*







NQT vs DPQ

*

Gấu &  Bạn Quí, Thầy HPA
@ Tiệm Thịt Chó, chân cầu Thị Nghè, 2001

*

@ HPA's, 2002, lần về thứ nhì. Sau đó tịt luôn, đếch dám về nữa.
Gấu với bạn quí HPA có quá nhiều chuyện tào lao, nhưng không có có lấy 1, với Thầy Quân.
Làm đếch gì có chuyện Gấu lôi Thầy vô những kỷ niệm thần sầu đó.
Chỉ đến khi về già, khi ra khỏi cả hai địa ngục đen và đỏ, thì mới nhận ra sự thực, Gấu quí bạn quí, nhưng bạn quí không quí  Gấu!

Robert Frost

Stopping By Woods on a Snowy Evening 

Whose woods these are I think I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow. 

My little horse must think it queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year. 

He gives his harness bells a shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.

The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep 

Tạm dịch:

Dừng ngựa bên rừng buổi chiều tuyết rụng

Rừng này của ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng. 

Ngựa của tôi chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm 

Nó bèn khẩy khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi. 

Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ 

Đây là bài thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có cái tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.

As to the metaphor, I should add that I now see that metaphor is a far more complicated thing than I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying, "the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more subtle way.
Think of Robert Frost. You of course remember the lines: 

For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep

If we take the last two lines, the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the poet is thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And miles to go before I sleep," the line becomes a  metaphor; for "miles," stands for "days," for "years," for a long stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death." Perhaps I am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the pleasure lies not in our translating "miles" into "years" and "sleep" into" death," but rather in feeling the implication.
Borges: This craft of verse 

Borges lèm bèm:
Về ẩn dụ, tôi có lẽ nên nói thêm là, nó rất ư “cà chớn”, rất rắc rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó không giản dị chỉ là so sánh sự vật này với sự vật khác - thí dụ, "mặt trăng thì như là... " - Không, nó “tế vi” hơn nhiều. 

For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep

Nếu lấy hai dòng đầu, thì nó là 1 câu phán của thi sĩ, về những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập lại, thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến thành "ngày", thành "năm", và dài dài mãi ra, và "ngủ", có nghĩa là, ngỏm củ tỏi!

Về già, đọc lại bài thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách dạy tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái tít!
Những lời hứa phải giữ!

Bài tiểu luận lấy làm tít cho cả cuốn, Về Khổ Đau và Lý Trí, On Grief and Reason, của Brodsky, là viết về [vinh danh] Robert Frost.

Brodsky viết:
Vào năm 1959, trong 1 bữa tiệc mừng sinh nhật lần thứ 85 của Frost, tại New York, nhà phê bình sắc sảo nhất, nổi cộm nhất thời đó, the most prominent literary critic at the time, Lionel Trilling, đứng dậy, tay cầm ly rượu có cẳng, goblet, phán, Robert Frost là nhà thơ khủng khiếp, a terrifying poet. Lẽ dĩ nhiên, có những tiếng ồn ào tiếp theo sau, nhưng "khủng khiếp" đúng là từ dành cho Frost:

Now, I want you to make the distinction here between terrifying and tragic. Tragedy, as you know, is always a “fait accompli”, whereas terror always has to do with anticipation, with man's recognition of his own negative potential-with his sense of what he is capable of. And it is the latter that was Frost's forte, not the former. In other words, his posture is radically different from the Continental tradition of the poet as tragic hero. And that difference alone makes him- for want of a better term-America.

Ui chao, đọc 1 phát, Gấu nhớ tới cái từ “văn chương khủng khiếp” của Gấu, ban cho Hoàng Đông Phương!

Between Two Worlds

Brodsky ventures, "American poetry is essentially Virgilian, which is to say contemplative."

Trong bài diễn văn Nobel, Brodsky lập lại câu hỏi của Adorno, "Làm sao một người có thể làm thơ sau Lò Thiêu?", và viết tiếp:
Một người nào quen thuộc với lịch sử Nga, có thể lập lại câu hỏi trên, bằng cách thay tên Auschwitz bằng 1 cái tên khác, và sự chứng thực, justification, còn bảnh hơn, even greater, Auschwitz, bởi vì con số những người chết trong trại tù Stalin vượt quá hơn nhiều, so với Lò Thiêu, hay, như nhà thơ Mẽo, Mark Strand, đã từng chặn họng, retorted, Adorno: “Làm sao một người có thể ăn trưa [sau Lò Thiêu]?”

Trong bất cứ trường hợp, thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về, thừa sức làm thứ thơ đó [that poetry].

Thơ ca Mít, nhất là đám Miền Nam sau 1975, đụng đúng cú này, và TTT trả lời, “đếch” làm được:
Làm sao làm thơ, coi như đếch có gì xẩy ra?

