four years ago in Lvov and went to university in Cracow, two cities
he loves and celebrates in his essays and poems. He emigrated to France in 1982 and now lives between Cracow, Paris and Chicago. Early collections
( of his poems in English translation were presented in Without End
(2002) - a title echoing the Book of Common Prayer - with a section of
New Poems translated by Cavanagh. She has achieved something just as remarkable
with Eternal Enemies. These are identified in n "Epithalamion", a poem
beginning "Without a silence there would be no music", that goes on to
assert: "Only in marriage do love and time, eternal enemies, join forces".
An earlier poem, "Little Waltz", ends: "love sets us free, time kills us".
The coming together of man and woman is imaged in that of the earth and
"The Sea",
In love with the earth, always drawn to shore
….
In love with the earth, thrusting into cities, Stockholm,
Venice, listening to tourists laugh and chatter
before returning to its dark, unmoving source.
The most frequent pairing and dis-pairing of the many antitheses
in these poems are those a of light and darkness (themselves linked to
a life and death), often in a religious context, as a in "The Churches
of France", described as "dark vessels, where the shy flame of mighty light
wanders". Again, in a more a: recent poem, "At the Cathedral's Foot",
[we] spoke softly about disasters,
about what lay ahead, the coming fear,
and someone said this was the best
we could do now -
to talk of darkness in that bright shadow.
Such poems remind us that when this Polish Roman Catholic Adam
was born, "the pock- marked / Georgian still lived and reigned". With
a bitter parody of the opening of St John's Gospel, he now remembers:
In the beginning, freezing nights and hatred.
Red Army soldiers fired automatic pistols
at the sky, trying to strike the Highest Being.
The title of that poem, "Life is Not a Dream", is echoed by
the end of the next, "It Depends": "I push" through a dense thicket
of onlookers and ask: / What's happening? God's coming back. But it's
just a dream".
Zagajewski resembles Yeats in the skill with which he links
poem to poem, so that the power of both poets' collections is greater
than the sum of individual poems. The Arch-poet liked to quote Blake: "Without
contraries is no progression". Zagajewski would agree but, whereas the
Irish agnostic celebrated the conflict of contraries that, in his "System",
made the world and history go round, the Christian Pole seeks and celebrates
harmony, love: "Remember the moments when we were together". The title
of a key poem proclaims his creed, "Poetry Searches for Radiance", the creed
of creative artists (made in their Creator's image) such as Blake-
I watch William Blake, who spotted angels
every day in treetops
and met God on the staircase
of his little house and found light in grimy
alleys –
and like others whom he celebrates: Milosz and Brodsky, Caravaggio
and Vermeer, Bach and Schubert.
Last but not least, the composers: indeed, Zagajewski would
seem to believe that life as well as art "aspires to the condition of
music". A sentence borrowed from Conrad Aiken - "Music I heard with
you was more than music" - finds its way into three poems of his new
book; and music in some form is the means of communication/communion
in the joyful epiphanic moments to which he and his fellow makers aspire.
The music of the translator's English free verse, in its happy marriage
to the poet's European themes, makes Cavanagh's Zagajewski as rare
and rewarding an experience as that of Milosz's Englished
Collected Poems.
TLS Dec 4 2009
TLS điểm tập thơ Eternal Enemies,
Những kẻ thù thiên thu, của Adam Zagajewski.
Chắc bạn
còn nhớ dòng thơ của Brodsky:
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng
một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about
Time. About what time does to Man."
Đây là câu trả lời của Adam Zagajewski:
"Only in marriage do love and time, eternal enemies, join forces"
"love sets us free, time kills us".
Stopping By Woods on a Snowy Evening
Whose woods these are I think
I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.
He gives his harness bells a
shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and
deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep
Dừng ngựa bên
rừng buổi chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi
nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy
kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa
trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy
cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc có
chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của hạt
tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và
sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Đây là bài
thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái
Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có cái
tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.
As to the metaphor, I should
add that I now see that metaphor is a far more complicated thing than
I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying,
"the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more subtle
way.
Think of Robert Frost. You of course remember the lines:
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
If we take the last two lines,
the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the poet
is thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And miles
to go before I sleep," the line becomes a
metaphor; for "miles," stands for "days," for "years," for
a long stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death." Perhaps
I am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the pleasure lies
not in our translating "miles" into "years" and "sleep" into" death," but
rather in feeling the implication.
Borges: This craft of verse
Về ẩn dụ, tôi có
lẽ nên nói thêm là, nó rất ư “cà
chớn”, rất rắc rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó
không giản dị chỉ là so sánh sự vật này với
sự vật khác - thí dụ, "mặt trăng thì như là...
" - Không, nó “tế vi” hơn nhiều.
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
Nếu lấy hai dòng đầu,
thì nó là 1 câu phán của thi sĩ,
về những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập lại,
thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến thành
"ngày", thành "năm", và dài dài mãi
ra, và "ngủ", có nghĩa là, ngỏm củ tỏi!
Về già, đọc lại bài
thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách
dạy tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái
tít!
Những lời hứa phải giữ! (1)
[Như vậy], chúng ta có
hai cách làm thơ. Người ta thường nói về văn phong
giản dị và văn phong phức tạp. Tôi nghĩ, nhảm, bởi là
vì điều quan trọng, what is all-meaning, là sự kiện, thơ
nên sống hay nên chết, chứ không phải văn phong nên
giản dị hay rắc rối. Điều này tùy thuộc
vào thi sĩ thứ thiệt hay thứ dởm. Chúng ta có thể
có những dòng thơ thần sầu dưới cái vẻ [cái
vỏ, cũng được] rất ư là giản dị, tự nhiên. Thí dụ,
khi Stevenson viết những dòng thơ "Kinh Cầu", thì đúng
là thứ thơ giản dị, nhưng thi sĩ đã phải lao động cật lực
mới có được. Tôi tin là, dòng thơ “Vui tớ sống,
vui tớ đi”, bật ra vào 1 khoảnh khắc mà nữ thần thi ca thật
vui, và thật là rộng lượng, và bèn ngó
xuống thi sĩ.
Ở 1 chỗ khác, cũng trong
cuốn "Tập Làm Thơ" ["This Craft of Verse": Mánh, Ngón,
Nghề.. Thơ], Borges chỉ cho chúng
ta thấy, có những dòng thơ, bề ngoài thật giản dị,
nhưng là với 1 thi sĩ… dởm, hay người
trần mất thịt.
Thí dụ câu thơ sau đây, mà theo Borges,
là của Tennyson, làm khi 13 hay 14 tuổi, và [chắc
là ngượng quá], bèn dục bỏ, may làm sao
còn 1 dòng: “Thời gian trôi vào lúc
nửa đêm”, “Time flowing in the middle of the night”. Tôi
[Borges] nghĩ là thi sĩ đã chọn thời gian 1 cách
thật là cực khôn khéo, very wisely. Vào ban
đêm, im ắng, con người thì ngủ, nhưng thời gian vưỡn trôi,
đếch có 1 tiếng động!
Borges rất mê bài
thơ “Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ”. Ông nhắc tới
nó mấy lần, trong cuốn “Tập Làm Thơ”, và mỗi lần,
ông lôi ra 1 chi tiết, 1 phát giác thần sầu.
Trong cuốn sách, ông
đồng ý với… Gấu, ẩn dụ không
đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng thực sự, là đốn
ngộ, là mặc khải. Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa hè
“Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung", nhìn sang nhà
hàng xóm, thấy cái áo cánh trắng phất
phơ bay trong gió, ngạc nhiên tự hỏi, áo ai nhỉ, và
nhớ ra là Loan, đi học Hà Nội, nghỉ hè, về.
Khám pháp đó chỉ là bề mặt, giản
dị!
Bề sâu, "Méta", Dũng khám phá ra
tình yêu của mình!
THEY PLAYED PUSHKIN
Note:
Bài thơ này, dùng vào việc chào
mừng Ngày Thơ, của Hội Nhà Thổ Vẹm, quá đắc
địa.
Nó làm nhớ, lần TTT được làm
Poster, và Sến bèn ra lệnh (?) cho tên Trùm
Cớm hải ngoại đánh cô em của Sến tơi bời hoa lá
cành.
Lũ này, Gấu đã nói rồi, phần
đạo hạnh kể như Zéro.
Nhớ, hồi Sến mới xuất hiện, cả hải ngoại lẫn trong
nước cùng mừng rỡ.
Vị nữ thủ lãnh trên lưới,Thiên
Sứ đem Tin Mừng tới cho giống Mít.
Bây giờ, kể như ô hô ai tai,
cả 1 lũ!
Sao mi ghét talawas? Sao mi thù Bắc
Kít đến như thế?
Sergey Chudakov (1937-early 1990s?)
The son of a labor-camp director, Sergey Ivanovich Chudakov
spent much of his childhood in Kolyma. Expelled from Moscow State
University, he supported himself by writing articles under pseudonyms;
he was also a pornographer, pimp and book thief. Sometimes called
'the Russian Villon', he is thought to have died or been murdered
in the early 1990s.
Boris Dralyuk
Con một ông trùm quản giáo, tuổi thơ
trải qua hầu hết tại nhà tù nỗi tiếng Kolyma. Bị đá
đít ra khỏi trường Đại Học Moscow, ông kiếm sống bằng cách
viết lách dưới những cái nick vô danh; còn
là 1 nhiếp ảnh gia phim/hình ảnh con heo, một tên
ma cô, một tay ăn trộm sách.
Đôi khi được gọi, là 1 Villon (một nhà
thơ Pháp) của Nga, nghe nói ông bị làm
thịt vào đầu thập niên 1990,
(sinh năm 1937, là cùng năm với GCC!)
THEY PLAYED PUSHKIN
They played Pushkin on a grand piano.
They killed Pushkin in a duel one day.
He had asked them for a plate of cloud berries
and, lying near a bookshelf, passed away.
In icy water, full of frozen clods,
they buried Pushkin, hallowed be his name.
And we too tend to meet too many bullets;
we hang ourselves, and open up our veins.
All too often we are hit by cars,
get tossed down stairwells in a drunken state.
We live - and all our petty intrigues
wound little Pushkin in some way.
Little, cast in iron, celebrated -
in a park deserted thanks to frost -
he stands (his understudy and replacement),
bitterly regretful at the loss
of youth, and of the title Kammerjunker,
of songs, of glory, of the girls in Kishinyov,
of Goncharova in her white lace petticoat,
and of death that cannot be shrugged off.
Boris Dralyuk
Chúng chơi Pushkin
Chúng chơi Pushkin trên cái dương cầm tổ bự chảng
Chúng giết Pushkin bằng 1 cuộc đấu súng
Chàng hỏi xin chúng một dĩa trái cây
cloudberries
Và, nằm kế bên cái giá sách,
chàng bèn làm chuyến tàu suốt
Trong nước băng, đất lạnh
Chúng chôn chàng, cầu sao cho vĩnh hằng
là tên chàng
Và chúng ta, chúng ta cũng muốn được
ăn vài trăm viên đạn
Chúng ta tự làm thịt chúng ta, bằng
cách tự treo cổ
Hay mở toang động mạch
Tất cả chúng ta, thì cũng đã nhiều lần,
được xe hơi hôn, một, hai, hay nhiều phát!
Té bổ chửng nơi cầu thang, do say mèm
Chúng ta sống – và tất cả ba cái lẻ
tẻ như thế, thì có tí mùi đau thương -
như Pushkin - một cách nào đó.
Nhỏ xíu, bị đóng cứng vào 1 miếng sắt,
thép, hay đồng, được ngợi ca, vinh danh, tưởng nhớ
Tại 1 công viên hoang tàn, đổ nát
nhờ sương giá, lạnh nhạt
Chàng đứng sững (sự đóng thế, đóng thay
chàng)
Cay đắng ân hận về sự mất mát
Của tuổi trẻ, và của cái tít Kammerjunker,
Của những bài ca, của vinh quang, và của những
cô gái ở Kishinyov,
Và của nàng Goncharova
Trong cái áo khoác nhỏ màu trắng
viền đăng ten
Và của cái chết không làm sao
rũ bỏ cho được.
ALEKSANDER WAT
1900-1967
Aleksander Wat was proud of his Jewish lineage, which he could trace
back to famous mystics and rabbis. His life could be divided into four
main periods. First he was an active and rather noisy avant-garde poet
(a Futurist) in Warsaw. Later on he became an editor of a communist magazine
and, after that he worked for a respectable publishing house. World War
II changed everything: Wat found himself a prisoner of the immense Gulag
Archipelago after being arrested in Lvov, which between September 1939
and June 1941 was part of the Soviet Union before falling into the hands
of the Nazis). After the war he returned to Warsaw but a new calamity ensued-a
disease that manifested itself mostly in terrible pain. The postwar period
consisted of years of sickness for Wat and many journeys abroad for the
sake of his failing health. Eventually he became an exile and, after a stay
in California, died in France.
The last stage of Wat's biography was the richest in terms
of his literary achievement, although each line written had to be measured
against an almost an almost permanent pain. These late poems were
filled with wisdom, bitterness, and irony. My Century, a philosophical
memoir dictated on tape (and spoken to Czeslaw Milosz, who initiated
this exchange), was published in 1977, ten years after Wat's death,
and was greeted as one of the great documents of our time.
My Century combines the insight of an artist who came to the
limits of literary experiment with the sagacity of a witness to the
horror of totalitarianism.
Adam Zagajewski: Polish Writers on Writing
Alexsander Wat,
Thi sĩ và Nghi lễ trừ tà của thế kỷ
"Tại nhà ga Saratov, nơi cả đám chúng
tôi ngồi trong những thùng chứa con-te-nơ, đợi giờ đi,
cửa bỗng mở, và mấy người ngồi kế bên đã xúm
nhau kéo lên xe một người đàn ông. Anh ta cố
gượng đứng, nhưng quá yếu lại té xuống sàn. Người
đàn ông với áo lông, chiếc khăn choàng
da rái cá, và chiếc nón quả dưa, trông
thật chẳng giống ai..."
Thời gian, cuối năm 1941. Chàng sinh viên Do
thái-Ba lan vừa được thả từ một trại tập trung. Hitler tấn
công Liên-bang Xô-viết, tháng Sáu.
Theo một thỏa ước giữa Stalin và chính quyền lưu vong
Ba-lan, cái đế quốc khổng lồ, gồm những trại lao động khổ sai
và những nhà tù, lừ đừ nhả ra một số "cư dân"
của nó, trong có chừng hai triệu người Ba-lan, những lưu
đầy biệt xứ sau khi đất nước của họ bị xâm lăng và sát
nhập vào Liên xô, tháng 9 năm 1939. Hướng tới
của đoàn xe, Alma-Alta. Tại vùng Á châu thuộc
Xô-viết, người ta đồn, những chiếc xe chở thực phẩm. Tại đó,
những bộ xương được "vỗ béo" cho đến khi họ có thể cầm nổi
khẩu súng.
Người đàn ông với chiếc khăn choàng da
rái cá, chiếc nón quả dưa là Aleksander
Wat, nhà văn-nhà thơ Ba-lan, một người mà "thế
giá" của ông chỉ đến bây giờ mới được Tây-phương
biết tới. Hình ảnh "siêu thực" kể trên là một
trong chuỗi dài, gần 7 năm, giữa nhà tù Xô-viết,
lưu đầy biệt xứ tại Kazakhstan, trước khi ông trở về Ba-lan vào
tháng Tư, năm 1946.
"Đêm đó,", sau ông ghi lại, "trong lúc
đi trong bóng tối nhà ga, tôi thấy một người đàn
bà bị hiếp." Nhà ga rất rộng. Chẳng ai để ý đến
chuyện đó, tuy loanh quanh "hiện trường" cũng có một
vài người, kể cả Wat. Chỉ mấy tháng trước, ông cải
đạo trong phòng giam, từ một gia đình Do-thái qua
Thiên-chúa giáo. Nhưng cảnh một số người hãm
hiếp một người đàn bà, không ai đứng ra can thiệp,
cho dù người đàn bà đó có kêu
la, gào thét, chẳng làm ông cảm động. "Trong
phòng giam nhà tù Saratov, tôi đã có
một viễn ảnh về một nước Nga khổng lồ, với sự bành trướng của
nó, với triệu triệu những thảm kịch của con người... Và
trước mắt tôi, thảm kịch bằng xương bằng thịt của một nước Nga
đang bị hãm hiếp... Những gì mà tôi trải qua
ở Saratov như đạt tới cõi sâu thẳm trong tôi; nhưng
thật mỏng manh, lớp bụi mờ nó để lại. Tôi không cảm
động trước cảnh tượng này; tôi đã nhìn những
người đó như phân người".
Ông đang trên đường về phương nam tìm vợ,
Olga, và con, Andrzej. Họ đều bị bắt, và đã 18
tháng trời, ông không biết số phận họ. Trong một
trại tập trung tại Kazakh, vợ con ông cố gắng để đừng bị chết đói,
ngoài những giờ lao động khổ sai, bán quần áo vật
dụng của họ, hoặc ăn cắp chút bột mì. Vào tháng
Hai, 1942, Olga gặp chồng ở Alma-Alta.
Bà kể lại: "Một ông lão ngồi trên
chiếc ghế đẩu... hướng cái đầu về phía phải, và
Aleksander đang đứng ở giữa một căn phòng khác, lúi
húi viết. Anh cũng không nghe thấy tôi bước vô.
Lần chót chúng tôi nhìn nhau, đó
là khi anh bị bắt. Lúc đó, anh 40, khoẻ mạnh, tóc
đen nhánh, cặp mắt sáng. Đây là một người
đàn ông già khằn, ốm nhom, cùng kiệt". Ông
nhớ lại: "Andrzej trông như một đứa trẻ từ một ghetto Warsaw.
Nó bắt đầu có triệu chứng ho lao. Olga bao nhiêu
rồi nhỉ? Cô ta mới 30 mà sao trông như một bà
già 60".
Lần chót nhìn nhau không phải là
lần chót xa nhau. Vài năm sau, cả hai lại bị bắt vì
từ chối thông hành Xô-viết. Olga bị đánh
đập, đối xử tàn nhẫn bởi đàn bà Nga, trong nhà
giam. Họ được đoàn tụ, để "được" lưu đầy, tại Kazakh, gần biên
giới Trung-hoa. Nhưng những đồng hương không quên họ: sau
chiến tranh, nhờ sự can thiệp của những nhà văn Ba-lan, sau cùng
họ đã được thả, vào tháng Tư 1946.
Chuyến xe lửa ngừng giữa một cánh đồng, cách
đó vài dặm là những hoang tàn đổ nát
của thành phố Warsaw ngày nào, và nhả ra
"ông bà" Wat, với những cái bị đầy những lon gô,
dĩa nhôm, mẩu bánh mì khô, rẻ rách...".
Họ đi nhờ xe, cuối cùng hoảng sợ khi biết tài xế là
mật vụ. Nhưng anh ta không lấy tiền: "Tôi không đòi
tiền công, từ đám tuẫn nạn".
Những gì mà bây giờ chúng ta được
biết về cơn hỗn loạn chính trị của lịch sử Ba-lan thế kỷ thứ
19, một phần lớn là nhờ cuốn băng hồi ký lạ thường, của
A. Wat: "Thế kỷ của tôi: Cuộc phiêu lưu của một trí thức
Ba-lan". Người đẻ ra ý nghĩ, ghi âm hồi tưởng của một thi
sĩ Ba-lan, bệnh hoạn và quá đau đớn không thể viết,
cư dân Berkeley từ năm 1964, là Gregory Grossman, thuộc Trung
tâm nghiên cứu Slavic và Đông Âu, tại Berkeley.
Ông giao trách nhiệm cho Czeslaw Milosz, (thi sĩ, Nobel văn
chương). Wat nhận ra ở Milosz, một người nghe lý tưởng, và
có cảm tưởng, những lần họ ngồi chung, Milosz đang làm một
nghi lễ trừ tà ở nơi ông.
"Thế kỷ của tôi" - Milozs gọi là những "buổi
gọi hồn", trong đó, ông vinh dự được phục vụ như là
một "phương tiện" - không chỉ là một công trình
lớn lao của riêng người nghe, cũng không hẳn là
di chúc của người kể. Cùng từ một nền, Milosz hiểu ngay
lập tức, điều nhà thơ đang nói, và những gì
bạn mình cảm thấy khó khăn, để nói ra. "Tôi
nhận ra liền, một điều chi độc nhất vô nhị, đang diễn ra giữa chúng
tôi. Không hẳn chỉ là vấn đề, tôi, một cá
nhân riêng lẻ, khác, trên mặt đất, một kẻ cũng
đã từng kinh qua thế kỷ và có cùng ý
nghĩ về nó, như Wat. Ở đây, chẳng có chi mắc mớ đến
sự độc ác tàn nhẫn, của số mệnh, hay của lịch sử. Hàng
triệu triệu con người đã đau thương, cay đắng vì nó,
còn hơn Wat. Không, vấn đề ở đây là "một tính
khí", (a cast of mind), một văn hóa... đặc biệt văn hóa
của tầng lớp trí thức Ba-lan.
Những cuộc ghi âm bắt đầu bằng cuộc đời chính
trị, văn chương của Wat, trong những năm trước chiến tranh tại Ba-lan,
và bất thình lình bị ngắt quãng ở khúc
Kazakhstan. Milosz phải rời Paris, (cuộc ghi âm được thực hiện,
năm 1964 tại Berkeley, và tại Paris, năm 1965), và không
một "phương tiện" nào thỏa đáng có thể thay thế
ông.
Khúc ngắt quãng cận kề thời điểm gia đình
ông trở lại Ba-lan: Những năm tù đầy, cuộc hành
trình tinh thần của Wat, tới với chủ nghĩa CS, rồi từ bỏ nó
quay về niềm tin tôn giáo, và nỗi đớn đau vì
tội lỗi, và sự hối hận, vì đã có lần "tán
trợ" một ý thức mà sau ông coi là "quỷ ma"
(satanic). Nhưng đây chỉ là một phần, chuyện của Wat.
Khi Wat còn sống, một nhà phê bình
Balan đã tuyên bố: "Chẳng có gì ở trong
tác phẩm của ông, họa chăng, những dở dang". Mười ba năm,
sau khi những cuốn băng được thực hiện, Tomas Venclova, thăm viếng Berkeley,
và "lại khám phá ra" thi ca của Wat. Trước sự
ngỡ ngàng của ông, đây là một nhà
văn hàng đầu của thế kỷ 20, chưa từng được khám phá,
tại Tây-phương. Hai mươi năm sau, mặc dù hai tác
phẩm bằng Anh ngữ của Wat, thơ ca và truyện ngắn (Lucifer Thất
nghiệp), và "Thế kỷ của tôi", đã được xuất bản,
nhà văn "lập dị", nhà trí thức Wat vẫn gần như
"vô danh", và không được "đánh giá
cao", tại xứ sở của ông. Những dở dang. Cuốn sách của Tomas
Venclova (Aleksander Wat: Life and Art of an Iconoclast, nhà xb
Yale University Press, 1996), là một cố gắng bổ sung những thiếu
sót đó. Tác giả là nhà thơ, nhà
phê bình người Lithuanian, hiện đang giảng dậy tại Yale.
Theo ông, Wat là một trong số ít người
đã thực sự đồng nhất, với những "hoài vọng, những ngây
thơ vụng về đến trở thành ngớ ngẩn, mù loà, và
cuối cùng là những ảo tưởng bị tan vỡ", của những thời
kỳ hiện đại.
Wat sinh vào May Day, 1900, tại Warsaw. Gia đình
Do-thái trung lưu. Cha mẹ là những người Ba-lan ái
quốc, tuy ngôn ngữ thứ nhất của họ là tiếng Nga. Một trong
những hình ảnh mà ông còn nhớ được về người
cha, và một trong những người chị, là bữa họ trở về, thân
thể bầm nát, đầy máu me, sau một cuộc biểu tình
chống Nga-xô, vào năm 1905. Những năm sau, thường xuyên
bị tra vấn, ông nghĩ sao về chính mình, Do-thái
hay Ba-lan, "phần nào nhiều hơn", Wat coi câu hỏi là
"phiến diện": "Tôi không bao giờ cảm nhận về mình,
là Dothái-Balan hay Balan-Dothái... Tôi
luôn luôn thấy tôi như là một Dothái-Dothái,
và Balan-Balan. Ông tin tưởng trách nhiệm đạo đức
chính của ông là "đưa ra một giải đáp triết
học về hiện tượng quyết định bước đi của thế kỷ bị đọa đầy, qua những
phương tiện "nguyên sơ đến ngỡ ngàng, hoảng sợ". Wat mong
muốn, ông giải thích, "nhẩy múa trên những
điêu tàn... chà sát ngôn ngữ thành
mùn, để tạo từ; như vậy những âm tiết của chúng sẽ
làm nên một "idiom" mới, cho làn da trần trụi, của
một người. Bài thơ xuôi dài Dadaist của Wat, "Me
from One Side and Me from the Other Side of My Pug Iron Stove", khi Wat
mới 18 tuổi, được Venclova coi như "cuộc chiến của ông chống lại
nghĩa" (his war against sense), và là một trong những bài
viết tiền phong, cơ bản nhất thời kỳ này, xác nhận đánh
giá của Vladimir Mayakovski: Wat là một "Nhà thơ Vị
lai bẩm sinh."
Nhưng Chủ nghĩa Vị lai Ba-lan, tự thân, chẳng mấy chốc
bị nhận chìm bởi những ảnh hưởng từ bên ngoài. Một
trong những ảnh hưởng đó, là trò thờ phụng, sùng
bái mang tính thời thượng, sự hung bạo. Ở Tây-phương,
ảnh hưởng này đẩy các nhà thơ tới chủ nghĩa phát
xít. Ở Ba-lan, nó được đại diện bởi những trò
ác độc, tàn nhẫn của Cách mạng Bolshevik. Các
nhà thơ bắt đầu nghiêng về phía tả, vào
những năm 1920. Jasienski là một trong những người đầu tiên:
"Chúng ta sẽ dí nát mọi thứ dưới đôi bốt
của chúng ta, (kể từ khi chúng ta) đẹp, bao la như trời
biển, và mang chất người." Ông di cư sang Liên-xô,
và cùng với rất nhiều bạn thân của Wat trong phong
trào CS Ba-lan trước chiến tranh, bị sát hại bởi Stalin.
Chính Wat cũng bị mê hoặc bởi ý tưởng
"Sự hung bạo thanh hóa" của Cách Mạng, và giấc
mơ về một nền văn học mới, vô sản. Nếu ông, sau cùng
không gia nhập đảng CS (thẻ đảng viên chính thức
của ông cho đến giờ vẫn là một nghi vấn), cho dù
vậy, ông đã là một bạn đường nhiệt thành -
một tâm hồn bị vây khổn, "captive mind", theo nghĩa được diễn
tả bởi Milosz.
Vào cuối thập niên 1920, Wat là một khuôn
mặt nổi tiếng ở Warsaw. Ông đã cho xuất bản "Lucifer
Thất nghiệp", và đã kết hôn với Paulina Lew (Olga).
Bà là nguồn an ủi, và hỗ trợ ông suốt cuộc
đời còn lại. Năm 1929, ông là chủ biên tờ
báo CS mới "Literary Monthly". Mặc dù khuynh hướng sùng
bái chủ nghĩa Stalin, tờ báo rất được ưa chuộng giữa đám
trí thức căn bản Ba-lan. Đây là những năm hạnh phúc
của Wat, với Olga, với công việc làm. Ông càng
cảm thấy mình "thành công", khi tờ báo trở
thành một "điểm nóng" đối với nhà cầm quyền, nhưng
chẳng được bao lâu, Wat và cả đám bạn bè bị
tống vào tù vì phơi bầy chuyện tra tấn trong những
nhà giam Ba-lan. Họ trở thành anh hùng. Trong nhà
tù, Jan Hempel, bạn của Wat, mắt sáng rỡ khi loan tin: "Anh
biết không, hai lò luyện sắt bị cháy hôm nay,
ở Magnitogorsk!". (Vài năm sau, đến lượt ông ta, bị bắn trong
nhà tù Xô-viết).
Rồi tờ báo bị đình bản, liên hệ của Wat
với Đảng CS yếu đi dần. Chi tiết về sự vỡ mộng của ông không
rõ rệt. Nhưng trên hết, Wat chắc hẳn đã được biết,
và lúc đầu chắc chẳng muốn tin, trong thời gian 1937-38,
khi cuộc thanh trừng lên đến cao điểm, Stalin đã hạ lệnh
tàn sát tập thể chừng 5,000 đảng viên CS Ba-lan bị
lưu đầy tại Liên-xô, trong có cả tầng lớp lãnh
đạo, và rất nhiều bạn thân của ông. Wat càng
trở nên "u ám" hơn, vì chính sách của
Xô-viết với nước Đức của Hitler, trước khi hiệp ước bất tương xâm
được ký kết vào năm 1939.
Khi Hitler xâm lăng Ba-lan, vào tháng
Chín 1939, Wat chạy thoát tới Lwów, với Olga
và con trai Andrzej. Lwów trở thành thủ đô
của "Western Ukraine", chẳng mấy chốc bị sát nhập vào
Liên-xô, trong khi Hitler và Stalin tuyên bố
xóa sổ nhà nước Ba-lan. Tiếp theo đó là "tận
điểm" trong đời Wat. Lwów tràn ngập những gia đình
tị nạn Ba-lan, trong có nhiều nhà văn, nhà báo
Warsaw. Những ông chủ mới Xô-viết chơi trò mèo
vờn chuột với tầng lớp trí thức Ba-lan, ép buộc họ thừa
nhận và hỗ trợ chính quyền mới. Một số, tuyệt vọng vì
sợ, chịu theo. Một số khác, nhìn ra "số phận sau cùng
của chuột", từ chối. Wat, cùng với một số nhà văn nổi tiếng
như Tadeusz Boy-Zelenski và Wladyslaw, đã ký vào
một bản tuyên bố "nhục nhã", và bằng lòng làm
việc cho "Băng Đỏ", một tờ báo Ba-lan của chính quyền. Venclova
cho chúng ta thấy một đoạn trong bản tuyên bố: Nhân
dân thợ thuyền Tây-Ukraine, đã từng rên xiết bao
thập kỷ dưới sự áp bức của đám chủ đất Balan và bọn
tư bản, chỉ còn một quyết định độc nhất. Với hăng say, và
niềm tự hào, họ tuyên bố ước muốn của họ, được sống dưới Định
Chế của Stalin, trong gia đình hợp nhất, cùng nhân
dân Xô-viết hạnh phúc! Nỗi tủi hổ về những tháng
đó đã bao trùm lên hết suốt quãng đời
còn lại của ông. Và niềm ăn năn về tội lỗi.
Sau đó là bắt bớ. Trường hợp bị bắt của ông
y hệt như một xen kịch, khủng khiếp và "tiếu lâm", kiểu
Shakespeare. "Bạn" của ông, Daszewski, mời ông và
Olga đi ăn tối, tại một nhà hàng với một số nhà
văn Ba-lan. Một người lạ bước tới bàn, được chủ nhân giới
thiệu, đây là "nhà sử học về nghệ thuật Xô-viết".
Tới một lúc nào đó, nhà "nghệ sử" túm
lấy một thực khách, và tung hê bàn ăn. Một
bầy côn quang, côn đồ vạm vỡ từ đằng sau những bức màn
túa ra tấn công những người khách khác. Wat
bị kéo ra xe, khi đó ông đã gần như bất tỉnh.
"Bạn" của ông len lén "chuồn" mất. Olga nhìn thấy cảnh
sát dẹp đường cho anh ta.
Gần hai năm, bà không nhìn thấy mặt chồng.
Trong mấy tháng đầu, Wat bị nhốt, chen chúc với 28 bạn
tù khác, trong một phòng giam nhỏ hẹp tại nhà
tù Lwów. Vào mùa thu năm 1940, ông
bị chuyển tới nhà tù Lubyanka, ở Moscow. Tại đây,
ít ra ông cũng được ăn uống ra hồn, và được hỏi
cung đàng hoàng. "Tội ác" của ông sao chẳng
rõ, số phận của ông cũng vậy. (Theo Susan Miron, tác
giả bài điểm sách của Venclova, trên tờ Partisan
Review, số 1, 97, ông bị tố cáo là Zionist, Trotskyite,
và cho đủ bộ, "điệp viên" của Vatican!).
Sau khi Hitler xâm lăng Xô-viết, nhà tù
được di tản vào tháng Bẩy 1941, và một lần nữa
Wat lại thấy mình ở trong nhà tù chính Satarov.
Tình trạng của ông lúc này thật thảm hại,
đói, bịnh, và chỉ mong quân đội Đức tấn công
đưa tới chuyện mật vụ Nga, cơ quan NKVD sẽ bắn bỏ tất cả những tù
nhân, trước khi bỏ chạy.
Chính tại đây, ông đã cải đạo.
Wat đã cố gắng giải thích cho Milosz về chuyện
này: Một đêm, yếu như sên, và lên cơn
sốt do viêm ruột, ông nghe thấy Quỷ cười vang, bên
ngoài hành lang nhà tù. Một tiếng cười
lớn, thô, tới rồi đi, rồi tới gần hơn nữa. Sau đó Satan
đi vào phòng giam của ông, "một con quỷ có
sừng, con quỷ từ opera". Wat hiểu "đại khái", đây là
"quỷ lịch sử" (the devil in history), nhưng "tôi cảm thấy một điều
gì khác nữa. Uy nghi của Chúa (God) đang trải dài
lên lịch sử... Trần nhà giam được nâng bổng và
trên cao kia, trên tất cả, là Chúa". Sau đó,
ông nhận ra là do ông mê sảng, và tiếng
cười, thực sự chỉ là tiếng còi báo động phòng
không của một con tầu tuần hành trên sông Volga.
Nhưng mặc khải, và niềm tin, từ đó không rời ông.
Ít lâu sau, ông được tha, rồi tái
hợp với Olga và con trai. Sau tới thời gian ở Alma-Alta, và
lần giam giữ sau cùng, ở Kazakh. Nhưng ông bắt đầu viết
lại. Vào năm 1942, tháng Giêng, ông làm
bài thơ "Những cây liễu ở Alma-Alta". Bài thơ không
hiểu sao "trôi dạt" về tới quê hương Ba-lan, được in lại trên
báo chí "dưới hầm", thời gian Nazi chiếm đóng. Mặc
dù những chi tiết, những references riêng tư, thế hệ trẻ Ba-lan
đã vồ lấy nó, và thuộc lòng:
Liễu, ở đâu mà chả có liễu
Đẹp như thơ như tranh
Ôi liễu, ở đây, Alma- Alta.
Nhưng làm sao tôi quên được,
liễu chết, nơi phố xưa, Rozbrat,
Liệu liễu xinh, mượt tay tôi,
làm quên liễu chết.
Núi, ở đâu mà chẳng có núi
Trước mặt tôi, Thiên Sơn giương cánh buồm,
tím, chút ánh sáng phù
du, đá mầu,
nhạt nhòa dần rồi biến mất
Nhưng làm sao tôi quên được đỉnh Tatry,
xa quá là xa
Ôi dòng suối Biala,
tôi và con từng tưởng tượng
những chuyến giong buồm rực rỡ
Hai cha con đều được chúc phúc
bằng nụ cười thầm lặng của vị nữ chủ tốt lành của chúng
tôi -
hãy để tôi biến thành đá núi
Tian Shan
Làm sao quên bạn, nơi đây,
làm sao quên chốn xưa,
Ôi, quê hương của tôi
Đêm Warsaw,
mưa, cổng về,
người ăn xin vươn dài tay qua cổng,
con chó cắn rách áo
Hãy ngủ đi Jedrus...
Tôi vươn tay sầu muộn
như liễu khóc Ba-lan...
Làm sao quên Warsaw, chiến đấu
Ôi Warsaw, tạo bằng máu
If I forget Thee
If I forget Thou
"Đằng sau sự bệnh hoạn của tôi, là con quỷ CS
chủ nghĩa", Wat đã từng tuyên bố với Milosz. Nhà
phê bình Stanislaw Baranczak nhìn ở ông như
sự nhập thân hiện đại của Job, "không phải bởi vì
ông đau khổ hơn hàng triệu nạn nhân khác,
nhưng bởi vì ông khăng khăng tìm cho ra nguồn cơn
nỗi đau của mình". Như nhận ra, bằng tính cách tiên
tri, chức năng thi ca của ông, trong "Thế kỷ của tôi", Wat
giải thích, "làm một thi sĩ không có nghĩa là
viết nên những câu thơ, mà là một cách
thế đặc thù "kinh nghiệm toàn-kinh nghiệm", trong đó
bao gồm những việc làm của lịch sử...
"Chính trị", ông than thở, "là số mệnh
của chúng ta. Trong cơn bão tố chính trị, chúng
ta trú ẩn ở mắt bão, trên chiếc thuyền mỏng manh
là thi ca...".
(Theo bài viết của Neal Ascherson, trên The New
York Review of Books, Nov 28, 96, và bài viết của Susan
Miron, tạp chí Partisan Review, số 1, 1997).
Nguyễn Quốc Trụ
THEY PLAYED PUSHKIN
Note: Bài thơ này, dùng
vào việc chào mừng Ngày Thơ, của Hội Nhà Thổ
Vẹm, quá đắc địa.
Nó làm nhớ, lần TTT được làm Poster, và
Sến bèn ra lệnh (?) cho tên Trùm Cớm hải ngoại đánh
cô em của Sến tơi bời hoa lá cành.
Lũ này, Gấu đã nói rồi, phần đạo hạnh kể như
Zéro.
Nhớ, hồi Sến mới xuất hiện, cả hải ngoại lẫn trong nước cùng
mừng rỡ.
Vị nữ thủ lãnh trên lưới,Thiên Sứ đem Tin Mừng
tới cho giống Mít.
Bây giờ, kể như ô hô ai tai, cả 1 lũ!
Sao mi ghét talawas? Sao mi thù Bắc Kít đến
như thế?
Sergey Chudakov (1937-early 1990s?)
The son of a labor-camp director, Sergey Ivanovich Chudakov spent
much of his childhood in Kolyma. Expelled from Moscow State University,
he supported himself by writing articles under pseudonyms; he was also
a pornographer, pimp and book thief. Sometimes called 'the Russian Villon',
he is thought to have died or been murdered in the early 1990s.
Boris Dralyuk
THEY PLAYED PUSHKIN
They played Pushkin on a grand piano.
They killed Pushkin in a duel one day.
He had asked them for a plate of cloud berries
and, lying near a bookshelf, passed away.
In icy water, full of frozen clods,
they buried Pushkin, hallowed be his name.
And we too tend to meet too many bullets;
we hang ourselves, and open up our veins.
All too often we are hit by cars,
get tossed down stairwells in a drunken state.
We live - and all our petty intrigues
wound little Pushkin in some way.
Little, cast in iron, celebrated -
in a park deserted thanks to frost -
he stands (his understudy and replacement),
bitterly regretful at the loss
of youth, and of the title Kammerjunker,
of songs, of glory, of the girls in Kishinyov,
of Goncharova in her white lace petticoat,
and of death that cannot be shrugged off.
Boris Dralyuk
Semyon Lipkin (1911-2003)
Born in Odessa, Semyon Israilievich Lipkin moved
to Moscow in 1929. Unable from 1934 to publish his own work, he
turned to translating, mainly from Persian and the Turkic languages
of Central Asia. His first collection of his own poetry appeared
only in 1967. He also wrote a novel about Stalin's deportation of the
Chechens, and a memoir of Vasily Grossman. It was Lipkin who initiated
the process that led to the text of Grossman's Life
and Fate being smuggled out to the West.
By the Sea
The waves crashed under the flicker of the lighthouse
and I, in my ignorance, heard a monotone.
Years later the sea speaks to me and I begin to
understand
there are birds and laundresses, sprites and sorcerers,
laments and curses, moans and profanity, white
horses
and half breeds who rear up unexpectedly.
There are waves who are salesgirls with buxom
hips
who sell foam from the counter, they tremble fluent
or airy.
Nature can't be indifferent, she always mimics
us
like a loan, a translation; we're the blueprint,
she's the copy.
Once upon a time the pebble was different
and so the wave was different.
(1965)
Yvonne Green
He who gave the wind its weight,
and gave measure to the water,
pointed lightning on its path,
and showed rain what rules to follow -
he once told me with quiet joy:
'No one's ever going to kill you:
How can dust be broken down?
Who has power to ruin beggars?'
(1981)
Robert Chandler
Sinh ở Odessa, Lipkin dời đi Moscow năm 1929. Không
thể in thơ của mình, ông quay qua dịch, chủ yếu
là từ tiếng Ba Tư và Thổ nhĩ kỳ, của vùng
Trung Á. Chỉ đến năm 1967, ông mới có tập thơ
đầu tay trình làng. Ông cũng viết tiểu thuyết
về cú tống xuất những người Checkens của Xì, và
1 hồi ức về Vasily Grossman. Lipkin là người khơi mào
cái tiến trình lén đưa bản văn “Đời và
Số” qua Tây Phương.
Bên biển
Sóng lấp lánh dưới ánh đèn
Và tôi, ngu quá, nghe ra 1 âm
thanh đều đều 1 điệu.
