A Farewell
Off our horses, I offer you wine,
ask where you're going. You say
your work has come to nothing,
you'll settle at South Mountain.
Once you set out, questions end
and white cloud keeps on and on.
Note: Bài thơ trên, có trong Thơ Đường của Trần
Trọng San, và Tin Văn cũng đã giới thiệu
Mourning Yin Yao
How long can a life last? And once
it's gone it's formless all over again.
I think of how you waited for death:
ten thousand ways a heart wounds.
Your gentle mother's still not buried,
your daughter's hardly turned ten,
but outside the city, cold silence wind-
scoured expanses, I listen to lament
on and on. Clouds drift boundless skies,
birds wing through without a sound,
and travelers travel deserted silence
through a midday sun's frozen clarity.
I remember you back then, still alive,
asking to study unborn life with me,
but my guidance came too late. Sad
how you never found understanding.
And those old friends here with gifts-
they never reached you either. So many
ways we failed you. All bitter lament, I
return to my brush-and-bramble gate.
Note: Trong tập thơ trên, có hai bài "Khóc
Yin Yao"
Off-Hand Poem
I'm ancient, lazy about making poems.
There's no company here but old age.
I no doubt painted in some former life,
roamed the delusion of words in another,
and habits linger. Unable to get free,
I somehow became known in the world,
but my most fundamental name remains
this mind still here beyond all knowing.
Note: Bài thơ khép lại tập thơ
Wang
Wei chắc là Vương Duy. Czeslaw Milosz
rất mê ông này. Trong cuốn sách
giới thiệu thơ của ông, Cuốn sách của muôn
điều thần sầu, A Book of Luminous Things,
có mấy bài của Wang Wei
Sitting alone on an autumn night
I sit alone sad at my whitening hair
Waiting for ten o'clock in my empty house
In the rain the hill fruits fall
Under my lamp grasshoppers sound
White hairs will never be transformed
That elixir is beyond creation
To eliminate decrepitude
Study the absolute.
Ngồi một mình với đêm thu
Tôi ngồi buồn một mình với mớ tóc
bạc trắng của mình
Đợi đồng hồ điểm 10 giờ
Trong căn nhà trống trơn
Trong mưa, trái đồi rớt
Dưới ánh đèn, châu chấu
rầm rì
Tóc trắng ư, chịu thua
Làm gì có nước gội trở
thành đen nhánh như ngày nào
Để “làm thịt” cái già cằn
thiểu não
Để chiêm ngưỡng cái tuyệt đối
Bài thơ trên, trong cuốn thơ mới bệ về, cũng có.
Cái tuyệt đối, the absolute, hóa ra là, đời chưa sinh
ra, the unborn life:
Autumn Night, Sitting Alone
Lamenting this hair of mine, I sit alone
in empty rooms, the second watch close.
Mountain fruit falls out there in the rain,
and here in lamplight, field crickets sing.
No one's ever changed white hair back:
might as well try conjuring yellow gold.
If you want to elude the old-age disease,
there's only one way: study unborn life.
Good-bye
Dismount and we'll take a drink together
Where are you off to?
You say you've failed - retiring
To the foot of the Southern Mountains?
Well, go - and no more questions
For the white clouds there'll never be an end.
This poem, one of Wang Wei's most famous, is generally
regarded by commentators as a kind of soliloquy, but there can
be no certainty on this point.
Note: Bài thơ trên, có trong
Thơ Đường của Trần Trọng San:
Tống Biệt
Hạ mã ẩm quân tửu
Vấn quân hà sở thi
Quân ngôn bất đắc ý,
Quy ngọa Nam sơn thuỷ
Đản khứ mạc phục vấn
Bạch vân vô tận thì
Nam sơn: núi Chung Nam, ở phía tây-nam
thành Trường An
Trên Tin Văn, có loạt bài của Phạm
Hải Anh, về Thơ Đường, tháng nào cũng Top Ten.