Stopping by Woods on a Snowy Evening

Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ


Trong một truyện cực ngắn, Lời Ước, Walter Benjamin kể chuyện, sau một bữa lễ sabbath, mấy người Do Thái, từ xóm đông xóm đoài kéo nhau tới một cái quán tồi tàn nhất trong làng. Chuyện bá láp một hồi, một ông đưa ra ý kiến, từng người sẽ nói lên một lời ước của mình. Thôi thì đủ thứ ước ao: thêm căn nhà, thêm tí nhau, thêm tí thu nhập, thêm chiếc xế... Khi đã chán chê, họ mới chú ý tới một "kẻ lạ" ngồi thu lu ở một góc. Chẳng ai biết anh ta. Trông cách ăn mặc, rõ ra một nhân vật cái bang. Anh ta cũng không tỏ vẻ hăm hở nói lên lời ước của mình:

-Tôi ao uớc được làm một vị hoàng đế rất hùng mạnh, trị vì một vương quốc thẳng cánh cò bay; một đêm đang ngủ trong tòa lâu đài của tôi, quân thù thình lình vượt biên giới và trước khi ánh dương đầu tiên xuất hiện, đám giặc đã vào tới bên trong lâu đài... Tôi chẳng còn đủ thì giờ vớ đủ bộ quần áo, cứ thế chạy trối chết, ngày này qua ngày nọ, đêm này qua đêm khác, cuối cùng tìm được một chỗ trú ẩn, là góc quán này. Đó là lời ước của tôi.
Cả bọn, người nọ ngó người kia, chưng hửng.
-Thế anh có thêm được một món đồ nào không?
 -Có, một chiếc áo thun! (1)

Bỏ chạy, 1 trong những kẻ lẹ nhất, tới Mẽo, chỉ có 1 chiếc áo thung, vậy mà vẫn đầy huyễn tưởng về mình!
Không hiểu có Thầy Quân, Thầy Đạo trong đám lưu vong dưới đây: 

Among the Exiles

One met former cabinet ministers,
University professors, defrocked priests and officers,
Feeding pigeons from a park bench,
Squinting into foreign newspapers
And telling anyone who happened to ask
Not to bother their heads about the truth.

On the use of murder to improve the world
They had many vivid memories
As they huddled in their dim kitchens,
Clipping supermarket coupons,
Shifting the loose dentures in their mouths
While waiting for the teakettle to boil.

They ate in restaurants with waiters older than themselves,
Musicians whose fingers bled
As they picked at their instruments
Making some tipsy widow burst into sobs
On hearing a tune her husband the general loved,
The one who sent thousands to their deaths.

Giữa những tên Lưu Vong

Người ta gặp những cựu bộ trưởng
Giáo sư đại học, tu sĩ mất áo tu, sĩ quan mất quân phục,
Cho bồ câu ăn ở băng ghế công viên,
Liếc tờ báo chợ
Và biểu người nào tính hỏi,
Này, đừng có bực mình, lúc lắc cái đầu, khi biết sự thực.

Về cái việc sử dụng sát nhân để cải thiện thế giới
Họ có nhiều kỷ niệm sống động
Khi quay mòng mòng trong căn bếp tối thui
Cắt cắt mấy cái phiếu siêu thị
Xốc xốc bộ răng giả trong miệng
Trong khi chờ ấm nước pha trà sôi

Họ ăn trong những tiệm bồi bàn già hơn chính họ
Nhạc sĩ bấm đàn bằng những ngón tay rướm máu
Làm một bà góa ngà ngà say, khóc nức nở
Khi chơi một điệu nhạc mà ông chồng đại tướng ngày nào của bà thích nghe
Ông tướng này đã từng ra lệnh làm thịt hàng ngàn người.

Charles Simic: Master of Disguises

Whatever Happened

Whatever happened had already happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish. 

But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.

Adam Zagajewski

Bất Cứ Chuyện Gì xẩy ra

 

Chuyện xẩy ra thì đã xẩy ra.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ
Và những giọt nước mắt khô queo
lì lợm bám mãi vào những chiếc lá herbarium
Cái gì xẩy ra thì sẽ ở với chúng ta
Và cùng chúng ta, sẽ triển nở, và sẽ lụi tàn. 

Nhưng chúng ta phải sống,
Cây hạt dẻ nâu bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
Con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống
HPNT thì thầm bên tai GCC.

 

GOOD FRIDAY IN THE TUNNELS
OF THE METRO

 

Jews of various religions meet
in the tunnels of the Metro, rosary beads
spilled from someone's tender fingers.
 

Above them priests sleep after their Lenten supper,
above them the pyramids of synagogues and churches
stand like the rocks a glacier left behind. 

I listened to the St. Matthew Passion,
which transforms pain into beauty. 

I read the Death Fugue by Celan
transforming pain into beauty. 

In the tunnels of the Metro no transformation of pain,
it is there, it persists and is keen. 

Thứ Sáu Thiêng ở đường hầm Metro

 

Do Thái từ nhiều tôn giáo khác nhau tụ tập
ở đường hầm Metro, những hạt màu hồng
tràn ra khỏi những ngón tay dịu dàng của một người nào đó. 

Ở bên trên họ, những thầy tu ngủ sau Bữa Ăn Tối Lenten
Ở bên trên họ, những tháp giáo đường, nhà thờ
đứng như những khối đá một băng hà để lại phía sau. 

Tôi nghe  St. Matthew Passion,
Bản nhạc biến nỗi đau thành cái đẹp. 