Những năm sau đó, biển bèn nói
với tôi
Và tôi bắt đầu ngộ ra
Có tiếng chim, máy giặt, ma quỉ, phù
thuỷ, than thở, trù ẻo, nguyền rủa, rên rỉ, phàm
tục, thô bỉ, tục tĩu, ngựa trắng, lai giống, bất ngờ tuôn
trào…
Có những con sóng, là những
cô bán hàng, hông, háng mập mạp
Chúng run run, trôi chảy, hay, uyển
chuyển
Thiên nhiên đâu có cách
nào khác
Chúng luôn luôn bắt chước chúng
ta
Như 1 mượn đỡ, vay tạm, chuyển dịch; chúng
ta là nguyên bản, nàng là bản sao
Có 1 thời sỏi đá đếch cần có
nhau: Chúng khác
Và như thế,
Sóng biển, khác
Hắn, kẻ ban cho gió, sức nặng
Ban cho nước, ngắn, dài
Chỉ lối đi cho ánh sáng
Chỉ cho mưa những luật lệ nào phải tuân
theo –
Hắn, kẻ có lần nói với Gấu, bằng 1
niềm vui trầm tĩnh:
Chẳng tên khốn nào có thể giết
mi
Làm sao mà bụi bặm có thể vỡ
ra được, dưới gót giày của BHD, ở cái quán
ngày xưa mà mi đã bao lần toan tính trở
lại? (1)
Kẻ nào có quyền năng làm điêu
tàn, mấy thằng ghiền, ăn mày, ăn xin... tình
yêu?
(1)
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/ky_niem_3.html
Cái quán cà
phê hủ tíu đó, Gấu đã vẽ lại nó,
trong Lan Hương .
Thời gian làm báo thiếu nhi cho me-xừ
Nhàn, Gấu viết lại một lần nữa, đặt tên truyện là
Quán, lấy câu của Alain choàng hoa cho nó.
Trong truyện có một câu, Gấu nhớ mãi
đến tận giờ, [tận già, tận chết].
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống
lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng
trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian,
và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng
đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi
ngùi!
Ông Nhàn đọc, la, báo thiếu
nhi mà sao anh viết truyện này?
*
Le domicile est suspendu au cou de l'homme
Comme une punition
Alain
Quán, nơi tụ tập của những đứa con hoang
đàng, dù có đi xa chân trời góc
bể nào cũng nhớ hoài, giống như sự trừng phạt. Quán,
Mái Nhà Xưa. Sài-gòn, Sài-gòn...
Nhìn hình ông anh, post bài
thơ của cái tay thi sĩ Nga, nhờ ông ta, Tây
Phương được đọc Life and Fate, thì
bèn nhớ tới bài thơ sau đây:
vượt biên
Cúi trông cố lý
mây vô xứ
Ngầu trắng u mông táp mạn thuyền
Ngút ngọn triều dâng vách
sụt lở
Bọt xóa thiên thanh dấp sóng
quên
Thơ Ở Ðâu Xa
Nhưng "Bia mộ" của cả 1 thời [NL viết về
Thơ Ở Đâu Xa] làm Gấu nhớ tới thơ của Shalamov,
nổi tiếng với Kolyma Tales.
Varlam Shalamov (1907-82)
Born in Vologda, Varlam Tikhonovich Shalamov saw
himself as a writer from childhood. His father was a priest who
had served twelve years in Alaska as a missionary; his mother, a
schoolteacher, passed on to him her love of poetry. In 1926 Shalamov
began studying law at Moscow University, but in 1928 he was expelled
- probably for having taken part in a demonstration against Stalin
on the tenth anniversary of the October Revolution. In 1929 he was
sentenced to three years in a labor camp in the Urals; he had been
involved in an attempt to print and distribute a suppressed letter Lenin
wrote before his death, recommending that Stalin be removed from
his post as General Secretary of the Party.
In 1932 Shalamov returned to
Moscow, where he worked as a journalist and published several
short stories. Rearrested in 1937, he was sentenced to five years
in Kolyma, the vast labor-camp empire in the far north-east of the
Soviet Union. In 1943 he was given an additional ten years for 'anti-Soviet
propaganda'. In 1945 he spent several months in a camp hospital;
not for the first time he was close to death. Later that year he survived
several months in a punishment camp. In spring 1946 he was again
close to death, but a doctor saved him, risking his life by enrolling
Shalamov on a medical training course for which he was ineligible.
After completing this course, Shalamov worked as a medical assistant
at a hospital and in a lumber camp. From 1949 he was able to write poems,
which he later collected in his Kolyma Notebooks.
In 1951 Shalamov was released,
though he remained in Kolyma, still working as a camp medical
assistant. In 1952 he sent some of his poems to Pasternak, who praised
them; the two writers met in Moscow in November 1953 and remained
on friendly terms for some years, with Pasternak doing what he could
to help Shalamov publish his work. From late 1953 Shalamov lived
in the Kalinin province, but in 1956 he was allowed to return
to Moscow; by then he had begun work on the Kolyma Tales, his thousand-page
cycle of stories set in the Gulag.
Alexander Solzhenitsyn writes
that, on first reading Shalamov's poems in samizdat (hand-typed
copies) in 1956, 'I trembled, as if from meeting a brother.’ He invited
Shalamov to collaborate with him on The Gulag Archipelago, but Shalamov
refused, at least in part because he disagreed with Solzhenitsyn's
belief in the ennobling effect of suffering.
During much of the 19 60S Shalamov
was part of a circle that met at the home of Nadezhda Mandelstam,
but in 1968 he broke off relations with her. Kolyma Tales was smuggled
out to the West in the late 1960s, but it attracted little attention.
In 1972 Shalamov alienated many of his friends and admirers by
publishing a letter protesting against the publication of his
stories in the West. He was disillusioned with dissident circles;
Western publishers did indeed appear to have treated his work casually
and he knew that his letter would enable him to join the Union of Soviet
Writers and publish a fourth selection of poems.
Shalamov spent his last years
in poverty and isolation and was moved to an old people's home
in 1979. Blind, deaf and suffering from Huntington's disease he went
on composing fine poems until his last months. He was no longer able
to write, but visitors took dictation. He died on 17 January 1982,
after being transferred, in bitter cold and without proper clothing,
to a psychiatric hospital.
Kolyma Tales is recognized
by Russian readers as a masterpiece of Russian prose and the greatest
of all works of literature about the Gulag. Leona Toker has written
movingly of the form of Shalamov's epic story-cycle being 'grounded
in an ethical intention so genuine that its artistic merit seems
to be the natural consequence of its truth'. Shalamov's poetry,
however, is still little read. This may be because we tend to pigeonhole
writers; it is hard to imagine that the author of the bleak and sober
Kolyma Tales could also have written poems of such ecstatic joy.
In 1966 Shalamov wrote that
late Pushkin and early Pasternak are 'the best of Russian poetry'.
He also loved Baratynsky and Tyutchev. Fet and Blok became ever
more important to him in his last years. Some of his historical
poems bear the imprint of Mandelstam, and .one of the earliest
of the Kolyma Tales, 'Cherry Brandy', is an imagined account of Mandelstarn's
death in a labour camp. Remarkably, Shalamov managed to read this
aloud, in May r965, during the first public event in Moscow in honour
of Mandelstam. During this same event Shalamov also paid a moving tribute
to the Acmeist movement as a whole: 'The principles of Acmeism proved
so vital and healthy that the list of participants is like a roll call
of martyrs. If the Symbolists had been subjected to such trials, there
would have been a general retreat into monasteries, into mysticism.
There were healthy seeds in the theory of Acmeism that helped these poets
to live through their lives and go on writing. Neither Akhmatova nor Mandelstam
renounced the principles of their poetic youth; they did not change their
aesthetic views.
The longest poem in this selection,
'Avvakum in Pustozyorsk', is written in the voice of the Archpriest
Avvakum (r620-82), the archetypal Russian dissident and the most
famous of the so-called Old Believers. His refusal to accept the changes
to the Orthodox ritual introduced by Patriarch Nikon led to his
being exiled to Siberia. Then he was taken to the north of European
Russia, to the military outpost of Pustozyorsk; after being imprisoned
for fourteen years in a sunken, log-framed hut, he was burnt at the
stake. His account of his life, written with verve and in colloquial
language, is the first work of modern Russian prose; it circulated widely
in manuscripts before the first printed edition in r861. Shalamov's
admiration for Avvakum seems unqualified, but in 'Boyarynya Morozova',
a poem about a famous Old Believer from the high nobility, his characteristic
admiration for strength of will is tempered with what may be a note of
criticism:
Not love, but rabid fury, has led
God's servant to the truth. Her pride
is justified - first high-born lady
to seek a convict's fate.
Gripping her Old Believers' cross
tight as a whip between her hands,
she thunders out her final curses;
the sleigh slips out of sight.
So this is how God's saints are born ...
Her hate more ardent than her love,
she runs dry fingers through her dry,
already frost-chilled hair.
Shalamov can be seen as a modern schismatic: as
a young man he belonged to a Trotskyist group and several of
the most positive figures in The Kolyma Tales are Social
Revolutionaries (i.e., members of the party that was the Bolsheviks'
main rival). He may, in these stanzas, be pondering a faultline in
his own psyche; during his last years Shalamov quarrelled irreconcilably
with almost everyone close to him. It is equally possible that the
apparent criticism of Morozova is not intended; Shalamov may have
considered the intensity of her (and his own) hatred entirely justified.
Nevertheless, it is hard to believe that he was not, at some level, aware
that those who hate evil more intensely than they love good are in a
dangerous position.
Somewhat like Paul Celan and
Primo Levi, Shalamov seems in the end to have been defeated
by the destructive forces he withstood so bravely and for so long.
His own life story may be the most tragic of all the Kolyma tales.
Một cách nào đó, như Paul Celan
và Primo Levi, Shalamov có vẻ như sau cùng
bị đánh bại bởi những sức mạnh huỷ diệt mà ông
kìm giữ chúng, 1 cách can đảm và trong
1 thời gian thật dài.
Cuộc đời của riêng ông, là câu
chuyện thê lương nhất, trong tất cả những câu chuyện
về Kolyma.
*
Flying in at my window,
a moon like a snow jay
scrapes claws on walls,
flutters over my pillow.
Scared of confinement
in page or dwelling,
my homeless darling -
in midnight finery.
Robert Chandler
*
Snow keeps falling night and day -
some god, now turned more strict,
is sweeping out from his domain
scraps of his old manuscripts.
Sheaves of ballads, songs and odes,
all that now seems bland or weak -
he sweeps it down from his high clouds,
caught up now by newer work.
1950
Robert Chandler
Zbigniew Herbert
Born in Lvov, a city that after 1945 was incorporated into
the Soviet Union, Zbigniew Herbert led a difficult life of an eternal
and itinerant student until 1956, when his first collection of poems
finally appeared. As a young man, he hesitated between poetry, art
history, and philosophy. His life remained peripatetic even after 1956,
an important year for Poland as it marked the end to the excesses of
Stalinist cultural policy. Herbert lived then in Warsaw, Paris, Berlin,
Italy, and the United States (he taught for a year at the University of
California, Los Angeles). He was driven to travel by his immense appetite
for the ancient and modern beauty that is scattered throughout the museums,
architecture, and landscapes of western and southern Europe, food for his
imagination.
Herbert invented a new tone in poetry,
a music filled with tragedy, irony, and goodness. His "Mr. Cogito,"
the speaker in many of his poems, is a brilliant and sometimes melancholy
commentator on twentieth-century madness. Herbert's poems turned out
to be readily translatable, so he found a home for his brilliance in
other languages as well (especially in English, German, and Swedish).
Still, he never enjoyed a Goethean peace of mind; tormented by sickness
and bad luck, he became a beloved and nationally worshipped poet only
posthumously.
Henryk Elzenberg, one of young Herbert's
masters, is the addressee in the letters that follow. Elzenberg was
an independent philosopher and a sage.
AZ
Sinh tại Lvov, 1 thành phố sau 1945 bị sáp nhập
vài Liên Bang Xô Viết, Zbigniew Herbert sống
1 cuộc đời khốn đốn của 1 sinh viên nội trú và
lang bạt kỳ hồ, cho tới năm 1956, khi tập thơ đầu tay của ông
được xb. Như là 1 thanh niên, ông lưỡng lự giữa thơ,
lịch sử nghệ thuật và triết học. Cuộc đời của ông, thì
"tiêu dao" - nay chỗ này, mai chỗ khác - ngay cả
sau năm 1956, một năm quan trọng với Ba Lan, đánh dấu sự tận
cùng của chính sách Xì Ta Lin. Herbert
từ đó sống ở Warsaw, Paris, Berlin, Ý, và Mẽo (ông
dạy học 1 năm ở Đại Học Cali, Los Angeles). Ông mê mải du
lịch, có thể là do thèm cái đẹp cổ xưa
và hiện đại nằm rải rác ở trong những viện bảo tàng,
kiến trúc, và phong cảnh của Âu Châu, Tây
Âu, Nam Âu, thức ăn của trí tưởng tượng của ông.
Herbert phịa ra được 1 giọng mới trong thơ, một âm nhạc
chứa chất trong nó, bi kịch, tếu táo, và cái
tốt. Me-xừ “Cogito”, người phát ngôn trong rất nhiều bài
thơ của ông, là 1 tay lèm bèm, thông
minh, láu lỉnh và đôi khi buồn bã về cơn điên
khùng của thế kỷ 20.
Thơ của Herbert, hóa ra là không sẵn sàng
để dịch, thế là ông bèn kiếm 1 căn nhà, trong
những ngôn ngữ khác (đặc biệt là trong tiếng Anh,
Đức và Thụy Điển).
Tuy nhiên, ông vưỡn không thể enjoy 1 cõi
bình an theo kiểu Goethe ở trong tâm hồn của mình;
bị giằn vặt bởi đau ốm, và vận xấu, ông trở thành
1 nhà thơ được yêu mến và được cả nước thờ phụng,
chỉ sau khi ông đã ngỏm rồi.
Note: Gấu tính giới thiệu nhà thơ Ba Lan Zbigniew
Herbert - qua bài viết của Coetzee trong Late Essays, nhằm
giải thích câu hỏi hắc búa: Bảnh nhất trong “Ba
Lan Tam Kiệt” - Milosz, Szymborska, ZH - vậy mà không được
Nobel. Cái gì làm ông “quá cả Nobel”?
Trong khi chờ đợi, đi bài của AZ.
Và, với Late Essays, thay vì ZH, thì
là Beckett, qua bài viết về tác phẩm Watt,
của ông.
Watt được viết đúng lúc
Nazi xâm lăng Pháp, và Beckett, thay vì
làm quan sát viên, thì gia nhập kháng
chiến Pháp.
Có thể nói, tác phẩm của Beckett được
viết dưới cái bóng của Lò Thiêu, đúng
như cái tay viết tiểu sử của ông, James Knolson, nhận
ra.
Beckett
Văn Học NMG, số 125, Tháng
Chín, 1996
16.
Samuel Beckett,
Watt
In June 1940 Paris was occupied by German forces. Although
he was a citizen of a neutral country, Beckett offered his services
to the French Resistance. In 1942, fearing imminent arrest by the Gestapo,
he and his wife fled Paris and found refuge on a farm near Roussillon
in Provence.
Although Beckett had already been at work
on Watt when they left Paris,
the bulk of the book was written in Roussillon. In 1945, after the
war had ended, he submitted it to a series of British publishers, without
success (one described it as too 'wild and unintelligible' to publish).
Gradually, as he threw himself into new projects, he lost interest in
the fate of Watt. In a letter to a friend he dismissed
it as 'an unsatisfactory book, written in dribs and drabs, first on the
run, then of an evening after the clodhopping [i.e., farm labor], during
the occupation'.(1)
In part because the British public had shown
so little interest in his work, in part because he had come to feel
that what he called 'official' English was frustrating his ambition to
write 'a literature of the non-word', but mainly because he had decided
that his future lay in France, Beckett began to compose in French. 'I do
not think I shall write very much in English in the future,' he confided
to the same friend. (2)
Watt was eventually published, in
1953, by an English-language literary review based in Paris, in association
with a French publisher of erotic literature (Olympia Press, later to publish
Vladimir Nabokov's Lolita). Its distribution
in Ireland was banned by the authorities.
After he had become famous, and the Anglophone
world had woken up to his existence, Beckett routinely prepared English
translations of his works. Watt was an exception: he did not
want the book to be translated at all. Under pressure from his publishers,
he at last agreed to permit a French edition. However, the job was (in
his eyes) so poorly done that he revised the translation himself, making
a number of changes to the text in the process. There is thus some question
whether the English or the French version should be regarded as definitive.
The ambivalence of Beckett's feelings, about
the book can to an extent be attributed to the circumstances of its
composition, in the remote countryside, in enforced and wearisome isolation.
It is hard to believe at any other time in his life Beckett would have
had the energy or the interest to list laboriously the eighty different
ways in which four items of furniture can be arranged in a room over the
course of twenty days, or to describe the twenty individual glances that
have to be passed before the five members of a committee can be sure that
each has glanced at each of the others. Beckett was right to claim that
there is a certain madness in the Cartesian project of methodizing the operations
of the human intellect; but there was also a certain madness in the form
that his satire of methodized reason took.
Watt, the eponymous hero, is - at first sight - a clownish
man with a strange method of walking, which he seems to have learned
out of a book, and not even the most rudimentary social graces. We observe
him catch a train from the city of Dublin to the suburb of Foxrock, where
he makes his way to the home of one Mr Knott, for whom he has been engaged
as a manservant. In a lengthy monologue, Arsene, the servant whom he will
be replacing, explains the workings of the Knott household: there are
always two servants on the premises, he says, of whom only the senior
or greater has direct access to the master.
Watt spends a period (a year?) as the lesser
servant, then a period as the greater servant, then in turn departs.
After an unspecified interval we come upon him again in an asylum for
the insane, where he is befriended by a patient named Sam. To Sam he relates
in garbled form the story of his time in the Knott household. This Sam in
turn relates to us, in the form of a book titled Watt.
Watt's years with Mr. Knott (as related
by Sam) may have been uneventful, yet the experience must have been
disturbing enough (we infer) to render him insane. He has lost his mind
because, despite his most strenuous efforts, he failed to understand
Mr. Knott (and his household) - more specifically, failed to know Mr. Knott
in his fullness. Everything that Mr. Knott did, everything that happened
in his household, he subjected to exhaustive rational analysis, yet in
every instance the analysis failed to reveal with certainty the truth of
Mr. Knott. At the end of Watt's stay Mr. Knott was as much of a mystery
as he was on the day when Watt arrived.
To the reader, viewing Mr. Knott and his
household from the outside, there is nothing mysterious going on, nothing
worthy of prolonged investigation. Mr. Knott is simply an eccentric old
man who lives in a big house in Foxrock which he never leaves. But -
though the final words of the book, 'no symbols where none intended', constitute
an authorial warning against over-interpretation - the book has no raison
d'être if we do not (provisionally) accede to Watt's inarticulate
and unexpressed vision of the household: that Mr. Knott is in some sense
the Deity and that he, Watt, has been summoned to serve Him. (3) In this
interpretation, Watt's failure to know God results from a failure of
the intellect, a failure of human reason, a failure of the method (learned,
like walking, out of a book) that he employs in order to arrive at knowledge
of the divine.
The method in question derives from Rene
Descartes. It was set down by Descartes in 1637 in his Discourse
on the Method of Rightly Conducting the Reason, since when it has
been the orthodoxy of the scientific enterprise:
1. To accept nothing as true which I do not
clearly recognize to be so; that is to say, to accept nothing unless
presented to my mind so clearly and distinctly that I can have no occasion
to doubt it.
2. To divide up each of the difficulties
which I examine into as many parts as possible.
3. To carry on my reflections in due order,
commencing with objects that are the most simple and easy to understand,
in order to rise little by little ... to knowledge of the most complex.
4. In all cases to make enumerations so complete
and reviews so general that I shall be certain of having omitted nothing."
This is the method that Watt applies to all phenomena that
present themselves to his senses, from the visit of the piano tuners
to the activities of Mr. Knott himself. The sober, unquestioning application
of the Cartesian method, the method of science, to events in the Knott
household results in the intellectual comedy that makes up the bulk
of Watt.
Watt is a philosophical satire in
the tradition of Francois Rabelais and (closer to home) of Jonathan
Swift and Laurence Sterne.
But the impulse behind it is not merely sceptical (sceptical
of the arch-advocate of the cultivation of scepticism as a habit of
mind, Descartes). If we decode the cryptic, back-to-front utter-
ances of Watt in the asylum, we arrive at a clue as to what
that impulse is:
Of nought. To the source. To the teacher. To the temple. To
him I brought. This emptied heart. These emptied hands. This mind ignoring.
This body homeless. To love him my little reviled. My little rejected
to have him. My little to learn him forgot. Abandoned my little to find
him. (p. 166)
[Reviled my little to love him; rejected my little to have
him; forgot my little to learn him; abandoned my little to find him.
To him I brought this emptied heart, these emptied hands, this ignoring
mind, this homeless body: to the temple, to the teacher, to the source
of nought.]
Watt seeks to know God or 'God', for whom Knott/Not stands
as a token. He undertakes his quest in a spirit of humility, without
preconceptions; but Knott proves to be unknowable - unknowable
not only to the rational intellect but ultimately unknowable
too. As St Augustine could have told Watt, we can never know what God
is, we can only know what He is not. Indeed, on the very first day of
his service Arsene had given him a warning to the same effect: 'What
we [servants] know partakes in no small measure of the nature of what
has so happily been called the unutterable or ineffable, so that any attempt
to utter or eff it is doomed to fail, doomed, doomed to fail'. (p. 62)
Arsene is here evoking a passage from Geulincx's
Ethics that Beckett had thought important enough
to copy into one of his notebooks: 'Ineffabile ... id est dicitur, non
quod cogitare aut effari non possumus (noc enim nihil esset: num
nihil et non cogitabile idem sunt)' ['Ineffable
... is that which we cannot understand and grasp (which is nothing: in
fact, nothing and not thinkable are the
same thing) ']. (5)
It is this deeper layer beneath the surface
comedy of Watt's behavior, his dogged metaphysical quest to know the
unknowable, think the unthinkable, express the inexpressible, in the
face of failure after failure, that lends him his pathos, makes him more
than just a clown of the intellect.
As a piece of writing, Watt is uneven
in quality. In his early stories, collected in More Pricks Than Kicks,
Beckett had a tendency to show off his learning in a rather juvenile
way, to mix high and low verbal registers and indulge in facile wordplay.
The opening pages of Watt exhibit some of the same features. It
is only when Watt reaches Knott's residence that Beckett begins to achieve
the kind of sustained prose he has been searching for, the blend of lyricism
and parody unique to Watt. Some of the episodes
that make up a fundamentally episodic book maintain the quality of a high
comic aria from beginning to end (one thinks here not only of Arsene's monologue
but of the visit of the Galls, father and son; of Mr Knott's eating arrangements;
of the famished dog required to consume the leftovers of his meal, and
the Lynch family whose duty it is to maintain the dog). Other episodes
lack inspiration: the visits of Mrs Gorman the fish-woman, for instance.
The pages-long listings of permutations and combinations of objects are
tedious but their tedium is part of the conception of the book, a fable
cum treatise that for long stretches manages to be hypnotically fascinating.
Coetzee: Late Essays
Tham vọng của Beckett, là viết 1 thứ “văn chương không
có từ” - theo kiểu Vô Tự Kinh, hẳn thế - và theo
ông, tiếng Anh không làm được điều này, mà
phải là tiếng Tẩy: In part because the British public had shown
so little interest in his work, in part because he had come to feel that
what he called 'official' English was frustrating his ambition to write
'a literature of the non-word', but mainly because he had decided that
his future lay in France, Beckett began to compose in French. 'I do not
think I shall write very much in English in the future,' he confided to
the same friend.
Coetzee là 1 trong những người dẫn dắt Gấu vô văn
học thế giới. Gấu biết rất nhiều nhà văn mũi lõ, là
qua ông. Lần đọc bài ông viết về Brodsky, bèn
chôm liền, đưa vô bài viết về Võ Phiến, nhà
văn Bình Định, 1 phần là để phạng thứ văn chương chỉ khoái
làm nạn nhân, nào nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang, nào
thân phận da vàng, nhược tiểu, nào cố vực tên
lính Ngụy giữa những vòng kẽm gai của lịch sử... "vs"
thứ văn học kẻ thù nào cũng đánh thắng, “đường ra
trận mùa này đẹp nắm” của đám Bắc Kít: Thi sĩ
không bao giờ là nạn nhân (J. Brodsky).
Võ
Phiến rời Việt Nam ngay 1975, ông không có "cơ hội"
ở lại chịu chung với cả miền Nam những cay đắng khổ nhục sau đó.
Ở lại là chết, nhưng do bỏ đi "sớm", ông không cảm nhận
được nỗi vinh quang và nhục nhằn của kẻ ở lại: một cách
nào đó, ông không cảm nhận sự thực, về "thất
bại trong chiến thắng", đối với những người Cộng Sản, và do đó
ông không "trực giác" cơ hội thống nhất đất nước, không
phải theo kiểu chiếm đoạt Miền Nam: chỉ ở trong nhục nhã cay đắng
của Miền Nam thất trận, chúng ta mới có thể hiểu những năm
tháng ghê rợn cả một miền đất sống dưới tai trời ách
nước là chủ nghĩa Cộng Sản; và ôm lấy những đồng bào
ruột thịt Miền Bắc (6).
Đây là một tất yếu lịch sử. Những chuyện Bắc Tiến,
giải phóng Miền Bắc, những ngày 1954 chỉ để nói
cho vui, để lên tinh thần... tại sao vậy? Bởi vì nếu coi
ngôn ngữ mới là căn phần của con người, văn chương Miền Nam
không hề mang chất đế quốc, không hề nhắm tới quyền lực. Từ
một văn chương như thế làm sao có thể đi xâm chiếm
Miền Bắc, cho dù là để giải phóng?
Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến, đoạn nói về nhà
văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới những bút
hiệu khác nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là
quá tếu và không hiểu cả hai miền, còn hạ giá
(hay quá đề cao?)nhà văn Miền Nam. Bởi vì, văn chương
Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh
thần chiếm đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng
khai hoá, vẫn tự coi như là quyền năng chính thống,
theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và phải trả
bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm
vụ khai hoá! Một cách nào đó, nếu chúng
ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng
Pháp, và chủ nghĩa Cộng Sản, cùng lúc chúng
ta nhận ra tính thực dân của văn học hiện thực xã hội
chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn
theo cách thế đó, chúng ta còn nhận ra tính
giai đoạn của dòng văn chương phản kháng ở trong nước. Nó
phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời nói
lành lặn của nó...
"Tại sao ta không thể yêu, những gì chúng
yêu, nếu chúng chiếm được cuộc đời, ta đành chọn
hư vô", mê cung dành cho nhân vật trong Cát
Lầy của Thanh Tâm Tuyền là vậy. Đừng nhìn thơ tự
do, dòng văn chương Sáng Tạo, Văn Chương Kinh Nghiệm Hư
Vô (Huỳnh Phan Anh), như là một "cái đuôi"
của dòng văn chương hiện sinh Pháp. Chúng là
những con chim báo bão, cho một hư vô huỷ diệt, của
những trại tù sắp tới... Khi bị những nhà phê bình
Miền Bắc "tra hỏi" (Trong khi họ xây dựng miền bắc xã hội
chủ nghĩa, những nhân vật tôi mọi nô lệ này đi
đâu?) tác giả Bếp Lửa đã "nhẹ nhàng" yêu
cầu, hãy đặt những câu hỏi đó ra cho chính
các ông. Nên nhớ, những nhà văn Miền Nam, những
tác phẩm "chống Cộng" của họ chỉ có, khi "bị đòn":
Giải khăn sô cho Huế, Địa Ngục Có Thực, Mùa Hè
Đỏ Lửa, Vòng Đai Xanh... Ngay cả Võ Phiến cũng vậy; sợ Cộng
Sản, sợ mất Miền Nam quá ông mới la làng, còn
nhẩn nha được là ông lại nghiên cứu chiều sâu
con người, dò tìm cội rễ của một bài chòi!
Chúng ta đã lầm một cách thê thảm,
Mac Namara nói vậy, không đúng mà cũng không
sai: người lính Việt Nam Cộng Hòa không thua trên
chiến trường, mà thua vì tính người: họ chưa bao
giờ coi người lính Miền Bắc là kẻ thù tuyệt đối.Họ
không hề được trang bị bằng một thứ văn chương quyền lực.
Nhìn theo cách đó, chúng ta mới thấm
được những dòng thơ "thiền", giọng điệu cảm khái, tráng
sĩ "biên đình" của những Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy
Yên... hay những lời ca "đồn anh đóng bên rừng mai,
nếu mai nở làm sao biết mùa xuân đã về". Đánh
giặc, súng nổ ầm ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng
phút, bất cứ lúc nào, nhưng cứ hở ra được một chút
là lại "thiền"! Vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hòa
là đúng, chẳng có gì chuế cả, nhưng cố vực
họ dậy, giữa vòng dây oan nghiệt của lịch sử là bi
thảm hoá một huyền thoại, là tự hài lòng
với nỗi bi thảm: nạn nhân của phi nhân. Thua trận, nhục nhã
thật, nhưng thà rằng thua, mà vẫn giữ được "con người"!
Làm người lính thiền, chắc chắn là hơn làm
đao phủ thiền! Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân (J.
Brodsky). Mỗi người lính, như Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy
Yên, Khoa Hữu, Cao Thoại Châu, Luân Hoán... là
một nhà thơ, người lính bảo vệ ngôn ngữ, và
trong khi bảo vệ ngôn ngữ, chống lại những điều dối trá, phi
nhân, họ bảo vệ con người. Nhà văn một kẻ sống sót,
là vậy.
Note: Bài viết này, được viết, khi Gấu vưỡn còn
tí hy vọng vào lũ viết văn Bắc Kít, thí dụ
như Sến Cô Nương, và 1 số diễn đàn của chúng
ở hải ngoại.
Sau, thì thua!
Viết thì dở, mà 1 phần là do ít chịu
đọc, không nhập vô được dòng văn chương thế giới thứ
văn chương viết bằng tiếng Anh, của đám di dân.
Thứ nữa, rất quan trọng, là phần đạo hạnh quá tệ,
không có nổi 1 tên nhận ra cái tội lỗi của
chúng, như 1 Sebald của Đức.
Đấng này, đâu có mắc mớ gì đến tội
ác Nazi, vậy mà không làm sao sống nổi ở
Đức. Viết, thì viết 1 thứ tiếng Đức không thuộc dòng
chủ lưu, độc giả Đức cũng không đọc được, đúng cái
ý của Steiner, khi kết án ngôn ngữ Đức, trong bài
“Phép Lạ Hổng”.
For let us keep one fact clearly in mind: the German language
was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không
thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của
chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
Nếu như thế, thì, nói huỵch toẹt ra ở đây,
tiếng Bắc Kít, văn Bắc Kít, không thể “ngây
thơ, vô tội” trước tội ác Mậu Thân, Lò Cải Tạo…
Phép Lạ Hổng
Lần hải ngoại phát sốt lên, vì
Chuyện Kể Năm Hai Ngàn, được bộ lạc Cờ Lăng ngửi thấy mùi
tiền, bèn vồ liền, như sau này, với Đêm Giữa Ban Ngày,
với Đèn Cù, hay Bên Thắng Nhục, lũ này thính
mũi lắm, Gấu đã ngạc nhiên rồi, tại làm sao mà
chế độ độc ác như thế, lại đẻ ra được 1 tuyệt tác như thế,
đâu là cái đẹp, đâu là con thú?
Bèn đi 1 đường “phản biện”!
Đấng BNT, sau đó, giải thích về cái chuyện ông
được nhà nước cho đi tù, như là 1 chiến dịch pha lê
hóa xã hội Miền Bắc, những phần tử có vấn đề, như
ông, như đám bồi Tây, Việt Gian, hay Việt Nam QDD là
phải thịt hết, hoặc cho đi tù, nếu không làm sao có
chiến thắng đỉnh cao 30 Tháng Tư!
Cái Đẹp và Con Thú
For let us keep one
fact clearly in mind: the German language was not innocent of the horrors
of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều:
ngôn ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những
điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép Lạ
Hổng (The Hollow Miracle)
Khi viết Cái Đẹp và Con
Thú ở Miến Điện (tạp chí Điểm Sách New York, NYRB,
số ra ngày 25 tháng Năm, 2000), Timothy Garton Ash cho biết,
ông không thể viết tên những người mà ông
đã gặp, bởi làm như vậy là đưa họ vào tù.
Và bởi vì những nhà lãnh đạo đất nước này
có những cái tên như trong tiểu thuyết của Orwell: Bí
thư thứ Nhất, Bí thư thứ Nhì, thứ Ba… cho nên ông
đặt cho những nạn nhân, và những người ông đã từng
gặp gỡ bằng những "bí danh": U-1, U-2, Daw-1, Daw-2…
"U" và "Daw", tiếng Miến Điện,
tương tự như Ông (Mr.) và Bà (Mrs.).
Cẩn thận như vậy chưa
đủ: khi viết về họ, ông bỏ mọi chi tiết.
Bởi vì "nó
sẽ nói"
*
Nó sẽ nói.
Đoạn người tù
được tha trong Chuyện Kể Năm 2000, (trang 82, ấn bản của nhà xuất
bản Thời Mới, Canada):
"hắn ngồi nép vào một góc quán, tay ôm
cái bọc, nhìn trời, nhìn nắng và sốt ruột.
Mặt trời đã chếch chếch trên đầu cây đa Tân Trào
xa xa rồi."
Thì ra, khởi đầu là
Tân Trào, kết thúc cũng là Tân Trào.
Ash kể, tại những vùng quê
Miến Điện, người dân hỏi nhau, thế nào, bữa nay "ngón
tay" hay là "cái muỗng". "Ngón tay" có nghĩa
là bạn còn có cơm để mà dùng tay bốc,
"cái muỗng" là cháo loãng.
Bùi Ngọc Tấn thuộc dòng
Nguyên Hồng. Ông đã từng viết về nhà văn tiền
bối này. Một cách nào đó, CKN 2000 tiếp nối
Bỉ Vỏ, một khi ngôn ngữ, và cùng với nó, đời sống,
con người, xã hội… đã mất đi sự trong sáng, giản dị,
qua cách dùng thông thường, chính xác,
và đành dựa vào tiếng lóng để nói lên
sự thực. Cây đa Tân Trào là một tiếng lóng,
để chỉ một khởi đầu và một tận cùng: Cây đa Tân
Trào, đồng chí Giáp ra quân (Trần Dần).
*
"Tôi là một người ăn chay," U. 5 nói.
"Tôi ăn chay sau khi đi tù về. Ông biết không
– Tôi ân hận phải nói với ông về chuyện này
– Chúng tôi đã ăn chuột."
-Nhưng làm sao
nấu?
-Chúng tôi
chỉ phơi nắng cho khô, rồi cứ thế ăn sống.
Ash sững sờ chiêm
ngưỡng xứ sở thấm nhuần Phật giáo này. Ông thú
nhận, chưa từng thấy một xứ sở đẹp như thế, và một chế độ xấu xa
như vậy.
Theo ông, liên
hệ giữa cái đẹp và con thú không đơn giản. Thật
quá dễ dàng khi cho rằng, mặc dù thể chế chính
trị, xứ sở này vẫn đẹp. Bởi vì đây là cái
đẹp của một thế giới già nua, như là hậu quả của cách
biệt, của suy thoái kinh tế (Miến Điện trước đây được coi
là thúng gạo của Ấn Độ; bây giờ, chén thuốc phiện
của thế giới). Của thể chế chính trị tồi tệ. Đây là
một "diễm xưa" (the beauty of backwardness). Vẫn một diễm xưa xót
xa như vậy, khi bạn du lịch vùng Đông Âu, trước đây
sống dưới chế độ Cộng Sản. Ông gọi nó là nghịch lý
về bảo thủ cách mạng (the paradox of revolutionary conservation).
Tuy nhiên, hậu
quả trên là một ấn bản hư ruỗng, của cái cũ, thời còn
thực dân. (Chúng ta hiểu tại sao một vài nhà
cách mạng cựu trào Việt Nam năn nỉ Đảng cho được tự do ra
báo tư như hồi còn mồ ma thực dân Pháp). Miến
Điện vẫn đẹp một cách lười biếng, uể oải như trong tác phẩm
của Rudyard Kipling. Nhưng thê thảm hơn, còn một thực tại tồi
tệ, do nghèo đói, suy dinh dưỡng, hữu sinh vô dưỡng,
cộng thêm trận dịch cuối thiên niên kỷ: AIDS và
ma túy.
Vượt lên trên
tất cả là Cái Đẹp viết hoa: Aung San Suu Kyi.
"Daw Suu", với những
người bạn thân. "Phu nhân" (The Lady), với người dân
Miến Điện.
*
Tương phản với tiếng lóng (bẩm: tố giác bạn tù;
yểm: giấu; khợp: ăn; nhà mét: nhà xí…) trong
cõi âm u trại tù, là cái đẹp của vùng
núi đồi thượng du Bắc Việt: "Năm đó cũng mưa dầm ghê
gớm. Mưa bụi, thứ mưa mịn màng trắng rừng, trắng núi, mịt
mờ nổi trôi, bồng bềnh tiền sử… thứ mưa trắng những đồi trẩu trên
đường bọn hắn đi từ trại đến chỗ làm và ngược lại." (Nguyên
Hồng, tác giả Bỉ Vỏ cũng đã từng dời đổi đời mình lên
vùng Yên Thế, để viết về Đề Thám). Ngôn ngữ trong
CKN 2000 là một ngôn ngữ trong sáng, cho dù
đầy tiếng lóng, cho dù là để viết về những hoàn
cảnh bi thương trong trại tù, cũng như khi được trở về đời. Chính
đây là điểm khác biệt của tác phẩm, gây
thắc mắc cho người đọc.
Nhiều người ngạc nhiên,
tại sao trong nước cho xuất bản CKN 2000, cho dù sau đó ra
lệnh đàn áp huỷ diệt. Có người coi đây là
dấu hiệu đáng mừng, chế độ đã có thay đổi, ít
ra như ở nhà xuất bản Thanh Niên, thuộc Thành Đoàn.
Theo tôi, chính
hành động cấm đoán sau đó mới đáng ngạc nhiên.
So với tác phẩm
của một số nhà văn đã từng tin tưởng vào chế độ, và
bây giờ không thể ca ngợi nó, dù hết sức muốn ca
ngợi; và đành "kể tỉnh bơ" những sự kiện xẩy ra trong xã
hội, thí dụ như một Nguyễn Khải, với nhân vật tên Hiền,
chỉ cần biết một Hà Nội nhầy nhụa, đen đúa; hay những "tác
phẩm" thuộc loại "vụ án" đầy rẫy trên những tờ báo công
an thành phố hay tỉnh huyện… CKN 2000 viết về một nhà văn tuy
đi tù nhưng vẫn đầy ắp niềm tin vào Đảng, vào lý
tưởng Cộng sản. Tác giả viết tác phẩm dòng dã
trong nhiều năm, như ở trang cuối cho thấy: bắt đầu viết tháng Sáu-1990,
xong tối thứ bảy 30-11-1991, xem lại lần cuối 8-1998. Từ "xong" tới "xem
lại lần cuối" là 7 năm. Ông bị bắt đi tù năm 1967, ở
tù 5 năm. Chúng ta tự hỏi, có bao nhiêu bản nháp,
sau khi được tác giả viết đi viết lại, sau khi bị công an tịch
thu nhiều lần. Nó xuất hiện sau những tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương. Với một ngôn ngữ khác
hẳn. Nếu tác phẩm CKN 2000 xuất hiện ngay sau thời gian ra tù
một ít lâu, liệu nó có thứ ngôn ngữ "tươi
sáng" đó không? Những nhân vật "chính diện"
của Bùi Ngọc Tấn đều quá đẹp, quá lý tưởng, khiến
chúng ta không thể hiểu nổi: tại sao lại có những con
người đẹp dến như thế, trong một xã hội hư ruỗng đến mức như vậy?
Phải chăng đây là "thủ pháp" của Bùi Ngọc Tấn,
để cho tác phẩm được xuất bản? Hay "nói theo" Ash: không
giản dị như vậy khi cho rằng, mặc dù chế độ toàn trị, (văn
chương) xứ sở này vẫn đẹp? Nghịch lý về bảo thủ cách
mạng?