Vị nữ lưu này, GCC phát giác ra,
khi chưa xuất hiện trên chốn giang hồ, còn ngồi 1 mình,
trên một mái nhà đỉnh cao của Hà Nội, và
viết, thanh thoát vô cùng.
Chính là cái tinh tuý của
thơ Đường đã thấm
vào tác giả.
Vị này phán, về Vương Duy:
Lý Bạch tả cảnh ông đi chơi hồ Bình
Thiên vào đêm trăng sáng, ánh trăng
phản chiếu trên mặt nước phẳng lặng khiến cả vùng hồ như
tấm lụa trải rộng mênh mông. Có điều ông
không tả hồ, cũng không tả trăng, chỉ phác một
liên tưởng về tấm lụa cho thấy trăng nước hoà làm
một, lại toát lên cái "thần" yên ả, thanh
bình của cả một vùng trời nước. "Bình Thiên"
là tên hồ, cũng có nghĩa "cõi trời yên
bình". Câu thơ vừa nói được địa điểm thật của khung
cảnh, song đồng thời lại nhấn thêm một tầng đồng nhất nữa : đất
này là cõi trời (địa- tức-thiên). Trên
cái nền trăng - nước, đất - trời tương hội đó, con người
cũng lâng lâng giữa hai cảm giác tiên - tục.
"Cưỡi vầng trăng sáng" - tưởng Lý Bạch đã thành
tiên, song từ "nại hà" ("sao có thể") cho thấy ông
chỉ là người thường mơ được thành tiên. Lên
cõi trời không được, ông trở về "ngắm hoa trên
thuyền rượu" - nhưng giữa trần gian, tao nhã với trăng - nước -
rượu - hoa, ông lại xuất hiện như một vị tiên thoát
tục. Đọc bài thơ, thấy ông tả tất cả, mà dường như
cũng không tả gì. Không thể hình dung dáng
hồ, cỏ cây hoa lá, biết là có người, nhưng
cũng không rõ con người ấy cụ thể ra sao. Cái được
miêu tả ở đây không phải là bản thân cảnh
hay người mà chính là thần thái của nó.
Toàn bài thơ toát lên ý tưởng về sự
giao hòa thanh thản, thần tiên giữa trời - nước, cảnh - người.
Cùng sử dụng bút pháp chấm phá,
nhưng cách miêu tả trong TTLB cũng không giống
như ở tứ tuyệt của Vương Duy. Vương Duy không chỉ là
nhà thơ mà còn là một họa sĩ kiệt xuất phái
Nam tông, chuyên vẽ tranh thủy mặc. Dễ thấy ông vận
dụng những thủ pháp miêu tả của hội họa vào trong
thơ khiến thơ ông cũng như một bức tranh ("Thi trung hữu họa").
Tứ tuyệt tả cảnh của Vương Duy do vậy mà rất đặc sắc,kỹ thuật phối
cảnh, tả hình quả đạt tới mức điêu luyện. Vương Duy thích
sử dụng sự tương phản giữa những mảng màu tối - sáng, đậm
- nhạt, nóng-lạnh, giữa hư và thực, giữa động và tĩnh...,
lấy cái này làm nổi bật cái kia. Cảnh trong
thơ ông có nhiều phát hiện tinh tế và rất có
chiều sâu. Như bài "Lộc trại" :
Không sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng.
tạm dịch:
Núi vắng, người chẳng thấy,
Chỉ nghe vọng âm thanh,
Hồi quang vào rừng thẳm,
Phản chiếu lớp rêu xanh.