Tôi đọc Tẩu Khúc Của Thần Chết của Celan
Bài thơ biến nỗi đau thành cái đẹp 

Ở nơi đường hầm Metro không có sự biến hóa nỗi đau,
nó ở đó, lì lợm, và gay gắt.
 

LIFE SENTENCE 

Those sufferings are over.
No crying anymore.
In an old album
you look at the face of a Jewish child
fifteen minutes before it dies.
Your eyes are dry.
You put the kettle on,
drink tea, eat an apple.
You'll live. 

Án Chung Thân 

Những nỗi đau khổ đó thì xong rồi
Không khóc lóc nữa.
Trong một cuốn album cũ
bạn nhìn vô mặt một đứa bé Do Thái
15 phút trước khi nó chết
Mắt bạn khô queo.
Bạn đặt cái ấm nước lên,
uống trà,
ăn 1 trái táo
Bạn sẽ sống.

Adam Zagajewski: Without End

Note: Simic, Zagajewski đều…  lưu vong, như Thầy Đạo, Thầy Quân!
Gấu không được kể, vì đi muộn quá, hết mẹ mùa lưu vong rồi!
Thầy HPA cũng không được kể, vì như Thầy tuyên bố, với 1 phóng viên báo VC, tôi đếch bao giờ là nhà văn lưu vong!

Trong tiểu sử của Thầy Quân, ghi, đã từng viết Sáng Tạo. Khó tin quá, y chang Thầy Đào, cũng đã từng viết Sáng Tạo!
Nhưng cái chi tiết đã từng viết cho Tiểu Thuyết Tuần San, thì lại tin được, vì với cái tuổi "teen", và cái nick Trường Dzi, đây đúng là chỗ dành cho Thần Đồng Văn Học!

Cứ tưởng tượng truyện ngắn "nào đó", của Trường Dzi,  kế bên một của TTT, hay Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời của Mai Thảo, trên Sáng Tạo, hay như truyện ngắn sau đây, cũng của Mai Thảo, đăng trên Vấn Đề số Xuân Kỷ Mão, thấy XHCN [xạo hết chỗ nói]!

Thư Cho Một Người Bạn

Không phải vấn đề “hay dở”, mà là cái “tông” [ton], cái khí hậu, của truyện, cái “đi hay ở đều là chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa, hoặc cái chết” [TTT]
Bạn cứ thử tưởng tượng 1 ông nhóc tuổi teen, Trường Dzi, mà viết về “lưu vong” [bỏ chạy xứ Bắc Kít], trên Sáng Tạo!
Có "tự vu khoát" về mình thì cũng vừa vừa thôi!
Vậy mà cũng lên giọng “tào lao, không thèm nhắc tới”!
Gấu Cà Chớn vẫn thường đau đầu, vì “vấn nạn”, tại làm sao trong đám Bắc Kít bỏ chạy, không có được 1 thứ, như Milosz, thí dụ, mà chỉ tới mức “bán đảo thì cũng là quần đảo”, làm cho Bi Bì Xèo, hay BT, nhục nhã viết cho Mẽo, hay Sến, “ngửi khói mũi lõ đủ no”.
Nhưng nhìn lại thì Miền Nam cũng mắm xốt kít!

Nhưng quái đản nhất, lại là trường hợp “viết như đếch có gì xẩy ra”, của những đấng đi tì VC về!

2.     Nguyễn Quốc Trụ có thể trưng ra truyện ngắn nào của tôi khác bản văn “Tiếng Nói” in trên Văn Học mà gọi là phỏng theo truyện Le Mur của Sartre?
DPQ

Một truyện đã khủng rồi, không lẽ có tới....  hai?
Đọc tiểu sử, thấy DPQ sinh năm 1942, không lẽ...  lẩn thẩn rồi ư?

Hà, hà!
*

Tạp chí Sáng Tạo bộ cũ ra được 31 số dưới hình thức nguyệt san. Số đầu ra tháng 10/1956, số cuối 31 ra tháng 9/1959. Sau một thời gian ngưng, tháng 7/1960 tái bản dưới hình thức bộ mới, đánh số lại từ đầu. Bộ mới cũng chỉ ra được vài số (7 hoặc 8?) thì ngừng hẳn.
Tra thông tin thư viện thì thấy:
Sáng Tạo : Tạp chí văn nghệ / Chủ trương biên tập: Mai Thảo.
1956: 1-3
1957: 4-15
1958: 16-27
1959: 28-31
1960: 1-6
1961: 7
Nguồn

*

6.     Lời cuối chuyện này là tôi chỉ biết khoan dung cho lỗi lầm của Nguyễn Quốc Trụ. Trước năm 1975, chúng tôi (Huỳnh Phan Anh và tôi) còn bị lôi tên vào những chuyện tào lao (không đáng nói đến) trong sinh hoạt báo chí văn nghệ lúc bấy giờ, từ những chuyện phê bình do Nguyễn Quốc Trụ và Nguyễn Nhật Duật gây ra.
Đặng Phùng Quân 

DPQ, qua tiểu sử cho biết, sinh năm 1942.
Gấu sinh năm 1937.
Truyện ngắn đầu tay của Gấu, Những con dã tràng, khi gửi cho Sáng Tạo bộ mới, TTT cho biết sẽ đăng, nhưng sau đó, báo ngỏm 1961
Như vậy là DPQ phải viết trước Gấu rất nhiều. Khi ông viết cho ST, nếu theo như trên, tuổi của ông chừng 17.
Cũng 1 thần đồng văn học.