Nếu phải so sánh
với Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên: Cái đẹp
trong Đêm Giữa Ban Ngày là một cái đẹp giả, hay
cái đẹp không tưởng của văn chương. "Đi tù với một
bông hồng" là tên một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa,
về một hình ảnh trong tác phẩm của Vũ Thư Hiên; theo
tác giả cuốn sách, đây là một kỷ niệm có
thực, một bông hồng có thực nhưng qua đó, người ta có
thể nhận ra "chân diện" của Vũ Thư Hiên: ông mê một
cái đẹp không dính gì đến cõi đời ô
trọc. Nên nhớ, bông hồng ở đây còn làm người
đọc liên tưởng tới tác phẩm Bông Hồng Vàng của
nhà văn Nga Konstantin Paustovsky, mà Vũ Thư Hiên đã
từng dịch. Ai đã từng đọc nhà văn Nga này, chắc đều
nhận ra, thế giới văn chương của ông là một thế giới ảo, với
cái đẹp lãng mạn, lý tưởng. Nhân vật chính
trong Đêm Giữa Ban Ngày khi vào tù, lúc
nào cũng khư khư ôm lấy bông hồng, lúc nào
cũng cảnh giác, sợ ăng ten, sợ dính dơ, từ những người tù,
từ đám cán bộ. Đâu có giống với những nhân
vật chỉ thấy thoải mái khi ở tù cùng với những bạn bè
như một Già Đô, thân nhân là một người vợ
ngoại quốc ở Pháp; như một Lê Bá Di, hoàn toàn
sống bằng trại tù, không hề có thân nhân
thăm nuôi… Nếu có một nét đẹp chung ở cả hai cuốn, đó
vẫn là cái đẹp văn chương. Ở đây chúng ta mới
thấy nỗi đau của nhà thơ Đức, Holderlin: "Tại sao thi sĩ, trong một
thời đại khốn khổ như thế này? (Pourquoi des poètes en temps
de détresse?)" Nỗi đau của thi sĩ dẫn tới khẳng định của triết gia:
Không có thơ sau Auschwitz (Adorno). Nói rõ hơn:
Sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là
dã man!
[Heidegger, trong bài
viết "Tại sao thi sĩ" (trong Holzwege, Những Con Đường Chẳng Đưa Tới Đâu),
cho rằng thời đại (temps) ở đây, là thời đại có chúng
ta ở trong đó. Sự xuất hiện, rồi hy sinh của Đấng Ky Tô (Christ)
có nghĩa, với nhà thơ Holderlin: chấm dứt ngày của những
vị thần – la fin du jour des dieux. Từ đó, thời đại được xác
định bằng sự bỏ đi của thần thánh, khiếm thần (défaut de dieu).
Thời đại đêm tối, thời đại khốn khổ khốn nạn. Nhà thơ viết
thêm: "Nhưng ở đâu có hiểm nguy, ở đó có
cứu rỗi. (Mais où est le péril, là/Croit aussi ce qui
sauve).]
Đây là
một tác phẩm văn chương trác tuyệt, như nhận xét của
một tác giả. Lạ nhất, khó hiểu nhất, chính là
từ "trác tuyệt". Với Đêm Giữa Ban Ngày, người đọc hải
ngoại tá hoả vì những phát giác ghê tởm,
về một ông Hồ và bà vợ của ông, về một Trần
Quốc Hoàn… nên quên đi vẻ đẹp của một bông hồng
khư khư cầm trong tay… Người đọc khóc cho những thân phận
tù đầy, ra khỏi tù chỉ mong được trở lại, nên quên
đi những dòng thơ cách mạng trác tuyệt ở trong CKN
2000. Nghịch lý là ở chỗ đó: đâu là cái
đẹp, đâu là con vật? Người đọc có thể chịu đựng được
những chi tiết độc, ác, những sự kiện tàn nhẫn trong văn Nguyễn
Huy Thiệp; người đọc có thể thông cảm với giọng đanh đá,
thái độ "dù có rũ bụi tôi cũng không dám
làm quen", và khẳng định, "thế hệ tôi quả không
uống giọt sữa nào, bút không chấm giọt mực nào
của tiền chiến" của Phạm Thị Hoài. Người đọc trân trọng một
giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một vầng
trăng goá, như trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà;
nhưng giọng văn đầy ắp yêu thương, quá khỏe mạnh, đầy niềm tin
vào con người, ở CKN 2000, làm người đọc khựng lại: liệu vẫn
có thơ, sau (trại tù) Tân Trào? Liệu vẫn có
thơ sau những vần thơ, mà "cũng như hắn, Phương thích mấy câu
thơ của Maia:
Tôi sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng
Là toàn tập thơ bônsêvích
tôi làm"?
(CKN 2000, trang 106)
Mayakovsky , nhà
thơ, nhà tiên phong, người cổ võ lớn lao nhất cho chế
độ mới tại Nga, đã tự sát bằng súng vào năm
1930. Lẽ dĩ nhiên, những ông thần Đỏ đã làm ông
thất vọng, nhưng "có thể", ông nhận ra, cái phần trách
nhiệm của ông, từ những vần thơ "hắn và Phương thích"
ở trên. Như Kundera chỉ ra, cách mạng Nga cần cả hai: nhà
thơ Maia và trùm mật vụ Dzherzhinsky (xin xem bài
"Mùa Thu, những di dân", đã đăng trên VHNT).
Theo ông, đây là thời đại mà nhà thơ ngự
trị cùng với đao phủ. Kundera nhớ lại những năm tháng sống
dưới ánh sáng cách mạng tại xứ sở quê hương (Tiệp
khắc, 1948), ông đã nhận ra sự mù lòa trữ tình
và vai trò cao cả của nó (the eminent role played by
lyrical blindness). Những "giơ cao thẻ Đảng-bài thơ," "mặt trời chân
lý chiếu qua tim"… là không thể thiếu trong thế giới
toàn trị. "Tự thân, thế giới đó không là
ngục tù, gulag. Nó là nhà tù khi trên
tường nhà giam dán đầy thơ, và mọi người nhẩy múa
trước những bài thơ đó" (Kundera, Những Di Chúc Bị
Phản Bội) . Cây đa Tân Trào (biểu tượng cách mạng
Mùa Thu) biến thành trại tù là vậy. Những cô
trung sĩ béo, quân phục chật căng sẽ đọc gì cho bớt
béo, cho bớt buồn những khi nhớ nhà, những khi rảnh rang
không phải chăm sóc tù; nhà quản giáo
ham học Thanh Vân sẽ đọc gì, nếu thiếu những vần thơ Maia,
những dòng văn đẹp như mơ của "hắn":
"Những giờ phút
trí tuệ thăng hoa. Những đêm khuya, như một con ngựa kéo
cày, đánh vật với ngôn ngữ. Và những chuyến
ra khơi mê hoặc. Sóng cứ to lên mãi. Nước cứ xanh
lên mãi. Biển đó. Lòa nắng…. Hắn lắp bắp như
người nghẹn thở:
-Quyển sách
của tôi.
Cô trung sĩ nhìn
giấy tờ của hắn. Rồi lại nhìn tên hắn in trên bìa
sách."
(CKN 2000, trang 80).
"Vâng, vẫn có
thơ sau (lò thiêu) Auschwitz. Thí dụ như thơ của Paul
Celan. "Nhưng sau cùng, tổn thất mới ghê gớm làm sao.
Celan tự tử. Primo Levi tự tử… mãi sau đó. Như thể, đã
xong nhiệm vụ làm nhân chứng, đâu còn ý
nghĩa gì cho đời mình." (Phỏng vấn Steiner, đã đăng
trên VHNT). Nhà thơ Đức gốc Do Thái, Paul Celan, tác
giả Bông Hồng Của Không Ai , sau cùng trầm mình
dưới sông Seine. Trên bàn viết của ông, là
tiểu sử Holderlin, mà nhà thơ gạch dưới một câu: "Đôi
khi thiên tài này bỗng trở nên âm u, và
chìm vào cái giếng chua cay, là trái
tim của mình." (xin xem bài viết về Celan, đã đăng
trên VHNT).
Cai tù khư khư
ôm một cuốn sách giáo khoa, đọc những tác phẩm
văn học. Khi không cho người tù gặp thân nhân, cũng
là nhân danh cách mạng, vì lý tưởng "thép
đã tôi thế đấy". Chi tiết người tù trước ngày
được tha, thấy tác phẩm của mình đang được mấy anh chị, ông
quản giáo nâng niu, như trích dẫn ở trên, "trác
tuyệt" hết chỗ nói! Thái độ của nhà văn-người tù
cũng "chắc nịch": "Đối thoại làm sao được với ông Thanh Vân.
Mỗi người một mặt bằng khác nhau. Làm sao có thể hiểu
tiếng nói của nhau… Hẳn ông xuất thân từ một gia đình
cốt cán ở nông thôn, được số phận nuông chiều, khi
bé đi chăn trâu cắt cỏ. Lớn lên đi học, rồi đi công
tác thoát ly, vào đây làm quản giáo."
Nhưng cũng chính ông Thanh Vân là người đã
chọn tác phẩm của "hắn" cho các cô trung sĩ trong văn
phòng quản trại (… cô quá béo. Hàng cúc
áo quân phục chật căng, tóc xõa xuống vai mềm
mại. Hắn cảm thấy cô xinh đẹp, uyển chuyển nữa. Hãy thông
cảm với hắn. Hắn là người có thẩm mỹ…. Cô trung sĩ béo
tin tưởng:
-Truyện Thanh Vân
chọn thì nhất rồi.")
(CKN 2000, trang 78,
79, 81).
Điều gì phân
biệt giữa nhà văn-người tù (có thể cũng cùng
thành phần cốt cán – tác giả Bùi Ngọc Tấn đã
thoát ly rất sớm, và là một trong những người trở về
từ chiến khu, tiếp thu Hà Nội), với một người như ông Thanh
Vân? Điều gì làm cho ông Thanh Vân "chắc
nịch" khi tuyên bố: Anh lại Nhân Văn Giai Phẩm chứ gì?
Phải chăng chính nhờ "văn chương" mà một người như "hắn" được
cứu vớt? Nhưng văn nào, thơ nào? Những vần thơ Maia, hay giọng
văn độc ác của Nguyễn Huy Thiệp, hay một "Thiên Đường Mù"
của Dương Thu Hương? Hay những dòng văn ướt đẫm thơ, như trên?
Văn nào, thơ
nào? Đây là một câu hỏi "sinh tử", sau lời cảnh
cáo của Adorno như trên. Hay của Walter Benjamin: mọi tài
liệu về văn minh là một tài liệu về dã man; ở nền
một tác phẩm lớn là một đống man rợ. Liệu có thơ sau
Tân Trào?
Trong bài phỏng
vấn, Thơ Giữa Chiến Tranh và Trại Tù (đã đăng trên
VHNT), nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cho rằng: "làm thơ trong
trại cải tạo, đó cũng là trở về với thơ ca bình dân.
Chế độ lao động trong trại, đó là một ngày căng thẳng
tám tiếng, không có ngày nghỉ cuối tuần; mỗi
tù nhân có riêng một vũ trụ: một chiếc chiếu;
chừng năm, sáu chục tù trên dưới hai lớp, gói gọn
trong tấm "toan" trên trăm tù. Viết là một xa xỉ: chỗ
ngồi, thời gian viết. Với nhịp tù hối hả như vậy, cái lạnh,
cái đói… ai dám nghĩ đến sáng tạo? Ngay cả thiên
tài, hay một sức mạnh siêu nhiên cũng không thể vượt
qua những "trói buộc" này."
"Tuy nhiên người
Việt nói, "làm thơ", không ai nói "viết thơ".
Như vậy, người ta có thể làm thơ bất cứ ở đâu ("Thơ
ở đâu xa" là tựa đề tập thơ của thi sĩ, sau khi ra tù),
trong bất cứ vị trí nào: đi, đứng, nằm, ngồi, thức. Thơ gặp
anh không cần hò hẹn, không định rõ ngày
giờ… Nó chỉ yêu cầu bạn: hãy giữ tiếng nói chơn
chất của mình. Tiếng nói này, sau đó, sẽ quyết
định cuộc đời của riêng nó".
Những kinh nghiệm làm
thơ trong trại tù của thi sĩ làm chúng ta hiểu được,
sự khác biệt giữa những dòng thơ của chính Thanh Tâm
Tuyền, trước và sau trại tù; giữa "đỉnh cao" của thơ tự do
"khi còn tự do", như trong "Liên Đêm Mặt Trời Tìm
Thấy", và của "thơ ở trong tù" như trong "Thơ Ở Đâu Xa"
: nhà thơ hết còn là một vị phù thuỷ của chữ
nghĩa, giản dị chỉ là một tiếng nói chơn chất:
"Trong tôi còn
lại chi? Gia đình, bạn bè. Những bài thơ, chắc chắn
rồi, đã được đọc, được ghi thầm. Đúng một lúc nào
đó, ký ức nhanh chóng bật dậy, đọc, cho mình
tôi, những bài thơ. Luôn luôn, ở đó, bạn
sẽ gặp những tia sáng lạ. Thời gian của điêu tàn làm
mạnh thơ ca… cõi thơ êm đềm ngự trị bên trên sự
bình thản của vũ trụ."
Có những tia
sáng lạ, nhưng làm sao có sự "chói lòa"!
Làm sao có "lắp bắp đến nghẹn thở"!
Sự tương phản càng
nổi bật, khi so sánh những dòng thơ của một "ngục sĩ" Nguyễn
Chí Thiện – mộc mạc, chơn chất - với những dòng thơ của một
sĩ quan cải tạo như Nguyễn Xuân Thiệp trong "Tôi Cùng
Gió Mùa". Như "hắn" và ông Thanh Vân, ‘mỗi
người một mặt bằng khác nhau’, số phận của Nguyễn Chí Thiện
nghiệt ngã hơn nhiều: ông từ chối những chói lòa
của thơ văn cách mạng, từ chối làm cai tù, chấp nhận
làm ngục sĩ liên miên. Ông đâu biết trút
nỗi đau của ông vào đâu, nên đành cứ nhè
ông Hồ mà "vạc", nhè chế độ mà "chửi", rồi quăng
vào tòa đại sứ, hy vọng những lời chửi của ông vọng
tới thế giới bên ngoài. "Tã trắng thắng cờ hồng", một
ẩn dụ thơ như thế là từ đời sống mà ra. Hy vọng "tã
trắng thắng cờ hồng" của ông, là trông vào một
Miền Nam ông chưa từng biết tới. Hãy nhớ lại nỗi đau của ông,
khi nghe tin Miền Nam thất trận.
Còn những dòng
thơ nhẹ nhàng, thanh thoát của Nguyễn Xuân Thiệp, là
do đằng sau ông có cả một đồng đội, cả một chân lý,
lẽ phải, chính nghĩa mà chỉ khi vào tù ông
mới có được. (Hãy nhớ lại giấc mơ của "nhân loại",
khi Cộng Sản Miền Bắc còn che giấu được mục đích chiếm đoạt
Miền Nam, bằng cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước,
thống nhất hai miền: Mơ sáng ngủ dậy, thấy biến thành người
Việt!)
Văn nào, thơ
nào? Ngay cả những dòng thơ của Paul Celan mà còn
bị lạm dụng. Nhưng đây không phải lỗi của ông, như nhà
thơ Auden đã từng nói: "Không một thi sĩ nào
có thể ngăn cấm, thơ của mình bị người đời sử dụng như là
một trò phù thuỷ." Bài thơ "Điệu Tango của Thần Chết"
của Celan, sau chiến tranh, đã đem đến cho người Đức một niềm khuây
khỏa lớn lao, kỳ diệu, chẳng thua gì câu chuyện "khôi
hài đen", một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng lúc
đó: "Người Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do
Thái về Auschwitz!". Chính vì thế, mà Adorno
cảnh cáo tiếp: Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được
đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ thành vần thành
điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia có thêm sự
huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability
– (Phỏng vấn G. Steiner). Đây cũng là lý do tại sao
những vần thơ mộc mạc của Nguyễn Chí Thiện vẫn chuyển tải được Cơn
Kinh Hoàng của thế kỷ: nó vẫn còn đúng với thực
tại Việt Nam:
Còn Đảng là
còn Khổ,
Hết Đảng là
có Phở!
Nguyễn Tiến Văn, trong
bài viết Kể Chuyện Cho Năm 2000 (đã đăng trên VHNT),
nhận xét về văn phong của Bùi Ngọc Tấn: "… cách hành
văn như thế là đã có đổi mới. Sự đổi mới này
chủ yếu nằm ở cấu trúc câu văn không phải thuần lý;
cũng không bị ép vào trong một khuôn ngữ pháp
để cho mỗi câu văn là một đơn vị hoàn chỉnh, phân
tích được theo một diễn tiến đường thẳng. Cấu trúc ở đây
là cấu trúc mạng: câu này và câu
kia hô ứng với nhau và cuốn cả người nghe vào đó".
Gilles Deleuze trích dẫn Marcel Proust: "Cách độc nhất để
chống đỡ cho ngôn ngữ, là tấn công nó… Mỗi nhà
văn bắt buộc phải cấu tạo ra ngôn ngữ của riêng mình"
("The only way to defend language is to attack it…. Every writer is obliged
to create his or her own language." Gilles Deleuze, Critique et Clinique,
bản dịch tiếng Anh của Daniel W. Smith và Michael A. Greco, nhà
xb Đại học Minnesota, 1997). Nguyễn Tiến Văn cho rằng Bùi Ngọc Tấn
đã trở lại với truyền thống kể chuyện trong văn học truyền miệng.
Bằng cách trở
lại với văn học truyền miệng, liệu có thể coi CKN 2000 là
một "tấn công ngôn ngữ", thứ ngôn ngữ "không ngây
thơ vô tội", trước trại tù Tân Trào? Liệu có
thể coi CKN 2000 là một "cứu rỗi" cho ngôn ngữ, tiếng Việt
của một miền đất, sau khi nó đã bị trầm luân vì
những lời dối trá, về một ngày mai ca hát?
Nguyễn
Quốc Trụ.
http://freds-ramblings.blogspot.ca/2011/12/jorge-luis-borges-possession-of.html
Possession
of Yesterday
I know the things I've lost are so many
that I could not begin to count them
and that those losses
now, are all I have.
I know that I've lost the yellow and the black
and I think
Of those unreachable colors
as those that are not blind can not.
My father is dead, and always stands beside
me.
When I try to scan Swinburne's verses, I am
told, I speak with my father's
voice.
Only those who have died are ours, only what
we have lost is ours.
Ilium vanished, yet Ilium lives in Homer's verses.
Israel was Israel when it became an ancient
nostalgia.
Every poem, in time, becomes an elegy.
The women who have left us are ours, free as
we now are from misgivings.
from anguish, from the disquiet and dread of
hope.
There are no paradises other than lost paradises.
-- Jorge Luis Borges --
(1899-1986)
Đi Học Hả, Hôm Qua Đi Rồi Mà!
Tớ biết những gì tớ mất
Nhiều rất ư là nhiều
Đế nỗi tớ không thể bắt đầu đếm chúng
Và những mất mát như thế đó
Là tất cả những gì bây giờ tớ có
Tớ biết, tớ mất màu đen và màu hồng,
trong BHD
Đó là những màu mà 1 tên
mù dở, già, sắp ngỏm
Không thể nào với tới được
Ông già của tớ bị chết vì họa đảng phái
những ngày đầu Kách Mạng Vẹm, 1945
Và bây giờ, ông đang đứng bên tớ
Khi tớ cố scan mấy bài thơ của ông anh nhà
thơ, họ - trong có ông con trai của ông bạn quí
của tớ, dù chỉ gặp một lần – là DC – nói, mi thuổng
thơ TTT!
Tất cả những người đã chết – ông anh nhà
thơ, bạn quí gặp độc nhất 1 lần, DC, bạn thơ Joseph Huỳnh Văn…
- đều là “của tớ” hết –
Chỉ những người đã chết là của chúng
ta, thằng nào còn sống, kệ cha chúng!
Ilium biến mất, nhưng Ilium sống ở trong những dòng
thơ của Homer
Xứ Ngụy của lũ Ngụy là Xứ Ngụy, khi nó trở
thành nỗi hoài hương cũ mèm, xa xưa, của đám
Nam Kít lưu vong
Mọi bài thơ, như trong Thơ Ở Đâu Xa, khi đã
đến thời, thì trở thành bia mộ của cả 1 thời, như vị
đối thủ của mi, là NL, phán!
Người tình bỏ ta đi, như dòng sông cái
con mẹ gì đó, như họ Trịnh hát,
Thì là của chúng ta,
Tự do như chim trời, như chúng ta,
Trong xao xuyến
Âu lo
Bất an
Và sợ, đến lún hết cả con chim vào trong
người,
Vì hy vọng
Không có thiên đàng, ngoài
thiên đàng đã mất.
Every poem, in time, becomes an elegy
Thơ của tôi
không dành cho bạn!
Xin trao thi sĩ vòng hoa tặng
: Auden, nhà thơ người Anh, khi được hỏi, hãy
chọn bông hoa đẹp nhất trong vòng hoa tặng, ông
cho biết, bông hoa đó đã tới với ông
một cách thật là khác thường. Bạn của ông,
Dorothy Day, bị bắt giam vì tham gia biểu tình.
Ở trong tù, mỗi tuần, chỉ một lần vào thứ bẩy, là
nữ tù nhân được phép lũ lượt xếp hàng
đi tắm. Và một lần, trong đám họ, một tiếng thơ cất lên,
thơ của ông, bằng một giọng dõng dạc như một tuyên
ngôn:
"Hàng trăm người sống không cần
tình yêu,
Nhưng chẳng có kẻ nào sống mà
không cần nước"
Khi nghe kể lại, ông hiểu rằng, đã
không vô ích, khi làm thơ.
Chúng ta đã thắng trước
cuộc đời. [TTT, trong bài tưởng niệm QT]
Cũng trong cuộc phỏng vấn,
khi được hỏi, ông làm thơ cho ai, Auden trả lời:
nếu có người hỏi tôi như vậy, tôi sẽ hỏi lại,
"Bạn có đọc thơ tôi?" Nếu nói có, tôi
sẽ hỏi tiếp, "Bạn thích thơ tôi không?" Nếu nói
không, tôi sẽ trả lời, "Thơ của tôi không
dành cho bạn."
Thơ của tôi không
dành cho bạn!
Tôi tản mạn về một nhà thơ nước
ngoài như trên, là để nói ra điều
này: thế hệ nhà thơ nào cũng muốn chứng tỏ
một điều: chúng tôi không vô ích,
khi làm thơ. Nếu mỗi thế hệ là một quốc gia non trẻ
, và, nếu thế hệ đàn anh của chúng tôi tượng
trưng cho nước Việt non trẻ - vừa mới giành được độc lập - là
bước ngay vào cuộc chiến, và, họ đã chứng tỏ được
điều trên: đã không vô ích khi làm
thơ; và đã thắng trước cuộc đời, cho nên đây
là một thách đố đối với những nhà thơ trẻ như
chúng tôi: đừng làm cho thơ trở thành vô
ích. Và nếu thơ của lớp đàn anh chúng tôi
đã làm xong phần đóng góp cho sự nghiệp chung
của dân tộc, thơ của thế hệ trẻ chúng tôi có
lẽ sẽ làm nốt phần còn lại: thơ sẽ nói lên
nghệ thuật của sự tưởng niệm, và mỗi bài thơ, được viết đúng
lúc như thế đó, sẽ trở thành một khúc kinh cầu.
Đó là tham vọng của thơ trẻ.
Note:
Bài viết này, Gấu có
góp phần mà Bắc Kit gọi là "hiệu đính",
trong đó, Gấu có chôm ý của Borges,
"mỗi bài thơ, tới lúc, sẽ trở thành 1 bi khúc".
Khi viết loạt bài về Thơ Trẻ ở trong
nước, Sến thích quá, bèn hỏi xin. OK .
Vị PHT này, sau bị Sến ra lệnh cho đàn
em đánh tơi bời hoa lá.
“Nguyên đầu bạc” cũng bị đòn hội
chợ, chỉ đến khi Sến ra lệnh ngưng, vì
đụng tới “sinh mệnh chính trị” cái con khỉ gì
đó.
Gấu cũng đâu thoát.
Bị đánh tơi bời, đến nỗi độc giả của
Chợ Cá phải lên tiếng binh vực.
Sến mail, hỏi, sao anh không lên
tiếng, Gấu lắc đầu, Sến phán, hết xít oát
rồi ư.
Sến Cô Nương đâu phải thứ thường.
Cũng Đại Ma Đầu trong chốn giang hồ gió tanh mưa máu.
Everness
One thing
does not exist: Oblivion.
God saves the metal and he saves the
dross,
And his prophetic memory guards from
loss
The moons to come, and those of evenings
gone.
Everything is: the shadows
in the glass
Which, in between the day’s two twilights,
you
Have scattered by the thousands, or
shall strew
Henceforward in the mirrors that you
pass.
And everything is part of that diverse
Crystalline memory, the universe;
Whoever through its endless mazes wanders
Hears door on door click shut behind
his stride,
And only from the sunset’s farther side
Shall view at last the Archetypes and
the Splendors.
Translated from Spanish by Richard Wilbur
This poem was given me by Jacques Felix, in his
comment to my previous post on Borges' The Immortal.
It bears the mark of Borges, all right. The first line unlocks the
door into the Borgesian universe.
Oblivion does not exist, because the universe is
a memory, a consciousness. We are parts of the universe, meaning we are the
universe itself, and are expressions of that memory, that consciousness.
"Everything is".
The blankness of oblivion is mirrored by the sparkly,
shiny image of the stars and moon, by mirrors themselves, and
by crystal - "[a]nd everything is part of that diverse / Crystalline
memory, the universe".
And the last line brings back the everness: the
Archetypes and the Splendors.
This poem is so simple yet so intricate and deep.
Time is nowhere - the universe is a memory, a consciousness.
Bài Everness, nhớ là
đã dịch rồi. Cái tít thuổng Nguyễn Du, Mai
sau dù có bao giờ. Everness, là 1 từ Borges chôm,
để thay cho cái từ đã quá mòn, là
eternity.
Từ từ kiếm sau. Bữa nay dịch bài
Possession of Yesterday.
http://tanvien.net/Poesie/Herbert_by_Zagajewski.html
«Ne pas vivre plus qu'on ne peut se souvenir »
Đừng sống quá cái
sức nhớ của mi ? Sống tới đâu, nhớ tới đó.
Sống tới đâu, đọc tới đó, sống tới đâu
khổ tới đó….
Hà, hà !
http://tanvien.net/new_daily_poetry/Borges_Page.html
Bất giác lại nhớ Mai Thảo, và một lần
ngồi Quán Chùa. Ông nhắc tới TTT,
và nói, hắn ta nói, mi cầm một cây
lao, quay người lại, và phóng về quá
khứ. Cây lao cắm tới chỗ nào, là hồi nhớ của
mi tới đó !
Sau đó, có lần
ngồi với ông anh, nhân nhắc tới bạo động trong
thơ của ông, Gấu bèn nhớ tới giai thoại trên,
bèn kể. Ông anh chắc là cũng thấy thú,
bèn xì ra 1 kỷ niệm, 1 lần dậy học, ở cuối lớp
có 1 tay học trò chỉ lo dỡn, ông bực quá,
bèn vo cái khăn lau bảng thành 1 cục, và
thẳng tay ném tới anh học trò, rồi quát,
mang nó lên đây.
Quả bóng bay tới chỗ anh
học trò, anh cúi xuống nhặt, líu
ríu mang lên cho ông Thầy.
The Just
A
man who cultivates his garden, as Voltaire
wished.
He who is grateful for the existence of music.
He who takes pleasure in tracing an etymology.
Two workmen playing, in a café in the South,
a silent game of chess.
The potter, contemplating a color and a form.
The typographer who sets this page well,
aaathough it may not please him.
A woman and a man, who read the last tercets
aaaof a certain canto.
He who strokes a sleeping animal.
He who justifies, or wishes to, a wrong done him.
He who is grateful for the existence of a Stevenson.
He who prefers others to be right.
These people, unaware, are saving the world.
Translated by Alastair Reid from: “Insomnia”, Six
Poems by Jorge Luis Borges, Harper’s Magazine, February,
1999
Tên chính trực
Tên
đờn ông, kẻ săn sóc mảnh
vườn của hắn, như Voltaire mong muốn
Kẻ biết ơn sự hiện hữu của âm nhạc
Kẻ lấy làm hài lòng, khi đi 1 đường tầm nguyên
Hai công nhân lặng lẽ nhâm nhi 1
ván cờ ở 1 quán cà phê
ở xứ Nam Kít
Tên
thợ máy nhà dây thép chiêm ngưỡng và kính
trọng BHD, ây a, xin lỗi, một màu sắc, một
hình thể
Người thợ in, làm trang sách này
thật ra hồn, tuy nhiên, đã chắc gì,
anh ta thích thú?
Một người đàn bà, và một người
đàn ông, đọc đoạn thơ cuối của 1 khổ
thơ nào đó
Một kẻ nào đó, ngủ đi anh, mộng bình
thường, như 1 đứa con nít, hay 1 con mèo
đang ngái ngủ trên tay em!
Kẻ chỉnh lý hay mong chỉnh lý, một lầm
lỡ mà ai đó, gây ra cho anh ta
Kẻ biết ơn có Stevenson ở trên đời này
Kẻ thích những kẻ khác có lý.
Những người này, không biết, là
họ đang cứu vớt thế giới.
PAUL CELAN RECALÉ
AU NOBEL
Paul Celan, “xém", được Nobel [recalé:
failed, hụt]?
En 1966, la poétesse allemande Nelly Sachs et
l'écrivain israélien Samuel Joseph Agnon obtenaient
le prix Nobel de littérature. Mais qui figurait sur
la liste de sélectionnés ?
L'Académie suédoise a rendu publiques
ses archives, qui révèlent la présence du
nom de Paul Celan. Ainsi le prix Nobel manqua un monument de la
poésie. L'auteur de « Lait noir » ne fut jamais
couronné et se suicida en 1970. Autre surprise, dans cette
liste : la large représentation de la littérature
française à travers Marcel Pagnol, René Char,
Henry de Montherlant, Jean Giono, Henri Bosco et Jean Anouilh.
Viện Hà Lâm Thụy Điển cho khui hồ
sơ Nobel, có tên Paul Celan.
Như thế là giải Noebl đã bỏ qua
1 "đài thơ". Tác giả "Sữa Đen" chẳng bao giờ được
trao tặng vòng hoa Nobel, và tự trầm vào
năm 1970.
Trang Simone Weil
Đầu năm khai bút bằng 1 bài
dịch Milosz, Sự quan trọng của Simone Weil,
trong To Begin Where I Am, Selected
essays. Trên Tin Văn đã có
bài Bad Friday, giờ thêm
bài này.
THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
FRANCE offered a rare gift
to the contemporary world in the person of Simone Weil,
The appearance of such a writer in the twentieth century
was against all the rules of probability, yet improbable things
do happen.
The life
of Simone Weil was short. Born in 1909 in Paris, she
died in England in 1943 at the age of thirty-four. None of
her books appeared during her own lifetime. Since the end of
the war her scattered articles and her manuscripts-diaries, essays-have
been published and translated into many languages. Her work
has found admirers all over the world, yet because of its austerity
it attracts only a limited number of readers in every country.
I hope my presentation will be useful to those who have never heard
of her.
Perhaps
we live in an age that is atheological only in appearance.
Millions were killed during the First World War, millions
killed or tortured to death in Russia during and after the
revolution: and countless victims of Nazism and the Second World
War. All this had to have a strong impact upon European thinking.
And it seems to me that European thinking has been circling around
one problem so old that many people are ashamed to name it. It
happens sometimes that old enigmas of mankind are kept dormant or
veiled for several generations, then recover their vitality and are
formulated in a new language. And the problem is: Who can justify
the suffering of the innocent? Albert Camus, in The Plague,
took up the subject already treated in the Book of Job. Should
we return our ticket like Ivan Karamazov because the tear of a child
is enough to tip the scale? Should we rebel? Against whom? Can God
exist if He is responsible, if He allows what our values condemn
as a monstrosity? Camus said no. We are alone in the universe;
our human fate is to hurl an eternal defiance at blind inhuman forces,
without the comfort of having an ally somewhere, without any metaphysical
foundation.
But perhaps
if not God, there is a goddess who walks through battlefields
and concentration camps, penetrates prisons, gathers
every drop of blood, every curse? She knows that those who complain
simply do not understand. Everything is counted, everything
is an unavoidable part of the pangs of birth and will be
recompensed. Man will become a God for man. On the road toward
that accomplishment he has to pass through Calvary. The goddess's
name is pronounced with trembling in our age: she is History.
Leszek
Kolakowski, a Marxist professor of philosophy in Warsaw,*
states bluntly that all the structures of modern philosophy,
including Marxist philosophy, have been elaborated in
the Middle Ages by theologians and that an attentive observer
can distinguish old quarrels under new formulations. He points
out that History, for instance, is being discussed by Marxists
in the terms of theodicy-justification of God.
Irony would be out of place
here. The question of Providence, or of lack of Providence,
can also be presented in another way. Is there any immanent
force located in le devenir, in what is in the state of becoming,
a force that pulls mankind up toward perfec-
• At the time of this writing
Nhân Ngày Tình Nhân
Những người đàn ông
của tôi
"Khô dương sinh hoa, lão
phụ đắc kì sỉ phu vô cữu, vô dự.
Khô dương sinh đề, lão phu đắc kì mỉ thê
vô bất lợi."
Cây dương khô ra hoa, bà cụ già có
người bạn trẻ, không chê không khen.
Cây dương khô đâm rễ mới, cụ ông lấy được
cô gái trẻ, không phải là không lợi.
Kinh Dịch, quẻ 28
À toutes les filles que j'ai aimées avant qui sont
devenues femmes maintenant,
...
Je suis resté adolescent.
Tất cả những cô gái tôi yêu ngày
xưa,
Những cô gái từ lớp mẫu giáo đến các
nữ sinh trung học, đại học
Nay các nàng đã trở thành các
bà,
Tôi vẫn còn là chú bé tuổi mười
hai, mười ba ...
Các nàng đã nhảy, đã hát để
tình yêu được say nồng hơn.
Các nàng đã nói tình yêu
là "cả đời sống của hai chúng mình."
Các nàng đã khóc vùi khi yêu
say đắm,
Các nàng đã sống những đam mê chia
lìa,
Các nàng là mặt trời, là bãi
biển,
Và rồi,
Các nàng từ bỏ cuộc chơi,
Tôi vẫn còn là chú bé tuổi mới
lớn.
Trong sâu thẳm đại dương ánh mắt các nàng,
các nàng đã biết ...
Còn tôi, muôn thuở vẫn là chú
bé tuổi mười ba, mười bốn.
Đó là lời của bài hát “À toutes
les filles” của Félix Gray và Didier Barbelivien, đứng
hàng đầu trong danh sách các bài hát
được ưa thích của các nước nói tiếng Pháp,
trong các thập niên 80, 90. Tôi nghe trên đài
thu thanh quá nhiều, đến mức, tùy theo cảm xúc của
tôi lúc đó, tôi có thể phì cười hay
cũng có thể lệ rưng trào khóe mắt. Và có
thể, trên bước đường phiêu lưu đâu đó sau này,
nếu tình cờ nghe lại bài hát này, chắc tôi
sẽ nhớ thành phố Montréal quặn ruột, nhớ từng góc phố,
từng làn sóng điện tôi đã nghe bài hát
này:
Tất cả những cô gái ngày xưa tôi đã
yêu, các nàng đã trở thành mẹ, thành
bà, tôi vẫn còn là chú bé mới
lớn!
Có thật thế không?
Có những câu hỏi thật khó hiểu đối với tôi,
mà câu trả lời chỉ có thể chứng nghiệm bằng kinh
nghiệm sống! Nếu chưa chứng nghiệm bằng kinh nghiệm, thì e mình
chỉ là khách vãng lai quá bộ xuống trần gian
dạo chơi ... Một trong những câu hỏi khó trả lời đối với
tôi, là vì sao đàn ông già lại
ưa chơi trống bỏi?
Tôi còn nhớ, hồi đầu những năm 90, lúc cộng
đồng người Việt tại thành phố Montréal còn tổ chức
thi hoa hậu. Tôi có con gái tuổi mới lớn, có
các bạn đi dự thi, nên chúng tôi được dịp
đi xem, thường là phải mua vé trước, đến ngày trình
diễn lại phải đi sớm để có được chỗ tốt, vì chúng
tôi không mua loại vé đặc biệt, đắt tiền để ngồi gần
sân khấu. Sân khấu được làm trên một bục cao, người
ngồi gần phải ngẩng cổ lên nhìn.
Và thế là ... dù đã ngồi bàn
đầu, cả một đạo binh máy ảnh, máy quay phim, ống nhòm
làm việc ráo riết, không khí sôi nổi,
cháy bỏng lúc các nàng trình diễn trong
bộ y phục áo tắm.
Điện cao thế hoạt động tối đa, cổ ngẩng lên, hơi thở nín
lại.
Xong màn trình diễn này, bầu không
khí hội trường bỗng dịu hẳn xuống, các ông dịu dàng
quay qua nói chuyện với người bên cạnh.
Mà nào có ai xa lạ đi thi đâu, toàn
là con cái bà con, con cái bạn bè
đi thi cả đấy mà!
Ấy, các cha, các chú, các ông
bình phẩm cứ như các nàng được trả lương của các
tạp chí chuyên nghiệp không bằng! Vì sao vậy
nhỉ?
Những cô gái tôi đã từng yêu,
Các nàng đã từ bỏ cuộc chơi ...
Tôi vẫn còn là chú bé mới lớn,
tuổi mười ba, mười bốn ...
À toutes les filles que j’ai aimées avant,
...
Elles s’ennuient de plaisir,
Je suis resté adolescent.
Vừa rồi, nước Pháp khóc Tổng thống Mittérand. Hình
ảnh vợ con, cháu chắt, người tình, con người tình
đứng bên linh cữu người quá cố nói lên hết tấn
bi kịch của câu hỏi: “Vì sao đàn ông già
rồi còn thích chơi trống bỏi?” Ông có con với
bà Anne Pingeot vào năm 1974 khi ông đã 58
tuổi, cô bé Mazarine mới 21 tuổi! Thật sự tôi không
nghĩ họ chơi trống bỏi, họ đã chọn cuộc đời của họ.
Ấy, những nhà văn, nhà đạo diễn, nhà
diễn xuất, các ca sĩ ... tôi còn chưa dám
nghĩ họ chơi trống bỏi, những Henry Miller, Polanski, Anthony Quynn,
Luciano Pavarotti, Yves Montand, Nguyễn công Trứ, ai dám
nghĩ họ chơi trống bỏi ở tuổi 60-70-80, họ biết họ sắp chết mà!
Vậy mà những nhà chính trị gia, đi
ván bài cả chục nước trước, bày binh bố trận cả
trăm ngả, cầm vận mệnh cả trăm triệu con dân trong tay lại có
bạn đường ở tuổi ngoài 60-70, thì những tổng thống tuổi
trẻ tài cao, họ cũng chỉ là những chú bé tuổi
mới lớn!
Trong sâu thẳm tâm hồn đàn bà của những
người đàn ông này, họ đã muốn: “Thà
một phút tựa mạn thuyền rồng!”
Dứt khoát, họ chẳng muốn: "Thân em như tấm lụa đào!”
Ôi! Từ sâu thẳm đại dương tâm hồn, các nàng
đã biết ... còn tôi vẫn chỉ là một chú
bé tuổi mới lớn!
Elles savaient l’océan au fond des yeux,
Je suis resté adolescent.
Phần tôi, tôi chỉ hiểu thêm được một chút câu
hỏi, ngày tôi có đứa con thứ nhì là
một chú bé. Ở tuổi lên sáu, lên bảy,
buổi sáng thức dậy đưa chú đi học đúng giờ là
cả một vấn đề.
Tôi thường dùng phương pháp thông
cảm để may ra được cảm thông:
- Này
con, con tưởng tượng mai này con lớn, con phải đi làm nuôi
vợ con. Con phải đến sở đúng giờ... mà con của con cứ
mè nheo không chịu đi học thì con phải làm
như thế nào?
- Thì
con giao con của con cho vợ con lo.
- Ngộ nhỡ
vợ con mất kiên nhẫn, la đánh con của con thì sao?
- Thì
con nhào vô phụ vợ một tay đánh nhầu nó!
- Con!
- Mẹ, mà
sao lúc nào mẹ cũng ưa hỏi vào những chi tiết.
Lúc nào chú cũng có một câu
trả lời chung chung, với một điệu bộ đếch cần, hai tay giơ lên
trời, nhún vai, bỏ chạy đi chơi tiếp.
- Ơ, ơ,
con không chịu trách nhiệm mấy việc này đâu,
đó là lỗi của trời đất!
Đúng thật, đó là
lỗi của trời đất. Từ đáy sâu thẳm tâm hồn các nàng,
các nàng đã biết điều đó.
Hỡi những người đàn ông của tôi, các
bạn vẫn còn là những chú bé tuổi mười ba,
mười bốn. Ngày tôi biết cầm kim chỉ lần đầu tiên, tôi
đã bắt đầu may những chiếc áo trẻ sơ sinh.
Lan Nguyễn
Montréal, 2-2-96
Từ đáy sâu thẳm tâm
hồn các nàng, các nàng đã biết điều
đó.
Đọc thì bèn nhớ 1 câu,
của Woolf, khi còn bé tí, bị mấy thằng con nít
bà con họ hàng, sờ soạng, và bà cảm thấy,
từ trong sâu thẳm không phải của bà không
thôi, mà của tất cả mọi người đàn bà, lên
tiếng, KHÔNG!
Gấu Cái, nhớ lần đọc cái
mẩu thằng chồng khốn kiếp của mình, viết về cô phù
dâu, trong có 1 câu, Bà chửi toáng lên,
mi coi nó như là thánh nữ, đâu phải....
trống bỏi!
Phải đến khi về già, mới tha
thứ cho cả hai.
Đúng rồi, thằng khốn nó chọn ta, thay vì
những thánh nữ, để sống cuộc đời đau thương, tủi nhục, và
cũng vô vàn hạnh phúc, là cuộc đời trần tục
này...
