|
Ghi
chú
trong ngày
Mẽo @ Paris
Je me
rappelle maintenant comment le chauffeur se pencha au-dehors pour
regarder vers
le fleuve, du côté de Passy. Un regard si sain, si simple, un regard
approbateur, comme s'il se disait à lui-même: «Ah! le printemps arrive!
» Et
Dieu sait, quand le printemps arrive à Paris, le plus humble mortel a
vraiment
l'impression qu'il habite au paradis !
MILLER
Tôi bây giờ
nhớ lại cái cảnh anh tài xế taxi nghiêng người ra ngoài xe, nhìn về
hướng sông,
từ phía Passy. Một cái nhìn thánh thiện, đơn giản, và mới “xoa đầu hài
lòng làm
sao”!
Như thể anh
ta đang nói với chính mình: “Ui chao Mùa Xuân về rồi.”
Và Thượng Ðế
thì cũng chẳng thể nào hiểu ra được, khi Mùa Xuân trở về lại với Paris,
thì một
đấng con người nhún nhường, bình thường, tầm thường, đôn hậu, nhân hậu
và cảm động,
cái thứ sinh vật phải đi đến cái chết đó, vào lúc đó, nó cảm thấy thực
sự đang ở
Thiên Ðàng!
Paris là ngày
hội
Non cogito, ergo sum
Note: Mấy
bài hot, đầu tháng. Bài thứ ba, hot nhất.
Liêu Thái –
Cuộc thảo luận “lạ” về Trại Súc Vật trên bãi biển Đà Nẵng (1)
Hồi học cấp
II, bên cạnh những quyển sách như sách của Hứa Thuần Phỏng, tôi còn đọc
một số
sách khác, như Sợ lửa của
Doãn Quốc Sỹ. Giờ đây không biết cuốn Sợ
lửa lưu lạc
nơi đâu, tôi không tìm thấy nó. Tôi vừa đọc Sợ lửa, vừa đọc Những tên
biệt kích
của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Hồi đấy
đọc thật
là tạp, nhưng không có Orwell để đọc. Mãi sau này khi đi du học tôi mới
biết
Orwell. Sợ lửa được xếp là chuyện cổ tích, giống như Trại súc vật là
ngụ ngôn.
Khi ở nước ngoài, biết tôi là người Bắc, có người hỏi tôi đã đọc Orwell
chưa? Tôi thấy thật tội
nghiệp cho người đặt câu hỏi đó. Khung cửa văn chương
của họ
chỉ gói gọn ở mỗi Orwell.
V/v Sợ
Lửa ra, tính sau [để đọc lại, cho chắc ăn, vì Gấu không nghĩ Sợ Lửa liên quan tới 'vấn nạn" VC,
hay rộng ra, toàn trị], Gấu sợ rằng, người đáng tội nghiệp ở đây, chính
là Đông A!
V/v Orwell, để
riêng Trại Loài Vật ra tính
sau, chỉ hai cuốn, 1984 của ông, và Bóng Đêm giữa Ban Ngày của Koestler
làm đổi hẳn diện
mạo thế giới. Không có hai cuốn đó, là Châu Âu đã bị nhuộm đỏ.
Gấu đọc trong cuốn Kẻ Lạ ở
Quảng Trường, Stranger on the Square, khi cuốn Bóng Đêm ra lò,
Sartre bắt đệ tử đi lùng, đốt sạch, nhưng trong số Magazine Littéraire,
Dec 2009, đặc biệt về Orwell, cho biết, việc đốt này do ĐCS
Pháp chủ trì.
Trên Tin Văn, có hai trang
dành cho, 1 Orwell, 1 Koestler.
Orwell
Le
Magazine Littéraire, Dec
2009
Nhớ bức hình Cha Lý!
Trại Loài Vật của
Orwell, Tôi
Chọn Tự Do của Victor Kravchenko, và Đêm giữa Ngọ của Koestler:
Ba nhà văn, ba cuốn sách, ba
cứu tinh của nhân loại!
Nhờ chúng mà Âu Châu nói Không với CS
Tuổi trẻ của Gấu được tạo
dáng [shape] nhờ hai trong ba cuốn đó!
Hai cuốn sau, hồi 1954 được
Phòng Thông Tin Huê Kỳ cho dịch, biếu
không độc giả Miền Nam!