Đọc bài điểm sách của DPQ, của DTD, trên Gió O, (1) bạn đọc có thể nhận ra, cách tiếp cận văn chương của DPQ, là từ mảnh đất triết học mà ông quen thuộc, khác hẳn cách viết tạp ghi, phê bình, điểm sách, rất tào lao của Gấu, từ trước tới giờ.
Làm sao có chuyện Gấu liên quan, mắc mớ đến DPQ để lôi tên ông vô những chuyện không đáng nói tới?
Tuy nhiên, vấn đề 'nghiêm trọng' hơn nhiều, nếu chúng ta nhìn qua lăng kính của Cái Ác Bắc Kít!
Hay, nói khác đi, về nguyên nhân cuộc chiến Mít, mà từ đó, nó ảnh hưởng lên giới văn học, ở hai miền.

Vấn đề đại khái như thế này. Gấu “vào đời” rất sớm, nghĩa là, đói, bỏ học ngang, đi làm sớm. Cái đọc của Gấu do đó cũng liên quan tới cái việc đi làm sớm.
Những đấng như Đào Trung Đạo, Đặng Phùng Quân, do hoàn cảnh thuận lợi hơn được học dài thời gian hơn, và chọn môn Triết, vừa để tiến thân, làm thầy, và để trốn lính.
Đó là sự thực.
Chế độ Miền Nam cho phép trốn lính bằng việc học. Học đều, năm nào cũng lên lớp, là được hoãn dịch, để học.
Trong khi Gấu, làm chuyên viên kỹ thuật, chẳng phải lo lính tráng gì hết [được hoãn dịch vì công vụ], thành ra cái đọc chỉ để nhắm cho riêng mình, cho cái mộng viết văn và còn để hiểu tại sao lại xẩy ra cuộc chiến đó.
Bởi thế đọc Lukacs, đọc Henri Lefèbvre, Roland Barthes, Koestler…

Cái/cách đọc của Gấu khác hẳn cái/cách đọc của DPQ, của DTD.
Thật khó có chuyện Gấu lôi tên DPQ vô những chuyện tào lao được.
Chính là do cách/cái đọc của Gấu khác, mà sau này, Gấu vẫn tiếp tục đọc và viết được, trong khi những đấng kia, kể như xong.

Một anh bạn, NTV, khi thấy Gấu “ngộ” ra, sau khi đọc Faulkner, và Steiner, đã giải thích, tao đọc Steiner từ khi còn ở Việt Nam, cỡ 1960, mà không ngộ ra như mày, chính là vì trong mày phải có sẵn cái đó.
Một lời chí tình.
Gấu đọc Faulkner, Steiner, là để hiểu Gấu. Hiểu cuộc chiến.
Gấu đâu cần Gabriel Marcel, Hegel, Heidegger?
Ai tào lao hơn ai?

Đào Trung Đạo đã từng mét Sến, Gấu không phải dân khoa bảng. Ông ta học xong Trung Học, vô Văn Khoa, học Triết, lấy cái cử nhân, làm thầy, còn Gấu, xong Trung Học, như ông ta, thay vì vô Văn Khoa thì vô Bưu Điện học lấy bằng Chuyên Viên Kỹ Thuật, làm thợ.
Với ông ta, bằng kỹ thuật không phải…   khoa bảng!
Cả đời ông ta, chẳng có lấy 1 tác phẩm lận lưng, dù 1 truyện ngắn, 1 bài thơ.
Làm sao so với Gấu Nhà Văn được.
Ngay cả Thầy Quân, thì những tác phẩm của Thầy, cùng lắm là đám đệ tử đọc. Cũng đâu có gì ghê gớm, mà chê hết người này tào lao, người kia không đáng nói tới?

V/v Tiếng Nói, của DPQ, ảnh hưởng Le Mur, của Sartre.
Gấu đọc Tiếng Nói, ngửi ra mùi Le Mur. Đó là cảm tưởng của 1 người đọc. Sao lại gọi là vu khoát?
Mà đâu chỉ 1 mình "độc giả" Gấu?

V/v cách đọc của Gấu.

Trong bài viết về Kẻ Xa Lạ, nhân cuốn sách được dịch lại qua tiếng Anh, người viết có dùng 1 từ thật là tuyệt, và áp dụng thật là thú, vào trường hợp của Gấu, khi đọc Camus, hay nói chung, 1 số tác giả thời mới lớn:

Existentialism had its great theorist in Sartre and its great novelist in Camus, and this is still the book students turn to when they need a fix of me-against-them. (1)
Chủ nghĩa hiện sinh có lý thuyết gia lớn của nó, trong Sartre, và tiểu thuyết gia lớn, trong Camus, và vẫn là cuốn sách đó [Kẻ Xa Lạ], những sinh viên viện tới khi họ cần "xác định mình chống lại họ".