Cầm
Dương Xanh
Rồi một
lần trong những ngày Mậu Thân cay nghiệt. Bữa đó khuya,
hai đứa ngồi nơi phòng khách. Trong khi nói chuyện, như
vô tình, hoặc làm như vô tình, tự nhiên
em nói: Anh được tất cả rồi, còn muốn gì nữa? Thoạt
đầu, anh ngạc nhiên, rõ ràng là anh đâu
muốn gì... anh như ú ớ biện minh với chính mình.
Rồi anh hiểu, và anh vô cùng cảm động. Anh biết, em
muốn nói, em thương anh, vậy là đủ rồi. Như thể em muốn nói
một điều thật là giản đơn, cho nên cũng thật khó hiểu:
em trở thành đàn bà, ngay phút đầu tiên
chúng ta nhìn thấy nhau.
Tks All.
NQT
Biển
Buổi chiều đứng trên
bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển lên cao,
khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm
lên tất cả
Cát ở đây được con người
chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên
phải đứng ở chốn này
Số phận còn thua hạt cát.
Hàng cây trong công
viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút
hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào
đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
The Widening Sky
Thênh Thang Trời Rộng
I am so small walking on the beach
at night under the widening sky.
The wet sand quickens beneath my feet
and the waves thunder against the shore.
I am moving away from the boardwalk
with its colorful streamers of people
and the hotels with their blinking lights.
The wind sighs for hundreds of miles.
I am disappearing so far into the dark
I have vanished from sight.
I am a tiny seashell
that has secretly drifted ashore
and carries the sound of the ocean
surging through its body.
I am so small now no one can see me.
How can I be filled with such a vast love?
Gấu thì mới nhỏ bé làm sao
Bước một mình trên bãi biển
Vào ban đêm, dưới trời rộng
Cát ướt, quẩn dưới chân
Và sóng biển, như sấm, đánh vào
bờ.
Gấu lánh xa bờ gần
Với đám người nhộn nhạo
Với ánh đèn xôn xao
Và gió bèn thở
dài,
ngàn ngàn dặm.
Gấu cứ thế mất dần
Vào bóng đêm
Ra khỏi tầm nhìn
Gấu là con sò bé tí
Lẩn lút lạc vô bờ
Và mang theo tiếng biển
Rung động hết toàn thân
Gấu nhỏ xíu đến chẳng ai nhìn thấy
Làm thế nào mà 1 con sò
nhỏ bé như thế
Lại chứa cả 1 đại dương
Là mối tình của Gấu
Dành cho....
My First Theology Lesson
Rumpled and furious, my grandfather's friend
stood up in a bookstore on the North Side
and lamented the lost Jews of Poland
and declared that he felt sorry for God
who had so many problems with Justice
and had become disillusioned and sad
since He wanted to reveal Himself to us
but couldn't find anyone truly worthy
(it was always the wrong time or place
in our deranged and barbaric century)
and so withdrew into His own radiance
and left us a limited mind and body
to contemplate the ghostly absence,
ourselves alone in a divine wilderness.
Edward Hirsch: The Living Fire
Bài Bài thần học đầu tiên,
nhớ là có bản tiếng Mít rồi...
http://www.edwardhirsch.com/books/lay-back-the-darkness/
Editorial Reviews
“It takes a brave poet to follow Homer, Virgil, Dante,
and Milton into the abyss… Hirsch’s poems [are] compassionate, reverential,
sometimes relievingly ruthless.”
— Dana Goodyear, Los Angeles Times Book Review
“Carefully and subtly ordered… Hirsch in his highest
mode.”
— Chris King, Washington Post Book World
“Poems of rare, passionate spiritual energy… Hirsch’s
imagery is luminous and uplifting.”
— Charles Guenther, St. Louis Post-Dispatch
“Whether he’s contemplating Homer or the Holocaust,
standing transfixed before a painting by Agnes Martin, or holding
a handful of fresh figs, Hirsch embraces language as a mystical force,
and he and his readers truly are transported.”
— Donna Seaman, Booklist
READ A POEM
I Am Going to Start Living Like
a Mystic
Today I am pulling on a green wool sweater
and walking across the park in a dusky snowfall.
The trees stand like twenty-seven prophets in a field,
each a station in a pilgrimage-silent, pondering.
Blue flakes of light falling across their bodies
are the ciphers of a secret, an occultation.
I will examine their leaves as pages in a text
and consider the bookish pigeons, students of winter.
I will kneel on the track of a vanquished squirrel
and stare into a blank pond for the figure of Sophia.
I shall begin scouring the sky for signs
as if my whole future were constellated upon it.
I will walk home alone with the deep alone,
a disciple of shadows, in praise of the mysteries.
Edward Hirsch: The Living Fire
Kể từ Noel năm nay, Gấu bắt đầu
sống cuộc đời của 1 tên thần bí
Bữa nay, Gấu chơi 1 cái áo len màu xanh
Và dạo qua một công viên trong cảnh trời chạng
vạng
Và tuyết thì đang xuống
Cây đứng như là 27 nhà tiên tri ở 1 cánh
đồng,
mỗi tiên tri một nhà ga, trong cuộc hành hương
- lặng lẽ, trầm tư
Những đốm sáng màu xanh rớt qua cơ thể của họ
Là những mật mã, che khuất, ẩn giấu
Gấu sẽ nghiên cứu sự rời bỏ của họ như là những trang
sách trong 1 bản văn
Và, coi những con chim bồ câu mê sách,
những sinh viên mùa đông
Gấu sẽ quỳ trên dấu vết của một của 1 con sóc đã
biến mất
Và nhòm xuống 1 cái ao trống không để
tìm hình bóng một BHD
Gấu sẽ bắt đầu xục xạo bầu trời tìm những ký hiệu
Như thể trọn 1 tương lai của Gấu đã biến thành những
chòm sao ở trên thiên đình!
Gấu sẽ lầm lũi lần về nhà, sâu thật sâu trong
nỗi cô đơn của mình
Đệ tử của những cái bóng, trong niềm ca ngợi những
bí nhiệm, vào mùa Noel năm nay!
Elegy for the Jewish Villages
-After Antoni Slominsky
The Jewish villages in Poland are gone now-
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
There are no Sabbath candles lit in the windows,
no chanting comes from the wooden synagogues.
The Jewish villages in Poland have vanished
and so I walked through a graveyard without graves.
It must have been hard work to clean up after the war:
someone must have sprinkled sand over the blood,
swept away the footprints, and whitewashed the walls
with bluish lime. Someone must have fumigated
the streets, the way you do after a plague.
One moon glitters here-cold, pale, alien.
I stood in the dark countryside in summer but
could never find the two golden moons of Chagall
glittering outside the town when the night lights up.
Those moons are orbiting another planet now.
Gone are the towns where the shoemaker was a poet,
the watchmaker a philosopher, the barber a troubadour.
Gone are the villages where the wind joined biblical
songs
with Polish tunes, where old Jews stood in the shade
of cherry trees and longed for the holy walls of Jerusalem.
Gone now are the hamlets that passed away
like a shadow that falls between our words.
I am bringing you home the story of a world-
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
Come close and listen to this song-
the Jewish villages in Poland are gone now-
from another one of the saddest nations on earth.
Edward Hirsch: The Living Fire
Bi Khúc Làng Do Thái
ở Ba Lan
-Theo Antoni Slonimsky
Những làng Do Thái ở Ba Lan thì
không còn
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
Chẳng còn những ngọn đèn cầy Sabbath thắp
lên ở nơi cửa sổ
Không còn tiếng thánh ca từ những
giáo đường bằng gỗ
Những làng Do Thái ở Ba Lan thì
biến mất
Và như thế, tôi bước qua những nghĩa địa
không mồ mả
Phải là 1 công việc cực nhọc, dọn dẹp, sau
chiến tranh
Một người nào đó phải rắc cát lên
máu
Xóa vết chân, lau cọ tường, với lá
chanh xanh.
Một người nào đó phải xông phố xá
Cái kiểu mà người ta làm, sau 1 trận
dịch
Một vầng trăng lấp lánh ở nơi đây - lạnh,
nhợt nhạt, xa lạ
Tôi ngồi ở trong bóng tối, nơi vùng
quê, vào mùa hạ
Nhưng không làm sao kiếm thấy hai vầng trăng
vàng của Chagall
Lấp lánh bên ngoài thành phố
khi đèn lên.
Những vầng trăng này bây giờ quay quanh một
hành tinh khác
Đã đi rồi, là những thành phố,
nơi người đánh giầy là nhà thơ,
Người thợ sửa đồng hồ, một triết gia
Anh thợ cạo, thợ cắt tóc ư: Một người hát
rong.
Đã đi rồi, những ngôi làng, nơi
gió gia nhập những thánh ca, với giọng điệu Ba Lan,
nơi những người già Do Thái đứng trong bóng
những tàng cây anh đào,
trông ngóng, hoài vọng những bức tường
thánh ở Jerusalem
Đã đi rồi, những làng xóm,
chúng lặng lẽ bỏ đi như một cái bóng
té xuống
giữa những từ ngữ của chúng ta.
Ta mang về nhà cho em câu chuyện của một
thế giới –
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
Hãy sát lại gần và lắng nghe bài
hát này –
Làng Do Thái ở Ba Lan bây giờ đã
không còn –
Đã bỏ đi khỏi một trong những đất nước buồn bã
nhất
Trên thế gian.
For the Sleepwalkers
Đêm đêm, như 1 tên mộng du, một mình
mi tìm cách trở về lại Saigon, trở lại Quán
Chùa....
Tonight I want to say something wonderful
for the sleepwalkers who have so much faith
in their legs, so much faith in the invisible
arrow carved into the carpet, the worn path
that leads to the stairs instead of the window,
the gaping doorway instead of the seamless mirror.
I love the way that sleepwalkers are willing
to step out of their bodies into the night,
to raise their arms and welcome the darkness,
palming the blank spaces, touching everything.
Always they return home safely, like blind men
who know it is morning by feeling shadows.
And always they wake up as themselves again.
That's why I want to say something astonishing
like: Our hearts are leaving our bodies.
Our hearts are thirsty black handkerchiefs
flying through the trees at night, soaking up
the darkest beams of moonlight, the music
if owls, the motion if wind-torn branches.
And now our hearts are thick black fists
flying back to the glove if our chests.
We have to learn to trust our hearts like that.
We have to learn the desperate faith of sleep-
walkers who rise out of their calm beds
and walk through the skin of another life.
We have to drink the stupefying cup of darkness
and wake up to ourselves, nourished and surprised.
Edward Hirsch: The Living Fire
Đêm nay Gấu muốn phán một điều thật là
cực bảnh tỏng
Dành cho những tên mộng du đặt quá
nhiều niềm tin vào cặp giò của chúng
Quá nhiều niềm tin vào sự vô hình
Vào... người đi qua tường
Mũi tên khắc vào tấm thảm,
lối đi rách mòn đưa tới cầu thang thay vì
cửa sổ
lối cửa mở thay vì tấm gương liền
Gấu cực mê cái kiểu mà những tay mộng
du
thèm bước ra khỏi cái túi thịt thối
tha - từ của Phật Giáo để gọi cái body thật thơm, thật
ngon như múi mít của… -
và đi vào đêm đen
Tay giơ lên chào mừng bóng tối
Viết
mỗi ngày
Sến ở đâu Marie Sến ở đó
http://damau.org/archives/35722
Đọc mấy cuộc phỏng vấn những nhà văn Mít
vĩ đại do Trần Vũ thực hiện thì GCC có ý nghĩ,
ông có cái gì tương tự với Thầy Phúc, khi viết phê
bình: Bắt 1 tên mũi lõ, hay 1 tên cực nổi
tiếng, đứng chung với đấng Mít vĩ đại được ông phỏng vấn.
Nhà thơ Thận Nhiên ư? Lưu vong kép
chẳng khác gì bào thai đôi của Linda Lê,
sợ còn bảnh hơn.
Sến Cô Nương ư? Có ngay Thomas Mann: Sến
ở đâu văn Mít ở đó.
Đọc, tới cái đoạn Sến nhớ ông Đỗ Một,
thì GCC lại nhớ ra cái định nghĩa của Brodsky về hồi
ức của con người, cái thay thế cho cái đuôi, khi
người còn là khỉ.
Có 1 cái gì đó, của hồi
ức Bắc Kít, liên quan tới Bắc Bộ Phủ, như là cái
đuôi mà nó không làm sao quên
được, theo GCC.
Lũ Ngụy may mắn thay không có thứ hồi ức đó:
Khi Thiệu đang còn tại chức, là chúng đã
chửi như điên, bài học vỡ lòng của DTH, về Miền
Nam.
Có vẻ như TV [Trần Vũ] có đọc TV [Tin
Văn], vì cái vụ bào thai đôi và
Thomas Mann, thì đều do Tin Văn khui ra. TV lầm về “bào
thai đôi”. “Kẻ kép” thì bất cứ nhà văn nào
cũng có, nhưng đứa trẻ chết, bào thai chết, là
xứ Mít, thì chỉ LL mới có.
Còn Thomas Mann và câu phán của
ông, thì được Brodsky nhắc tới, được TV giới thiệu. Tuy
nhiên đọc Sến viết về Thomas Mann, GCC sợ Sến cũng không
rành về nhà văn này. Kỳ tới, GCC sẽ viết thêm
về ông.
Impossible Exile
http://www.tanvien.net/Portrait/Zweig.html
Hát Sau Lò Cải Tạo
Trên tờ NYRB, Oct 27,
2011, có bài viết, mới tìm thấy, đăng lần đầu, một
tiểu luận của Saul Bellow, “Một nhà văn Do Thái ở Mẽo”, “A Jewish Writer in America”. Ðọc
loáng thoáng trên subway trên đường về nhà,
thấy câu này, thứ ngôn ngữ lưu vong không thể kéo
dài mãi mãi được, the language of the Diaspora will
not last, GCC bỗng nhớ đến những bản nhạc “lưu vong”, “bầy chim bỏ xứ” của
PD, thí dụ, và tự hỏi, PD về rồi, nhà nước OK rồi, và
từ từ sẽ cho hát hết những bài nhạc của ông, nhưng, “bầy
chim bỏ xứ”, thì sao?
Hà, hà!
Căng dữ hà!
Bài viết của Saul
Bellow mới đăng phần đầu. Còn 1 phần nữa. Ðọc thú
lắm. Cũng nhắc tới cái từ thật đểu để chỉ đám Pháp
lai, métèque, khách trú, dịch sang tiếng
Anh, outsider, resident alien.
Bên Da Màu, trong bài “lại nói
chuyện về thơ” của cây viết Phan Xuân Sinh có
đoạn:
... Phạm Duy có gặp một
số anh em văn nghệ tại Boston, trong cuộc gặp gỡ nầy có
người hỏi Phạm Duy là: “Anh phổ nhạc thơ của nhiều thi sĩ,
có hai thi sĩ lớn như Thanh Tâm Tuyền và Tô
Thùy Yên. Sao anh không phổ thơ của họ?” Phạm Duy
trả lời: “Hai ông nầy thơ hay thật, thế nhưng thơ của hai ông
lý trí quá khó phổ thành nhạc được.”
Nói thế để chúng ta biết rằng thơ hay chưa chắc làm
rung cảm được người đọc...
Source
PD phán như thế, theo tôi, là
đúng, thực, theo suy nghĩ của ông, chứ không
nhằm che đậy gì hết. Nhạc PD thiên về tình cảm,
thứ tình cảm tục lụy, hệ lụy, [hệ lụy, thí dụ, giai
thoại ăn chè Nhà Bè, nhờ đó mà
dân Mít được thưởng thức bản nhạc phổ thơ MDHT], không
phải thứ tình cảm thanh cao như trong thơ TTT, hay TTY. Ðây
là do cái tạng của ông, và có thể cũng
là do yêu cầu của đa số quần chúng thưởng thức nhạc.
Những bài thơ phổ nhạc của TTT, TTY không có nhiều
thính giả, những nhạc sĩ phổ thơ của TTT, là bạn thân
ngoài đời của ông, họ hiểu ông, thơ của ông, cho
nên phổ nhạc thơ của ông.
PD đâu có thuộc
cái giới đó.
Ðẩy đến cực điểm, thơ phổ
nhạc của TTT hay của TTY muốn nhắm tới cái gọi là
không còn chủ âm trong nhạc, hay tới thứ âm
nhạc không cần lời.
Vấn đề này lớn quá, chỉ nêu ra
đây, như là 1 đề xuất, đặt viên gạch, rồi tính
sau.
... đặt viên gạch,
rồi tính sau.
Sách
& Báo
Mới
|
Trang NQT
art2all.net
Istanbul
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
Two Dogs
by Charles Simic
for
Charles and Holly
An old dog afraid of his own
shadow
In some Southern town.
The story told me by a woman going blind,
One fine summer evening
As shadows were creeping
Out of the New Hampshire woods,
A long street with just a worried dog
And a couple of dusty chickens,
And all that sun beating down
In that nameless Southern town.
It made me remember the Germans
marching
Past our house in 1944.
The way everybody stood on the sidewalk
Watching them out of the corner of the eye,
The earth trembling, death going by . . .
A little white dog ran into the
street
And got entangled with the soldier’s feet.
A kick made him fly as if he had wings.
That’s what I keep seeing!
Night coming down. A dog with wings.
Hai Con Chó
Một con chó già
sợ cái bóng của chính nó (1)
Trong 1 thành phố Nam Kít nào đó
Chuyện này tôi nghe qua một bà sắp
mù
Vào một buổi chiều tuyệt vời mùa hạ
Khi bóng tối
từ những cánh rừng Sát
Bò ra
Con phố dài Hồng Thập Tự
Với chú chó già rầu rĩ
Và cặp gà bụi bặm
Và cả mặt trời đổ xuống
Một thành phố mất tên Nam Kít
Nó làm tôi
nhớ buổi 30 Tháng Tư 1975
Ðám VC Bắc Kít diễu hành qua
căn nhà của tôi
Người dân đứng bên lề nhìn chúng
bằng một góc con mắt
Mặt đất rung chuyển, và cái chết thì
lờ vờ quanh đó..
Một con chó trắng nhỏ chạy ra đường
Làm quẩn chân đám nón cối
Và 1 cú đá làm con chó
bay lên trời
Như thể nó có cánh
Ðó là điều mà tôi đã
nhìn thấy, và vẫn còn nhìn thấy!
Ðêm xuống thành phố không tên
Một con chó có cánh.
Chú thích hình:
Cast of a Dog Killed by the Eruption of Mount Vesuvius,
Pompeii, c. 1874
© THE J PAUL GETTY MUSEUM
Granta 142: Winter 2018
Animalia
... Continue Reading
Mừng năm chó, tờ Granta số mới nhất đi 1 đường
về Animalia.
Chuyện chó của Mít, bảnh nhất, theo
Gấu, là của Nam Cao, "Lão Hạc", nhớ đại khái,
và nó mắc mớ đến xứ Đàng Trong và cơn
đói dài 4 ngàn năm của xứ Bắc.
Nhớ luôn nhận xét của 1 vị bằng hữu thân
thiết của Tin Văn. Bà cho biết, mấy cơ quan nhận trẻ em
mồ côi rất sợ nhận những đứa trẻ bị bỏ đói lâu
quá, vì não bộ của chúng bị ảnh hưởng
nặng nề...
UI chao, nếu thế thì đói 4 ngàn
năm khủng khiếp cỡ nào!
Hà, hà!
Nửa thế kỷ xa xứ Bắc, năm 2001, Gấu trở lại, mang
về đủ thứ kỷ niệm về cái đói, và lẩm bẩm tự
hỏi thầm, không biết bà chị của Gấu có còn
nhớ.
Bà nhớ đủ hết.
Nhưng với thằng em, nó trở thành những
viên ngọc quí, còn với bà chị, nó
là những hòn chì bà nặng nề đeo theo
suốt cuộc đời, không làm sao rũ đi được.
Nhớ,1ần bà cụ đi buôn bán xa,
bà chị lấy gạo nấu cơm, chắc là lấy quá đô.
Nồi đất. Gấu đang ngồi nhìn nồi cơm sợ nó biến mất,
bỗng thấy cái nồi từ từ nứt làm đôi…
Nhớ hoài hoài, nhớ mãi mãi!
Về những hòn chì, từ từ kể tiếp!
Vị bằng hữu phán, phục mi sát đất vì
những kỷ niệm thần sầu về cái đói!
DOG
Nadeem Aslam
More than once the new dog was aggressive, a stab of fire,
but I did not tell the grown-ups. I feared they would take him away.
I was ten years old, and I pretended that the scratches and marks on my
skin were caused by a thorn bush or by a fall.
He was from the hills. In the 1960s
a dam was constructed in northern Pakistan, submerging hundreds
of villages, a number of towns and many tracts of forestland.
Some of the displaced people arrived to live on the outskirts of
the city where I grew up. From this refugee camp, a sixteen-year-old
girl named Iqbal came to work in our neighbors’ house. She told me
about her village in the hills, how it now lay underwater with the minarets
of the mosque sticking out, the herons perching on the tips. Already
at that age, books had become a habit and therefore a need for me. During
the long afternoons, when the rest of the family slept, I would make my
way surreptitiously to the roof and find a place to read. Iqbal would
appear from the next roof and join me. She was addicted to nasvaar - a
narcotic powder made with green tobacco and slaked lime. I now know that
in 1561 the French ambassador in Portugal had sent nasvaar to Catherine
de' Medici, as a cure for her son's constant migraines. Iqbal would take
out the pungent green stuff - she carried it in a twist of cellophane
hidden in the waistband of her trousers - and place it under her lower
lip and lie down beside me on the floor, her eyes closed. Her employers
had suspected her of using nasvaar, but she had not only denied it,
she had sworn on the Quran to placate them. She had been hired to look
after small children and the fear was that she would feed it to them,
to make them docile, less demanding. And so both of us hid on the roof
during those searingly hot afternoons: I would read, and she dozed beside
me, sometimes wordlessly, sometimes speaking in a low murmur about
various things, including her lost village.
Occasionally she went back to visit
family members who had managed to remain in the hills. Once she
returned with the gift of a deer antler for me, and later there
were several interesting pebbles, the skull of a bird with a red
beak, large map-like moth wings and strange scaled fruit that at
first made me think they were pangolin eggs. When I was ten she brought
a puppy. From the folds of her shawl it sniffed the air, each whisker
as nervous as a compass needle. We were soon inseparable. In certain
lights there was a strange glow to him, an intense brilliance in his
eyes that I hadn't encountered in any other dog. I had been reading
about 'candle-birds', whose flesh was so enriched with oil that a
bird could be threaded whole onto a wick and burned as a source of
light. My dog grew fast and was deeply affectionate on the whole, but
there were those brief moments of anger, something electric spilling into
the air from him, his teeth bare with hate for me or for what I represented.
One day a blind beggar stopped chewing
for a few moments when the dog walked past.
On another occasion a horse looked
at him for a long time and then suddenly reared up, having understood
something.
The knock on the door came at midnight,
waking the entire household. It was our neighbors - Iqbal's employers
- and Iqbal was with them, as were her parents.
They revealed that the dog was in
fact a wolf cub.
His identity had become blurred
as he passed from hand to hand in the hills, after the forest he
had lived in had been submerged, separating him from his mother
and the rest of the pack. That strange light I had noticed in his
eyes - it had been him searching for a mirror in which to see himself.
No one could give me a precise answer
as to what happened to him after he was taken away that night.
I kept asking with urgency and desperation, but after a while I
understood that I must stop. Iqbal was caught with nasvaar on her
person one day and let go by our neighbors. In another few months
the refugee camp where she had lived was declared illegal by the authorities
and demolished, and she and her family were forced to move on. I
never saw her again. She and the dog and the handful of facts associated
with them became a kind of ache I can still feel inside me, a sense
of defeat and loss. I had taught him to roll over, and I see it now
in my mind's eye: for a fraction of a second - with his legs in the
air and his head twisting - he resembles his cousin from Pompeii. _
"Mit" version will be very soon.
http://www.sachhayonline.com/tua-sach/truyen-ngan-nam-cao/lao-hac/938
Lão Hạc.
Note:
Đây mới là truyện ngắn hay nhất của Nam
Cao, với riêng Gấu.
Mít thường nhắc tới Đôi Mắt, hay Con Mắt,
không nhớ rõ.
Nhảm!
Nguyễn Tuân cũng không viết nổi Lão
Hạc.
Quả có 1 xứ Bắc Kít đã mất đi,
một xứ Bắc Kít, đúng như Milosz mô tả:
It is good to be born in a small country where nature
is on a human scale, where various languages and religions have
coexisted for centuries. I am thinking here of Lithuania, a land
of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi
thiên nhiên không so le với con người, nơi ngôn
ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên
nhau qua nhiều đời. Tôi đang nghĩ về Lithuania, miền đất của
huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
https://www.youtube.com/watch?v=iCjnpzLvxkI
Một thoáng Sài Gòn
xưa được tái hiện trên đường phố Bolsa do đài truyền
hình SBTN thực hiện
(Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
GCC 's Tet with family in Lao
Note for a Fantastic Story
In Wisconsin or Texas or Alabama some boys are
playing war, and the two sides are the North and the South. I
know (everyone knows) that defeat has a dignity which noisy victory
does not deserve, but I also know how to imagine that this game,
which spans more than a century and a continent, will one day discover
the divine art of undoing time or, as Pietro Damiano said, of altering
the past.
If that should come to pass,
if in the course of the lengthy game the South humbles the North,
today will fall backward against yesterday and Lee's men will be
victorious at Gettysburg in the first days of July of 1863 and the
hand of Donne will be able to complete his poem on the transmigrations
of a soul and the old nobleman Alonso Quijano will know the love of
Dulcinea and the eight thousand Saxons at Hastings will defeat the Normans,
as before they defeated the Norsemen, and Pythagoras will not recognize
in a portico at Argos the shield he used when he was Euphorbus.
-S.K.
J.L. Borges: Selected Poems [Penguin
ed]
Ghi chú về một câu chuyện
kỳ quái
Ở Wisconsin, hay Texas hay Alabama, mấy đứa
con nít bày cuộc chiến tranh, giữa Nam Kít
và Bắc Kít. Tớ biết (mọi người biết) rằng thất trận
thì có nhân phẩm, cái lũ thắng trận
bắng nhắng, ồn ào không xứng với nó - chúng
vừa mới ăn mừng người chết Mậu Thân - nhưng tớ còn
biết làm sao tưởng tượng cuộc chiến đó - trải dài
hơn bốn ngàn năm - một ngày nào, sẽ khám
phá ra nghệ thuật thiêng liêng: làm lại [huỷ
diệt, đúng hơn] thời gian, hay đúng hơn nữa, thay đổi
quá khứ.
Nếu điều này xảy ra, nếu cuộc
chơi dài thòng “dzui thôi mà” - thuổng
từ của ông chánh tổng xứ An Nam ở Paris – ba mươi năm
mới có ngày hôm nay, thằng em Nam Bộ “nhún
nhường” ông anh Bắc Kỳ, “ngày hôm nay” bỗng biến
trở lại thành hôm qua, và Tướng Ngô Quang
Trưởng thắng tướng Võ Nguyên Giáp, thì
thí dụ đại như vậy, trong Đại Thắng Mùa Xuân,
và bàn tay của Donne có thể hoàn tất bài
thơ của ông ta về sự “xuyên di” của linh hồn, và
tên già phong nhã Gấu Cà Chớn có được
tình yêu của nường nữ thi sĩ gì gì đó…
Mi khùng rồi, Gấu nghe Gấu Cái than…
Chúc Mừng Năm Mới
Feb 15 at 3:27 PM
Năm mới chúc cô chú
cùng gia quyến nhiều sức khỏe, hạnh phúc,
và vạn sự như ý
chia. tay
tặng 2 bạn
em. lẫn vào. đám đông
sao anh. tìm ra. được
phi trường. chiều. đưa tiễn
nhặt được. nước mắt rơi
em. về con đường. vắng
chất ngất. màu. rưng rưng
xe. nổ giòn. nỗi nhớ
chở. một người. rất buồn
ở lại. người. ở lại
vui. hay buồn? không em
chén. nồi. nằm một góc
chờ. tay nào? nâng
niu
thời gian. sao đi. mất
mang em. về miền. xa
tuyết. ngập ngừng xóa. bóng
mùi hương. vướng. đâu
đây
em về. mình xa. nhau
gửi. nụ hôn. nghìn
kiếp
áo. ngày nao. dù
nhàu
xin. giữ lại nếp. xưa
những đợi. chờ
cành cây. ngẹo đầu
sang. một phía
xẩm tối. những ngọn đèn.
đường vỡ. bung
tuyết. từng đụn. trong bãi
parking
khu shopping. cuối tuần
người đàn ông. ngồi.
trong xe
ho. tiếng khan
những ngày. cuối năm
đằng đẵng. lạnh
lù mù. tuyết rơi
tít. tắp
áo quần kín. bưng
tiếng chuông. tiếng vẳng dài
như gọi. tên
về chưa? những đợi chờ
Đài Sử
Tks
Trước thềm Năm Mới, cầu Ơn Trên
ban cho đại gia đình chúng ta mọi điều
an lành.
NQT
Trước thềm năm mới Mậu Tuất em kính
chúc anh chị cùng bửu quyến được an lành,
vạn điều như ý. Riêng chúc anh sức khỏe
càng bền, ung dung như bao năm nay.
Em, SLN
Tks
Chúc SLN và gia đình
mọi điều an lành, nhân dịp Xuân về.
NQT
Trang Simone Weil
Đầu năm khai bút bằng 1 bài
dịch Milosz, Sự quan trọng của Simone Weil, trong To
Begin Where I Am, Selected essays. Trên Tin Văn
đã có bài Bad Friday,
giờ thêm bài này.
THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
FRANCE offered a rare gift to the contemporary
world in the person of Simone Weil, The appearance of such
a writer in the twentieth century was against all the rules of
probability, yet improbable things do happen.
The life of Simone Weil
was short. Born in 1909 in Paris, she died in England in 1943
at the age of thirty-four. None of her books appeared during
her own lifetime. Since the end of the war her scattered articles
and her manuscripts-diaries, essays-have been published and translated
into many languages. Her work has found admirers all over the
world, yet because of its austerity it attracts only a limited number
of readers in every country. I hope my presentation will be useful
to those who have never heard of her.
Perhaps we live in an
age that is atheological only in appearance. Millions were
killed during the First World War, millions killed or tortured
to death in Russia during and after the revolution: and countless
victims of Nazism and the Second World War. All this had to have
a strong impact upon European thinking. And it seems to me that European
thinking has been circling around one problem so old that many people
are ashamed to name it. It happens sometimes that old enigmas of mankind
are kept dormant or veiled for several generations, then recover their
vitality and are formulated in a new language. And the problem is: Who
can justify the suffering of the innocent? Albert Camus, in The Plague,
took up the subject already treated in the Book of Job. Should
we return our ticket like Ivan Karamazov because the tear of a child
is enough to tip the scale? Should we rebel? Against whom? Can God exist
if He is responsible, if He allows what our values condemn as a
monstrosity? Camus said no. We are alone in the universe; our human
fate is to hurl an eternal defiance at blind inhuman forces, without
the comfort of having an ally somewhere, without any metaphysical
foundation.
But perhaps if not God,
there is a goddess who walks through battlefields and concentration
camps, penetrates prisons, gathers every drop of blood, every
curse? She knows that those who complain simply do not understand.
Everything is counted, everything is an unavoidable part of the
pangs of birth and will be recompensed. Man will become a God for
man. On the road toward that accomplishment he has to pass through
Calvary. The goddess's name is pronounced with trembling in our age:
she is History.
Leszek Kolakowski, a
Marxist professor of philosophy in Warsaw,* states bluntly
that all the structures of modern philosophy, including Marxist
philosophy, have been elaborated in the Middle Ages by theologians
and that an attentive observer can distinguish old quarrels under
new formulations. He points out that History, for instance, is being
discussed by Marxists in the terms of theodicy-justification of
God.
Irony would be out of place here. The question
of Providence, or of lack of Providence, can also be presented
in another way. Is there any immanent force located in le devenir,
in what is in the state of becoming, a force that pulls mankind
up toward perfec-
• At the time of this writing
Nhân Ngày Tình Nhân
GREGORY ORR
Three Dark
Proverb Sonnets
****
1.
None have done wrong who still
Have a tongue: even Cain
Can explain.
Yet every atrocity
Breeds its reciprocity:
No murder
That doesn't lead to further.
If I was in charge, those who
Praise rage would be made
To visit more graves.
Skulls
Annul. All knives should be dull.
And yet, once we'd built the coffin
We had no choice: we had to find a
corpse.
2.
Watch the leopard, not its spots.
It's the tiger that strikes,
Not the stripes.
The smart hide their claws
In their paws, then add
Fur for allure.
Combining smiles and wiles
And calling it "style."
A sword has a point,
But a needle
Is sharper and cleaner-
Less mess, less evidence.
It was never just the arrow
We bowed to; it was also the bow.
3.
Remember: every fist
Began as an open hand.
Even a bridge is a ledge
If you stray to its edge.
You can lead a horse
To water, but
You can't make it drink.
You can guide a fool
To wisdom,
But you can't make him think.
You can close one eye to evil,
But you'd better not blink.
In the dark, adjust your eyes.
In the darker, your heart.
from Mississippi Review
[ The Best American Poetry 2017]
NYRY/POETS
The Polish poet Ryszard Krynicki, born in a Nazi labor
camp in Austria in 1943, became one of the most prominent
poets of the New Wave generation of 1968, his poetry
offering what Adam Michnik has called "a strange and beautiful
marriage of Joseph Conrad's heroic ethics with a great metaphysical
perspective." Krynicki is the author of a body of work marked
at once by the solitude of a poet» maudit and solidarity
with a hurt and manipulated community. Our Life Grows,
published in Paris in 1978, was the first poetry collection to
appear as Krynicki intended, beyond the reach of the Communist
censorship that had crippled his earlier books. These poems, combining
a biting wit and rigorously questioning mind with a surreal imagination,
are a vital part of the story of postwar Europe.
"Krynicki has a rare gift
if naming things even in shortest poems; he goes straight
to the essence. Among Polish poets and readers he has the
reputation if a master, if an archer who never misses."
-Adam Zagajewski
"His dense verbal play, his allusive language, was
always a way if challenging official speech and ideology,
normative language, normative feeling."
- Edward Hirsch
[Lời giới thiệu bìa sau]
An unknown spy will send him a challenge
A perjured court will do
battle with him
- ADAM MICKIEWICZ
"Do Matki Polki" (To a Polish Mother)
I rebelled
but I think this bloody
knot
should be the very last
one
a man freeing himself
should tear loose
- ZBIGNIEW HERBERT
"Reflections on the Problem
of the Nation"
You survived not so that you might live
you have little time you
must give testimony
- ZBIGNIEW HERBERT
"The Envoy of Mr. Cogito"
and in that weeping
there is always
so much life
Và trong tiếng nức nở đó
Luôn luôn có
quá nhiều sự sống
- STANISEAW BARANCZAK
"The Day After Tomorrow"
This, Nothing
Or, Other Poems for Internal
Use
If it is true that the same suffering is harder to
endure for noble reasons than for base ones (people who
have stood motionless in a queue from one o'clock at night
to eight in the morning to obtain an egg would have had great
difficulty doing the same to save a human life), it may be that
virtue of a base kind is more resistant to adversity, temptation
and misfortune than virtue of a noble kind.
• • •
We know from experience that the truth is always universal
and reality is always particular, and yet they are
inseparable and even form a whole. We can find no way
out of this problem.
-SIMONE WElL
Cái Này, Hư Vô,
Chẳng Là Cái Gì
Hay
Những Bài Thơ Khác
dành cho Sử Dụng Nội Tại
Đúng, là, cũng nỗi đau đớn đó, thì
thật khó chịu đựng, với những lý lẽ phong nhã,
so với những lý lẽ bần tiện [những người đứng xếp hàng
bất động từ một giờ đêm tới tám giờ sáng để có
được 1 hột vịt hay gà, sẽ gặp khó khăn lớn nếu làm
như vậy để cứu một mạng người). Có thể là, 1 thứ đức hạnh
ở tầm thấp hèn, thì có nhiều sức đề kháng
hơn, đối với thế lực thù nghịch, sự cám dỗ, bất hạnh, so
với đức hạnh ở tầm phong nhã.
****
Chúng ta biết, nhờ kinh nghiệm, sự thực thì
luôn luôn phổ cập, và thực tại thì
luôn luôn đặc biệt, cá biệt, tuy nhiên,
chúng thật khó chia cắt, tách rời,
và ngay cả, tạo thành trọn 1 cục.
Thật vô phương, giải
được bài toán này.
[Hai trang đầu]
[Bài thơ mở ra tập thơ]
I Believe
for Stanislaw and Anna Baranczak
The truth is: at times I believe
in the existence of the
other world, I believe in ghosts,
in vampires sucking your
brain and blood,
perhaps in the end I fear
even more than believe
(which comes to the same
thing in our time: to fear-to
believe).
At those times I try not
to sit with my back to the door,
a door has a life of its
own, and what's more,
I've become superstitious,
I don't talk about my dreams
or hopes aloud anymore,
so I don't scare them off, I avoid
uttering words that could
come back to haunt me,
I cross them out of old
poems (and for that matter
not only I), but I won't
hide the fact
that I sometimes forget
these measures of security,
drink vodka, love a woman,
go on a trip, think
telepathic thoughts, turn
my back
to the door-which has its
own life
and sooner or later will
open,
and sooner or later I'll
feel the touch
of that icy hand, which
may only give me a sign
or may without warning tighten
around my heart,
the truth is: I don't believe
this is the hand
of Osip Mandelstam or Georg
Trakl,
or of any other poet who,
independently of the human
or inhuman death he met,
still speaks to us with his living words.
Tôi tin
Sự thực là, đôi khi tôi tin sự hiện
hữu của thế giới khác, tôi tin có ma,
có ma cà rồng hút khô não,
khô máu của bạn
Và có lẽ,
sau cùng tôi sợ nhiều hơn là
tin
(thì cũng mắm xốt
với thời của chúng ta: sợ - tin)
Vào những lúc
như thế, tôi không dám ngồi dựa
lưng vô cửa,
Một cái cửa có
đời riêng của nó, và quá
nữa,
Tôi trở nên
mê tín, tôi không la lớn
lên nữa, về những giấc mơ, hay hy vọng của mình,
như vậy tôi sẽ không làm chúng
sợ, bỏ đi mất.
Tôi tránh thốt
lên những từ mà chúng, có
thể trở về ám ảnh tôi
Tôi gạch bỏ chúng
ra khỏi những bài thơ cũ (vụ này, không
chỉ tôi) nhưng tôi sẽ không giấu diếm,
sự kiện này, đôi khi tôi quên những
những biện pháp an ninh, uống vốt ka, yêu 1 người
đàn bà, đi chơi 1 chuyến, nghĩ những điều tâm
linh, giao cảm, quay lưng về phía cửa - vốn có 1
đời riêng của nó
Và sớm muộn gì,
sẽ mở
Và sớm muộn gì,
tôi sẽ cảm thấy, mình đụng vô cái
tay lạnh giá đó
Chỉ nó, sẽ làm
1 dấu hiệu gì đó cho tôi.
Hoặc có khi, chẳng
cần làm dấu hiệu bóp nghẹt trái
tim tôi,
Sự thực là: Tôi
không tin, đó là tay của Osip Mandelstam,
hay Georg Trakl
Hay bất cứ một nhà
thơ nào, chẳng hề mắc mớ với 1 cái chết,
nhân đạo hay phi nhân mà anh ta gặp phải,
sẽ nói
với chúng ta với những tứ máu mủ, ruột
thịt, tươi rói, của anh ta.
Buddha, Christ
Buddha, Christ,
in vain you hide
in so many incarnations
Buddha, Christ
Phật ư, Chúa ư?
Mấy người ẩn náu,
nhập thân
Trong cái
chó gì
Thì ta cũng
nhận ra!
You Will Be Forgiven
You will be forgiven all the wrongs
you committed
if you committed them
to save someone's life.
I myself am the one
for whose sake I was blind to the
suffering of others
and deaf to their cries for help.
But did you really survive?
Well, I'm talking to you, I'm alive.
So that's what you call survival,
you miserable son of death?
It Was Beginning
And it was beginning to look like
all of Poland
would keep its lips shut tight
and become an impenetrable empire once again.
The Tongue, That Untamed Flesh
for Zbigniew
Herbert and Mr. Cogito
The tongue, that untamed flesh that grows
in a wound,
in the open wound of the mouth that
lives on false truth,
the tongue, that beating heart laid
bare, that naked blade
that is a defenseless weapon, that
truncheon that beats
down
the defeated uprisings of words, that
animal, daily tamed,
with human teeth, that inhumanity
that grows in us
and outgrows us, that animal fed on
a body's poisoned
flesh,
that red flag that we swallow and
spit out with the blood,
that forked thing encircling us, that
true lie deluding us,
that child that, learning the truth,
lies truthfully.
Album
EMPIRES
My grandmother prophesied the end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet.
One of your heroes was giving a speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.
There was no need to. They were all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure 1 understood.
Charles Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi tiên đoán ngày
tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô
lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh
thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng
tôi.
Một trong những anh hùng, Sáu Dân,
đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng
hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi
tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu
của bà.
Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành
Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai
nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng,
để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
Thơ Tháng Tư
CHARLES SIMIC
1938-
A dream may transform a moment
lived once, at one time, and change it into part of a nightmare.
Charles Simic, an American poet born in Serbia, remembers the time
of the German occupation in his country. This scene from childhood
is put in relief as the present which is no more, but which now, when
the poet writes, constantly returns in dreams. In other words, it has
its own present, of a new kind, on the first page of a diary of dreams.
Milosz
Một giấc
mơ có thể biến 1 khoảnh khắc mà bạn đã từng
có lần sống, ở một thời, và chuyển nó thành
1 phần của 1 cơn ác mộng. Charles Simic, nhà thơ Mẽo sinh
ở Serbia, nhớ thời kỳ Đức đô hộ xứ của ông. Cảnh sau đây,
từ thời thơ ấu được dùng làm bệ cho 1 hiện tại không
còn, nhưng vào lúc này, khi nhà thơ
viết, liên luỷ trở lại trong những giấc mơ.
Nói 1 cách khác, nó có
cái hiện tại của riêng nó, theo một kiểu mới,
ở trang đầu của 1 cuốn nhật ký của những giấc mơ.
EMPIRE OF DREAMS
On the first page of my dream
book
It's always evening
In an occupied country.
Hour before the curfew.
A small provincial city.
The houses all dark.
The store-fronts gutted.
I am on a street corner
Where I shouldn't be.
Alone and coatless
I have gone out to look
For a black dog who answers to my whistle.
I have a kind of Halloween mask
Which I am afraid to put on.
CHARLES SIMIC
Đế quốc của những giấc mơ
Ở trang đầu cuốn sách
mơ của tôi
Thì luôn luôn là 1 buổi chiều
tối
Trong 1 xứ sở bị chiếm đóng.
Giờ, trước giới nghiêm.
Một thành phố tỉnh lẻ.
Nhà cửa tối thui
Mặt tiền cửa tiệm trông chán ngấy.
Tôi ở 1 góc phố
Đúng ra tôi không nên có
mặt ở đó.
Co ro một mình, không áo choàng
Tôi đi ra ngoài phố để kiếm
Một con chó đen đã đáp lại tiếng
huýt gió của tôi.
Tôi mang theo 1 cái mặt nạ Halloween
Nhưng lại ngại không dám đeo vô.
These
few lines of poetry perfectly capture a nightmare, a disturbing and recurring
sleep dream. First Simic gives us the setting, muted violence and
destruction, isolation. Then he lays out the plot. The dreamer gone
out to find a dog on the streets, holding a Halloween mask that he
is afraid to put on.
This poem is a powerful recording of a nightmare. It
acts upon us, the readers, as discomfittingly as would a nightmare
of our own. It leaves us uncomfortable and unsure.
While this nightmare comes from Mr. Simic, as a work
of art, and as the sharing of a dream, it belongs to each of us to
interact with as we will. The significance of any dream is what we make
of it.
What does this dream evoke in each of us? What uncomfortable
questions come up for us? Are we faced with wearing the mask of “normalcy”
in order to survive a dangerous situation? Do we need to put it
on, or throw it away? Where in our lives are we unable to, or unwilling
to, put on the mask of conformity to violence? Where do we feel isolated
on a dangerous street corner? What do we need to do to find safety?
The key to creating meaning is to interact with the
dream (or work of art, or any life event) and fearlessly become
aware of what its message is for us, one that can be different for
each of us.
Then comes the hard part – to manifest the change in
our lives that the nightmare indicates is needed.
Source
Note:
Bình loạn trên, tình cờ vớ được trên net.
Cái
tay này có vẻ không đọc ra bài thơ, mà
chỉ có những kẻ nào đã sống cuộc sống chiến tranh,
giới nghiêm, hoả tiễn VC.... mới hình dung ra được.
Bạn đọc phải đọc bài thơ, song song với Cõi
Khác của GNV thì mới thấy đã!
Đâu phải ‘vô tư’ mà Milosz chọn bài
này đưa vô Thơ Tuyển Thế Giới!
Ông cũng kinh qua kinh nghiệm... VC này
rồi!
Bởi thế, thay vì Cõi Mơ, Cõi Khác,
thì Simic gọi là Đế Quốc Của Những Giấc Mơ!
Đế Quốc Đỏ, Vương Quốc Ma Quỉ, và bây giờ
là Đế Quốc Của Những Giấc Mơ, Những Ác Mộng.
Hai dòng
thơ chót mới tuyệt cú mèo:
Cầm cái mặt nạ Ma trong tay mà không
dám đeo vô, vì sợ biến thành Quỉ. (1)
Tu Fu
713-770
The situation of amassed adversity-winter, evening,
solitude, old age-can sometimes so depress that even a poet sure
of himself feels the uselessness of writing. Those of us who have
experienced such evening will recognize ourselves in that voice.
Milosz: The Book of Luminous Things
SNOW STORM
Tumult, weeping, many new ghosts.
Heartbroken, aging, alone, I sing
To myself. Ragged mist settles
In the spreading dusk. Snow scurries
In the coiling wind. The wineglass
Is spilled. The bottle is empty.
The fire has gone out in the stove.
Everywhere men speak in whispers.
I brood on the uselessness of letters.
Translated from the Chinese by Kenneth Rexroth
This poem may be considered as a last
testament of Rexroth's.
Milosz
A LONG LIFETIME
A long lifetime
Peoples and places
And the crisis of mankind-
What survives is the crystal-
Infinitely small-
Infinitely large-
KENNETH REXROTH
1905-1982
Kenneth Rexroth, who used to live in Japan, wrote
toward the end of his life a parable on Buddha, a poem of far-reaching nonattachment.
FROM "THE CITY OF THE MOON"
Buddha took some Autumn leaves
In his hand and asked
Ananda if these were all
The red leaves there were.
Ananda answered that it
Was Autumn and leaves
Were falling all about them,
More than could ever
Be numbered. So Buddha said,
"I have given you
A handful of truths. Besides
These there are many
Thousands of other truths, more
Than can ever be numbered."
Từ “Thành Phố Trăng"
Phật lấy 1 dúm
lá thu cầm trong tay
Và hỏi Gấu Cà Chớn
Thu như thế, là ở hết trong tay ta, đúng
không?
Gấu Cà Chớn lắc đầu,
Thu đầy trời Canada vào lúc này
Phật gật gù,
"Ta ban cho mi chỉ 1 dúm sự thực
Còn đầy ở ngoài kia, thì tự
mi kiếm lấy"
SOUTHERN BUSHMEN
In this Bushmen's song, there is a note of concern
and lament, but probably it's more expressive of a serene acceptance
of the immutable order of the world.
Milosz
THE DAY WE DIE
The day we die
the wind comes down
to take away
our footprints.
The wind makes dust
to cover up
the marks we left
while walking.
For otherwise
the thing would seem
as if we were
still living.
Therefore the wind
is he who comes
to blow away
our footprints.
Ngày Gấu ngỏm
Ngày Gấu ngỏm
Gió bèn xà xuống
Xóa sạch những vết chân của Gấu
Gió khuân bụi
Rải lên những vết chân
Khi Gấu tản bộ
Như thể Gấu vưỡn còn sống!
Bèn cám ơn gió 1 phát!
Thơ
Mỗi Ngày
GERARD DE NERVAL
Vers dorés
Eh quoi! tout est sensible!
PYTHAGORE
Homme, libre penseur! te crois-tu seul pensant
Dans ce monde où la vie éclate en
toute chose?
Des forces que tu tiens ta liberté dispose,
Mais de tous tes conseils l'univers est absent.
Respecte dans la bête un esprit agissant:
Chaque fleur est une âme à la nature
éclose;
Un myst ère d'amour dans le métal
repose;
'Tout est sensible!' Et tout sur ton être"
est puissant.
Gilded Verses
What! All is sentient!
Pythagoras (1)
Man, free thinker! do you imagine you think alone
in this
world where life bursts forth in all things? Your
freedom has at
its service the strength which you possess, but
the universe is
absent from all your councils. (2)
Respect in the animal an active spirit: each flower
is a soul
opened up to Nature; a mystery of love is at rest
within metal;
'All is sentient!' And' everything has power over
your being.
(1)
Probably derived from Delisle de Sales' De
la philosophie de la nature (1777) rather than from Pythagoras
himself.
(2) Conseils' could also be translated as 'counsels'.
Thơ Dzàng
Ê Qua! Tất cả thì mẫn cảm!
PYTHAGORE
Kon Người Kia Ơi!
Mi tưởng mi là 1 kẻ suy tư tự do đơn độc,
Trong thế giới mà cuộc đời nổ tung ra -
như tình yêu như trái phá con tim
mù lòa - ư?
Tự do của mi, có tên tà lọt
của nó, là sức mạnh mà mi sở hữu
Nhưng, trong tất cả những lời khuyến cáo
của mi, vũ trụ vắng mặt
Hãy kính trọng tinh thần sống động
ở nơi con thú;
Mỗi bông hoa là 1 linh hồn mở ra với
Thiên Nhiên;
Một bí mật tình yêu thì
nằm ngơi ở trong kim loại;
“Tất cả thì mẫn cảm!”
Và mọi thứ thì đều có quyền
uy, trên sự hiện hữu của mi.
Gérard de Nerval
(1808-55)
Nerval was a popular if unstable and tormented
member of the Romantic group. His exotic behavior (walking a lobster
on a blue silk lead, for example, in the Palais Royal gardens) later
deepened into insanity and culminated in his suicide, hanged from a
Paris streetlamp. His replacement of his real surname, Labrunie, by
the name of a country property he had known and loved in childhood
was characteristic of a man who sought to give all his experience the
value of myth.
His fame rests chiefly on a
short but highly influential series of densely allusive sonnets,
published in 1853 as Les Chimères.
Before this volume, he had written more recognizably Romantic verse
(represented by the first two examples here), and had translated Heine,
Hoffmann and Goethe.
In Les Chimè res
this traveler and scholar of the occult, of pagan metaphysics,
of mythology and anthropology, condensed his erudition into sonnets
of unusually compressed emotional power. They are endowed with a
subjective and mystical unity that escapes rational formulation, even
though most of the individual allusions can be decoded (to do so here
would require a vast number of footnotes, and exegeses of Nerval exist
in plenty).
Obsessed with reincarnation
and the Tarot pack, Nerval lived a life in which reality and
dream were fused in a mythical world. The present is here inhabited
by talismanic images from the past, many of them connected with
an unrequited love. He stands on the threshold of an ancient Golden
Age, awaiting its imminent rebirth.
The Alexandrine sonnet as Nerval
exploits it produces a fascinating tension between classicism of
form and visionary originality of content. Each poem, with its echoing
musicality and its evocative proper names in combinations following
dream-logic, is an infinite hallucination contained within a jewel.
It is easy to understand why he is often seen as a source of Surrealism,
a poet far ahead of his time. Some caution is needed here, however,
for : his composition was formal and lucid rather than 'automatic',
and another school of thought places him firmly in his own time as
a Romantic.
Major works: Les Odelettes 1852, Les
Chimères 1853
Note: Tuy thuộc trường phái lãng
mạn, nhưng qua lời giới thiệu trên đây, Nerval là
nguồn gốc của chủ nghĩa siêu thực. Ông đi trước thời
của mình. Nhà thơ sống cuộc đời, thực và mộng
trộn lẫn trong 1 thế giới huyền hoặc.
Thằng con lớn, Cu Tuấn & Cô Út, Xì
Lô @ Tây Ninh
Xì Lô thân thương,
Xì Lô, cô Út sinh ngày
13 tháng 4 năm 1975. Sau này những lúc gia đình
quá khổ sở, bố mẹ cô vẫn thường than thở, phải chi không
có cô chắc là gia đình đã đi Mỹ
từ những ngày tháng Tư năm đó rồi. Bữa nay sinh
nhật thứ 21, bố mẹ chỉ có cô ở bên. Mấy anh chị
của cô ở quá xa, biết ngày nào gặp lại.
Bố mẹ chỉ còn biết cầu nguyện tất cả đều khỏe mạnh, an lành.
Bố mẹ chỉ mong Xì Lô được hạnh phúc.
Người ta nói, những đứa trẻ sinh ra từ một gia đình
vợ chồng khôn...
Continue Reading
Comments
THERE ARE FOUR OF US
O Muse of Weeping ...
M. TSVETAEVA
I have turned aside from everything,
From the whole earthly store.
The spirit and guardian of this place
Is an old tree-stump in water.
We are brief guests of the earth, as it were,
And life is a habit we put on.
On paths of air I seem to overhear
Two friendly voices, talking in turn.
Did I say two? ... There
By the east wall's tangle of raspberry,
Is a branch of elder, dark and fresh.
Why! it's a letter from Marina.
November 1961 (in delirium)
If all who have begged help
From me in this world,
All the holy innocents,
Broken wives, and cripples,
The imprisoned, the suicidal-
If they had sent me one kopeck
I should have become 'richer
Than all Egypt’...
But they did not send me kopecks,
Instead they shared with me their strength,
And so nothing in the world
Is stronger than I,
And I can bear anything, even this.
1961
Anna Akhamatova
Everyman's Library ed
There are four of us
…And I simply wouldn’t come near it,
Renouncing all earthly goods.
“This place’s” guardian spirit
Became a snag in the woods.
In this life, we are all merely guests,
Life, itself, is a habit, no doubt.
I can hear, in the aerial jets,
Two voices conversing aloud.
Only two? By the eastern wall,
There's a fresh, dark branch of an elder,
Where the raspberry bushes have sprawled...
Marina has left me a letter.
1961
My heart was chilled and numb,
But my feet were light.
I fumbled the glove for my left hand
Onto my right.
It seemed there were many steps,
I knew – there were only three.
Autumn, whispering in the maples,
Kept urging: 'Die with me!
I'm cheated by joylessness,
Changed by a destiny untrue.'
I answered: 'My dear, my dear!
I too: I'll die with you.'
The song of the last meeting.
I see that dark house again.
Only bedroom candles burning,
With a yellow, indifferent, flame.
https://cuenglias.blogspot.ca/2014/11/songs-of-final-meeting-anna-akhmatova.html
Note: Còm, trên net.
Edward Hirsch rất mê bài thơ này, và
viết hẳn 1 chương về bài thơ, trong "How to... ", đọc tuyệt
lắm, Gấu tính giới thiệu hoài, mà vưỡn chưa....
Song of a Last Encounter
I walked without dragging my feet
but felt heavy at heart and frightened;
and I pulled onto my left hand
the glove that belonged to the right one.
There seemed to be countless steps,
though I knew there were only three,
and an autumn voice from the maples
whispered, 'Die with me!
I have been undone by a fate
that is cheerless, flighty and cruel.'
I replied, 'So have I, my dearest-
let me die one death with' you .. .'
The song of a last encounter:
I glanced up at a dark wall:
from the bedroom indifferent candles
glowed yellow ... And that was all.
(1911, Tsarskoye Selo)
Robert Chandler
Bài ca lần gặp chót
Ngực tôi lạnh như băng
Nhưng chân bước nhẹ hẫng
Cái tất phải
Tôi bận cho tay trái
Bực cầu thang, tưởng nhiều
Nhưng tôi biết, chỉ có ba
Thu thì thầm qua lá thông
Hãy chết cùng ta nhé!
Phần số lừa bịp tôi
Nó mới thâm hiểm tàn nhẫn làm sao
Tôi trả lời, OK.
Ta sẽ chết cùng mi!
Bài ca lần gặp chót:
Tôi ngước mắt nhìn bức tường âm u
Từ phòng ngủ
Những ngọn đèn cầy, dửng dưng
Với ánh lửa vàng vọt
Tất cả chỉ có thế!
Five Acts
Act 1
... These sixteen lines comprise one of the first poems
in the first book, Evening (1912), by Anna Akhmatova, nee Anna Gorenko.
Along with the two books that followed it, Rosary (1914) and White Flock
(1917), Evening sounds a note that had not been heard in literature before
and, perhaps, has not been heard again. I hear that note whenever I recite
this poem aloud. It echoes down the century, surviving translation.
Every poem is a scene of language. It
is a rite without a ceremony. To set this particular scene, it
is winter 1910-1911. Symbolism, the dominant literary mode of the time,
is in self-declared crisis. In the Bryullov reading room in the Russian
Museum in St. Petersburg a twenty-one-year-old bohemian, a provincial
girl with a pagan childhood who has been writing poems from the time
she was eleven years old (her father had playfully called her "a decadent
poetess" even before that) read the galleys of Innokenty Annensky's posthumous
book, The Cypress Box, and understood something dramatic about poetry.
Her husband, the faithful young symbolist poet Nikolay Gumilyov ("as a
boy he believed in symbolism as people believe in God. It was an inviolable
sacrament. But the closer he approached symbolism ... the more his faith
faltered") traveled to Africa for six months, and his spouse started writing
the poems that would help bring Russian literature into the twentieth
century. Acmeism and Futurism were both being hatched. When Serge Makovsky
accepted some of these poems for the magazine Apolio, Anna Gorenko's father
urged her "not to befoul a good respected name" and to take a pseudonym.
Thus "Anna Akhmatova"-a name with five open as and an exotic Tatar feeling-entered
Russian literature at the top of the Russian alphabet.
It was Osip Mandelstam, the other great
Acmeist poet, who first observed that the roots of Akhmatova's art
are in the nineteenth-century Russian novel, in Tolstoy, Turgenev, Dostoevsky,
and that: her poetic form "was developed with a glance at psychological
prose." Symbolism is indicted by this poetry. A dramatic clarity
of expression stands against its moody vagueness and otherworldly mysticism.
Look how swiftly Akhmatova sets the scene with tangible details and
bold novelistic strokes. She also irrevocably marks that scene with
her gender. Here a literal translation is helpful:
So helplessly my chest grew cold
But my steps were light.
I put on my right hand
My left-handed glove.
(translated by Joanna Trzeciak)
These lines are spare, concentrated, severe.
What seems characteristic of the dramatic
lyric and not of the nineteenth-century novel is the process of terrific
distillation operating here, a condensation so extreme it seems more
reminiscent of Sappho than of Dostoevsky, more Li Po than Tolstoy. The
speaker is narrator, observer, and actor all at once. She speaks with
the rhythm of Russian verse, her words rhyme. She is not the author exactly
("When I state myself, as the Representative of the Verse-it does not
mean-me-but a supposed person," Emily Dickinson explains), but she is
not a full-fledged fictional construct either (as in, say, a dramatic
monologue by Robert Browning). The sliding line between rhetorical projection
and revealing self-confession may be characteristic and perhaps even
constitutive of a certain first-person love poem.
I'm struck by the helpless sense of exposure
in the first two lines, the terrible self-division, the paradox of
a speaker declaring that her breast was cold but her footsteps light,
suggesting both numbness and liberation, the fateful onrushing freedom
of a woman riven in half. An element of mortal panic that seems palpable
carries over to the next two lines, the next extraordinary gesture. Marina
Tsvetaeva has given an insightful accounting of these two lines, and her
enthusiasm seems an exemplum of poetic responsiveness, a model of how to
read. She writes:
When in the first poem of her first book, the young Akhmatova
conveys the confusion of love in the lines:
I drew my left-hand glove
onto my right hand-
she conveys at one blow all feminine and all lyric confusion
(all the confusion of the empirical!), immortalizing with one flourish
of the pen that ancient nervous gesture of woman and of poet who at life's
great moments forget right and left-not only of glove, but of hand,
and of country of the world, suddenly losing all their certainty. Through
a patent and even penetrating precision of detail, something bigger than
an emotional state is affirmed and symbolised-a whole structure of the
mind. (A poet lets go the pen, a woman lets go her lover's hand, and
immediately they can't tell the left hand from the right.) In brief,
from these two lines of Akhmatova's, a broad, abundant flow of associations
comes into being, associations which spread like the circles from a flung
pebble. The whole woman, the whole poet is in these two lines; the whole
Akhmatova, unique, unrepeatable, inimitable. Before Akhmatova none of
us portrayed a gesture like this. And no one did after her.
( "Poets with History and Poets without History")
We might say now that the gesture of putting the left glove
on the right hand enacts a blur in the two spheres of the brain during
a moment of crisis. It is a blotting out, a moment when the mind goes
somewhere else. And that disturbing loss of equilibrium, that radical
redefinition of time, that entry into an atemporal present, is one of
the key features of lyric poetry.
[suite]
Edward Hirsch: How to....
This craft of ours, sacred
and bright,
Has lasted too many years to tell . .
.
The world is lit by it without light,
But, still, a poet has yet to dwell
On the thought that there's no wisdom
or hell,
No age and, perhaps, no death as well.
1944
Anna Akhmatova
Thủ bản này -Tứ
Tấu Khúc - của chúng ta, thiêng liêng
và sáng ngời
Nó sẽ sống dài dài
rất nhiều năm để kể….
Thế giới được chiếu sáng nhờ nó,
đếch cần đến ánh sáng
Tuy nhiên, thi sĩ Gấu Cà
Chớn thì vưỡn cư ngụ - trong căn nhà của hữu
thể, thì cứ chôm đại chữ của Heidegger –
Khư khư với cái ý nghĩ,
là,
Làm đếch gì có minh
triết, hay địa ngục
Không tháng năm, tuổi tác,
thế hệ, thời kỳ cái con mẹ gì hết
Và có lẽ
Đếch có, luôn, cả, cái
chết!
To My POEMS
You led me into the trackless
woods,
My falling stars, my dark endeavor.
You were bitterness, lies, a bill of goods.
You weren't a consolation-ever.
1961
Gửi những bài thơ của tôi
Mi dẫn ta vô một cánh rừng không
lối đi
Những vì sao rơi rụng của ta, nỗi cố gắng
âm u của ta
Chỉ là cay đắng, dối trá, đồ dởm
Niềm an ủi ư, không bao giờ!
A poet has a secret relationship with everything
that he has ever written and this often is at odds with what the
reader thinks about one poem or another.
For example, in my first book, Evening (1912),
I really only like the lines:
Becoming intoxicated by the sound
of a voice,
That resembles yours."
I even think that a lot of things in my poetry came
out of those lines.
On the other hand, I very much like a somewhat dark
and not at all typical poem of mine: "I came to take your place,
sister," which has remained without sequel. I like the lines: And
the tambourine's beat is no longer heard, And I know, the silence
is frightening."
What the critics still mention often leaves me completely
indifferent.
[Nhật ký]
Thi sĩ thì thể nào
cũng có 1 liên hệ thầm kín, với mọi câu
thơ mà mình đã từng viết ra.
Tôi cực mê câu thơ sau đây.
Có thể nói, mọi cái gì
gọi là thơ của tôi, đều từ câu thơ đó,
mà ra:
Tôi nhiễm độc xì ke từ
1 giọng nói
Giọng của Em, giọng Bắc Kít
Giọng BHD
Một con bé Bắc Kít, 11 tuổi
Hà, hà!
My NAME
From out of nowhere it came,
Murky, a Tartar claim.
It sticks a pin in my bubble,
The name for this name is trouble.
1962
Tên của ta
Dưng không trồi lên
U ám, có mùi Hung Nô
Chích 1 phát vô cái bong
bóng của ta
Đúng là 1 cái tên làm
phiền ta
As her protégé
Joseph Brodsky writes:
When
her father learned that his daughter was about to publish
a selection of her poems in a St. Petersburg magazine, he called
her in and told her that although he had nothing against her
writing poetry, he'd urge her "not to befoul the good respected
name" and to use pseudonym. The daughter agreed, and this is how
"Anna Akhmatova" entered Russian literature instead of Anna Gorenko.
Khi
biết cô gái rượu của mình tính in
thơ trên một tờ báo ở St. Petersburg, ông
bố bèn bảo, rằng bố cũng không cấm cản một việc
làm như vậy - làm thơ, và rồi in thơ -
nhưng theo bố, đừng đem xấu xa đến cho dòng họ nhà
mình, con nên tìm một bút hiệu. Và
thế là “Anna Akhamatova” đi vào văn học Nga, thay
vì “Anna Gorenko”.
The five open a's of Anna Akhmatova
had a hypnotic effect and put this name's carrier firmly at the
top of the alphabet of Russian poetry. In a sense, it was her first
successful line .... This tells you a lot about the intuition and
quality of the ear of this seventeen-year-old girl who soon after her
first publication began to sign her letters and legal papers as Anna
Akhmatova.
There’s nothing to be sad about.
Sadness is a crime, a prison.
A strange impression, I have risen
From the grey canvas like a sheet.
Up-flying arms, with a bad break,
Tormented smile – I and the sitter
Had to become thus through the bitter
Hours of profligate give and take.
He willed it that it should be so,
With words that were sinister and dead.
Fear drove into my lips the red,
And into my cheeks it piled the snow.
No sin in him. I was his fee.
He went, and arranged other limbs,
And other draparies. Void of dreams,
I lie in mortal lethargy.
– by Анна Ахматова (Anna Akhmatova) (1912)
– from Вечер (Evening, 1912), translation
by D. M. Thomas
Thơ
Mỗi Ngày
Second hand
Barbara
Remember Barbara The rain was falling endlessly on Brest
...
Continue Reading
Thơ Mỗi
Ngày
Album
W. S. MERWIN
(1927- )
The New Song
For some time I thought there was time
and that there would always be time
for what I had a mind to do
and what I could imagine
going back to and finding it
as I had found it the first time
but by this time I do not know
what I thought when I thought back
then
there is no time yet it grows less
there is the sound of rain at night
arriving unknown in the leaves
once without before or after
then I hear the thrush waking
at daybreak singing the new song
ALLEN GINSBERG
(1926-1997)
New Stanzas for
Amazing Grace
I dreamed I dwelled in a homeless place
Where I was lost alone
Folk looked right through me into
space
And passed with eyes of stone
O homeless hand on many a street
Accept this change from me
A friendly smile or word is sweet
As fearless charity
Woe workingman who hears the cry
And cannot spare a dime
Nor look into a homeless eye
Afraid to give the time
So rich or poor no gold to talk
A smile on your face
The homeless ones where you may walk
Receive amazing grace
I dreamed I dwelled in a homeless place
Where I was lost alone
Folk looked right through me into
space
And passed with eyes of stone
nguyễn thùy song thanh
http://www.gio-o.com/NguyenThuySongThanh.html
CỌNG
CỎ KHÔ
Trong Sự Vui Mừng Lớn cho muôn
dân
Hồn xác tôi hóa
thành cọng cỏ khô trong
máng chiên
Nơi thành Bết-lê-hem
Không giá trị chi
Nhưng cọng-cỏ-khô-tôi
thấm đẩm mùi hương đầu đời
của Jesus hài nhi
Cứt su và nước tiểu của
Đấng Con Trời giáng sinh
Mai kia bạn hỏi tôi đã
làm gì
Tôi vẫn đang tìm
nhặt
Những ngón tay đánh
rơi của Thượng Đế
Là Lẽ Thật
Là Sự Sáng
Là Tình Yêu
Là Ân Sủng
Rơi phủ trên tôi
một đời trần thế
(trích tập Những
Ngón Tay Đánh Rơi Của Thượng Đế)
25.12.2017
Note: Đọc, thì bèn nhớ đến bài
haikhu của Buson, dưới đây.
Tks.
NQT
BASHO'S TOMB AT KONPUKU-JI TEMPLE
Thăm mộ Basho
I will die too
let me be a dry grass flower
here by the monument
Tớ sẽ chết
Hãy cho tớ là bông hoa cỏ khô
Bên nấm mồ
A woman is gathering
the ashes of someone she loves
a violet flowering close to her
Một người đàn bà thu gom tro than của
một người thân thương của bà
Một bông hoa nở tím, ngay kế bên
bà.
Collected Haiku of Yosa Buson
Translated by W.S. Merwin & Takako
Lento
Note: Bài thơ haiku,
trên, làm GCC nhớ tới bài thơ của Thích Nhất Hạnh,
rất nổi tiếng, trong thời chiến tranh Mít, và hình như
đã từng được PD phổ nhạc, dưới đây.
Lạ, là khi đặt hai bài thơ song song,
thì 1 hình ảnh mới, bật ra, với GCC, và nó
lại làm GCC nhớ đến cái lần, thằng em trai, vô
nhà bảo sanh thăm thằng con trai lớn của Gấu, mới sinh, rồi
đi luôn:
Liệu cái bông hoa màu tím,
mớ tro than thu gom, là một?
Peace
They woke me this morning
To tell me my brother had been killed in battle.
Yet in the garden, uncurling moist petals,
A new rose blooms on the bush.
And I am alive, can still breathe the fragrance of roses
and
dung.
Eat, pray, and sleep.
But when can I break my long silence?
When can I speak the unuttered words that are choking
me?
-Nhat Hanh
Hòa
Bường
Người ta đánh thức
tôi
Để báo tin thằng em tôi tử trận
Ngoài vườn, một bông hoa mới nở....
NOTE FROM THE TRANSLATORS
Yosa Buson (1716-1783)
Today the haiku master Buson
is regarded as one of the greatest of Japanese poets. Yet for a
century after his death his work was in eclipse, overshadowed by
the fame and popularity of Basho. That all changed with Masaoka Shiki's
treatise Haiku Poet Buson (1896, revised 1899), in which he analyzed
Buson's haiku, in part, from the viewpoint of modern realism.
Shiki acknowledged Basho's "reputation
as the incomparable haiku poet." Then he made the startling declaration
that Buson is "equal to, or even surpasses Basho."
At the time Japan was in the process
of transforming itself into a modern nation, and haiku seemed like
a relic of the past. Shiki took Buson as his inspiration in establishing
and leading a reform movement that successfully revived haiku as
a viable poetic form for the twentieth century.
This was actually the second time
Buson had been central to reviving the art of haiku. In his own lifetime,
when verse writing was too often treated as a social game, he himself
had led a movement to return to the aesthetics of Basho.
Buson deeply respected and paid homage
to his great predecessor throughout his life, but his poetry is
utterly his own in its materials, themes, and voice. He was a major
artist as well as a master poet, and his artist's powers of observation
are evident in his verse. He is uniquely carefree and unbound by convention,
conveying the realities of life with immediacy and warmth. His stated aesthetic
principle was "use the commonplace and transcend the worldly."
His achievement in Japanese poetry
extends beyond haiku. Buson also wrote free-form poems that blended
Japanese and Chinese verse styles. These are now known as haishi, a term applied to them in the
twentieth century. Some say that they are forerunners of Japanese modern
poetry, a hundred years ahead of their time.
Yosa Buson
Japanese
1716-1783
UPON MARYUNA'S REQUEST FOR A VERSE
TO GO ON HIS PAINTING OF A BLACK DOG
[Bạn cần 1 câu thơ cho 1 bức họa 1 con chó
đen]
His bark comes
out of the darkness inside him
deep in the autumn night
Tiếng sủa từ khối đen trong nó
Vọng ra
Ở cõi tít mù của đêm thu
It is autumn in me
but tomorrow will come
and I will miss tonight
Thu chìm trong Gấu
Nhưng ngày mai sẽ tới
Và Gấu sẽ nhớ đêm nay
Is it a winter shower
or a mouse running
over the koto strings
Đậu bằng quá giá vũ như ti
Hay chỉ là con chuột dạo chơi trên mấy
sợi dây đờn?
BASHO'S TOMB AT KONPUKU-JI TEMPLE
Thăm mộ Basho
I will die too
let me be a dry grass flower
here by the monument
Tớ sẽ chết
Hãy cho tớ là bông hoa cỏ khô
Bên nấm mồ
In the wild winter wind
the voice of the water is torn
falling across the rocks
Gió Đông hung bạo,
Tiếng nước bị xé giữa những tảng đá mới dữ dằn làm
sao
I bury the charcoal embers
in the ashes
my hut is covered with snow
I wear this hood
rather than look as though
I belonged to the drifting world
Silence
of an oak grove
the moon high in the trees
A mouse peeps out
eyeing the freezing oil
of my lamp
Whenever I go to bed
with my socks on
I have bad dreams
PUTTING ON MY STRAW HAT AND
SANDALS FOR A JOURNEY
Since Basho went
not a single year
has lived up to its promise
Kể từ Basho đi xa,
Không có năm nào vươn tới chỉ,
Như nó hứa hẹn với ông!
1990-2010, haiku
translated with Takaka Lento
W.S. Merwin
Portraits
(To the memory of Akhmatova)
Nothing visits
the silence,
No apparition of lilac,
But an inexplicable lightness
I sense when I breathe your name.
It's not All Souls'. The planet
Spins on without you, Anna.
You're now the Modigliani
Abstract. No candles flame
To amass shadows. Light elected
You. Annenkov's portrait ... erect head
That tilts with a swan's curve
Towards the Neva, towards the living
Surge of the iced river
That will not stop nor swerve
But plunge, if need be, within you
...
Till room and time started spinning,
I've gazed, I've tried to splinter
With love that smiles at
stone
This photo of nineteen-twenty,
The only one where your tender
Pure and gamine face, grown
One with the page you've entered,
Blurs at the lips, half-surrenders
A smile ... And your lips open
To me, or familiar Chopin ...
It must have been a dream.
But dreams are something substantial,
The Blue Bird, the soft embalmer.
It doesn't smell of catacombs
There, and your black fringe is no nimbus.
A cathedral bell tolls dimly.
The unmoving stylus hums.
So deep has been this trance,
Surely its trace fell once,
Caught your eyes and startled you,
Between the legendary embankment
And your House on the Fontanka?
I, like
the woman who
Had touched the healer's soul,
Find everything made whole
In your poetry's white night,
Envy the poor you kept watch
With, outside the prison; the touch
Of a carriage-driver, your slight
Hands bearing down with a spring, one
Moment in the tense of his fingers.
Poems outlive a Ming case,
But your ageing portraits bring
me
The rights of a relative
To grieve. Tonight alone I could spare
All that is written here
To restore the chaos where
The Neva deranges your
hair,
You laugh, weep, burn
notes, live.
Stone
The first book of a poet should
be called Stone
Or Evening, expressing in a single word
The modesty of being part of the earth,
The goodness of evening and stone, beyond the
poet.
The second book should have a name blushing
With a great generality, such as My Sister
Life,
Shocking in its pride, even more in its modesty:
Exasperated, warm, teasing, observant, tender.
Later books should withdraw into a mysterious
Privacy such as we all make for ourselves:
The White Stag or Plantain.
Or include the name
Of the place at which his book falls open.
There is also the seventh book, perhaps, the
seventh,
And called The Seventh Book because it
is not published,
The one that a child thinks he could have written,
Made of the firmest stone and clearest leaves,
That a people keep alive by, keep alive.
A RIDE
My feather was brushing the top of the carriage
And I was looking in to his eyes.
There was a pining in my heart
I could not recognize.
The evening was windless, chained
Solidly under a cloud bank,
As if someone had drawn the Bois de Boulogne
In an old album in black indian ink.
A mingled smell of lilac and benzine,
A peaceful watchfulness.
His hand touched my knees
A second time almost without trembling.
ANNA AKHMATOVA
Translated by D.M Thomas
Russians Poets
Everyman’s Library
Một chuyến đi
Cái lông chim vũ của tôi thì
đang quét quét
Ở trên chỏm chiếc xe ngựa
Và tôi thì đang nhìn
vô mắt chàng
Có cú nhói ở tim tôi
Tôi không thể nhận ra
Buổi chiều không gió,
Bị xiềng thật chặt bên dưới một bức tường
mây
Như thể 1 người nào đó đã
vẽ công viên Bois de Boulogne [Paris]
Trong 1 cuốn an bum cũ, bằng mực đen Ấn Độ
Một mùi tử đinh hương lẫn mùi xăng,
Một chăm chú theo rõi bình
yên
Tay chàng bèn chạm khẽ vào
đầu gối tôi
Lần thứ nhì
Gần như không run run.
Ui chao, đọc thì lại nhớ lần đi với Seagull.
Khi từ giã, thấy tội quá, hẳn thế, em mới đưa tay ra...
IN DREAM
Black and enduring separation
I share equally with you.
Why weep? Give me your hand,
Promise me you will come again.
You and I are like high
Mountains and we can't move closer.
Just send me word
At midnight sometime through the stars.
1946
Trong mơ
Xa cách, đen thui và dai như đỉa
Ta chia đều với mi
Tại sao khóc? Già rồi mà
còn vãi lệ hoài, không sợ con nít
nó cười cho ư?
Đưa tay ra, ta cho phép mi cầm tay ta,
như lần từ giã chót, trên chiếc xe mà
ta mượn của 1 người bạn
Hãy hứa với ta, mi sẽ lại qua Cali,
thăm ta.
Ta và mi là hai ngọn đỉnh trời,
Sừng sững, khó mà gần gũi nhau
hơn.
Hãy mail cho ta, vậy là OK rồi
Vào lúc nửa đêm, cỡ đó,
Qua những vì sao.
To Seagull, en attendant Noel.
Take Care
Missing U
GNV
'YOU'RE LIKE A STRANGE AND
VERY STRICT DIET'
You're like a strange and very strict diet;
I'm learning to obey and be quiet.
Your love, my lover, my squire,
Is a trial by iron and fire.
You forbid me to sing and to smile,
And praying's been banned for quite a while.
As long as we don't separate,
You think everything's great!
So, a stranger to everything,
I live and no longer sing.
You might just as well
Forbid me heaven and hell.
Anna Akhmatova
Translated by D.M. Thomas
Tribute to Dinh Cuong
http://www.tanvien.net/Tribute_1/Dinh_Cuong_Memoriam.html
Lần gặp Đinh Cường lần đầu mà cũng là
lần cuối, sau này, nghĩ lại, y chang những lần gặp định mệnh
trong đời Gấu, theo nghĩa, phải có Lão Tặc Thiên
dính vô, nếu không, không thể xẩy ra.
Thí dụ, lần suýt đuối khi còn
nhỏ, Gấu đã kể đôi lần rồi (1): Thấy thiên
hạ nhảy xuống ao bơi ào ào, thằng nhóc nghĩ
trong đầu, ai cũng bơi được, chứ sao, thế là bèn cũng
phóng xuống, và chìm nghỉm, may nhờ 1 đấng
đứng kế bên, thuộc dạng đàn anh, nhảy theo, xách
lên.
Rõ ràng là anh ta đứng
đó, để chờ làm cái bổn phận đó, tếu
thế!
Cũng thế, là lần gặp ĐC.
Nếu không gặp ĐC, không có
vụ nhường phòng cho đấng bạn quí của anh, qua
tá túc bên nhà bạn Bạn, thì
làm sao thoát chết vì cái vụ tự làm
thịt mình, ở PLT?
ĐC không phải thứ đến nhà bạn, ngủ. Anh
đi giang hồ, là ở khách sạn, không khi nào
làm phiền bạn bè, dù thành phố buồn, hay
không buồn, lạ hay không lạ, có bạn quí
hay không có bạn quí. Do trước đó,
lái xe, tí cán người, hay tí xém
chết, vì buồn ngủ, anh phải đến nhà NDT, để phòng
hờ lỡ gặp chuyện không may, còn có người biết.
Thê lương nhất, hay, cảm động nhất, thằng cha
già khú đế, là Lão Tặc Thiên, để mắt
tới Gấu Cà Chớn, là lần ở Đỗ Hòa. Phải có
thằng chả, Gấu về già, phán, như Einstein, phán,
lần ông khám phá ra luật tương đối. Cái
“great mistake” của Einstein, như ông nhìn nhận, là
tin vào định mệnh thuyết, tức là tin có 1
ông Trời!
https://www.goodreads.com/…/sh…/197053.You_Will_Hear_Thunder
You Will Hear Thunder by Anna Akhmatova
You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on
fire.
That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed
for,
Leaving my shadow still to be with you.
Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó
đã từng, vào lúc đó, sẽ cháy
bừng bừng
Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả sẽ
trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ
mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong
đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng
đời thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.
ANNA SWIRSZCZYNSKA [SWIR]
(born 1909)
ANNA Swirszczynska [Swir] was born in Warsaw, daughter of
a painter, and grew up in an artistic milieu. Her first volume, short
prose-poems published in 1936, secured for her the reputation of a refined
crafts woman consciously drawing from medieval Polish poetry and
from the imagery of painting. The years spent in Nazi-occupied Warsaw
and her service as a military nurse during the Warsaw Uprising of
1944 marked her profoundly, but she found a form adequate to those
experiences only many years later. As she says herself, a writer
has two basic tasks: 'First, to create his/her own style. Second,
to destroy his/her own style. The second is more difficult'. She reached
her goal-a 'naked' style clinging to reality-late in life, in the
nineteen seventies, but those who knew her early poetry recognized an
internal logic in her development. In her mature phase she is the author
of violently feministic poems as well as of brutal erotic poems of a
rare concision. Her chronicle of the Warsaw Uprising composed of tense
descriptive poems, Building the Barricade, appeared in 1972. (In 1979
a bilingual edition, with a translation into English by Magnus J. Krynski
and Robert A. Maguire, was issued in Cracow.) She is fierce, lucid, ecstatic,
terrifying. Though recognized as an eminent poet, she occupies a place
somehow apart, perhaps because she often disconcerts critics.
ANNA SWIRSZCZYNSKA
I Knocked My Head Against the Wall
As a child
I put my finger in the fire
to become
a saint.
As a teenager
every day I would knock my head against the wall.
As a young girl
I went out through a window of a garret
to the roof
in order to jump.
As a woman
I had lice all over my body.