Đêm giữa Ngọ, khi
xb tại
Pháp, được Sartre ra lệnh cho đệ tử đi từng tiệm sách thâu gom, đem đốt
bỏ, như
trong Kẻ Lạ ở Quảng Trường
cho biết
Koestler
Giả như có người nào hỏi
Đông A, đã đọc
Orwell chưa, thì người đó có lý đo để hỏi như vậy. Giả như có đọc
Orwell
thì chắc chắn phải có 1 cái nhìn khác về CS.
“Khung cửa văn chương”
dùng cho Orwell cũng hơi sái. Orwell là nhà văn chính trị. Chính
trị mới là
điều ông quan tâm:
“POLITICAL
WRITER ", un écrivain politique, c'est la formule
que Berrnard Crick s'efforce de préciser.
Chính là trong ý nghĩ đó, "nhà
văn chính
trị", mà Yann Martel, nhà văn Canada, gửi cho thủ tướng nước của ông
cuốn "Trại
Loài Vật", y chang cái tay hỏi Đông A đã đọc Orwell chưa:
Nhà văn
chính trị thì vẫn là nhà văn [Điều này thì cũng là văn
chương: Sự tiêm chủng
vắc xin!]
Trại Loài Vật là thí dụ tuyệt
hảo về những điều mà văn chương có thể đem đến cho chúng ta: một thứ
lịch sử
cầm tay. Một độc giả chẳng biết tí gì về thế kỷ thứ 20, Stalin là thằng
chó
nào, Trốt Kít quái vật hả, Cách Mạng Tháng 10 quái thai ư: Trại
Loài Vật sẽ
chuyên chở tới cho vị độc giả đó cái cốt yếu, cốt tủy về điều gì đã xẩy
tới cho
những người láng giềng ở bên kia Bắc Cực của chúng ta [dân Canada]: Cái
quái
thai, tởm lợm, bại hoại của một lý tưởng [giải phóng, thống nhất đất
nước, thí
dụ], sự hư ruỗng, thối nát của quyền lực, sự lạm dụng ngôn từ, sự băng
hoại của
cả một quốc gia – tất cả đều có ở trong đó, chỉ trong một tiếng nấc của
trên
trăm trang sách. Và khi đọc những trang này, độc giả trở nên minh mẫn
hơn, nhờ
uống 'lầm' thuốc độc chính trị! Điều này thì cũng là văn chương: Sự
tiêm chủng
vắc xin!
Ui chao, đúng là trường hợp đã
xẩy ra cho GNV: Giả sử những ngày
mới lớn không vớ được Đêm giữa Ngọ,
thì thể nào cũng nhẩy toán, lên rừng làm
VC, phò Hoàng Phủ Ngọc Tường, đúng như một tên đệ tử của Thầy Cuốc
'chúc' Gấu!
Đoạn trên thật là tuyệt cú mèo,
nhưng thua… Brodsky khi ông viết
về thơ, về Kinh Cầu: "Ở vào một vài giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ
mới
có thể chơi ngang ngửa với thực tại, bằng cách nhét chặt nó vào một cái
gì mà
nhân loại có thể nâng niu, hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay, một
khi cái
đầu chịu thua không thể nắm bắt được. Theo nghĩa đó, cả thế giới nâng
niu bút
hiệu Anna Akhmatova."
Và bây giờ cái lý do rất cá
nhân tại sao tôi viết ‘mấy lời’ gửi
ông, kèm cuốn Trại Loài Vật:
người Do Thái Âu Châu, bị Nazi sát hại cũng cần có
lịch sử của họ, dạng cầm tay. Và đó là điều tôi cố gắng làm với cuốn
sách tới
của tôi.
Nhưng căng lắm đấy, tôi tự nhủ tôi, làm sao sàng lọc từ đống rác lịch
sử, [lịch
sử Mít cùng cuộc chiến đỉnh cao của nó] với bao nhiêu là máu, là lệ,
vào một
tiếng nấc, của vài trang [Tin Văn], làm sao biến sự ghê rợn, điều tởm
lợm, kinh
hoàng thành một điều gì nhẹ nhàng ư ảo, [trên không gian net], chẳng
ngon cơm
một tí nào đâu!
Un Tramway
nommé Désir: Es-tu déjà monté dans ce vieux tramway?