Cụm từ “fix of me-against-them”, quá đúng, nếu áp dụng cho Gấu, theo nghĩa, Gấu đọc họ để hiểu Gấu.

6.     Lời cuối chuyện này là tôi chỉ biết khoan dung cho lỗi lầm của Nguyễn Quốc Trụ. Trước năm 1975, chúng tôi (Huỳnh Phan Anh và tôi) còn bị lôi tên vào những chuyện tào lao (không đáng nói đến) trong sinh hoạt báo chí văn nghệ lúc bấy giờ, từ những chuyện phê bình do Nguyễn Quốc Trụ và Nguyễn Nhật Duật gây ra.
Đặng Phùng Quân

Note:

Trước 1975, DPQ được biết đến như là 1 giáo sư Triết. Tác phẩm của ông, là về Triết học. Làm sao mà NQT lại có thể bàn về chuyện triết học được?
Những bài viết của NQT, ngoài sáng tác, ký Sơ Dạ Hương, thì là tạp ghi, tin văn học, đọc sách…, không có tí triết nào ở trong đó, làm sao có chuyện "DPQ bị lôi tên vào những chuyện tào lao (không đáng nói đến)"?

Nguyễn Nhật Duật thì chết rồi, thành ra không phản biện được.
Có thể Thầy Duật nhắc tới Thầy Quân, vì cũng giới Thầy với nhau.

V/v HPA. NQT quả có lôi vô những chuyện tào lao, vì là “bạn quí”, ngày nào cũng ngồi La Pagode.
Thí dụ như “Sinh Nhật” [NXH] bị đổi thành “Sinh Nhạt”, “Thất Lạc” thành “Thật Lạt”…
Hay vụ DA chi cho HPA ba trăm ngàn, để viết về DA?
Chuyện đó không lẽ cũng... tào lao?
Hà, hà!

1.     Như đã nói ở trong phụ chú 34 của Khái Luận Phê Bình Lý Trí Văn Chương, truyện Tiếng Nói đã đăng trên tạp chí Văn ở Sài Gòn  trước 1975.  Văn Học ở hải ngoại do Nguyễn Mộng Giác chủ biên lấy đăng lại. Cần phải viết rõ tên NMG ra là Nguyễn Mộng Giác, đã chết, nên không thể kiểm chứng lời nói.
2.     Nguyễn Quốc Trụ có thể trưng ra truyện ngắn nào của tôi khác bản văn “Tiếng Nói” in trên Văn Học mà gọi là phỏng theo truyện Le Mur của Sartre?

Note::

NQT tôi không nhớ tên cái truyện ngắn của DPQ mô phỏng Le Mur của Sartre. Và như DPQ viết, ở trên, thì đó là truyện Tiếng Nói.
Như thế, hẳn là DPQ đã từng biết, “Tiếng Nói” của ông có vấn đề, đâu cần phải đợi đến khi NQT vu khoát?
Cái cảm giác của tôi, NQT, khi đọc “Tiếng Nói”, nếu đúng là nó, lần đầu, khi mới ra được hải ngoại, là nhớ liền đến Le Mur của Sartre.

Vả chăng, đâu cần NMG… kiểm chứng. Là chủ báo, thấy truyện ngắn hay thì đăng. Giả như có vụ cầm nhầm, thì lại càng nên đăng, vì cái kẻ cầm nhầm, “bảnh như thế”, kẻ đó ráng chịu!
Ông số 2, chẳng thiếu cái gì hết, hóa ra vưỡn thiếu, chỉ 1 cái tít cho bài viết. Đã sao?

*

Cái vụ lôi cái tên DPQ vô chuyện tào lao khó xẩy ra, một phần còn là do cái cảm giác lần độc nhất gặp Thầy, khi Thầy đến gặp HPA để lo xb cuốn về Gabriel Marcel.
Thầy đếch thèm nhìn đến Gấu, ngồi kế bên!
Lạ, đọc tiểu sử của Thầy, hóa ra còn viết văn trước 1975! (1)

Cá nhân Gấu, lần đầu đọc văn Thầy Quân, là khi ra được hải ngoại, đọc đúng cái truyện có mùi... Sartre!

Đặng Phùng Quân sinh năm 1942, nguyên quán Thái Bình miền Bắc Việt Nam. Nguyên Giảng sư khoa Triết học Tây phương trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn từ năm 1968 đến 1975, Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học công lập Cần Thơ, Đại học Hòa Hảo (Long Xuyên), Đại học Cao Đài (Tây Ninh).
Trong những năm 1957-1963 viết văn với bút hiệu Trường Dzi trên những tạp chí Sáng Tạo, Thế Hệ, Tiểu Thuyết Tuần San. Viết trở lại với tên thật trên những tạp chí Văn, Vấn Đề, Khởi Hành, Thời Tập từ 1969 và tại hải ngoại từ 1981 trên những tạp chí Văn, Văn Học, Nhân Văn, Thế Kỷ 21, Chủ Đề. Gió Văn, những tạp chí điện tử Nhân văn, Vovinam, Gió-0, Talawas.
Nguồn: Sách Xưa

Như vậy, Thầy Quân còn là đàn anh văn nghệ của Gấu.
Vì Gấu không có hân hạnh được viết cho Sáng Tạo.
Cũng vậy, là Thầy Đạo. Cũng đàn anh văn nghệ, vì, cũng đã từng viết cho Sáng Tạo!
*
2.     Nguyễn Quốc Trụ có thể trưng ra truyện ngắn nào của tôi khác bản văn “Tiếng Nói” in trên Văn Học mà gọi là phỏng theo truyện Le Mur của Sartre?
DPQ

Một truyện đã khủng rồi, không lẽ có tới....  hai?
Đọc tiểu sử, thấy DPQ sinh năm 1942, không lẽ...  lẩn thẩn rồi ư?