Ông tả tiếng vọng để làm nổi cái
tĩnh của rừng núi theo nguyên tắc "Không cốc
truyền âm" (động vắng càng vang). Ông gợi thanh
âm của người vẳng lại để nhấn mạnh ý người đã
đi, cho thấy núi càng vắng. Ông tả ánh
phản chiếu của nắng xuyên qua rừng sâu, soi lên lớp
rêu xanh, lấy chút sáng le lói để thấy
cả cái thâm u dày đặc của rừng. Bút pháp,
"vẽ mây nẩy trăng" trong hội họa được ông khai thác
tối đa, do đó đọc thơ ông cần vận dụng trí tưởng
tượng, xét đoán để nối kết những mảng đối lập, hình
dung ra trước mắt một "bức tranh bằng lời" toàn vẹn, giàu
ý vị. Còn TT tả cảnh của Lý Bạch ngược lại, thiên
về cảm nhận trực giác. Ông không tả cảnh trước mắt
mà tả cảnh trong lòng. Khác với Vương Duy, ông
không ngắm cảnh như một họa sĩ hoặc một triết nhân vui thú
điền viên để di dưỡng tính tình. Ông có
khả năng kỳ diệu "nhập thân" vào đối tượng miêu tả.
Tứ tuyệt tả cảnh của ông do đó mà có ý
vị của Trang Chu mộng điệp, không biết là cảnh có
Lý Bạch hay chính Lý Bạch đã hóa thân
vào cảnh nữa! Lĩnh hội cái tinh thần của cảnh mà
tả, Lý Bạch đã lược bỏ mọi chi tiết rườm rà, chú
tâm khắc họa ấn tượng hơn là hình khối. Như trong
bài "Vọng Lư sơn bộc bố", ông tả thác nước núi
Lư sơn như dòng sông bị treo ngược lên, như dải Ngân
hà bị rơi tuột từ chín tầng trời. Người đọc có thể
cảm nhận dòng chảy dào dạt, mãnh liệt của một thác
nước từ độ cao tót vời tuôn nước xuống - rất cao, rất mạnh
và rất đẹp. Nhưng sự tưởng tượng chỉ dừng ở một ấn tượng chung như
thế, không đi xa hơn để dựng thành một bức tranh toàn
cảnh tỉ mỉ. Có hề gì, vì Lý Bạch đâu
phải thợ vẽ, và ông tả thác nước núi Lư sơn một
phần, song cái chính là ông biểu hiện dòng
thác cảm xúc trong lòng ông khi ngắm Lư sơn.
Do đó mà cảnh trong thơ ông đầy màu sắc chủ quan,
ông dùng rất nhiều ví von, so sánh, ẩn dụ bởi
nó nói lên rõ nhất cảm nhận của ông về cảnh.
Khác với lối miêu tả điềm đạm, trầm tĩnh của Vương Duy, TTLB
tả cảnh luôn lồng vào đó những cảm xúc, mơ ước.
Ông nhận xét, liên tưởng, cho sông, núi,
mây, trời... những buồn vui của con người. Nhân hoá
là một thủ pháp ưa thích của ông. Gió
trong thơ ông cũng biết xót tình li biệt ("Lao Lao
đình"), chim núi biết xấu hổ ("Thu Phố ca" bài 3),
núi cũng biết nhìn người ("Độc tọa Kính Đình
sơn"), trăng đau buồn trẫm mình ngoài Đông Hải ("Khốc
Triều Khanh Hoành")... . Có lẽ vì vậy mà thơ
tả cảnh của ông như có hồn, tình và cảnh thống
nhất tuyệt vời.
Bài Lộc Trại này, theo như Gấu được biết,
có hàng
chục chục bản tiếng Anh, ấy là vì không bài
nào đạt tới cái thần thái của bản gốc.
Kinh thế đấy!
Cái tay dịch Vương Duy
tác giả cuốn thơ trên, trong lời giới thiệu, phán,
cũng thật là tuyệt cú mèo. Trước thiên hạ
chỉ biết có Lý Bạch và Đỗ Phủ, nhưng Vương Duy, càng
ngày càng được biết nhiều hơn hai ông mãnh
trên:
Introduction
Wang Wei (699-761) is one of
the great poets. His distinction would no doubt be more widely recognized,
outside China and Japan, had he not flourished during a period universally
regarded as one in which Chinese poetry reached a zenith, dominated
by the reputations of Li Po (701-62) and Tu Fu (712-70). Their passions
were overt: Li Po's might be called a kind of romanticism, Tu Fu's,
in modern parlance, 'involvement'. Their poetry may speak more directly
to western people today than that of the inwardly passionate, contemplative
Wang Wei. But this situation is perhaps even now changing.