They cracked when I was ironing my sweater.
I waited sixty minutes
to be executed.
I was hungry
for six years.
Then I bore a child,
they were carving me
without putting me to sleep.
Then a thunderbolt killed me
three times
and I had to rise from the dead three times
without anyone's help.
Now I am resting
after three resurrections.
Anna Swir sinh tại Warsaw, bố là họa sĩ, lớn lên
trong môi trường nghệ thuật. Tác phẩm đầu tay, những
bài thơ xuôi ngắn, xb năm 1936 đã bảo đảm với thiên
hạ, đây là một nữ thi sĩ rất ư là ưu tư về việc làm
thơ, và thơ của bà lấy nguồn từ thơ Ba Lan thời trung
cổ, và từ hình ảnh hội họa. Những năm Warsaw bị Nazi
đô hộ, và thời gian phục vụ, như nữ y tá trong
quân ngũ, trong cuộc nổi dậy Warsaw Uprising 1944, tạo ấn tượng
sâu đậm ở nơi bà, nhưng phải những năm sau đó, nó
mới khiến bà tìm ra được một thể loại xứng đáng với
những kinh nghiệm này.
Như chính bà nói, một nhà
văn thì có hai nhiệm vụ cơ bản, thứ nhất, kiếm ra 1
văn phong riêng cho mình, thứ nhì, huỷ diệt nó.
Cái nhiệm vụ thứ nhì thì rất ư là khó
khăn.
Bà tới được cái “goal” này - một
văn phong trần trụi bám chặt vào thực tại – vào
lúc muộn màng ở trong đời của bà, thập niên
1970, nhưng những ai biết những dòng thơ đầu đời của bà,
thì nhận ra, cái lô gic nội tại của phát
triền, nảy nở. Vào cái lúc trưởng thành rất
ư là bảnh tỏng của mình, bà là tác
giả của những bài thơ, nữ tính, dữ dằn, cũng như là
những bài huê tình tàn ác, dã
man, "của 1 thứ súc tích hiếm hoi". Ký của bà,
về cuộc nổi dậy, gồm có những bài thơ miêu tả, căng
thẳng, “Xây dựng 1 chiến tuyến”, xuất hiện năm 1972. [Bài
thơ này, Mít đọc, thì bèn nhớ đến "Hãy
cho anh khóc bằng mắt em, những cuộc tình duyên Budapest",
của TTT]
Bà thì thật là hung dữ, sáng
suốt, tới đỉnh, cực kỳ ngây ngất… khủng khiếp.
Tuy được coi là nhà thơ thần sầu, nhưng
lại chiếm giữ 1 vị trí riêng lẻ, có lẽ là
do bà rất tởm lũ phê bình gia!
Thơ
Mỗi Ngày
Poem-a-day
December
W. S. MERWIN
(1927- )
The New Song
For some time I thought there was time
and that there would always be time
for what I had a mind to do
and what I could imagine
going back to and finding it
as I had found it the first time
but by this time I do not know
what I thought when I thought back then
there is no time yet it grows less
there is the sound of rain at night
arriving unknown in the leaves
once without before or after
then I hear the thrush waking
at daybreak singing the new song
ALLEN GINSBERG
(1926-1997)
New Stanzas for
Amazing Grace
I dreamed I dwelled in a homeless place
Where I was lost alone
Folk looked right through me into space
And passed with eyes of stone
O homeless hand on many a street
Accept this change from me
A friendly smile or word is sweet
As fearless charity
Woe workingman who hears the cry
And cannot spare a dime
Nor look into a homeless eye
Afraid to give the time
So rich or poor no gold to talk
A smile on your face
The homeless ones where you may walk
Receive amazing grace
I dreamed I dwelled in a homeless place
Where I was lost alone
Folk looked right through me into space
And passed with eyes of stone
BEZHETSK
There are white churches there, and the crackle
of icicles,
The cornflower eyes of my son are blossoming
there.
Diamond nights above the ancient town, and
yellower
Than lime-blossom honey is the moon's sickle.
From plains beyond the river dry snow-storms
fly in,
And the people, like the angels in the fields,
rejoice.
They have tidied the best room, lit in the
icon-case
The tiny lamps. On an oak table the Book
is lying.
There stern memory, so ungiving now,
Threw open her tower-rooms to me, with a
low bow;
But I did not enter, and I slammed the fearful
door;
And the town rang with the news of the Child
that
was born.
26 December 1921
Akhmatova
Translated by D.M. Thomas
BEZHETSK
Ở đó có những giáo đường màu
trắng và những chuỗi nước đá đóng băng vỡ rạn
Ở đó, đôi mắt như chòm
hoa bắp của con trai tôi cũng đang rộ nở tưng bừng (1)
Trời đêm lóng lánh kim
cương soi trên vòm con phố cổ
Và vầng trăng khuyết còn óng
vàng hơn cả màu mật hoa chanh
Những cơn bão tuyết khô khốc
thổi về từ những đồng bằng xa xa bên kia dòng sông
Và người dân, như những thiên
thần trong những ruộng đồng, cũng hoan ca hòa điệu
Họ đã dọn dẹp sắp xếp căn phòng
đẹp nhất, đã đốt sáng ngọn đèn nhỏ đặt
trong chiếc hộp xinh
Đã đặt lên chiếc bàn
gỗ sồi cuốn Thánh Kinh
Ở đó, ký ức khắc nghiệt xưa,
giờ lại càng khó chấp nhận, đã cúi
đầu mở toang những căn phòng trên ngọn tháp
cho tôi.
Nhưng tôi đã không bước
vào. Và tôi đã đóng sầm
lại cánh cửa đáng sợ ấy.
Và khắp thành phố đã
ngân vang báo tin Chúa Hài Đồng vừa
mới ra đời
(1)
Cornflower không phải là hoa
bắp, mà là thứ hoa này, tiếng Việt không
biết gọi là gì. Nó giống hoa cúc
xanh. Tạm dịch,
Ở đó, đôi mắt màu xanh
hoa cúc của con tôi đang bừng nở .
Nghe vẫn kỳ kỳ .
K
Tks. NQT
Edward Hirsch
Elegy for the Jewish Villages
-After Antoni Slominsky
The Jewish villages in Poland are gone now-
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
There are no Sabbath candles lit in the windows,
no chanting comes from the wooden synagogues.
The Jewish villages in Poland have vanished
and so I walked through a graveyard without graves.
It must have been hard work to clean up after the war:
someone must have sprinkled sand over the blood,
swept away the footprints, and whitewashed the walls
with bluish lime. Someone must have fumigated
the streets, the way you do after a plague.
One moon glitters here-cold, pale, alien.
I stood in the dark countryside in summer but
could never find the two golden moons of Chagall
glittering outside the town when the night lights up.
Those moons are orbiting another planet now.
Gone are the towns where the shoemaker was a poet,
the watchmaker a philosopher, the barber a troubadour.
Gone are the villages where the wind joined biblical
songs
with Polish tunes, where old Jews stood in the shade
of cherry trees and longed for the holy walls of Jerusalem.
Gone now are the hamlets that passed away
like a shadow that falls between our words.
I am bringing you home the story of a world-
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
Come close and listen to this song-
the Jewish villages in Poland are gone now-
from another one of the saddest nations on earth.
Edward Hirsch: The Living Fire
Bi Khúc Làng Do Thái
ở Ba Lan
-Theo Antoni Slonimsky
Những làng Do Thái ở Ba Lan thì
không còn
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
Chẳng còn những ngọn đèn cầy Sabbath thắp
lên ở nơi cửa sổ
Không còn tiếng thánh ca từ những
giáo đường bằng gỗ
Những làng Do Thái ở Ba Lan thì
biến mất
Và như thế, tôi bước qua những nghĩa địa
không mồ mả
Phải là 1 công việc cực nhọc, dọn dẹp, sau
chiến tranh
Một người nào đó phải rắc cát lên
máu
Xóa vết chân, lau cọ tường, với lá
chanh xanh.
Một người nào đó phải xông phố xá
Cái kiểu mà người ta làm, sau 1
trận dịch
Một vầng trăng lấp lánh ở nơi đây - lạnh,
nhợt nhạt, xa lạ
Tôi ngồi ở trong bóng tối, nơi vùng
quê, vào mùa hạ
Nhưng không làm sao kiếm thấy hai vầng trăng
vàng của Chagall
Lấp lánh bên ngoài thành phố
khi đèn lên.
Những vầng trăng này bây giờ quay quanh
một hành tinh khác
Đã đi rồi, là những thành phố, nơi
người làm giầy là nhà thơ,
Người thợ sửa đồng hồ, một triết gia
Anh thợ cạo, thợ cắt tóc ư: Một người hát
rong.
Đã đi rồi, những ngôi làng, nơi gió
gia nhập những thánh ca, với giọng điệu Ba Lan,
nơi những người già Do Thái đứng trong
bóng những tàng cây anh đào,
trông ngóng, hoài vọng những bức
tường thánh ở Jerusalem
Đã đi rồi, những làng xóm,
chúng lặng lẽ bỏ đi như một cái bóng
té xuống
giữa những từ ngữ của chúng ta.
Ta mang về nhà cho em câu chuyện của một
thế giới –
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
Hãy sát lại gần và lắng nghe bài
hát này –
Làng Do Thái ở Ba Lan bây giờ đã
không còn –
Đã bỏ đi khỏi một trong những đất nước buồn bã
nhất
Trên thế gian.
Gone now are, gone are in Poland
the Jewish villages,
in Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica
you look in vain for candlelight
in the windows
and listen for song from the wooden
synagogue.
Disappeared are the last rests,
the Jewish possessions,
the blood is covered over by sand,
the traces removed,
and the walls whitewashed with lime,
as for a high holiday or after a
contagious disease.
One moon shines here, cold, pale,
alien,
already behind the town, on the
road,
when night uncoils its light,
my Jewish relatives, boys with poetic
feeling,
will no longer find Chagal’s two
golden moons.
The moons now wander above another
planet,
frightened away by grim silence,
no trace of them.
Gone now are those little towns
where the shoemaker was a poet,
The watchmaker a philosopher, the
barber a troubadour.
Gone now are those little towns
where the wind joined
Biblical songs with Polish tunes
and Slavic rue,
Where old Jews in orchards in the
shade of cherry trees
Lamented for the holy walls of Jerusalem.
Gone now are those little towns,
though the poetic mists,
The moons, winds, ponds, and stars
above them
Have recorded in the blood of centuries
the tragic tales,
The histories of the two saddest
nations on earth.
Veterans of Foreign Wars
Let's not forget the General
Shuffling out in his gray slippers
To feed the pigeons in Logan Square.
He wore a battered White Sox cap
And a heavy woolen scarf tossed
Over his shoulder, even in summer.
I remember how he muttered to himself
And coughed into his newspaper
And complained about his gout
To the other Latvian exiles,
The physicist who lived on Gogol Street
In Riga, my grandfather's hometown,
The auxiliary policeman from Daugavpils,
And the chemical engineer,
Who always gave me hard candy,
Though grandfather spit
And grandmother hurried me away
When she saw them coming.
Poem-a-day. 365 Poems
for Every Occasion, selected by the
Academy of American Poets (2015 ed)
Cựu binh trong những cuộc chiến ngoại
Đừng có quên Đại Tướng… đấy nhé
Người lập cà lập cập bước tới
Trong đôi dép Lào
Cho đàn bồ câu ăn mẩu bánh mì
Ở 1 công viên ở Quận Cam
Người đội 1 cái mũ với huy hiệu VNCH, nhưng
rách bươm
Vai quàng 1 cái khăn lông, ngay
cả vào mùa hè!
Gấu nhớ là Người đã từng lẩm lẩm với
chính mình
Và ho, vào…. 1 tờ báo chợ
Người Vịt, của bộ lạc Cờ [Hoa] Lăng [Bác]
Và làu nhàu vì căn bịnh
gút của Người
Với đám tướng tá Vẹm, cũng lưu vong,
nhờ ơn Cách Mạng!
Cái tay “duy vật” đã từng sống ở khu
Phố Cổ
Ở Hà Lội, có 1 thời là thành
phố quê hương của tên Gấu Cà Chớn
Rồi cái tay, cái tay…
Trên Tin Văn, nhớ đã từng giới thiệu
1 bài thơ của Charles Simic, cũng viết về đám lưu
vong ở Quận Cam, nhưng kiếm hoài không ra!
Kiếm ra rồi, Among the Exiles, trong tập Master
of Disguises:
Among the Exiles
One met former cabinet ministers,
University professors, defrocked priests and officers,
Feeding pigeons from a park bench,
Squinting into foreign newspapers
And telling anyone who happened to ask
Not to bother their heads about the truth.
On the use of murder to improve
the world
They had many vivid memories
As they huddled in their dim kitchens,
Clipping supermarket coupons,
Shifting the loose dentures in their mouths
While waiting for the teakettle to boil.
They ate in restaurants with
waiters older than themselves,
Musicians whose fingers bled
As they picked at their instruments
Making some tipsy widow burst into sobs
On hearing a tune her husband the general loved,
The one who sent thousands to their deaths.
Giữa những Lưu Vong
Người ta gặp những cựu bộ trưởng
Giáo sư đại học, tu sĩ mất áo tu, sĩ quan
mất quân phục,
Cho bồ câu ăn ở băng ghế công viên,
Liếc tờ báo chợ
Và biểu người nào tính hỏi,
Này, đừng có bực mình, lúc
lắc cái đầu, khi biết sự thực
Về cái việc sử dụng sát
nhân để cải thiện thế giới
Họ có nhiều kỷ niệm sống động
Khi quay mòng mòng trong căn bếp tối thui
Cắt cắt mấy cái phiếu siêu thị
Xốc xốc bộ răng giả trong miệng
Trong khi chờ ấm nước pha trà sôi
Họ ăn trong những tiệm bồi bàn
già hơn chính họ
Nhạc sĩ bấm đàn bằng những ngón tay rướm
máu (1)
Làm một bà góa ngà ngà
say, khóc nức nở
Khi chơi một điệu nhạc mà ông chồng đại
tướng ngày nào của bà thích nghe
Ông tướng này đã từng ra lệnh làm
thịt hàng ngàn người
Charles Simic: Master of Disguises
(1)
Charles Simic chắc là
có đọc Kiều rồi, nên thuổng, như đám mũi lõ
thuổng nhạc Trịnh, “nghi án” đang gây chấn động trong
giới giang hồ Mít ở trong nước: "bốn dây nhỏ máu
năm đầu ngón tay" !!!
Ui chao, Gấu lại nhớ đến cảnh
nàng Kiều họ Trịnh hầu đàn Hồ Tôn Hiến!
Mấy bài thơ sau đây,
của Charles Simic, trong Master of Disguises, là
để tặng… Gấu!
The Invisible One
You read today about a child
Kept for years in a closet
By his crazy parents
On a street you walked often.
Busy with your own troubles,
You saw little, heard nothing
Of what was said around you,
As you made your way home
Past loving young couples
Carrying flowers and groceries,
Pushing baby carriages,
Hanging back to scold a dog.
Kẻ vô hình
Bạn đọc báo bữa nay về
một đứa trẻ
Bị nhốt nhiều năm trong một tủ áo
Bởi bố mẹ khùng
Ở con phố mà bạn thường đi bộ qua
Bận bịu với đủ thứ chuyện của
riêng bạn
Bạn ít nhìn, chẳng nghe gì hết
Về những gì xẩy ra quanh bạn
Khi bạn trên đường trở về nhà
Vượt qua những cặp vợ chồng yêu
thương thắm thiết
Ôm hoa, tạp phẩm
Đẩy xe con nít
Chùn bước lại một tí để la con chó.
Private Miseries
More than this crippled veteran
playing the banjo,
I have no right to grumble,
More than this old woman cracking open her purse
To give him a quarter,
Lest they both take offense and
beat me
On the head with one of his crutches.
My own anguish must remain unspoken,
Hidden behind a firm stride and a smile.
One day I knelt down and cursed
God
For all the suffering and injustice he consents to.
Since then, I have felt even more alone.
Like a lifelong widower forever unconsoled
I pass the homeless huddled in doorways
Upon a winter morning and dare
not
Grouse about my own sleepless night,
And my cold feet that make me hurry past them.
Những nỗi khốn khổ mình ên
Hơn cả cái anh cựu binh
VNCH,
già què, đang từng tưng với cây đàn
băng dzô
Tớ đếch có quyền càu nhàu
Hơn cả cái bà già đang cố mở bóp
lấy mấy nghìn Cụ Hồ cho ông lính
Ngụy già què
Cứ để cho họ cảm thấy bị tổn
thương và đập vào đầu tớ
Với một trong những cây nạng
Cái nỗi thống khổ của riêng tớ phải được
nín khe,
Và được giấu ở bên dưới bước đi mạnh mẽ,
và nụ cười.
Một bữa tớ quỳ xuống và
nguyền rủa Thượng Đế
Về bao đau khổ và bất công mà ông
ta cứ nhè tớ mà trút xuống
Kể từ đó, tớ cảm thấy cô đơn còn
hơn bao giờ hết
Như một bà goá cả đời không hề được
an ủi.
Tớ đi qua một đám người
vô gia cư láo nháo ở hành lang
Một buổi sáng mùa đông và
không dám
Càu nhàu về một đêm mất ngủ của riêng
tớ
Và đôi chân lạnh giá của tớ
càng khiến tớ vội vã đi qua họ
And Who Are You, Sir?
I'm just a shuffling old man,
Ventriloquizing
For a god
Who hasn't spoken to me once.
The one with the eyes of a goat
Grazing alone
On some high mountain meadow
In the long summer dusk.
Nhưng Ngài là Ai, hử Ngài?
Tớ chỉ là một tên
già lê lết
Nói chuyện bằng bụng
Về một ông trời
Chưa từng nói với tớ một lần
Kẻ có đôi mắt dê
Thả dê một mình
Trên cánh đồng cỏ trên núi
cao
Vào một hoàng hôn dài mùa
hè
The Empress
My beloved, you who spend your
nights
Torturing me
By holding up one mirror after another
To me in the dark,
If there's anything I know to say or do today,
I merit no praise for it,
But owe it to the subtlety of your torments,
And your perseverance in keeping me awake.
All the same, who gave you the
right
To judge me in my wretchedness?
What soul white as snow
Compiled this endless list of misdeeds
You read to me every night?
The airs you put on when I tell you to stop
Would make one believe
You were once a bedmate of a Chinese emperor.
I like it best when we do not
say a word.
When we lie side by side
Like two lovers after their passion is spent.
Once again, day is breaking.
A small bird in the trees is pouring her heart out
At the miracle of the coming light.
It hurts.
The beauty of a night spent sleepless.
Nữ Hoàng
Người yêu ơi, hằng đêm
Tra tấn anh
Bằng cách cầm hết gương này tới gương khác
Cho anh soi trong bóng tối,
Nếu có điều gì anh biết và nói
ra, hay thực hiện, bây giờ
Anh thật chẳng đáng để mà ngợi khen
Nhưng anh nợ em ở cái trò tra tấn thật
là tinh vi thật là ly kỳ thật là tinh tế đó!
Và ở cái sự lì lợm của em, làm
sao giữ cho anh lúc nào cũng tỉnh thức.
Thì cũng vậy thôi,
ai cho phép em cái quyền phán đoán anh,
Trong tình trạng khốn khổ khốn nạn như thế?
Linh hồn nào trắng như tuyết
Chứa trong nó cái danh sách thật
dài toàn những điều xấu xa, đê tiện
Em đọc cho anh nghe hằng đêm?
Cái dáng điệu
của em khi anh năn nỉ, hãy xì tốp,
Làm cho anh nghĩ rằng,
Em có thời là bạn giường của hoàng
đế Trung Hoa.
Anh mê nhất khi chúng
ta chẳng ai nói một lời
Khi nằm bên nhau
Như hai người yêu cạn sạch đam mê
Ngày lại tới
Một cô chim nhỏ, trên cành cây,
hót đến bật trái tim ra khỏi lồng ngực.
Khi chứng kiến phép lạ ánh sáng
lại xuất hiện
Nó làm đau.
Cái đẹp của một đêm ‘mật ngữ” (1)
Charles Simic: Master
of Disguises
“Dem Mat Ngu”, tên một
bài viết của HPNT, về Trần Dần,
EDWARD HIRSCH
(1950- )
Veterans of Foreign Wars
Let's not forget the General
Shuffling out in his gray slippers
To feed the pigeons in Logan Square.
He wore a battered White Sox cap
And a heavy woolen scarf tossed
Over his shoulder, even in summer.
I remember how he muttered to himself
And coughed into his newspaper
And complained about his gout
To the other Latvian exiles,
The physicist who lived on Gogol Street
In Riga, my grandfather's hometown,
The auxiliary policeman from Daugavpils,
And the chemical engineer,
Who always gave me hard candy,
Though grandfather spit
And grandmother hurried me away
When she saw them coming.
Poem-a-day. 365 Poems for
Every Occasion, selected by the Academy of American
Poets (2015 ed)
Cựu binh trong những cuộc chiến ngoại
Đừng có quên Đại Tướng… đấy nhé
Người lập cà lập cập bước tới
Trong đôi dép Lào
Cho đàn bồ câu ăn mẩu bánh mì
Ở 1 công viên ở Quận Cam
Người đội 1 cái mũ với huy hiệu VNCH, nhưng rách
bươm
Vai quàng 1 cái khăn lông, ngay cả
vào mùa hè!
Gấu nhớ là Người đã từng lẩm lẩm với chính
mình
Và ho, vào…. 1 tờ báo chợ
Người Vịt, của bộ lạc Cờ [Hoa] Lăng [Bác]
Và làu nhàu vì căn bịnh gút
của Người
Với đám tướng tá Vẹm, cũng lưu vong, nhờ
ơn Cách Mạng!
Cái tay “duy vật” đã từng sống ở khu Phố
Cổ
Ở Hà Lội, có 1 thời là thành
phố quê hương của tên Gấu Cà Chớn
Rồi cái tay, cái tay…
Trên Tin Văn, nhớ đã từng giới thiệu 1 bài
thơ của Charles Simic, cũng viết về đám lưu vong ở Quận
Cam, nhưng kiếm hoài không ra!
Dates
I am walking under the palm trees in Miami,
buying a cluster of dates from an Arab vendor.
I want to taste the sweet, sticky flavor of
childhood again, its feathery leaves and secret
pits.
My Aunt Lil served dates to our family
in ceramic bowls. She baked them into pastries.
She said that the first taste of a date
is like a child's finger in your mouth,
the second is like the hushed sound
of a father's evening prayer.
*********
The Sufi Master Ibn 'Arabi believed
that God created the palm tree
from the surplus leaven of Adam's clay.
Adam is the origin and archetype
of all human bodies
and the palm, then, is his true sister.
Adam had a Sibling rooted to ground
and branching in wind.
For us, therefore, the palm
is like an aunt on our father's side.
******
The date palm is as vertical as faith-
Ibn ' Arabi compared it to a true believer-
and knows desire. The ancient rabbis spoke
of a female palm outside Tiberias
which withered on its own
and only yielded fruit when pollinated
by a male palm from Jericho.
It thrives in valleys of lowland heat.
My love has moved to the mountains
and I am sending her a palm branch.
There's a victory palm on Hasmonean coins
and Deborah judged her people in the shade
of one as green and fulsome as the Messiah,
a figure, I'm afraid, who does not arrive in time.
The Romans engraved an image
of the captive Judea- judea capta-
sitting in mourning beneath a palm tree,
but I prefer the sturdy angelic palm
I once saw carved on a stone frieze
in a synagogue at Capernaum in Galilee.
******
When my aunt was too weak to chew,
my cousin mashed a date into puree
and fed it to her with a tiny spoon,
a last honeyed remnant of the garden.
Ibn 'Arabi believed that God laid out
an immense earth from one piece of leaven
the size of a sesame seed.
It was nearly too small to see,
but it unfolded into a world
of plains, mountains, deserts, valleys...
*****
The sixth Imam, Ja'far Sadiq, explained
that when God banished Adam
weeping from Paradise
and sheltering a naked wife
He ordered him to uproot the palm
and expel it from the garden
and so Adam replanted it in Mecca.
Thus is the bitter made sweet again.
All other palms, East and West, descend
from pits of those first Medina dates.
*****
My beloved dreamt of a palm tree
buried inside her, and birds singing
canticles of praise day and night.
The birdsong vanished when she woke up
and soon she forgot the enchantment.
All this happened years ago.
But one night when she tasted a date,
she felt a palm spreading its leaves
somewhere inside her
and pure voices rising with wings.
*******
Did I say that the vendor sighed
when he handed me the fleshy fruit?
I wanted the cluster to last
but the sweetness dissolved in my mouth,
which is perishable human clay,
while I strolled under a canopy of trees.
We live on this vast earth for such a short while
that we must mourn and celebrate right now.
A palm leaf is shaped like an open hand.
The taste of dates is holy.
Edward Hirsch: The Living Fire
Note: Đọc loáng thoáng, thì
bỗng nhớ đến món kẹo bột của thời thơ ấu ở xứ Bắc Kít,
thứ kẹo, chỉ là bột, tẩm đường, rồi nung lên, như
nung gạch, và có được cái mầu nâu nâu...
Hình như chẳng còn tên Bắc Kít
nào còn nhớ đến món này, cũng như
món nước mắm lá chuối, trừ GCC.
Vẫn chuyện xứ Bắc Kít của GCC, nhân
đọc 1 entry của LMH, về Nguyễn Việt Hà, và nó
làm Gấu nhớ tới bài viết của Kundera về Trăm Năm
Cô Đơn, của GG. "Tiểu thuyết và sự mắn đẻ". K khi
đọc Trăm Năm Cô Đơn, thì bèn ngộ ra 1 điều
là những nhân vật trong đại tiểu thuyết, đếch có
con cái để nối dõi tông đường.
Nhưng đâu chỉ NVH?
"Nhân vật lớn" của xứ Bắc Kít, chính
là Hà Nội, và nó, thì cũng
tuyệt tự, như NVH, theo GCC.
... Chẳng có gì liên quan, khi đọc gã
lần đầu, tiểu thuyết làm nên tên tuổi gã,
và sau đó, chỉ cần đọc tên các tiểu thuyết
gã viết, những khải huyền, những ba ngôi, rất tự dưng
tôi thường liên tưởng ngay tới Lệnh Hồ Xung, với kiếm
chiêu và kiếm khí, và với kiểu bất chấp thực
chẳng mấy ai dám làm. Từng đọc cuốn tiểu thuyết gần
đây nhất của gã cùng với rất nhiều bình luận,
có bình luận ngang tầm chửi rủa, từng chả biết gì
về môi trường xúc cảm gã đánh chìm
mình trong đó để từ đ...
See More
Borges: Year’s End
Neither the symbolic detail
of a three instead of a two,
nor that rough metaphor
that hails one term dying and another emerging
nor the fulfillment of an astronomical process
muddle and undermine
the high plateau of this night
making us wait
for the twelve irreparable strokes of the bell.
The real cause
is our murky pervasive suspicion
of the enigma of Time,
it is our awe at the miracle
that, though the chances are infinite
and though we are
drops in Heraclitus’ river,
allows something in us to endure,
never moving.
– Jorge
Luis Borges (translated by W.S. Merwin)
Năm
tận
Không phải chi
tiết biểu tượng
Rằng ba, thay vì
hai
Chẳng phải ẩn dụ thô
thiển
Rằng một cái
gì đó mất đi
Thì bèn
có 1 cái gì đó bò
ra đời
Cũng chẳng có
sự hoàn thiện tiến trình thiên
văn cái con mẹ gì hết
Khuấy đảo, soi mòn
cao nguyên đêm nay
Khiến chúng
ta chờ đợi
12 tiếng chuông
đồng hồ vô phương sửa chữa
Lý
do thực sự là sự hồ nghi u ám của chúng
ta
về sự bí ẩn
của Thời Gian
Chính
là sự kinh hoàng của chúng ta trước
phép lạ,
Mặc dù những
cơ may thì là vô cùng
Mặc dù chúng
ta là những giọt nước của dòng sông
Heraclitus
Nó cho phép
một điều gì đó ở trong chúng
ta liên luỷ, hoài hoài
Chẳng hề chuyển động.
Ông này đúng là thứ dữ, đọc nhiều,
nhớ lâu, bị chửi cũng khiếp nhưng vẫn tỉnh bơ, dịch thơ
thì thần sầu. Sai nguyên văn ư ? Nhưng đố mà
tìm được cách dịch nào làm người đọc thấy thống khoái
hơn. Quái kiệt.
Ví dụ bài thơ này :
Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì
được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay,
vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên
Lê Văn Tám
Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe, một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô
hình,
Hay là tại sao cánh của nó lại trong
mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi
mất rồi:
Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây
nè!
Quoc Tru Nguyen dịch.
Tks.
Có lẽ phải post phần nguyên văn, thì
mới hết sảy con chuồn chuồn:
The
Invisible
Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu...
1
It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.
Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,
Or why else would its wings
be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.
Bản tiếng
Mít, sở dĩ bị lệch hẳn đi, so với nguyên tác,
là vì, bài thơ của Gấu, và bài
thơ này, là từ 1 câu thơ của TTT:
Hát ở đâu đâu...
Ngoảnh nhìn lại quãng
nửa nhà nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)
Không phải tiếc cuộc đời đã
sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.
Đêm mở ra giấc mộng
cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi.
Mùa thu ở đây đẹp não
nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh ty
Mộ thành tuyết
Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng
cuối
Hát ở đâu đâu...
Cô bạn thân ơi, những ngày
tháng đó
Chạy xe như điên trên đường phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng những hồn
ma Mậu Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm
nơi chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi
Trong vương quốc của những người đã
chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu giấc
mộng cuối (2)
(1)... that lonely halfway house
which we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm Tuyền
Nguyên tác, không thay đổi – đôi khi
cũng thay đổi, như Borges đã từng làm – nhưng bản dịch
luôn thay đổi.
Cũng thế, là phê bình, như Steiner
đã từng phán, trong Nhân Văn
Mỗi thế hệ có chọn lựa của nó. Có
thi ca trường tồn, vĩnh cửu nhưng thật khó mà có
phê bình mãi mãi "vũ như cẩn". Tennyson
sẽ có "ngày của ông ta", và Donne, "buổi nhật
thực". Hay là, để đưa ra một thí dụ chẳng liên quan
gì tới thói ham mốt này mốt nọ: trước chiến tranh,
tại những trường Pháp nơi tôi theo học, nói chung
là ai cũng coi Virgil như là một kẻ bắt chước Homer một
cách ngây ngô, bắng nhắng. Tất cả học sinh đều khẳng
định với bạn bằng một thái độ rất ư là tự tin như thế. Cùng
với thảm họa, chuyện thường ngày về "cuộc tháo chạy tán
loạn", và lưu vong, cách nhìn trên đã
thay đổi một cách triệt để. Bây giờ, Virgil trở nên
một chứng nhân thật chín mùi, thật cần thiết. Simone
Weil và cách đọc ngang bướng sử thi "Iliad", hay "Death of
Virgil" ("Cái Chết của Virgil") của Hermann Broch, cả hai đều góp
phần trong việc tái thẩm định. Thời gian, theo dòng lịch sử
và với cuộc sống cá nhân của từng con người, đã
làm thay đổi cái nhìn của chúng ta đối với một
tác phẩm, hay là phần chủ yếu của nghệ thuật. Có thi
ca của những người trẻ, có văn xuôi dành cho những ông
già. Bởi vì tiếng kèn rộn rã của họ về một tương
lai huy hoàng, tương phản trớ trêu làm sao, với kinh
nghiệm hàng ngày của chúng ta. Những kẻ lãng
mạn đâu còn là trung tâm của vấn đề? Thế kỷ
16 và đầu thế kỷ 17, mặc dù ngôn ngữ thường mơ hồ và
rắc rối, lại có vẻ gần gụi với lời nói chúng ta. Phê
bình có thể làm cho những thay đổi do yêu cầu
này trở thành có ích, loại bỏ những gì
không cần thiết. Nó có thể chiêu tập từ quá
khứ, những gì thiên tài của hiện tại, nhờ vả (đằng sau
cái đẹp nhất của văn xuôi ở Pháp vào lúc
này, là sợi gân của Diderot). Và nó
có thể nhắc nhở chúng ta rằng, những phán đoán
trước sau, này nọ của chúng ta chẳng tuyệt đối chẳng vĩnh
cửu. Nhà phê bình sẽ "tiên cảm" (feel ahead);
anh ta sẽ ngả người về phía chân trời, và sửa soạn
mảnh đất cho những mùa gặt tương lai. Đôi khi, anh ta nghe
tiếng vọng, khi tiếng nói đã chìm vào quên
lãng; hay là trước khi nó cất lên. Vào
những năm 1920, có một số người đã cảm thấy thời của Blake
và Kierkegaard đang ở trong tầm tay; hay là 10 năm sau,
một số đã nhận ra sự thực phổ cập, trong cơn ác mộng riêng
tư của Kafka. Đây không phải vấn đề chọn kẻ thắng, nó
có nghĩa: biết, rằng tác phẩm nghệ thuật tự khẳng định
qua một tương quan phức tạp, theo nhu cầu, so với thời gian.
Thứ hai, phê bình có thể kết nối.
Vào một thời đại mà sự mau lẹ của truyền thông
kỹ thuật, nó thực sự che giấu những rào cản chính
trị, ý thức hệ thuộc loại bướng bỉnh; nhà phê
bình có thể xử sự như một kẻ trung gian, và người
bảo quản. Đây là một phần của công việc của anh
ta, để thấy rằng một chế độ chính trị không thể giáng
yểm một tác phẩm của một nhà văn vào cõi
quên lãng và bóp méo nó, rằng
những cuốn sách [dù có bị] thiêu huỷ, tro
than được vun vén, và được giải mã.
Ông này đúng là thứ dữ,
đọc nhiều, nhớ lâu, bị chửi cũng khiếp nhưng vẫn tỉnh bơ...
Khi mới ra hải ngoại, GCC chơi, với đủ thứ diễn đàn,
viết, rất ư là khiêm tốn, như thời kỳ viết cho talawas,
cộng tác với Gió Đông, Cánh Én,
Hậu Vệ… Sến Cô Nương chẳng đã lần chê, mi yếu xìu,
hết xí oắt rồi ư, tại sao bị chúng chửi mà không
trả lời.
Chỉ 1 khi mình 1 cõi trên Tin Văn,
mới thay đổi, vì thấy quá cần thiết.
NQT
Album
Liu Xia, wife of 2010 Nobel Peace Prize winner Liu Xiaobo,
reacts emotionally to an unexpected visit by journalists
from The Associated Press at her home in Beijing, China, on
Thursday, Dec. 6, 2012. Liu trembled uncontrollably and cried
Thursday as she described how her confinement under house arrest
has been absurd and emotionally draining in the two years since
her jailed activist husband was named a Nobel Peace laureate. Photo:
Ng Han Guan / AP (1)
“We live in such an absurd
place. It is so absurd. I felt I was a person emotionally prepared
to respond to the consequences of Liu Xiaobo winning the prize.
But after he won the prize, I really never imagined that after
he won, I would not be able to leave my home. This is too absurd.
I think Kafka could not have written anything more absurd and unbelievable
than this.”
"Chúng tôi sống ở 1 nơi cực
phi lý. Quá phi lý. Tôi cảm thấy
mình là 1 con người được sửa soạn, về mặt cảm
xúc, đáp ứng với những hậu quả việc chồng tôi
được Nobel. Nhưng sau khi ông được Nobel, tôi thực sự
không thể nào tưởng tượng tôi không thể
rời căn nhà của mình. Điều này quá phi
lý. Tôi nghĩ Kafka cũng chẳng thể viết 1 cái gì
phi lý, không thể tin được như là điều này"
Note: Nhìn bức hình thì GCC lại nhớ
đến Gấu Cái, lần đi thăm nuôi ở Đỗ Hòa.
Do bặt tin nhà, nhớ nhà quá,
hoảng quá, Gấu Già bèn vượt Trại, và,
tất nhiên, bị tóm, bị tống vô Tổ Trừng Giới,
ăn cơm hẩm với thịt cọp, bị phù thũng.
Gấu Cái vừa nhìn thấy thằng
chồng cà chớn, thấy mập mạp, tính cười, nhưng
chợt hiểu ra, bèn méo xệch, y chang bà
Liu Xia!
Hà, hà!
Note: "Thịt cọp" là "nick" của muối. Từ này,
có, cùng lúc với sự xuất hiện của nhà
tù VC ở Miền Nam, thức ăn độc nhất là muối. Tù
nhai muối, nghe lọp cọp, lọp cọp...
Snow
By Frederick Seidel
Snow is what it does.
It falls and it stays and it goes.
It melts and it is here somewhere.
We all will get there.
@ Taipei Airport, lượt đi
GCC @ Taipei Airport
Lượt về
Weave a circle round him thrice
And close your eyes with holy dread,
For he on honey-dew hath fed,
And drunk the milk of Paradise.
"Samuel Taylor Coleridge, "Kubla Khan," lines 51-54.
[from "Borges Tám Bó"]
Vẽ 1 cái vòng tròn ba lần
Rồi nhắm cặp mắt lé của mi lại
Với nỗi sợ thiêng liêng
Bởi là vì mi, đã tới giờ húp
1 húp cháo lú
Và uống 1 ngụm sữa thiên đường
Nỗi sợ thiêng liêng!
Holy dread!
Chắc là của Coleridge?
Borges: Tôi nghĩ là dịch từ Latinh,
từ những gì mà người La Mã cảm nhận
[felt].
Người La Mã, cũng giống như lũ Bắc Kít,
coi Lăng Bác Hồ là nơi chốn thiêng
liêng. Chúng nói thầm với
nhau, có vị thần nằm ở trong đó, there is
a god inside.
Thơ
Mỗi Ngày
http://www.nybooks.com/articles/2017/11/09/a-short-history-of-style/
A Short History of Style
Jane Yeh
November 9, 2017 Issue
Joey Arias at Jackie 60, 1997
The disposition of her arms
Is a case of
Nothing ventured, nothing
Gained. Her violet ear
Makes sense if
Something wicked is
Being said. The angle
Of her nose is a challenge,
A crime against nature. Her
Throat a fine line. Lover
Where have you been?
Mistakes come back to her
Like wrong notes, a clarinet
Of echoes. You can take the boy
Out of Dubuque…Nothing
Like bourbon
To make her sing
A slow tune: downcast
Eyes, hands swaying
Just so. The catch
In her voice like a rusty key
Turned. A hundred
Nights blurred together
Like an ink blot
Smeared—her long fall
Of hair saying No no no.
Note: Đọc bài thơ, trên 1 tờ NRYB,
ở kiốt bán báo Tẩy. Mua, về, lên net, thấy
cho đọc free.
Tuy nhiên chẳng tiếc mấy tì - báo
này, hồi mới qua Canada, Gấu mua dài hạn, cũng
gần hai chục niên, bây giờ trên 10 tì,
nếu mua từng số - vì còn bài viết của John
Banville, điểm cuốn tiểu sử của Scott Fitzgerald, Paradise Lost.
Tay này nhận ra, như Gấu nhận ra, Đêm
Dịu Dàng, Tender, mới là
cuốn bảnh nhất của Scott Fitzgerald. Tender, 1 cách
nào đó, là Một Chủ Nhật
Khác của TTT. Và, vẫn 1 cách nào
đó, MCNK bảnh hơn Bếp Lửa. Bếp Lửa
bị đóng cứng vào biến cố 1954, MCNK mở ra với biến cố 30
Tháng Tư.
Nhân nhắc tới ông
anh: Bài thơ Phượng Hoàng
và Bồ Câu, TTT dịch, bỏ 1 từ quá quan
trọng, và điều này chứng tỏ 1 "sự thực", cả ông
anh lẫn thằng em đều mù tịt về Ky Tô Giáo:
TTT bỏ từ ân sủng, grace, không
dịch. Từ này quá quan trọng, với Ky Tô Giáo,
và với Weil, qua ý niệm ân sủng & trọng
lực. Grace còn mắc mớ tới từ mặc khải.
Murakami, kể, ông mặc khải, ông là
nhà văn, khi coi Mẽo chơi bóng bầu dục, và
ông cho biết dân Nhật không tin và không
biết mặc khải là cái con mẹ gì!
Gấu mặc khải, Gấu là nhà văn, lần
bạn C đưa về nhà anh, ở Xóm Gà, và
nhìn thấy TTT ngồi viết văn, Gấu nhìn ra Gấu, cũng
sẽ ngồi viết văn, như thế!
Bạn DS, ông con trai TTT, hỏi GCC, thế
còn lần coi cọp BL trên lề đường Xề Gòn
thì sao. Cú này, là do Thằng Cha Trời
Già Khốn Kiếp thương hại Gấu, biết Gấu làm đếch gì
có tiền, bèn bày ra cảnh đọc cọp, và coi
cú này là “tổng diễn tập - từ của Vẹm, chỉ cú
Quỳnh Lưu, tổng diễn tập, trước khi vào cuộc, là cú
ăn cướp chính quyền 19.8.1945 –
Anh già thật là chu đáo
đối với GCC. Lần cho nghe Ngày Mai Đi Nhận Xác
Thằng Em Trai, ở Đỗ Hoà, biết Gấu đâu đã từng
thưởng thức món thịt chuột, thế là thằng chả bày
ra cú nếm thử, bằng mấy con chuột mới đẻ, trong 1 lần lao
động khổ sai. Ổng hỏi, ngon không, thấy Gấu gật gù, sau
đó, ổng cho hưởng đại tiệc thịt chuột, vừa ăn vừa nghe nhạc
PD!