Hà, hà!


về một lời vu khoát của Nguyễn Quốc Trụ

Đào Trung Đạo cho tôi hay, trên mạng “Tin Văn” hay “Tản Viên” gì đó mục gọi là “ghi chú trong ngày”, Nguyễn Quốc Trụ có viết:
“Hồi mới ra được hải ngoại, GCC có đọc 1 "sáng tác" của Thầy Quân, không nhớ ở đâu, báo nào, nhưng đọc 1 phát, là biết liền gốc của nó, là truyện ngắn Bức Tường của Sartre [Koestler thổi, truyện ngắn số 1 viết về cuộc chiến Tây Ban Nha].
Thầy cũng không đi 1 đường tiểu chú, truyện "phóng tác" làm con mẹ gì hết.
Sau, Thầy lại đưa cho NMG đăng trên tờ Văn Học.
Một bạn văn, thân với tờ VH, nhắc NMG, truyện này thuổng của Sartre, đừng đăng, nhưng NMG hình như phán, nếu thuổng, thì lại càng nên đăng!
Đúng là đầu óc lớn gặp nhau!”
*

Nếu là vấn đề lý luận cần tranh luận, tôi sẽ mở rộng vòng tay để phản biện. Song đây là một lời vu khoát, tôi chỉ xác minh mấy điều:

1.     Như đã nói ở trong phụ chú 34 của Khái Luận Phê Bình Lý Trí Văn Chương, truyện Tiếng Nói đã đăng trên tạp chí Văn ở Sài Gòn  trước 1975.  Văn Học ở hải ngoại do Nguyễn Mộng Giác chủ biên lấy đăng lại. Cần phải viết rõ tên NMG ra là Nguyễn Mộng Giác, đã chết, nên không thể kiểm chứng lời nói.
2.     Nguyễn Quốc Trụ có thể trưng ra truyện ngắn nào của tôi khác bản văn “Tiếng Nói”in trên Văn Học mà gọi là phỏng theo truyện Le Mur của Sartre?
3.     Tôi đã không gửi sáng tác hay biên khảo cho Văn Học, kể từ sau khi gửi “Nội truyện”cho Văn Học, và Nguyễn Mộng Giác trong cuộc điện đàm nói với tôi là không đăng được, vì truyện khó quá, “trong khi trình độ độc giả của Văn Học bây giờ chỉ ở lớp 9”. Nguyên văn câu trả lời của Chủ bút VH như thế. Song không phải chỉ một mình NMG đâu, tôi gửi “Ngoại truyện”[ đưa lên gio-o đổi tên cho vui là “Cái lỗ của triết gia”] cho tạp chí khác do một bạn thân chủ trương, cũng không đăng, với lý do nguyên văn y hệt trả lời của NMG. “Nội truyện” và “Ngoại truyện” đã in vào sách Tự Truyện xuất bản năm 1997.
4.     Nguyễn Quốc Trụ được tiếng là xếp chung trong nhóm Nguyễn Xuân Hoàng, Đặng Phùng Quân, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Nhật Duật, ít ra là được nói đến trong một sách của Mai Thảo (ở bài viết về Nguyễn Đình Toàn, tôi không nhớ tên sách, viết về một số người cầm bút), trong bài viết của Huỳnh Phan Anh: “Nguyễn Xuân Hoàng cùng Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Quốc Trụ và tôi [HPA] đã gặp nhau và sớm kết thân với nhau trong tình yêu chữ nghĩa hấp dẫn và bất trị…”, trong bài của Nguyễn Văn Sâm: “tôi [NVS]được gọi là Đồ Nho để phân biệt với các bạn văn trong nhóm của Hoàng là Đồ Tây như Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân, Hoàng Ngọc Biên, và có thể thêm Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Quốc Trụ [tuy hai người này không phải nhà giáo]. Những nhà văn đương làm mưa làm gió trên văn đàn Sài gòn lúc đó với phong cách văn chương mới theo kiểu viết của nouveaux  romans hay anti  roman”[bài viết của Huỳnh Phan Anh nhan đề: Nguyễn Xuân Hoàng: Tình Yêu Chữ Nghĩa Hấp Dẫn Và Bất Trị, dẫn trên tr. 23; bài viết của Nguyễn Văn Sâm nhan đề: Nguyễn Xuân Hoàng, Nhà Văn Lững Thững Trong Đời, dẫn tr. 41-42; cả hai bài này in trong tạp chí Khởi Hành số 187/188 tháng 5/6, 2012 với tiêu đề ngoài bìa: chân dung văn học Việt nam: nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng].
5.     Trong kỳ này và những kỳ tới, người đọc gio-o sẽ được đọc nguyên tác bài Tiếng Nói của tôi và bài Le Mur (được dịch ra tiếng Việt) của J.P. Sartre để tham chiếu và so sánh.
6.     Lời cuối chuyện này là tôi chỉ biết khoan dung cho lỗi lầm của Nguyễn Quốc Trụ. Trước năm 1975, chúng tôi (Huỳnh Phan Anh và tôi) còn bị lôi tên vào những chuyện tào lao (không đáng nói đến) trong sinh hoạt báo chí văn nghệ lúc bấy giờ, từ những chuyện phê bình do Nguyễn Quốc Trụ và Nguyễn Nhật Duật gây ra.
Đặng Phùng Quân
09.2012
© gio-o.com 2012  (1)