Trước đây, Lý Bạch
có thể coi là nhà thơ vãi lệ, Đổ Phủ, dấn
thân, lũ mũi lõ dễ nhận ra, nhưng tình hình
khác đi nhiều rồi...
Mưa trên lối về, Thu đã tàn
(1)
tan. thu
lời thu. nào tàn.
tạ
vàng. nhầu. úa. cuộc tình
lá. chia tay tháng. cũ
ấp. ủ. mùa chim. di
trời thấp. ngóng ai. đi
chân người. khua xao. xác
ký. ức nào. xác xơ
nhìn. thời gian. thoi thóp
tì. vết người. trong mơ
ta. thân vàng. đổ. lá
Ðài Sử
(1)
Câu trên, tự dưng
bật ra, thật tuyệt.
Nhưng, làm gì có chuyện tự dưng!
GCC lục lọi trí nhớ, và sau cùng, vô
Google..
Hoá ra là từ 1 câu:
Hoa Mai nở trên nấm mồ,
Xuân càng già
Ðánh Thơ,
trong Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân
Nguồn
Như vậy là có hai
câu.
Còn thiếu hai, xin mời độc giả TV.
Sau đây là 1 bài
tứ tuyệt, do GCC đề nghị:
Mưa trên lối về, Thu đã
tàn
Hoa Mai nở trên nấm mồ, Xuân càng già
Trời mùa Ðông Paris suốt đời thèm chia
ly
Tóc Em chưa úa nắng Hè
Vậy là đủ 4 câu,
4 mùa.
Câu chót, còn có bản tiếng Tây,
như câu số 2, có bản tiếng Tầu:
Nàng khiêu vũ chỉ 1 mùa Hè.
Elle n'a dansé qu'un seul Été
Ðúng là thơ
Kon Kóc của Thầy Kuốc!
Note: Mới bê về từ tiệm sách
cũ. Thơ Vương Duy.
Đi ngay 1 bài
Adrift on the
Lake
Autumn sky illuminates itself all empty
distances away toward far human realms,
cranes off horizons of sand tracing that
clarity into mountains beyond clouds.
Crystalline waters grow quiet at nightfall.
Moonlight infusing idleness everywhere,
I trust myself to this isolate paddle, this
observance on and on, no return in sight.
Lênh đênh trên hồ
Bầu trời mùa thu
tự chiếu sáng tất cả những khoảng cách trống rỗng
Bằng cách đùa chúng về 1 vùng xa thật
xa, xa khỏi cõi người...
Xua lũ sếu ra khỏi những đường chân trời trùng trùng
cát cát, trùng trùng dâu bể
Vạch cái sự sáng sủa của mùa thu vào
những ngọn núi, quá những đám mây
Nước trong vắt trở nên im ắng khi đêm xuống
Ánh trăng tẩm cái nỗi nhàn rỗi của nó
vào tận nơi nơi
Gấu tin tưởng chính mình vào con giầm đơn
độc
Vào cái sự quan sát và cứ thế cứ thế,
đi hết đi hết
Chẳng có gì trở lại
Lọt vô tầm nhìn.
Bài sau đây,
có trên Tin Văn, Gấu "mượn hoa tiến Phật", tưởng niệm Đinh
Cường
Mourning Yin Yao
Returning you to Stone-Tower
Mountain, we bid farewell
among ash-green pine and cypress, then return home.
Of your bones now buried
white cloud, this much remains
forever: streams cascading empty toward human realms.