Tờ Điểm Sách Hồng Mao điểm Paradise Lost:
SN_GCC_2017
https://literaryreview.co.uk/tender-is-the-writer
Dịu dàng như… [nhà văn]
GCC!
Cái gì gì nhân
hậu và cảm động!
Ôi, chưa được hôn em mà
đã nhớ em những ngày ở bên kia nấm mồ
rồi!
Note: Tờ Điểm Sách của đám
Hồng Mao, đọc Scott Fitz nhân xb một số truyện ngắn mới
kiếm thấy.
Cái tít vinh danh “Dịu Dàng
Như Đêm” của chàng, và tất nhiên,
như 1 phản ứng dây chuyền, vinh danh MCNK của TTT.
Bài này tuyệt quá. Cho
đọc free nữa mới tuyệt làm sao.
Tin Văn còn nợ độc giả bài
điểm cuốn tiểu sử Czeslaw Milosz của tờ này!
Hà, hà!
Satisfaction doesn’t come with things, however
beautiful and plentiful. Tender Is the Night (1934)
is, perhaps, unequal to the poetic ferocity and compression of
The Great Gatsby (1925), but its sensitive hero, Dick Diver, is
the most heartbreaking of Fitzgerald’s characters, a man with everything
and nothing.
Dịch theo kiểu lộng dịch:
Hài lòng thì chẳng mắc
mớ chi với đời, dù đời có đẹp có đầy cỡ
nào. “Dịu dàng như đêm”, thì có
lẽ không thể nào so với sự dữ dằn thi ca và
độ nén của “Gastby vĩ đại”, nhưng nhân vật Kiệt của
nó, thì mới mẫn cảm và nhức nhối làm
sao, số 1 trong những nhân vật của Fitz, một kẻ với tất cả và
với chẳng có cái chó gì!
sinh nhat bac va chau.Nooker va Viengxay
@ Taipei Airport, lượt đi
Weave a circle round him thrice
And close
your eyes with holy dread,
For he on
honey-dew hath fed,
And drunk
the milk of Paradise.
"Samuel
Taylor Coleridge, "Kubla Khan," lines 51-54.
[from "Borges
Tám Bó"]
Vẽ 1 cái
vòng tròn ba lần
Rồi nhắm
cặp mắt lé của mi lại
Với nỗi
sợ thiêng liêng
Bởi là
vì mi, đã tới giờ húp 1 húp
cháo lú
Và
uống 1 ngụm sữa thiên đường
Nỗi sợ thiêng
liêng!
Holy dread!
Chắc là
của Coleridge?
Borges:
Tôi nghĩ là dịch từ Latinh, từ những
gì mà người La Mã cảm nhận [felt].
Người La Mã,
cũng giống như lũ Bắc Kít, coi Lăng Bác
Hồ là nơi chốn thiêng liêng.
Chúng nói thầm với nhau, có vị
thần nằm ở trong đó, there is a god inside.
Thơ
Mỗi Ngày
Scorched
It comes back to me as the enigma
of doorways and clocktowers, of standing
by an open window drenched in sunlight
and staring down at a drowsy piazza
where a waiter eternally cleans a table
and two cats squirm in the shadows.
Three p.m.: the hour of scorched absences,
the hour when the city slumps like a widow
and a dogged couple in their thirties
is forever trying to wring a child
from the clamor of each other's bodies
in a small pensione of the old quarter.
Look at them breathing against each other
in the hour of silences, the hour
of nothing violated and nothing affirmed,
of pleasure mixed with the fire of grief.
It is the wounded rite of infertility,
the inconceivable zero in the heart
of summer, the cancellation, the void
where what cannot be born is not born
and what does not exist will never exist.
Look at them cooling in each other's arms:
two muffled bells molded from the heat,
two bodies cast from the bright flames.
Edward Hirsch: The Living Fire
Cháy sém
Nó trở lại với tớ như 1 niềm bí
ẩn
Của hành lang, của tháp đồng hồ,
Đứng bên cửa sổ mở toang khô cháy
vì ánh mặt trời
Nhìn xuống quảng trường đờ đẫn
Nơi 1 người bồi bàn “lau đi lau lại lau
mãi”, 1 cái mặt bàn
Và hai con mèo uốn éo, trong
bóng dâm
Ba giờ chiều, giờ mất mẹ “cái gọi là”
cháy sém
Giờ thành phố ế ẩm, hay, ê ẩm, mất
mẹ mọi hứng thú
Giống như 1 góa phụ
Hay 1 cặp bướng bỉnh ở tuổi ba mươi
Bằng mọi cách cố siết chặt nhau, như 1
đứa trẻ
Đứa nọ đòi cái thân xác
của đứa kia
Trong 1 căn phòng nhỏ, hưởng trợ cấp, ở
khu phố cổ
Nhìn chúng, đứa nọ hổn hển đứa kia
Ở cái giờ của im lặng
Giờ, chẳng cái gì bị hiếp đáp,
vi phạm, bị làm thịt, hay, được xác nhận
Giờ, lạc thú bèn trộn với lửa đau
thương
Đó là nghi lễ bi thương của cằn
cỗi, hết mẹ xí oắt!
Con số không to tổ bố, đếch làm sao
chấp nhận, hay, hiểu được,
Ở nơi trái tim của mùa hè
Của huỷ bỏ, của trống không
Khi điều có thể được sinh ra, thì
đếch chịu sinh ra
Và cái hiện hữu, thì sẽ chẳng
bao giờ hiện hữu
Kìa, nhìn kìa, chúng
ôm ấp nhau:
Hai cái chuông tắt nghẹn, không
làm sao “binh bong, binh bong.. “
Trong cái nóng
Hai cơ thể thẩy cái bóng của chúng
Từ những ngọn lửa sáng ngời.
Alexander Selkirk
I dream the sea, that sea, surrounding
me,
And from the dream I'm rescued
by the bells
Of God, which bless and sanctify
the mornings
Of these domesticated English
fields.
Five years I suffered, looking
at eternal
Images of infinity and solitude,
Which have become that story I
repeat
Now, like an obsession, in the
pubs.
God has returned me to the world
of men,
To mirrors and doors and numbers
and names,
And I am no longer he who eternally
Looked at the sea and its deep
barren plain.
But now what shall I do so it
may find
That I am here, and safe, among
my kind?
-S.K.
J.L. Borges
The experiences of the once-marooned
sailor Alexander Selkirk (1676-1721) were sources for
Daniel Defoe's Robinson Crusoe.
Alexander Selkirk
Tớ mơ biển, biển đó, bao quanh
tớ
Và từ giấc mơ, tớ được kíu
nhờ tiếng chuông của Chúa
Nó chúc phúc và
ban chất thiêng cho những buổi sáng
Của những đồng bằng Ăng lê đã
được thuần hóa.
Năm năm tớ đau khổ, nhìn những
hình ảnh bất diệt
Của vô cùng và cô
đơn
Chúng trở thành câu
chuyện mà tớ đang lập lại vào lúc này
Như 1 ám ảnh, ở những quán
rượu
Chúa đã trả lại tớ cho thế
giới của lũ đàn ông
Cho những tấm gương, những cái
cửa, những con số và những cái tên
Và tớ không còn là
kẻ hằng hằng nhìn biển và đồng bằng sâu,
cằn cỗi của nó.
Và bây giờ tớ sẽ làm
gì nếu thấy mình đứng ở chốn này, an
toàn giữa đám người giống như mình.
Kinh nghiệm của thuỷ thủ Alexander Selkirk
(1676-1721), đã từng bị bỏ lại trên đảo, là
nguồn của Lỗ Bình Sơn của Defoe.
Vàng thu vàng suốt con
đường
Vàng
Thu
Gió
đong đưa giữa thinh không
Chợt nghe
hơi lạnh từ lòng trần gian
Lao xao
sóng vỗ trên ngàn
Đất trời
chớp mắt bàng hoàng vào thu
Ngất ngây
đi giữa sắc màu
Trăm ngàn
chiếc lá chen nhau đổi đời
Vàng
như nắng chiếu lưng trời
Nâu
như mầu áo chơi vơi cửa thiền
Tím
như mực tuổi ngoan hiền
Đỏ như
mầu máu trái tim nồng nàn
Trong lòng
thu ,
Hồn chứa
chan
Bao la
thu ,
Mông
mênh lá ,
Thênh
thang đất trời
Nằm say
trên cỏ xanh ngời
Gió
lay từng chiếc lá rơi ngập ngừng
Vàng
mênh mang ,
Đồi lâng
lâng
Vàng
lênh đênh ,
Rừng thênh
thênh
Bềnh bồng
vàng đến ảo huyền
Nghe thu
rơi đọng từng miền thịt da
Trong hơi thở
có thu hoà
Trong không
có vị thu pha lạ thường
Vàng
thu vàng suốt con đường
Ta trong
thu bỗng thấy thương đất trời
Đặng
Lệ Khánh
Mai sau dù có
bao giờ
Một điều, mình
nó không thôi, thì không
hiện hữu - Sự Lãng Quên
Ông Trời, Người kíu
kim loại, kíu kít kim loại – còn
gọi là gỉ sét -
Và trữ, chứa trong hồi
ức tiên tri của Xừ Luỷ,
Những con trăng sẽ tới
Những con trăng những đêm
nào đã qua đi
Mọi thứ thì, rằng
thì là, cứ thế bày
ra đó
Ngàn ngàn những
phản chiếu
Giữa rạng đông và
hoàng hôn
Trong rất nhiều tấm gương
Là khuôn mặt Em
để lại
[Cái gì gì,
đập cổ kính ra tìm lại bóng]
Hay, sẽ để lại, trước khi soi
bóng
Và mọi điều thì
là phần của cái hồi nhớ tản mạn, long
lanh, vũ trụ;
Làm gì có
tận cùng cho những hành lang khẩn cấp
của nó
Những cánh cửa đóng
lại sau khi Em đi
Chỉ ở mãi phía
xa kia, trong rực rỡ dương quang
Sẽ chỉ cho Em thấy, sau cùng,
những Nguyên Mẫu và những Huy Hoàng
Everness
One thing
does not exist: Oblivion.
God saves the metal and he saves the
dross,
And his prophetic memory guards from
loss
The moons to come, and those of evenings
gone.
Everything is: the shadows
in the glass
Which, in between the day’s two twilights,
you
Have scattered by the thousands, or
shall strew
Henceforward in the mirrors that you
pass.
And everything is part of that diverse
Crystalline memory, the universe;
Whoever through its endless mazes wanders
Hears door on door click shut behind
his stride,
And only from the sunset’s farther side
Shall view at last the Archetypes and
the Splendors.
http://tuvala.blogspot.ca/2012/04/jorge-luis-borges-everness.html
Khi chôm
Nguyễn Du, để dịch từ Everness, thì
GCC chưa đọc những dòng sau đây, về cái từ
thần sầu này.
Hóa ra là Borges cũng
chôm của 1 người khác.
Đọc, thì GCC phát
giác ra, cái từ Mít để dịch từ Everness,
có rồi, và đó là từ “Sài-Gòn”:
Ever-r-ness is far better
than the German Ewigkeit, the same word. But he also created
a beautiful word, a word that's a poem in itself, full of hopelessness,
sadness, and despair: the word neverness. A
beautiful word, no?
NQT
Everness: Sài Gòn.
Mai sau dù có bao giờ.
Neverness: TP HCM
OK?
Brodsky cũng phán như thế
về St. Petersburg: Thà nó có tên
của 1 vì thánh, còn hơn của 1 con quỉ
(Stalingrad)
https://www.scribd.com/document/136392623/Paris-Review-Jorge-Luis-Borges-The-Art-of-Fiction-No-39
INTERVIEWER
Some readers have found that your
stories are cold, impersonal, rather like some of the
newer French writers. Is that your intention?
BORGES
No. (Sadly) If that has happened,
it is out of mere clumsiness. Because I have felt them
very deeply. I have felt them so deeply that I have told them,
well, using strange symbols so that people might not find out that
they were all more or less autobiographical. The stories were
about myself, my personal experiences. I suppose it's the English
diffidence, no?
INTERVIEWER
Then a book like the little volume
called Everness would be a good book
for someone to read about your work?
BORGES
I think it is. Besides, the lady
who wrote it is a close friend of mine. I found that word
in Roget's Thesaurus. Then I thought that word was
invented by Bishop Wilkins, who invented an artificial language.
INTERVIEWER
You've written about that.
BORGES
Yes, I wrote about Wilkins. But
he also invented a wonderful word that strangely enough
has never been used by English poets—an awful word, really,
a terrible word. Everness of course, is better than eternity because
eternity is rather worn now.
Ever-r-ness is far better than the German
Ewigkeit, the same word. But he also created
a beautiful word, a word that's a poem in itself, full of hopelessness,
sadness, and despair: the word neverness. A beautiful word, no?
He invented it, and I don't know why the poets left it lying about
and never used it.
INTERVIEWER
Have you used it?
BORGES
No, no, never. I used everness,
but neverness is very
beautiful. There is something hopeless about it, no? And there
is no word with the same meaning in any other language, or in
English. You might say impossibility, but that's very tame for
neverness: the Saxon ending in -ness.
Neverness. Keats uses nothingness: “Till love and fame
to nothingness do sink”; but nothingness, I think, is weaker
than neverness. You have in Spanish
nadería —many similar words—but nothing like neverness.
So if you're a poet, you should use that word. It's a pity for that
word to be lost in the pages of a dictionary. I don't think it's
ever been used. It may have been used by some theologian; it might. I
suppose Jonathan Edwards would have enjoyed that kind of word or Sir
Thomas Browne, perhaps, and Shakespeare, of course, because he was
very fond of words.
INTERVIEWER
You respond to English so well,
you love it so much, how is it you have written so little
in English?
BORGES
Why? Why, I'm afraid. Fear. But
next year, those lectures of mine that I shall deliver,
I'll write them in English. I already wrote to Harvard.
Đặng Lệ Khánh
Ra biển ngày cuối hạ
Đất nghĩ gì mà lòng hừng hực lửa
Biển nghĩ gì mà sóng
vỗ không ngưng
Gió nghĩ gì mà đứng
lại ngập ngừng
Người nhớ ai mà mông lung
nhìn lặng
Mây nghĩ gì mà dăng đầy tơ trắng
Trời nghĩ gì mà tuôn
nắng xuống trần
Cát nghĩ gì mà bỏng
rát đôi chân
Người buồn ai mà lưng trần ửng đỏ
Đá nghĩ gì mà đá chìm
đá nổi
Núi nghĩ gì mà tiếp
nối ra khơi
Rong nghĩ gì khi nằm bập bềnh trôi
Người phụ người …
Chim
trời vừa xa khuất
Đặng Lệ Khánh
Anh Trụ ơi, trong một bài thơ dịch của anh, sea
cucumber, theo K, dịch là con hải sâm (trừ phi anh không
muốn dùng từ hán việt nên dùng
chữ dưa biển ).
In China, Sea Cucumber is called Hai Shen, which translates
roughly into Sea Ginseng, and it is unclear whether this
refers to its aphrodisiacal qualities or healthful properties
as a tonic for the kidneys and blood. It has been used in China for
thousands of years as a treatment for Arthritis, fatigue, Impotence,
constipation, frequent urination and joint pain, and the herb
was listed as a medicinal agent in the Bencao Congxin of 1757. (
http://www.herbalist.com/wiki.details/…/category/11/start/0/)
Phúc đáp:
Tks
Bài thơ của Szymborka, Tự Trị, GNV đọc
trong Chứng từ Thơ, chương “Thơ và Sinh Học” của Czeslaw
Milosz.
Szymborka, nữ thi sĩ Ba Lan, Nobel văn
chương, điểm tử huyệt của mấy anh thi sĩ tiền chiến theo Ðảng,
suốt đời ăn bánh vẽ, về già, sắp đi tầu suốt, mới
dám thú thực.
Phải đọc hai bài thơ, 1 của Chế
Lan Viên, và 1 của Szymborska, thì mới
thú vị.
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu?
Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi
đã giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái cánh sắp
bay… trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài
khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn Mặt trời lên
trên biển
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong
mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy
còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không
có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi
– người có lỗi
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội
như mình.
Chế Lan Viên
Tự Trị
Gặp nguy hiểm hải sâm tự phân đôi,
Thí một nửa cho thế giới xâu
xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo, nó xé đôi
nó ra, một nửa là tận thế, một nửa là
cứu chuộc
một nửa là trừng phạt, một nửa là
ban thưởng
một nửa là hôm qua, một nửa
là ngày mai
Ở giữa hải sâm, một lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập tức trở thành
xa lạ với nhau.
Một rìa, cái chết, một rìa,
đời sống.
Ðây, chán chường; kia,
hy vọng
Nếu có 1 sự thăng bằng, thì
OK.
Nếu có công lý, thì
là như vậy đó.
Chết như là có thể, trong
hạn vi, không vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại, từ chút cứu chuộc
còn lại.
Chúng ta, cũng biết cách
phân thân
Nhưng chỉ để trở thành, một bên
là thịt, một bên là lời thì thầm
bị bẻ gãy.
Một bên là thịt, và
một bên là thơ ca.
Một bên là cổ họng, một bên
là tiếng cười,
yếu ớt, tắt ngấm liền tức thì.
Ðây, trái tim nặng nề,
kia, non omnis moriar,
chỉ ba từ nho nhỏ, như ba cái lông
chim bay lên.
Lỗ nẻ không chia chúng ta
Một lỗ nẻ bao quanh chúng ta.
Szymborska. Tưởng nhớ [To the memory of] Halina Poswiatowska
Autotomy
In danger, the holothurian cuts itself in two.
It abandons one self to a hungry world
and with the other self it flees.
It violently divides into doom and salvation,
retribution and reward, what has been and
what will be.
An abyss appears in the middle of its body
between what instantly become two foreign
shores.
Life on one shore, death on the other.
Here hope and there despair.
If there are scales, the pans don't move.
If there is justice, this is it.
To die just as required, without excess.
To grow back just what's needed from what's
left.
We, too, can divide ourselves, it's true.
But only into flesh and a broken whisper.
Into flesh and poetry.
The throat on one side, laughter on the
other,
quiet, quickly dying out.
Here the heavy heart, there non omnis moriar
just three little words, like a flight's
three feathers.
The abyss doesn't divide us.
The abyss surrounds us.
- In memoriam Halina Poswiatowska
*
Trong Chứng tích thơ, chương Bài
học Sinh học, Milosz viết:
Người ta đã viết nhiều về thi sĩ, như là
1 con người ‘ngơ ngác tựa gà trống, e đến trăm năm vưỡn
trẻ thơ’, một con người khác những người khác:
tuổi thơ của nó không chấm dứt, nó gìn
giữ được một điều gì đó ở trong nó, của 1
đứa bé, suốt cuộc đời của nó. Ðiều này đúng
trên diện rộng, ít nhất theo nghĩa này: cảm
nhận ấu thơ của thi sĩ có một độ dài thật dài,
và những bài thơ đầu của thi sĩ, "một nửa là đứa
bé", đã có những dấu ấn chỉ ra những bài
thơ tiếp theo.
Ý niệm nhị phân, 1 bên là
linh hồn, một bên là xác thân ở với chúng
ta thật lâu, qua ẩn dụ con tằm hóa kiếp thành
con bướm: một cái xác, con tằm bị bỏ lại, cho
linh hồn tự nó giải thoát, qua hình ảnh 1
con bướm bay lên. Bài thơ “hải sâm” của Szymborska
không thuộc trường nhị phân trên. Một lỗ nẻ
nẻ ra trong xác thịt của hải sâm, một sự phân
chia thành hai cái ngã, a division into two
coporal “selves”, xẩy ra. Bắt đầu với thời phục hưng, một thứ nhị
phân khác được thêm vào với nhị phân
linh hồn/xác thân, như Steiner chỉ ra, đó là
danh vọng/lãng quên, fame/oblivion, qua cụm từ ars longa,
vita brevis, tên của 1 con người thì còn mãi
với hậu thế, không phải mọi thứ đều chết, non omnis
moriar.
https://www.threepennyreview.com/samples/ferry_f17.html
Marriage
Two of them there beside the river, as if
The river were the conversation between
them.
It was as if the vocables of the river
Could beautifully articulate some meaning
That the river knew about. They knew so little
About what it was that the river knew about,
The meaning they had each of them always wanted
To impart to the other with the authority
Of knowing who it was each of them was.
The river went on saying what it was saying.
—David Ferry
Hôn Nhân
Hai đứa chúng nó, ở đó, ở bên
bờ sông, như thể
Con sông là cuộc trò
chuyện giữa hai đứa chúng nó
Như thể tiếng sông
Có thể phán, đẹp, một ý
nghĩa nào đó
Con sông biết
Hai đứa thì chỉ biết tí ti
Về điều con sông biết
Cái ý nghĩa, mỗi đứa, trong
hai đưá, luôn luôn muốn,
Truyền đạt cho đứa kia
Bằng quyền uy
Đây là câu chuyện, mi
hay ta, đứa nào là đứa nào.
Con sông cứ thế trôi cùng
với tiếng sông
Lời nào ta đang nói....
S
James Joyce
In one day of mankind are all the days
of time, from that unimaginable
first day of time, when a formidable
God prearranged the days and agonies,
to that other day when the perpetual river
of earthly time flows round to its headwaters,
the Eternal, and is extinguished in the present,
the future, the past, the passing-what is now
mine.
The story of the world is told from dawn
to darkness. From the depths of night I've
seen
at my feet the wanderings of the Jews,
Carthage destroyed, Hell, and Heaven's bliss.
Grant me, Lord, the courage and the joy
I need to scale the summit of this day.
-Cambridge, 1968
-S.K.
J.L. Borges
James Joyce
Trong một ngày của nhân loại là
tất cả những ngày của thời gian
Từ ngày thứ nhất không thể tưởng tượng
ra được của thời gian
Khi một vị Chúa Trời kinh khủng dàn
dựng sẵn
Những ngày và những cơn hấp hối
Về cái ngày đó, khi con sông
hằng thời gian trần thế chảy tới đầu sông, Cái Vĩnh
Hằng, và cạn kiệt trong hiện tại, tưởng lai, quá
khứ, vó câu – cái bây giờ là của
tôi.
Câu chuyện thế giới được kể, từ lúc
rạng đông tới bóng tối.
Từ thăm thẳm đêm đen, tôi nhìn
thấy dưới chân tôi, người Do Thái lang thang,
Thành phố Carthage bị huỷ diệt,
Địa Ngục, và niềm hoan lạc Thiên Đàng
Chúa ơi, hãy ban cho con can đảm và
niềm vui
Con cần đo lường đỉnh cao của ngày.
Alexander Selkirk
I dream the sea, that sea, surrounding me,
And from the dream I'm rescued by the bells
Of God, which bless and sanctify the mornings
Of these domesticated English fields.
Five years I suffered, looking at eternal
Images of infinity and solitude,
Which have become that story I repeat
Now, like an obsession, in the pubs.
God has returned me to the world of men,
To mirrors and doors and numbers and names,
And I am no longer he who eternally
Looked at the sea and its deep barren plain.
But now what shall I do so it may find
That I am here, and safe, among my kind?
-S.K.
J.L. Borges
The experiences of the once-marooned sailor
Alexander Selkirk (1676-1721) were sources for Daniel Defoe's
Robinson Crusoe.
EARLY ONE MORNING
Here is Memory walking in the
dark
there are no pictures of her as
she is
the coming day was never seen before
the stars have gone into another
life
the dreams have left with no sound
of farewell
insects wake flying up with their
feet wet
trying to take the night along with
them
Memory alone is awake with me
knowing that this may be the only
time
Một sáng sớm
Đây là Hồi Nhớ
đang đi một đường tản bộ trong bóng tối
Không có hình
ảnh nào về nàng như nàng là
Cái ngày tới thì
chưa từng nhìn thấy trước đó
Những vì sao thì bèn
bỏ đi, vào một cuộc đời khác
Những giấc mộng thì bèn
bị/được bỏ lại, đếch có 1 âm thanh của tạ
từ, của vĩnh biệt
Sâu bọ, ruồi muỗi, côn
trùng bay thì bèn bay lên, chân
ướt nhèm
Cố lôi đêm đi cùng
với chúng
Hồi Nhớ, chỉ có nó,
bèn thức dậy cùng với GCC
Biết, lần này có thể
là lần cuối cùng, đúng là lần
này.
People Eating Lunch
And thinking with each mouthful,
Or so it appears, seated as they
are
At the coffee shop counter, biting
Into thick sandwiches, chewing
And deliberating carefully before
taking
Another small sip of their sodas.
The gray-haired counterman
Taking an order has stopped to think
With a pencil paused over his pad,
The fellow in a blue baseball cap
And the woman wearing dark glasses
Are both thoroughly baffled
As they stir and stir their coffees.
If they should look up, they
may see
Socrates himself bending over the
grill
In a stained white apron and a hat
Made out of yesterday's newspaper,
Tossing an omelet philosophically,
In a small frying pan blackened
with fire.
Charles Simic: New and Selected Poems
Họ ăn trưa
Và suy tư với cái
miệng lùng bùng
Hay có vẻ lùng bùng,
với thức ăn chưa kịp nuốt
Ngồi, như họ ngồi
Ở quầy tiệm cà phê
Đợp một đợp xăng uých dầy,
Nhai nhai, thận trọng cân
nhắc, trước khi
Chiêu ngụm xô đa nhỏ
Tên coi quầy tóc
xám
Nhận order, ngừng suy tư
Với cây viết chì gài
trên cuốn sổ,
Cái tay đội cái nón
baseball màu xanh
Và người đàn bà
đeo kính râm
Cả hai đều tỏ ra ngỡ ngàng
Quậy quậy cà phê
Nếu họ ngước nhìn
lên
Họ có thể thấy
Socrates, đích thị ông
ta
Nghiêng người xuống cái
vỉ
Trong cái tạp dề trắng và
cái nón
Làm bằng tờ báo ngày
hôm qua
Lật lật món trứng omelet
rất ư là triết học
Trong cái xoong đen thui
vì lửa.
LATE SEPTEMBER
The mail truck goes down the
coast
Carrying a single letter.
At the end of a long pier
The bored seagull lifts a leg now and then
And forgets to put it down.
There is a menace in the air
Of tragedies in the making.
Last night you thought you heard
television
In the house next door.
You were sure it was some new
Horror they were reporting,
So you went out to find out.
Barefoot, wearing just shorts.
It was only the sea sounding weary
After so many lifetimes
Of pretending to be rushing off somewhere
And never getting anywhere.
This morning, it felt like Sunday.
The heavens did their part
By casting no shadow along the boardwalk
Or the row of vacant cottages,
Among them a small church
With a dozen gray tombstones huddled close
As if they, too, had the shivers.
Charles Simic: The Voice at 3:00 AM
Tháng Mười Cũ
Xe thư chạy xuống bờ biển
Với chỉ một lá thư
Ở cuối một bến tàu dài
Con hải âu chán đời, nhắc,
hết chân phải lại đến chân trái
Và quên bỏ xuống
Trong không khí có mùi
đe dọa
Về những bi kịch đang thành hình
Đêm qua bạn nghĩ bạn có
nghe tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin chắc
Về một ghê rợn mới
Họ đang báo cáo
Và thế là bạn bò ra đường
để kiếm
Chân trần, quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là tiếng sóng
biển
Ưu tư về không biết là bao nhiêu
là đời
Cứ phải giả đò, từ đâu đổ xuống
nơi đây
Và chẳng bao giờ đi bất cứ nơi đâu
Sáng nay, sao giống như
Chủ Nhật
Ông Giời cà chớn chắc là
cũng có góp phần
Trong cái việc, đếch đem một cái
bóng râm nào
Đổ xuống hai bên hè đường
Hay là ở rặng những cái lều
trống trơn
Trong số đó, là 1 ngôi
nhà thờ nhỏ
Với trên chục cái bia mộ bằng
đá
Xúm lại với nhau
Như thể, chúng, đôi lúc,
cũng rùng mình.
IN THE JUNK STORE
A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.
I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.
Charles Simic: The
Little Something
Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành
Hồ
Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ,
cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào,
còn nhớ!
Gấu lật lật 1 cái huy
chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng
phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước Đứng Lên
Rồi Đất
Nước Nằm Xuống
Rồi Đất
Nước Đi Luôn!
Hà, hà!
Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp
nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….
ETERNITY'S ORPHANS
One night you and I were walking.
The moon was so bright
We could see the path under the trees.
Then the clouds came and hid it
So we had to grope our way
Till we felt the sand under our bare feet,
And heard the pounding waves.
Do you remember telling me,
"Everything outside this moment is a lie"?
We were undressing in the dark
Right at the water's edge
When I slipped the watch off my wrist
And without being seen or saying
Anything in reply, I threw it into the sea.
Charles Simic
Những đứa trẻ mồ côi của vĩnh cửu
Một đêm em và tôi
dạo bước
Trăng cao, sáng vằng vặc
Chúng tôi có thể nhìn
thấy lối đi dưới cây
Và rồi mây tới và che
mất
Thế là chúng tôi phải
mò mẫm kiếm lối đi
Cho tới khi cảm thấy cát dưới chân
trần
Và nghe tiếng sóng biển đập
thình thịch
Em có nhớ là em
biểu tôi
"Mọi cái chó gì bên
ngoài khoảnh khắc này, thì đều là
dối trá"?
Chúng mình lột trần truồng trong
bóng tối
Ngay kế bên bờ nước
Trong khi tôi gỡ cái đồng hồ
ra khỏi cổ tay
Và chẳng để ý em có nhìn
tôi,
Hay nói cái gì để trả
lời
Tôi ném cái đồng hồ xuống
biển
Simic: Scribbled
in the Dark
ALL THINGS IN PRECIPITOUS
DECLINE
Like a pickup with its wheels
gone,
And some rusty and disassembled
Antique stoves and refrigerators
In a front yard choked with
weeds,
Outside a shack with a plastic
sheet
Draped over one of its windows,
Where a beer bottle went through
One star-studded night in June-
Or was it a shotgun we heard?
The police inquiry, if there
is one,
Is proceeding at a snail's
pace,
In the meantime, the old recluse
Got himself a bad-tempered
mutt
To keep his junk company and
bark
At all comers, including the
mailman
Leaving a rare letter in the
mailbox.
Cứ thế dốc ngược mà
thoái
Như cái pickup bốn bánh
mỗi cái mỗi nơi
Mấy cái lò, tủ lạnh từ thời
ông bành tổ ở sân trước nhà
Tắc nghẹn cỏ
Bên ngoài cái lán
với cái khăn trải giường bằng nilông
Phủ lên một cái cửa sổ của
nó
Nơi một cái vỏ chai bia bèn
đi hoang
Cho hết một mùa hoang vu trên
mặt đất -thuổng PCT -
Simic khiêm tốn hơn,
Đi hết 1 đêm tháng Sáu,
trời vãi sao –
Nghe có tiếng shotgun?
Ôi dào rách việc,
kệ mẹ mấy tên cớm VC!
Chúng vốn chậm như sên, nếu
không được bôi trơn mõm
Cùng lúc này, cái
anh già sống ẩn dật
Tự sắm cho lão một con chó
tính tình khó đăm đăm
Để làm bạn đồng nát
Con chó sủa từ mọi góc gách
Thêm anh bưu tá
Bỏ một cái thư hiếm vào
hòm thư.
ANCIENT COMBATANT
Veteran of foreign wars,
Stiff in arm and leg,
His baggy pants billowing in the wind
Salutes a crow in a tree,
And resumes his stroll
Past a small graveyard,
Swerving and waving his arms
As if besieged by ghosts
Lurking among headstones,
Waiting to accost him
And make a clean breast
,Before he slips out of sight.
The tiger lilies bemused.
The curving dirt road in his wake
Deep in silence
And prey to lengthening shadows.
Cựu chiến hữu
Cựu chiến hữu của những cuộc chiến ngoại
bang giật dây
Chân tay cứng đơ
Ống quần rộng thùng thình
như hai cánh buồm lộng gió
"Chàng" cúi chào một
con quạ ở trên cây
Và bèn tiếp tục cuộc dạo
Qua một nghĩa địa nhỏ
Chàng loạng quạng, ve vảy tay
Như bị bủa vây bởi những hồn ma
Lấp ló, rình mò giữa
đám bia mộ
Đợi bắt chuyện
Và làm 1 cú thú
tội, sám hối, tự vấn... hay cái con mẹ gì
đó
Một điều mà tên già
NN và đồng bọn,
Không thể làm được,
Trước khi biến khỏi tầm nhìn.
Những bông hoa kèn bèn
sững người.
Con đường đất bụi cong queo bèn
tỉnh giấc
Chúi sâu mãi vào
im lặng
Và bèn sửa soạn săn mồi
Là những cái bóng
dài loằng ngoằng.
Note:
Ôi chao, lâu lắm mới có
được 1 "bi khúc" - thuổng NL - dành cho lũ
Bắc Kít xẻ dọc Trường Sơn đi kíu nước!
NQT
Thơ Mỗi
Ngày
http://www.babelmatrix.org/works/es/Borges,_Jorge_Luis-1899/Carnicer%C3%ADa/en/37604-Butcher_shop
Butcher shop
Lower than
a lupanar
the butcher
shop signs the street insultingly.
On the
lintel
a blind
cow's head
rules the
coven
of final
marble and gaudy flesh
with an
idol's remote majesty.
[Mulrooney,
Christopher]
J.L. Borges
AT THE BUTCHER'S
Meaner
than a house of prostitution
the meat
market flaunts itself in the street like an
insult.
Above the
door
the head
of a steer in a blind-eyed stare
watches
over the witches' Sabbath
of flayed
flesh and marble slabs
with the
aloof majesty of an idol.
[Norman
Thomas di Giovanmi]
"Lộn(g)
dịch":
Ở nhà HPNT
Bần tiện
hơn cả nhà thổ
Phiên
chợ thịt người
Ánh
lên lời nguyền rủa của những nạn nhân
Tết năm đó
Ở bên
trên cửa
Cái
đầu bò mù
Đưa mắt
nhìn xuống Ngày Hội Máu của VC
Bằng 1
cái nhìn cao sang, quyền quí
Của những
vì vua chúa thời nhà Nguyễn.
Compass
Every single thing becomes a word
in a language that Someone or Something,
night and day,
writes down in a never-ending scribble,
which is the history of the world, embracing
Rome, Carthage, you, me, everyone,
my life, which I do not understand, this
anguish
of being enigma, accident, and puzzle,
and all the discordant languages of Babel.
Behind each name lies that which has no name.
Today I felt its nameless shadow tremble
in the blue clarity of the compass needle,
whose rule extends as far as the far seas,
something like a clock glimpsed in a dream
or a bird that stirs suddenly in its sleep.
-A.R.
J.L. Borges
Thơ
Mỗi Ngày
Nguyễn Đình Thuần &
NQT & Đặng Phú Phong & Trần Văn Nam
Đỗ Quang Em & Nguyễn Tôn Nhan @ Thành
Tôn's [3.2008]
Vo
Anh Kiet added 5 new photos — with Nam
Tran.
Nhà Thơ TRẦN VĂN NAM vừa ra đi sau thời gian bạo bệnh
lúc 9 giờ sáng nay (ngày 10 Jan 2018) tại nhà
riêng thành phố Walnut, California.
Thơ
Mỗi Ngày
James Joyce
In one day of mankind are all the days
of time, from that unimaginable
first day of time, when a formidable
God prearranged the days and agonies,
to that other day when the perpetual river
of earthly time flows round to its headwaters,
the Eternal, and is extinguished in the present,
the future, the past, the passing-what is now
mine.
The story of the world is told from dawn
to darkness. From the depths of night I've seen
at my feet the wanderings of the Jews,
Carthage destroyed, Hell, and Heaven's bliss.
Grant me, Lord, the courage and the joy
I need to scale the summit of this day.
-Cambridge, 1968
-S.K.
J.L. Borges
Note: Gấu nhớ, là, Borges không hề
nhắc tới “Dubliners”, nhưng lại ngợi ca Ulysses, như bài
thơ trên cho thấy. GCC, thì chỉ đọc được tập truyện
ngắn của ông.
GCC giới thiệu 1 truyện ngắn
của Joyce trong Dubliners.
Thương Ẩn, là từ Lý
Thương Ẩn.
Eveline
Post thêm bài này
của Prospero, thần sầu!
James Joyce's "Ulysses"
Why you should read this book
Alexander Selkirk
I dream the sea, that sea, surrounding me,
And from the dream I'm rescued by the bells
Of God, which bless and sanctify the mornings
Of these domesticated English fields.
Five years I suffered, looking at eternal
Images of infinity and solitude,
Which have become that story I repeat
Now, like an obsession, in the pubs.
God has returned me to the world of men,
To mirrors and doors and numbers and names,
And I am no longer he who eternally
Looked at the sea and its deep barren plain.
But now what shall I do so it may find
That I am here, and safe, among my kind?
-S.K.
J.L. Borges
The experiences of the once-marooned sailor Alexander
Selkirk (1676-1721) were sources for Daniel Defoe's Robinson
Crusoe.
Bữa rượu nhỏ
Nàng không tin nàng
còn xinh
Cười đưa hoa ấu chồng mình ngắm
chơi
Rót ly rượu nhỏ cùng
soi
Chân mày môi má
hồng thôi là hồng (1)
Đặng Lệ Khánh
Note: Bắc Kít nói,
Hồng ơi là Hồng!
Đen ơi là Đen!
Tks
NQT
Người Huế cũng nói "hồng
ơi là hồng!", nhưng nói như vậy thì
hơi "liếng" .
Để nghiêm chỉnh hơn một tí
thì dùng chữ "thôi" !!
Anh Trụ dịch và viết nhiều quá,
K đọc không kịp !!!
Tks
Note: Thơ DLK có thể khác thơ người
khác, là do như trên, chăng?
Thơ
Mỗi
Ngày
ÓNG
ÁNH HƯ NGỤY
Mỗi phen cầm bút viết
về văn chương — làm một thứ văn chương trên
văn chương — tôi hiểu rõ mình đang sống thời
buổi khủng hoảng. Văn chương nhất thiết là hồn nhiên,
ngây thơ hay không, tôi chẳng rõ. Nhưng
đối với tôi khi nó cần trông thấy nó
qua phản ánh của nó, không thể phủ nhận là
nó đang truỵ lạc, sa đoạ. Nhất là buồn bã.
Mỗi phen, tôi đều lập
lại với tôi khẩu hiệu: Enfin, j’écris. Enfin,
đó là tín hiệu của người bạn thân
phát ra giúp tôi nhận biết anh ta bắt đầu
say. Trong cuộc rượu của chúng tôi đã tới
một thời điểm gay cấn, hãy nhận Enfin, báo động cho
bạn bè, những kẻ ngồi chung cuộc, rằng: bất ổn, bất ổn,
chán quá, chán quá, tôi quyết
định đẩy cơn say đến cùng, đánh đắm mình vào
mông lung, mù mờ, hỗn độn. Như Hamlet kêu:
“The time is out of joint” (Thời gian đã ly tán).
Như Hamlet, chẳng còn hiểu đời sống, hươi gươm đâm chết
nàng Ophélia. Cơn khùng điên óng
ánh những mảnh minh trí vỡ nát, những mảnh
sao băng miệt mài, không một giây đốn ngộ,
từ khước đốn ngộ — chẳng thể ôm ấp đời sống mênh mông
vô hạn. Đó định mệnh của văn chương trên văn
chương, nỗ lực soi rọi mù mờ bằng những ánh mù
mờ, nỗ lực kết tập thời ly tán bằng những đun đẩy ly tán.
Enfin, j’écris. Enfin,
je crie.
Thảm thiết chưa, cũng lố bịch
chưa, văn chương kêu la tắt tiếng trên
văn chương. Văn chương soi bóng làm bộ làm
tịch trước văn chương. Mỗi phen tôi đều nổi da gà,
nhờm tởm, thấy mình đang đóng vai chủ chứa trong
tấn kịch Bao Lơn (Le Balcon) của Genet. Trong nhà chứa
của mụ này, mỗi phòng được bài trí
một kiểu dành riêng cho một vai nhất định mà khách
chuộng đóng — tu sĩ, tướng lãnh, quan toà,
cách mạng — với đầy đủ y trang và các thứ
phụ tùng cần thiết để đóng trò — mọi trò
điển hình của dục tính thác loạn — nữ nhân
là phụ tùng thiết yếu, nhưng phòng nào
cũng có gắn gương để cho các đương sự có thể
nhìn ngắm mà sửa bộ.
Ngôi nhà chứa
ở trong một thành phố dấy loạn. Và trên
bao lơn của nhà chứa, khách làng chơi
và gái giang hồ dẹp loạn.
TTT: Âm Bản
Note: The time is out of joint.
TTT dịch là thời gian ly tán.
Theo GCC, có lẽ nên dịch là, thời gian
"long, lệch bản lề", joint
là mối nối, bản lề.
Để hiểu từ này, có lẽ cũng nên
hiểu thêm ý niệm "ngoài thời", từ này
chỉ thời gian Levi rong chơi nơi địa ngục.