Note:

V/v Bức Tường vs truyện ngắn không nhớ tên của Đặng Phùng Quân, tôi NQT, đã đọc cả hai, và thấy rất rõ, truyện ngắn của DPQ là từ Bức Tường.
Chẳng cần đến NMG.
Còn một bạn văn nữa cũng nhận ra điều này. Không tiện nêu tên.
Tôi không nhớ tên truyện ngắn của DPQ, làm sao DPQ biết, đó là truyện Tiếng Nói ?
Trước 1975, tôi, NQT chưa hề nhắc tới tên Đặng Phùng Quân, vì những bài viết của tôi không liên quan tới triết học, và cũng không quen DPQ, hình như có gặp với HPA 1 lần, khi HPA in sách DPQ
Còn vu khoát hay không, chờ đọc, là biết liền!

NQT                                        





Hồi mới ra được hải ngoại, GCC có đọc 1 "sáng tác" của Thầy Quân, không nhớ ở đâu, báo nào, nhưng đọc 1 phát, là biết liền gốc của nó, là truyện ngắn Bức Tường của Sartre [Koestler thổi, truyện ngắn số 1 viết về cuộc chiến Tây Ban Nha].
Thầy cũng không đi 1 đường tiểu chú, truyện "phóng tác" làm con mẹ gì hết.
Sau, Thầy lại đưa cho NMG đăng trên tờ Văn Học.
Một bạn văn, thân với tờ VH, nhắc NMG, truyện này thuổng của Sartre, đừng đăng, nhưng NMG hình như phán, nếu thuổng, thì lại càng nên đăng!

Đúng là đầu óc lớn gặp nhau!

“Tính chất phồn tạp này của sinh hoạt lý luận phê bình văn chương này ngay đối với những người trong giới chuyên ngành cũng là một thách thức trong kinh nghiệm tìm kiếm lộ đồ cho những giải đáp khả dĩ. Huống chi đối với những người ngoài nghề chuyên văn và những kẻ “ngoại đạo” với não trạng và thói quen lý luận phê bình văn chương trường ốc "xáo" ["sáo", không phải "xáo". NQT], mòn thì hầu như trở ngại này khó có thể vượt qua.”
Thầy Đạo

Thầy Đ này, suốt 1 đời làm Thầy, đếch có 1 tác phẩm, vậy là lớn lối như trên!
GCC đã từng kể, gặp lại Thầy lần đầu, lần đầu GCC qua Cali, tình cờ gặp ở quán sách Văn Khoa của DDT.
Ông bực lắm khi GCC không nhận ra ông, và, như ông cho biết, liền sau đó, ông đã từng tới nhà Gấu, khi còn ở Hẻm Đội Có, với ông anh của BHD.

Nếu như thế, thì ông học sau Gấu, và, nếu như thế, ông là học trò của NVT.

Vậy mà có lần ông “mét” Sến, trong 1 bài viết trên talawas, NVT đã từng thuổng 1 bài viết về Sagan, đăng trên Sáng Tạo!
Bài viết của Thầy, tố GCC đếch phải dân khoa bảng, nhưng lại đi 1 đường "tiểu chú" tố Thầy NVT của ông ta!

GCC tởm cái "tiểu chú", chứ không phải bài viết tố Gấu!
Sến biết gì về Miền Nam trước 1975?

Tại làm sao lại làm 1 chuyện nhục nhã, là tố Thầy, với 1 em Bắc Kít?

Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần rồi, Gấu ra trường rất sớm, làm Bưu Điện, buồn buồn ghi tên học Văn Khoa, lấy cái Dự Bị Triết, lên đến chứng chỉ Triết Tây thì dội, vì không muốn học Thầy NVT. Học, dù nửa chữ, thì cũng phải gọi là Thầy, mà Gấu không muốn, thế là de!
Sau nhớ lại, thì Gấu có đi thi, khóa 1 chứng chỉ Triết Tây, nhưng rớt, vì bài làm của Gấu, là từ cours Sorbonne, mua ở tiệm Lê Phan, không học cours của Thầy NVT, nên bị đánh rớt!