Lament for Yin Yao
We followed
you back for your burial
on Mount Shihlo
And then through
the greens of oaks and pines
we rode away home
Your bones are there
under the white clouds
until the end of
time
And there is only
the stream that flows
down to the world
of men.
Chúng tớ
đưa đám bạn DC rồi trở về nhà
Xanh xanh những
mấy ngàn dâu, ngàn thông, ngàn
sồi…
Xương của bạn DC
bi giờ ở bên dưới những đám mây trắng
kia
Cho đến tận cùng,
của tận cùng, của thời gian
Chỉ có dòng
suối là từ phía mây bạc
Chảy về trần gian
của lũ chúng tớ
Note: Bài này, cũng chôm, để tặng Seagull
You
Will Hear Thunder by Anna Akhmatova
You will hear thunder and remember
me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.
That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
Mi sẽ nghe tiếng sấm và
sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông
bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ
thật đậm
Và trái tim của mi, như
nó đã từng, vào lúc đó,
sẽ cháy bừng bừng
Ngày đó, ở Mát
Cơ Va, tất cả sẽ trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn
bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn
hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng
của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt
quãng đời thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.
For Wet Mu
We're both travelers dark-eyed with love
and both possessed of white-cloud mind.
Why set out for East Mountain, when here
spring grasses grow deeper day by day?
Hai ta đều là lữ khách mắt tối u vì tình
Cả hai đều bị mây trắng đợp mẹ mất cái đầu
Hà cớ làm sao mà mò xuống vùng
Núi Đông
Trong khi ở đây, cỏ xuân mỗi ngày một dầy thêm
lên?
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 05, 2018 : LET'S TALK
ABOUT TRAVEL / VƯƠNG DUY
It's May, let's talk abt Travel
Vương Duy
701-761
Và đây là 1 bài thơ thật duyên
dáng đáng mến, về vẻ đẹp tuyệt vời của một thành
phố, mà chúng ta tới, bằng thuỷ lộ, lần đầu tiên.
Tôi – Czeslaw Milosz - cũng đã từng trải qua 1 kỷ
niệm tương tự, khi, hai chục tuổi, ba đứa chúng tôi cập
bến thành phố Constance ở miền Nam nước Đức, bằng ca nô,
A.D. 1931.
Tôi cũng nên viết thêm, giả như Vương Duy không
phải là 1 tay thuỷ thủ tới chỉ, a very willing sailor, thì,
ít nhất, ông ta là 1 người ưa tò mò.
Ông bị đi du lịch, do bổn phận của mình, l nhân viên
nhà nước, nhưng, cõi quan hoài của ông,
cốt lõi của nó, là của 1 Phật Tử, và trong
thơ của ông cõi Phật đó, luôn luôn
được biểu tượng, bằng 1 xứ Đoài mây trắng lắm, như GCC,
người đang dịch thơ của ông
Czeslaw Milosz: The Book of Luminous Things
Buổi sáng, dong thuyền tới Xinyang
Khi thuyền, xải buồm tới hồ Xingze Lake
Tôi sững sờ vì vẻ đẹp hiển hách của thành
phố
Những đường quanh co, khúc khuỷu của con kênh,
do những cửa nẻo vườn tược, chật hẹp, bó bíu.
Lửa và khói bếp, như đám đông, bao
trùm mặt nước.
Trong họ, tôi nhìn ra những tập tục xa lạ
Và thổ ngữ ở đây thì tối tăm
Mùa Thu, lúc này, muộn
Những cánh đồng, thả cửa, mặc sức.
Buổi sáng, sáng.
Tiếng động đánh thức những lòng giếng khơi
Thuyền chài lượn lờ trên mặt nước
Gà, chó.
Làng, bên này, bên kia sông.
Tôi rời xa cái xứ sở Mây Đoài Trắng
Lắm của tôi
Và cánh buồm cô đơn của tôi
Ở cái tuổi trên tám bó này
Sẽ... tội nghiệp ra sao?