Cuốn
La Tregua xuất bản tại Mỹ có cái
tên "lạc quan" Lại Tỉnh Thức (The Reawakening), trong khi
nhan đề tiếng Ý đề nghị hoặc từ Truce (Hưu chiến), hay Respite
(Giải lao), cuốn sách chấm dứt rõ ràng như
vậy, bởi vì những ngày tháng lang thang vùng
Đông Đức của Levi là một "ngoài-thời" (a kind
of "time out"), giữa Auschwitz-như-kinh nghiệm và Auschwitz-như-hồi
nhớ. Cuốn sách khép lại với tiếng kẻng báo
thức, đúng ra là tiếng hô buổi sáng của
trưởng trại Auschwitz: Thức dậy! (Wstawach!).
LE POÈTE
MAUDIT
“Tôi viết
chỉ bởi lẽ tôi không thể nào làm
khác.” (Je n’écris que parce que je ne puis faire
autrement) và “Đáng nguyền rủa thay con tim không
biết đường tự chế.” (Maudit soit le coeur qui ne sait se contenir
— "Penthésilée"). Đó là những lời
than thở của Kleist, đối cực của Goethe.
Tôi tự hỏi còn không
cái tông giống thuần khiết kia? Gương mặt ngửng
cao dưới bầu trời giông bão, trán hứng nhận
sấm sét và cất giọng gào ca một điệp khúc
hân hoan thịnh nộ của con người, ganh đua cùng trời
đất quỷ thần. Quả nhiên là cái tông giống
đáng nguyền rủa, dập vùi. Đáng nguyền rủa
cái hào quang của tuyệt vọng, đáng dập vùi
cơn đam mê khốn cùng của một tông giống.
Keats hát: “Hạnh phúc thay
ở trần gian này lại còn có nấm mồ (Je
suis heureux qu’il y ait ici bas une chose telle que la tombe).
Nhưng còn không, còn
không những vầng trán hiền lộng mênh mang
của một cõi ngoài, những cửa miệng há
mở cho nhảy thoát con tim đỏ ối, những đôi mắt căng
banh dập dồn ánh lửa uy linh một đời khác? Còn
không một tấm lòng trinh bạch? Còn không
chút thơ ngây dại dột, chẳng làm tuồng?
Nhận chịu bị nguyền rủa (không phải
được bị nguyền rủa) - chẳng hiểu sao, bởi không thể khác
— như con chim thất lạc giữa mùa đông băng giá,
cất tiếng kêu thảm thiết gọi nắng, gọi hoa và đợi
chết? Chim bị nguyền rủa, chẳng nguyền rủa. Còn không?
Còn không?
Dường như sau buổi tân hôn bi
tráng của Kleist, tắm đượm niềm hoan lạc phi thường
— Tử thần lẫm liệt uy nghi đã bị Kleist nặn thành
tượng trưng bày — cái tông giống kia không
thể tồn tại bởi không thể vượt hơn. Hãy nghe Kleist
viết thư từ biệt cô em gái:
“Que le ciel t’accorde une mort qui ressemble,
ne fûtce qu’à moitié, à la mienne
en joie et en sénérité; c’est le voeu
le plus sincère et le plus tendre que je puisse former
pour toi.”
(Cầu trời ban cho em một cái chết
hân hoan và thanh tịnh giống như cái chết
của anh, bằng phân nửa thôi cũng được; đó
là lời cầu chúc chân thành nhất, âu
yếm nhất mà anh dành cho em.)
Chàng thơ ấy bình thản nhìn
lần cuối mớ bản thảo của chàng, một quyển tiểu thuyết
đã hoàn tất, hai vở kịch - tất cả giông
tố mê mải của hồn chàng đó — nhưng bấy giờ lặng
thinh mọi tham vọng — không ai màng những của nợ
ấy và chính chàng cũng chẳng còn thiết
(... J’ai cru savoir. Je savais toujours. Je sais peut-être
mais personne ne veut ce secret et je n’en veux pas moi-même.
Tôi từng tưởng biết. Tôi hằng vẫn biết. Bây giờ
có lẽ tôi biết nhưng không một ai màng
đến điều thầm kín ấy và ngay chính tôi, tôi
cũng chẳng thiết — Camus — Trở Lại Tipasa). Và chàng
thiêu huỷ đống giấy lộn kia (như Gogol, Kafka). Chàng
viết gửi nhà chức trách bản tường thuật diễn tiến cuộc
tự sát, mở đầu bằng câu: “Chúng tôi nằm
chết trên con lộ...”
Kleist với một người đàn bà
xấu xí bệnh hoạn và cũng cô đơn như chàng,
thoả thuận chết cùng chàng, hớn hở như đôi
uyên ương cùng rủ nhau đến Wannsee. Họ ngồi uống
cà phê giữa trời. Người ta còn nghe họ cười
ròn tan, đi khuất vào đồng cỏ. Đúng giờ đã
ghi, hai phát súng nổ. Kleist đã kề súng
bắn vào trái tim của người đàn bà đồng
hội đồng thuyền rồi ngậm họng súng trong miệng mình
nổ phát thứ nhì. Tay chàng không hề run rẩy.
“Tôi đã làm tất cả
những gì thuộc quyền năng của một người... Tôi
đã thử thách đến điều bất khả. Tôi đã
mang đặt thời vận cuối cùng của đời tôi trong một
tiếng bạc. Mấy con xúc xắc định mệnh đã thẩy lăn,
tôi cố tìm hiểu... Tôi thua. (J’ai fait tout ce
qui est dans le pouvoir d’un homme... J’ai tenté l’impossible.
J’ai mis ma dernière chance dans un coup de dés. Les
dés fatals ont roulé, j’essaie de comprendre... J’ai
perdu!) — “Penthésilée”.
Tôi thua! Tôi thua! Và
“tôi nghĩ tôi có quyền chết”.
Sau Kleist, không
còn poète maudit. Mọi người đều bị nguyền
rủa, đều được nguyền rủa, đều cùng nguyền rủa, đều tự
nguyền rủa. Khốn khổ, thảm hại thay tuồng nguyền rủa. Tuồng văn
chương truỵ lạc đấy thôi. Coi kìa Dosoievski đeo thánh
giá, đọc diễn văn dưới chân tượng Pouchkine. Henri
Miller khoác áo mô phạm đứng trên bục
giảng đường thuyết pháp. Sartre từ khước Nobel, xuống đường
tranh đấu, tự đoạ mình trong tự do... Nhiều vô xiết kể.
Tất cả những người ấy, hết thảy những người — ít nhiều chăn nuôi
ảo tưởng của văn chương nghĩa lý đều đã mang giấc mộng tột
cùng / khốn cùng: trở thành maudit, đều từng đóng
các tuồng tích và đều trở thành hề. Không
chừa ai.
Đã tuyệt giống poète
maudit. Còn chăng là những chàng
thơ bị ám toán, “triệu triệu chúa Kytô
có đôi mắt u sầu và hiền hậu” (O, million
de Christ aux yeux sombres et doux) (Rimbaud).
1973
TTT: Âm
Bản
Ui chao, phải đến lúc
sắp sửa, tí nữa, sẽ đi xa, thì Gấu mới biết đến
thơ, và mới nhập vô được dòng suy tư của ông
anh nhà thơ của GCC.
Món quà bonus, của Tên
Trời Già Khốn Kiếp, sau khi năn nỉ Gấu nhận món
quà Lò Thiêu.
Nhìn như thế, thì hai vị hộ
pháp của trang Tin Văn cũng có trong toan tính
của Thằng Chả.
Một mình mi không làm
nổi đâu, để ta ban cho thêm hai vị phụ tá!
Đúng như thế.
Tiếng Pháp, tiếng Anh của Gấu, là
thứ tự học, đầy lỗ hổng,
quãng đời đẹp nhất, thì hầu hạ Cô Ba, quãng
đời còn lại, ngắn ngủi quá, đọc ào ào, cái
nào không hiểu, cho qua luôn.
K chẳng đã có lần hỏi, bộ anh
tính kiểm tra tình trạng, khả năng tiếng Anh của tôi ư?
Hà, hà!
Kafka phán: Phi ta ra thằng nào dám
viết văn?
I am made of literature and nothing else [Ozick
trích dẫn]
Czeslaw
Milosz
PROUD TO BE A MAMMAL
Essays on war, faith and memory
Translated by Catherine Leach, Bogdana
Carpenter and Madeline G. Levine
295pp. Penguin. Paperback, £9.99.
9780141 193199
While
Czeslaw Milosz saw his rejection of the logic of totalitarianism
- a logic that seemed to absorb every contrary intellectual
position into itself - as a "revolt of the stomach", it was not
simply a negative movement, but a matter of keeping faith with intuitions
of true goodness and value. Trying, in The Captive Mind (1953), to explain
his position, he describes a moment during the Second World War when,
in a dense crowd milling about a vast railway station in the Ukraine,
amid the din of political slogans barked from loudspeakers, he saw
a husband, wife and two children, whispering together.
"This was a human
group, an island in a crowd that lacked something proper to humble,
ordinary human life."
In one of the essays in Proud To Be a
Mammal - a new selection of his autobiographical and philosophical
prose writings - he remarks, "could I start anew, every poem
of mine would have been a biography or a portrait of a particular
person, or, in fact, a lament over his or her destiny". The volume
is full of such biographical sketches - their vividness sharpened
by a consciousness of social and political catastrophe, in which
human existence acquires a terrible "plasticity", and the particular
is annihilated. One essay is a personal map of the city of
Wilno (Vilnius), recapturing the lost
human worlds of its streets. Another is a description of two
elderly sisters, Anna and Dora, "defenseless against historical time,
and simply time itself', their names remembered by "no one but me".
Milosz rejects, with sardonic
humor, or a "despairing cheerfulness", modes of thought that
subject human existence to the forces of "History" or "matter".
He searches for a philosophy that would support his perceptions
of human value, a philosophy defying the absurdity of the world.
His refusals sustain and are sustained by hope. "If I am mistaken in my faith, I
offer it as a challenge to the Spirit of the Earth."
Proud To Be a Mammal is a
rich volume, and the writings included are well chosen - though
they should not, perhaps, have been left undated. Nevertheless,
this is a rewarding introduction to an achievement that was
little short of heroic.
BERNARD MANZO
TLS 18 May 2010
Khi Milosz
coi sự từ bỏ của ông, cái lô gíc toàn trị
- một lô gíc có vẻ nuốt sạch mọi hoàn cảnh trí
thức ngang ngược, khó bảo, trái nghịch… vào chính
nó – như là “một cuộc nổi loạn của cái bao tử”, thì
đây không giản dị là một chuyển động tiêu cực, nhưng
là một cách gìn giữ niềm tin với những trực giác
của điều tốt và giá trị thực.
Cố gắng giải thích, trong Cầm Tưởng, 1953, hoàn cảnh của
mình, ông miêu tả một khoảnh khắc trong thời kỳ Đệ Nhị
Chiến, khi, trong một đám đông dầy đặc luần quần tại một nhà
ga xe lửa tại Ukriane, giữa những đinh tai nhức óc của những khẩu
hiệu phát ra từ những chiếc loa phát thanh, ông nhìn
thấy một ông chồng, bà vợ và hai đứa con thầm thì
với nhau.
“Đó là một nhóm
người, như hòn đảo nhỏ trong một đám đông,
và đám đông này thiếu một điều chi
rất ư riêng biệt để cho nó trở thành một
cuộc sống của con người khiêm tốn, và bình
dị."
Milosz's ABC's
Dos
Dostoevsky, Fyodor.
Tôi dậy một khóa học về Dos,
và đã được hỏi nhiều lần là tại sao
không viết một cuốn về Dos. Tôi luôn trả lời,
cả một thư viện, với đủ thứ ngôn ngữ, về ông ta, đã
có rồi, tôi lại chẳng phải là học giả. Tuy
nhiên, còn một lý do khác.
Nếu viết, thì đây là
một cuốn dựa trên sự thiếu tin cậy. Mà đã
thiếu tin cậy, thì viết làm gì.
Nhà văn lớn lao này, Dos,
đã ảnh hưởng, chẳng ai cùng thời với ông
so được, ngoại trừ Nietzsche, lên tư tưởng Âu
Châu và Mỹ Châu. Balzac không, Dickens
không, Flaubert không, Stendhal không, tuy đều
là những cái tên phổ cập hiện giờ. Ông
ta sử dụng một hình thức tiểu thuyết mà chưa ai dám
dùng, trước ông hay sau ông, mặc dù George
Sand đã thử bắt chước, để trình bầy một hiện tượng bao
la rộng lớn mà chính ông kinh nghiệm, từ bên
trong con người của ông, và do đó cảm nhận được:
sự băng hoại của niềm tin tôn giáo.
Những chẩn đoán của ông về
cơn băng hoại này, hoá ra là thật là
đúng. Ông nhìn ra cơn băng hoại này,
và hậu quả của nó, ở trong đầu của tầng lớp sĩ
phu Nga. Cuộc Cách Mạng Nga đã tìm thấy những
lời tiên đoán về nó, của nó, ở trong
Lũ Người Quỉ Ám, đúng như Lunacharsky công khai
thú nhận, và trong Huyền Thoại về Viên Đại Phán
Quan" [The Legend of the Grand Inquisitor].
Một nhà tiên tri? Hiển nhiên
rồi. Nhưng còn là một ông thầy nguy hiểm.
Bakhtin, trong cuốn về tính thi học của Dos đã
đưa ra giả thuyết, tiểu thuyết đa giọng là phát
minh của những nhà văn Nga. Đa giọng khiến Dos thành
một nhà văn hiện đại: ông nghe những tiếng nói,
rất nhiều tiếng nói, ở trong không khí, chúng
cãi cọ lẫn nhau, đưa ra những tư tưởng trái ngược nhau,
thế giới chúng ta hiện đang sống chẳng y hệt như vậy sao: một
nền văn minh hỗn mang, của những giọng nói chỏi nhau?
Đa giọng của ông bị hạn chế, tuy
nhiên. Đằng sau đa giọng đó, ẩn giấu một con người
nóng bỏng niềm tin. Một vị thiên sứ. Còn
gì đa giọng hơn là cái xen với những người
Ba Lan trong Anh em nhà Karamazov: một xen hài thô
kệch không xứng với tính nghiêm trọng của tác
phẩm. Cách sử trí nhân vật Ivan Karamazov xem
ra còn mạnh hơn cả những gì một thể dạng đa giọng cho
phép. (1)
(1) Nathalie Sarraute nghĩ khác.
Trong một bài viết, trong Thời Ngờ Vực, mà
Hai Lúa còn nhớ đại khái, bà cho
rằng, những nhân vật của Dos. có người cứ thế đi thẳng
tới Đạo, họ là Thánh, ngay từ bẩm sinh. Còn
một loại nhân vật chọn con đường tủi nhục, lầy lội, phải đóng
đủ thứ vai, trong có vai hề, tự châm biếm, tự làm
nhục chính mình....
Dos. nhà ý thức hệ được
tách biệt hẳn ra khỏi Dos, nhà văn, ấy
là để bảo vệ sự lớn lao vĩ đại của ông; sự lớn
lao này thường bị những lời tuyên bố không may
làm tổn thương. Ở đây, may mắn làm sao, có
Bakhtin, và ông này giúp đỡ cho chúng
ta thật nhiều, qua giả thuyết của ông về Dos.
Nhưng vấn đề ở đây, sự thực nó
như vầy: Nếu không có một thiên sứ Nga,
và lòng quan hoài cho một nước Nga khốn
khổ khốn nạn, thì làm sao có được một nhà
văn quốc tế, như thế?
Không phải chỉ do lòng quan
hoài cho một nước Nga khốn khổ khốn nạn, đã
cho ông sức mạnh, mà, chính nỗi lo sợ của
ông về một tương lai của nước Nga, khiến ông viết, bắt
buộc ông phải viết, để đưa ra một lời cảnh cáo.
[Những cắt nghĩa của Milosz về Dos có
thể áp dụng, để cắt nghĩa những nhà văn của
miền bắc như NHT, PHT. Một cách nào đó,
chúng còn giải thích sự nổi tiếng 'quốc tế'
của những nhà văn này, và làm họ tách
biệt hẳn ra khỏi những nhà văn miền nam. Nói rõ
hơn, nhà văn miền nam không đụng phải những vấn đề
như vậy. Họ 'đếch cần' ý thức hệ. Đây là một bất
hạnh, nhưng với riêng 'Hai Luá', một hạnh phúc.
Và hơn thế, chúng cắt nghĩa
hiện tượng Trâm Thạc.]
Liệu có thể coi ông, Dos,
là một tín đồ Ki Tô?
Khó nói lắm.
Có lẽ, Dos cũng đành chọn
cho mình một chỗ quì trong nhà thờ
bởi vì ông chẳng nhìn thấy một cứu rỗi
nào cho nước Nga, ngoài Thiên Chúa
giáo ra. Nhưng đoạn cuối Anh em nhà Karamazov cho
phép chúng ta nghi ngờ, chắc gì những sức
mạnh huỷ diệt mà Dos quan sát lại tìm ra
được một đối trọng ở trong đầu của ông? Cái anh chàng
ngây ngơ trong trắng thánh thiện là Alyosha
trẻ tuổi đó, như 'dáng đứng' [projection] của một
nước Nga Thiên Chúa giáo, liệu anh ta có
thể làm được chuyện cứu vớt Cách Mạng Nga?
Nếu đúng như thế thì hoá
ra hơi bị ngọt, và hơi bị sến.
[That's just a bit too sweet and kitschy]
Ông chạy trốn sến, [tôi muốn
nói], sự tầm thường, rẻ tiền. Ông tìm kiếm
những mùi vị chua, cay, đắng, độc, strong flavors. Những
tổ sư tội lỗi, nổi loạn, khùng, điên của thế giới
văn chương tìm tới những cuốn tiểu thuyết của ông
để xin tá túc. Hình như là chúi
mãi xuống cõi âm u tội lỗi đó, là
một điều kiện, như trong những tác phẩm của ông chỉ
ra, để có được sự cứu rỗi, nhưng ông cũng đã sáng
tạo ra những kẻ trầm luân đời đời, thí dụ như Svidrigailov
và Stavrogin.
Mặc dù nhân vật nào
của ông mà chẳng là ổng, ông dành
ưu ái, cho cái kẻ giống ông nhiều nhất,
đó là Ivan Karamazov. Đó là lý
do tại sao Lev Shestov nghi ngờ, rất ư là chính
đáng, theo tôi, rằng, Ivan Karamazov đã diễn
tả, cái sự bất khả, không thể nào, tận cùng,
tối hậu, của một niềm tin, ở mấy me-xừ thánh thiện, trong
trắng như Trâm như Thạc, ấy chết xin lỗi, như Trưởng Lão
Zosima và Alyosha.
Nhưng Ivan tuyên bố, hùng
hồn, xử sự phách lối, ra làm sao?
Chàng trả lại "cái vé",
của Đấng Sáng Tạo, chỉ vì mỗi một giọt nước
mắt của một đứa bé, và sau đó rao giảng
Huyền thoại về một vị Đại Phán Quan, ba cái thứ huyền
thoại này do chàng phịa ra, lẽ tất nhiên, mà
ý nghĩa của nó là nhằm dẫn dắt chúng
ta tới kết luận, nếu không thể nào làm cho nhân
loại hạnh phúc dưới dấu ấn [the sign] của XHCN, ấy chết xin
lỗi, của Chúa Ky Tô, và nếu như vậy, thì
tại làm sao mỗi một trong chúng ta lại không thử
bắt tay với quỉ sứ, để đem lại hạnh phước, và đây là
nguồn cơn của con bọ VC: sản phẩm của một liên minh giữa Đỏ
[CS] và Xanh [Đô La Mẽo], nghĩa là giữa Quỉ và
Quỉ. Berdiayev viết, nhân vật Ivan này "bắng nhắng" quá
[Ivan is characterized by 'false oversensitivity'] và chẳng
nghi ngờ chi, nhận xét này cũng có thể áp
dụng cho Dos.
Dos viết, trong một lá thư cho
Bà Fonvizin rằng, nếu ông bị phải chọn, giữa
sự thực và Đấng Ky Tô, ông sẽ chọn Đấng
Ky Tô. Nhưng, những người chọn sự thực có vẻ như đáng
nể trọng hơn, ngay cả khi sự thực có nghĩa là từ
chối Đấng Ky Tô, như là bề ngoài nó có
vẻ như vậy [như Simone Weil khẳng định]. Ít ra những ngưòi
này cũng không trông mong vào cái
sự kỳ quái khác đời của họ, và cũng không
xây dựng những thần tượng, từ những hình ảnh của chính
họ.
Nếu có một điều gì đó,
khiến cho tôi phải nhẹ lời, đó là Shestov,
ông này tìm được cảm hứng, cho cái
gọi là triết học bi đát của ông, là
từ Dos. Shestov rất quan trọng đối với tôi. Chính
là nhờ đọc ông mà Joseph Brodsky và
tôi đã tìm hiểu được lẫn nhau, ở trong cõi
trí tuệ.
Milosz's ABC's
(1) Nhân vật này, rất ư ly
kỳ, Milosz viết một bài dài về ông, Shestov,
hay là Sự Trinh Nguyên, Trong Trắng của Niềm
Thất Vọng Chán Chuờng, đuợc in trong
To Begin Where I Am.
Theo Shestov, cuốn quan trọng nhất của
Dos, là Hồi Ký Viết Dưới Hầm, cuốn này
đẻ ra tất cả các cuốn khác.
Đây mới là đệ tử đích
truyền của Dos. Ông tin rằng, cái gọi là
sự bình an trong tâm hồn, là rất đáng
ngờ, bởi vì trái đất chúng ta sống, nó
đâu có sửa soạn trước, để đón rước, xin
mời mấy người vô đâu? Ông chỉ khoái những
tay, thí dụ như Pascal, "cherchent en gémissant"
["tìm kiếm trong rên rỉ"].
THE PEBBLE
The pebble
is a perfect creature
equal to itself
mindful of its limits
filled exactly
with a pebbly meaning
with a secret which does not remind one
of anything
does not frighten anything away does not
arouse desire
its ardour and coldness
are just and full of dignity
I feel a heavy remorse
when I hold it in my hand
and its noble body
is permeated by false warmth
Pebbles cannot be tamed
to the end they will look at us
with a calm and very clear eye
Zbigniew Herbert
Milosz trích dẫn, trong bài
viết "Điêu tàn và Thi ca", trong đó,
ông giải thích, trích đoạn:
Mankind, unfortunately,
is not "equal to itself." Herbert read twentieth-century philosophy
and knows the definition of man as "he who is what he is not
and who is not what he is." It is precisely this that in Sartre
makes man foreign to Nature, is established in itself, equal to
itself, and bears another "être-en-soi." It is "mindful of
its limits," while man characterized by a limitless striving to transcend
all limits. The poem is therefore polemical: it indicates that poetry
is not bound to avoid. So "The Pebble" cannot be numbered among the
works of pure poetry.
A pebble is free of
feelings, that cause of suffering. It has no memory of past
experience, good or bad, and no fear or desire. Human ardor
and human coldness can be viewed in a positive or negative light,
but in a pebble they are just and full of dignity. Man, transient
and short-lived, feels remorse when confronted with a pebble.
He is aware that he himself is a false warmth. The last three lines
contain a political allusion, though a reader may not notice it
at first. Pebbles cannot be tamed, but people can, if the rulers are
sufficiently crafty and apply the stick-and-carrot method successfully.
Tamed people are full of anxiety because of their hidden remorse;
they do not look us straight in the face. Pebbles will look at us "with
a calm and very clear eye" to the end. To the end of what? we may ask.
Probably to the end of the world. The poem ends on an eschatological
note.
'LONGING FOR THE MOTHERLAND'
Longing for the motherland. A mystery
Whose laws I've long ago penetrated.
It is all the same to me
Where I find myself
isolated,
Over which stones, quite alone,
I trail my way home with my market bag
To some house that doesn't know it's mine,
A house like a hospital or a barrack.
It's utterly the same to me
Among what faces like a caged-in lion
I bristle, what human company
Excludes me unfailingly to the iron
Shackles of myself, my subjectivity,
Like a polar bear with no floe to sit on.
Where not to get
attached (I don't try!)
Where to degrade
myself - it's all one.
And I'll not let the milky call
Of my own native language cheat me-
Which I'm not
understood in's all
The same to me, and those who meet me.
(That reader, swallowing his ton
Of newsprint, milker of rum ours, hearsay.)
He is a twentieth century one,
I stand before any age or century.
Dumbfounded, like the stump of a tree,
The last one left the length of the alley,
All are equal to me, all's the same to
me,
And perhaps most of all the same, finally,
Is everything from my native past.
Each mark I've made, my every feature
Each date's removed as by a hand, erased:
A soul that once was born - somewhere.
So it is my country couldn't keep
Me and the most clever, keenest detective,
Studying my soul, however deep,
Won't find it out - my hidden birthmark.
Each house, each shrine is strange to me,
All is the same, and all is one.
But if along the road I see
A bush, especially a rowan ...
MARINA TSVETAYEVA
TRANS. D. McDUFF
[from Russian Poets, Everyman's
Library]
Marina Tsvetaeva
Marina Tsvetaeva
Human thresholds are meant to be crossed
so please come in and make yourself at
home.
I'm certainly not going to deliver A
Lecture
on Love (what
an insufferable word, "lecture"),
though I shall speak about the essential
home-
lessness of love, always star-crossed .
. .
I have a talent for "non-reciprocal love"
and all my work is an argument for rapture.
When you love a person you always want
him
to disappear so your mind can work on him.
The imagination is a storm-cloud of rapture
which 1 have scattered, like unhappy love.
"A person has to be condemned to poetry
like a wolf to his howling," A. Bely said,
"but you're a bird that keeps on singing."
I like to be torn apart by my own singing,
like one of Odysseus's men who it's said
destroyed himself for the Siren's poetry.
"I have lived with the shudder of longing"
(M. V. wrote), insatiable for the genuine.
I have held a boiling teapot, a frying
pan,
a broom, an iron, three babies, and a pen
that stutters with knowledge of the genuine:
I have been hollowed out by sexual longing,
and I've paid for my transcendental passion.
What poet actually isn't a Negro, a woman,
or a Jew who has been slain by gentiles?
I know because I've lived among gentiles
as an outcast, a White, an emigre, a woman
despised for her deep and wayward passion.
Admitted: I have been devoured by life-
gathering firewood, feeding my small family.
I have a child who died in an orphanage
(how's that for being "a woman of the age"?)
and I've tried to resurrect my family.
But I've never really cared for "life"-
unmediated, insignificant, all by itself.
Life has to have the plenitude of art.
If I were brought across the sea to Paradise
and forbidden to write, I'd refuse Paradise,
since what good is heaven without art,
which has a joyousness beyond the self?
There are moments in writing like love
when you suddenly set fire to the house
and push your friend from the mountaintop.
They are sublime feelings-the mountaintop
of experience-when you torch the house
and obey the innermost dictates of love.
Wherever you are, I'll reach you,
love.
I've named my lust for you "holiness."
We've come to ourselves in a fresh hell
in our century (a godless Russian hell),
but we've also created passionate holiness.
I would be a wing that soars for love.
Edward Hirsch: The Living Fire
Joyeux Noel 2017 & Happy New Year
Thơ
Mỗi Ngày
Giới thiệu 2 bài thơ của Đặng Lệ Khánh. Nếu
đọc không hợp thì hãy bỏ qua...
LỜI CUỐI CHO HỒN
Đặng Lệ Khánh
... Continue Reading
Comments
Note: Lệ Khánh khác Đặng Lệ
Khánh. Chắc có sự lầm lẫn chăng?
Thơ DLK mà "nếu đọc không hợp
thì bỏ qua" ư?
Giới thiệu như thế thì thà rằng
đừng giới thiệu.
NQT
Thức Trắng và Lời
Cuối cho hồn
Jan 9 at 2:09 PM
K vừa vào Tin Văn và thấy anh có
link hai bài thơ của K trên FB của Son Lyngoc .
Thơ thì của K, mà hình thì của nữ thi
sĩ Lệ Khánh của " Em là gái trời bắt xấu " .
K chưa có tập thơ nào in ra cả .
Hai bài thơ trên K từng đưa vào
Forum của Việt Báo, chắc cũng hơn 8 năm trước . Bài
Thức Trắng cũng đã được đưa vào
tạp chí Nguồn, Đất Đứng (?) và K nhớ K cũng đã
gởi anh đọc lúc mới quen ( 10 năm ???) . K cũng có bài
khác cho em Phước, được thi sĩ Thanh Thanh Lê Xuân
Nhuận dịch rất hay :
Sinh Nhật Em Mùa
Noel
(Cho Phước đã nằm xuống)
Trời se lạnh và bầu trời trở xám
Thoáng mưa phùn như mưa của Huế
xưa
Trong không khí có chút
gì gợi nhớ
Năm gần tàn, hay xuân sắp về qua
Mùa Noel đã bao lần rồi nhỉ
Nếu em còn mình chắc sẽ ăn mừng
Sinh nhật em chị sẽ làm chiếc bánh
Rất ngọt ngào với tất cả tình thương
Chị sẽ làm nhân bằng vòng
tay thân ái
Sẽ trộn thêm ngàn lời nói
ngọt ngào
Sẽ vẽ lên mặt bánh lời chúc
tụng
Sẽ cười vang lên, hạnh phúc biết
bao
Chị sẽ không cần cân đo rắc rối
Bánh yêu thương có ai chỉ
được đâu
Chị sẽ viền quanh bằng sợi dây kỷ niệm
Gói ghém theo hạt thương nhớ muôn
mầu
Chị sẽ thắp nến, bao nhiêu cây em
nhỉ ?
Ðếm làm chi năm tháng vốn vô
cùng
Chị chỉ mong nến lung linh soi sáng
Ðường em đi trong cõi mông lung
Sinh nhật em chị làm bài thơ nhỏ
Ðốt cho em vào lúc Chúa
ra đời
Nơi nào đó em sẽ cao giọng đọc
Và sẽ nhâm nhi chiếc bánh
chị mời
Chị sẽ ngăn không cho dòng lệ chảy
Ðể bên kia đừng lưu luyến bên
này
Nhưng mà em, sao bỗng dưng má ướt
Hình như mưa nhỏ xuống chị không
hay
ĐẶNG LỆ KHÁNH
Your Birthday, Christmastide
(for my
defunct younger bro)
The sky has turned grey and the weather cold,
It mildly drizzles like the kind of rain in Hue
of old
There is something to cause longings in the air
The year is going to end or the spring to begin
fair
How many times since the last Christmas fête?
Were you still alive, we would surely celebrate
For your birthday I would, with special complexion
Make a cake quite sweet with all my affection
I would mix the stuffing with my warm feeling
Dress it with thousand mellifluous words appealing
Adorn the surface with letters of congratulatory
glee
And laugh resoundingly - how happy should we
be!
It is needless to weigh or measure in order to
bake
Whoever can instruct how to create a love cake
I would add a hem-line as a thread of souvenir
To encompass the multicolored seeds for my dear
I would light the candles - how many pieces,
well?
But what’s counting for, since time is in the
sequel!
I only wish that the candles would spark to lighten
Your way in the misty world, salvation to heighten
On your birthday I would write a small poem
And burn it for you on God’s descent as a proem
So that at such a distant place you read it loudly
Gnawing at the cake I prepared for you so proudly
I would try to prevent my hot tears from falling
So you’re not too attached to the earth on recalling
But, my cheeks suddenly got wet from nowhere
It seems that the rain is dripping, I am not
aware
Translation by THANH-THANH
Sở dĩ K lôi hai bài thơ trên
xuống ngày trước vì chỉ muốn "làm đời thêm
dễ thương", xóa bớt đi những giọt nước mắt .
Cám ơn anh Trụ cho K có dịp đọc
lại thơ mình, và đã nói giùm
cho K sự lầm lẫn về thơ của hai người cùng tên khác
họ . Theo K biết, thi sĩ Lệ Khánh của ELGTBX tên thật
là Dương thị Khánh .
K
tb. Nếu anh Trụ vào được FB của blogger
nói trên thì đính chính giùm
vì K không có account FB . Còn không
thì thôi, chẳng có chi quan trọng .
Tks.
Re: Đính chính giùm. Vị
blogger Son Lyngoc là 1 bằng hữu chí cốt của GCC,
thành thử mới dám, “Giới thiệu như thế thì
thà rằng đừng giới thiệu”!
Bài Thức Trắng nhớ là có
trên Tin Văn.
Note: Mấy bài thơ trên, đều có
trên Tin Văn
Four A.M.
The hollow, unearthly hour of night.
Swaying vessel of emptiness.
Patron saint of dead planets
and vast, unruly spaces receding in
mist.
Necklace of shattered constellations:
soon the stars will be extinguished.
A cellblock sealed in ice.
An icehouse sealed in smoke.
The hour when nothing begets nothing,
the hour of drains and furnaces
shadows fastened to a blank screen
and the moon floating in a pool of
ashes.
The hour of nausea at middle age,
the hour with its face in its hands
the hour when no one wants to be awake
the scorned hour, the very pit
of all the other hours,
the very dirge.
Let five o' clock come
with its bandages of light.
A life buoy in bruised waters.
The first broken plank of morning.
Edward Hitsch: The Living Fire
Bốn giờ sáng
Giờ rỗng, không chút
mùi tục lụy
Con tầu lắc lư, của cái trống
không.
“Patron saint”, của những hành
tinh chết
Và của những không gian
bao la, ngỗ nghịch, lùi dần vào thềm sương
mù
Chuỗi, những thiên hà
rách bươm, rơi rụng, lả tả:
Chẳng mấy chốc những vì sao
của chúng sẽ tắt lịm
Một tòa nhà tù,
gồm nhiều phòng giam đóng dấu, giá
băng
Một căn nhà dựng lên
bằng băng giá, đóng dấu, khói
Cái giờ khỉ gió, khi
đếch cái gì sinh ra đếch cái gì!
Giờ của cống máng, của ống
lò
Những cái bóng vội vã
đăng ký,
Xin cái vé đi vào
bức màn hình trắng xoá!
Và mặt trăng bèn nhấp
nhô trong 1 cái ao tro
Giờ của buồn nôn, ở lưng chừng
đời
Giờ, với hai bàn tay ôm
lấy cái mặt dầy!
Giờ, đếch ai muốn thức dậy
Giờ khinh miệt, giờ khốn nạn,
Cực kỳ khốn nạn trong tất cả mọi giờ!
Trong tất cả mọi giờ:
Nó thì bèn thê
lương, buồn bã nhất!
Hãy kêu cô bé
“năm giờ” tới cho ta!
Với cái băng rôn bịt
kín mắt!
Giờ thả phao trong nước thâm
tím,
Tấm ván bể đầu tiên,
của buổi sáng.
The Sweetness
Tornami avanti, s'alcun dolce mai ebbe
'I cor tristo...
-PETRARCH, #272
The times my sad heart knew a little
sweetness
come back to me now: the coffee shop
in Decatur, the waffle house in Macon
. . .
The highway signs pointed to our happiness;
the greasy spoons and gleaming truck
stops
were the stations of our pilgrimage.
Remember the flock of Baptist women
flying
off the bus and gathering on the bridge
over the river, singing with praise?
Wasn't that us staggering past the
riverboats,
eating homemade fudge at the county
fair
and devouring each other's body?
They come back to me now delicious
love
the times my sad heart knew a little
sweetness.
Edward Hitsch: The Living Fire
Ngọt ngào
Đôi khi trái tim buồn
bã của Gấu cũng biết tí ti về cái
gọi là ngọt ngào
Nó trở lại với Gấu bi giờ: tiệm
cà phê Starbucks ở Little Saigon
Những cái biển ở xa lộ bèn
chỉ về hướng hạnh phúc của chúng ta;
Hai cái muỗng cà phê,
trạm xăng, quán ăn
Nơi em rút đồng hồ, than, tới
giờ phải trả xe cho cô bạn rồi
Không tới tiệm sách được.....
Là những ga, trạm, bến đỗ, trên
đường hành hương của hai đứa chúng ta!
Em nhớ mấy con mụ đàn bà
Baptist
Bay ra khỏi xe buýt
Tụ tập trên cầu, nhìn
xuống sông, ca hát ỏm tỏi, xoa đầu hạnh phúc?
Có phải đôi ta đó
không,
Ngất nga ngất ngư qua những con thuyền
Nhấm nháp kẹo, thứ làm
tại nhà, ở county fair?
Và nhấm nháp...
nhau?
[Cái này thì tưởng
tượng, không có thực!]
Chúng trở lại với Gấu vào
lúc này, ôi tình yêu tuyệt
vời
Đôi khi trái tim buồn
phiền của Gấu biết tí ti ngọt ngào.
Poems
December 11, 2017 Issue
Autumn
The part of life
devoted to contemplation
was at odds with the part
committed to action.
*
Fall was approaching.
But I remember
it was always approaching
once school ended.
*
Life, my sister said,
is like a torch passed
now
from the body to the mind.
Sadly, she went on, the
mind is not
there to receive it.
The sun was setting.
Ah, the torch, she said.
It has gone out, I believe.
Our best hope is that it’s
flickering,
fort/da,
fort/da, like little Ernst
throwing his toy over the
side of his crib
and then pulling it back.
It’s too bad,
she said, there are no
children here.
We could learn from them,
as Freud did.
*
We would sometimes sit
on benches outside the
dining room.
The smell of leaves burning.
Old people and fire, she
said.
Not a good thing. They
burn their houses down.
*
How heavy my mind is,
filled with the past.
Is there enough room
for the world to penetrate?
It must go somewhere,
it cannot simply sit on
the surface—
*
Stars gleaming over the
water.
The leaves piled, waiting
to be lit.
*
Insight, my sister said.
Now it is here.
But hard to see in the
darkness.
You must find your footing
before you put your weight
on it.
Thu
Phần đời
Dâng cho chiêm ngưỡng – và
kính trọng – (1)
Thì khủng khẳng với phần đời
Dấn thân, nhập cuộc – chúng
ta đã xuống thuyền – (2)
Mùa lá rụng lò mò
tới
Nhưng tớ nhớ là
Nó luôn luôn tới
Lúc năm học chấm dứt
Đời, như bà chị của tớ phán
Thì giống như bó đuốc
Từ “bó đi”, body, chuyển qua “bó
trí”, mind
Buồn 1 nỗi, nàng bỏ đi – theo
kép, qua sông, lấy chồng… -
Cái bó trí, mind,
đâu có đó, để mà nhận?
Mặt trời lặn,
Ôi chao, bó đuốc, nàng
nói.
Nó cũng đi đời nhà ma rồi,
tớ nghĩ.
Hi vọng, cực hi vọng của chúng
ta, là,
Nó nhấp nháy, lập loè
For/da, fort/da
như thằng nhỏ Ernst
Ném đồ chơi lên phía
bên cái giường cũi của nó
Rồi kéo trở lại.
Thật quá tệ, nàng nói
Chẳng có đứa con nít nào
ở đây
Chúng ta có thể học, từ
chúng, như Freud nói
Chúng ta lâu lâu cũng
nên
Ngồi ở băng ghế ở bên ngoài
phòng ăn
Mùi lá cháy
Người già và lửa, nàng
nói
Không tốt, không được. Họ
thiêu rụi nhà của họ
Đầu óc, trí tuệ của tớ
mới nặng làm sao
Nó chứa đầy quá khứ
Liệu có đủ chỗ
Cho (cả) thế giới tuồn vô?
Phải chuồn đi đâu đó, chỗ
khác
Không lẽ giản dị ngồi trên
mặt –
Sao lấp lánh trên mặt nước
Lá chất thành đống, chờ
đốt
Cái đốn ngộ, bà chị của
tôi phán
Đây nè, nó bây
giờ đây nè
Nhưng thật khó mà nhìn,
trong bóng tối
Bạn phải kiếm ra chân của bạn
Trước khi cân cái nặng nhẹ
của bạn, lên nó.
(1)
Thứ tình yêu lý tưởng,
chiêm ngưỡng và kính trọng, cũng làm
H. sợ.
BHD
(2)
Nous sommes embarqués.
Linh hồn nhỏ
Linh hồn nhỏ, lầm lạc nhỏ
Phiêu lãng nhỏ
Và bây giờ nơi anh ở
Tất cả lợt lạt, tất cả trơ cu lơ
Theo cung cách, anh vẫn thường
Đốt đuốc chơi đêm
Đùa giỡn với đời
Little Soul
after Hadrian
Little soul little stray
little drifter
now where will you stay
all pale and all alone
you used to make fun of things
Unknown Soldier
Facing us under the helmet
a moment before he is killed
he is a child with a question
The Essential W.S.
Merwin
Người lính vô danh
Đối diện chúng ta dưới cái
nón sắt
Khoảnh khắc trước khi bị giết
Anh ta là 1 đứa bé với 1
câu hỏi
Early One Summer
Years from now
someone will come upon a layer of birds
and not know what he is listening for
these are the days
when the beetles hurry through dry grass
hiding pieces of light they have stolen
The Essential W.S.
Merwin
Sớm Một Mùa Hè
Nhiều năm qua đi kể từ giờ này
Một kẻ nào đó sẽ gặp một
tầng/thớ/mảng... chim
Và không biết anh ta lắng
nghe cái gì
Đó là những ngày
Khi những con gián vội vã
xuyên qua đám cỏ khô
Giấu giếm những mẩu ánh sáng
chúng chôm được
|