Nhà sách Lê Phan khi đó bán gần như đủ thứ cours Sorbonne, nào Toán, Lý, Hóa, Triết… Không phải như 1 vị bỏ chạy cuộc chiến qua Tây học Sorbonne, bèn chửi Gấu, mi ở Sài Gòn, mà Sorbonne cái con khỉ gì!
Gấu biết đến Husserl, là nhờ cours Sorbonne về ông.
Gấu, dân Toán, đọc Triết, thì chỉ những tác giả cần riêng cho Gấu, không phải đọc theo kiểu nhà trường. Những Thầy như Thầy Quân, Thầy Đạo đâu có khi nào đọc Lukacs, thí dụ. Hai Thầy sau 30 Tháng Tư chuồn đi được sớm, đâu biết gì về…  Lò Thiêu, thí dụ?
Còn Heidegger mà Thầy Đạo mê, viết lia chia, chỉ để cho cho dzui, chứ dễ gì có độc giả?

Cả tư tưởng, lẫn đạo hạnh, của Heidegger, đều khó nhá, lại thêm cái thứ văn dịch của Thầy Đạo, bố ai đọc nổi!
Chỉ nội câu của Thầy, mà TV trích dẫn, trên, đủ thấy tài sử dụng tiếng Việt của Thầy rồi!
Còn tiếng Tây của Thầy ra sao, thì phải nhờ 1 vị nữ độc giả talawas, chỉ giáo!
GCC không dám nhận mình rành tiếng Tẩy!
Thường ra, khi dịch sai, được độc giả chỉ cho thấy, thì bèn cám ơn, và sửa. Gấu chưa từng thấy Thầy Đạo lên tiếng, về những chỗ dịch sai của “Thẩy”, lạ thế!
Trong khi Gấu, là bèn cám ơn liền tù tì!

Maurice Blanchot: “Admettez-vous cette certitude: que nous sommes à une tournant? – Si c’est une certitude, ce n’est pas une tournant. Le fait d’appartenir à ce moment où s’accomplit un changement d’époque (s’il y en a), s’empare aussi du savoir certain qui voudrait le déterminer, rendant inappropriée la certitude come l’incertitude.”

“ Liệu bạn có chấp nhận sự chắc thực này không: rằng chúng ta  đang ở một bước ngoặt?
-  Nhưng nếu đó là một sự chắc thực, thì hóa ra lại không phải là một bước ngoặt. Sự kiện ta thuộc vào thời điểm từ đó một chuyển biến thời đại hoàn tất (nếu như có một chuyển biến như thế) thì sự kiện này cũng sẽ ảnh hưởng đến sự chắc thực ta dùng để qui định sự thay đổi đó, khiến cho cả sự chắc thực lẫn sự không chắc thực chẳng còn thích đáng nữa.”
(Entretien infini, Gallimard 1969, p.394)

Thầy Đạo đọc Thầy Quân

-Câu tiếng Tây, “comme”, như là, không phải “come”.
-Theo GCC nên dịch là:
Bạn có chấp nhận xác tín này: Rằng chúng ta đang ở bước ngoặt?
-Nếu “xác tín”, thì không phải “bước ngoặt”. Sự kiện thuộc về thời điểm giao thời (nếu có) hoàn tất cũng chiếm đoạt tri thức chắc chắn muốn xác định nó, làm không thích hợp, "xác tín" cũng như "không xác tín".
Chiếm đoạt, s'emparer , đâu phải "cũng sẽ ảnh hưởng"?

Le fait d’appartenir à ce moment… Sự kiện thuộc về khoảnh khắc thay đổi thời đại hoàn tất, [cái sự kiến đó] cũng chiếm đoạt tri thức xác thực muốn xác định nó: Làm gì có “ta” ở đây ?
Dịch 1 câu tiếng Tây cũng chẳng ghê gớm gì, “hóa ra là” không nên thân, vậy mà lớn giọng:
“Tính chất phồn tạp này của sinh hoạt lý luận phê bình văn chương này ngay đối với những người trong giới chuyên ngành cũng là một thách thức trong kinh nghiệm tìm kiếm lộ đồ cho những giải đáp khả dĩ. Huống chi đối với những người ngoài nghề chuyên văn và những kẻ “ngoại đạo” với não trạng và thói quen lý luận phê bình văn chương trường ốc "xáo" ["sáo", không phải "xáo". NQT], mòn thì hầu như trở ngại này khó có thể vượt qua.”

Hồi mới ra được hải ngoại, GCC có đọc 1 "sáng tác" của Thầy Quân, không nhớ ở đâu, báo nào, nhưng đọc 1 phát, là biết liền gốc của nó, là truyện ngắn Bức Tường của Sartre [Koestler thổi, truyện ngắn số 1 viết về cuộc chiến Tây Ban Nha].
Thầy cũng không đi 1 đường tiểu chú, truyện "phóng tác" làm con mẹ gì hết.
Sau, Thầy lại đưa cho NMG đăng trên tờ Văn Học.
Một bạn văn, thân với tờ VH, nhắc NMG, truyện này thuổng của Sartre, đừng đăng, nhưng NMG hình như phán, nếu thuổng, thì lại càng nên đăng!

Đúng là đầu óc lớn gặp nhau!