Tầu Điện
mang tên Dâm Thần: Bạn đã từng lên con tầu cũ kỹ đó chưa?
XỊA chơi
tôi!
Royal Bodies
Hilary
Mantel
Hilary
Mantel and the monarchy
A royal mess
Becoming
Picasso at the Courtauld
The
incubation of genius
A dark and
momentous turning point for the young artist
Bài này cũng
tuyệt quá. TV sẽ dịch hầu quí vị không rành tiếng của tụi mũi lõ, để
cùng thưởng
thức!
Cuốn Mémoir
của Hitchens, xưa rồi, nhưng giờ
mới tậu, vì, cũng chỉ mới mê tay này, nhân chuyến đi Mẽo vừa rồi, có vớ
1 cuốn
của ông, viết về cái chết của chính ông, Morality.
TV đã từng giới thiệu Hit, nhưng là từ những bài viết trên báo về ông.
Cuốn
“Trong quán cà phe của tuổi trẻ mất mẹ nó rồi”, cũng
xưa rồi, nhưng đọc cái tít thì lại thú quá, bèn quơ luôn, tính đọc, như
“chim mồi”,
lấy hứng viết về cái quán ngày nào trên đường đưa BHD tới trường Gia
Long:
Như người
xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông bèn đánh dấu nơi mạn thuyền, Gấu
Cà Chớn trở
lại quán xưa, tìm vết giầy của BHD còn lờ mờ ẩn hiện trên lớp bụi thời
gian, và
tiếng cười
của nàng như văng vẳng đâu đây...
Nhắc tới
Hitchens, thì lại nhớ đến lời khuyên mà ông nhận được từ Nadine
Gordimer.
In his 1988
book of essays, “Prepared for the Worst,” Christopher Hitchens recalled
a bit
of advice given to him by the South African Nobel Laureate Nadine
Gordimer. “A
serious person should try to write posthumously,” Hitchens said, going
on to
explain: “By that I took her to mean that one should compose as if the
usual
constraints—of fashion, commerce, self-censorship, public and, perhaps
especially, intellectual opinion—did not operate.” Hitchens’s untimely
death
last year, at the age of sixty-two, has thrown this remark into relief,
pressing upon those of us who persist in writing the uncomfortable
truth that
anything we’re working on has the potential to be published
posthumously; that
death might not be far off, and that, given this disturbing reality, we
might
pay attention to it. (1)
Bài viết này
quả là thần sầu! Gấu mê quá, tính dịch hoài, rồi lại lu bu, quên mất.
Đúng là 1
lời khuyên quá tốt cho lũ Mít viết văn mần thơ: Hãy viết văn mần thơ
như là mi đã
ngỏm rồi.
To die your whole life. Despite the morbidity, I can’t think of a
better definition of the writing life.
Bây giờ thì
lại nhớ ra, là, Hannah Arendt cũng đã từng phán, tương tự như Gordimer,
về
Walter Benjamin.
Fama, nữ thần
được (người đời) say đắm nhất, có nhiều bộ mặt, và danh vọng (fame)
tới với họ bằng đủ kiểu - từ tiếng tăm một-tuần cho tới vượt-thời-gian!
Danh vọng
"muộn" (posthume) - sau khi đã xuống lỗ - ít được người đời ham chuộng,
tuy đây là thứ vững vàng nhất. Thứ hàng (nhà văn) có lời nhất, thì đã
chết, và
do đó, không phải là đồ "lạc xoong" (for sale).
Trong vài món hiếm muộn, phi-thương, phi-lợi (uncommercial and
unprofitable),
có Walter Benjamin.
Không
nổi tiếng, tuy
có được người đời biết đến, như là một "cộng tác viên" cho vài tạp
chí, trang văn nghệ nhật báo trong thời gian chừng 10 năm trước khi
Hitler nắm
quyền, và cuộc tống xuất "tự nguyện" của riêng ông.
Cái chết "tự nguyện" sau đó, vào những ngày sắp sửa đứt phim, thời kỳ
1940, đối với nhiều người cùng gốc gác và thế hệ ông, đã đánh dấu một
thời điểm
đen tối nhất của cuộc chiến - mất nước Pháp, Anh quốc bị hăm dọa, hiệp
ước
Hitler-Stalin (lúc đó) còn nguyên vẹn, và hậu quả đáng sợ nhất, từ nó:
sự hợp
tác chặt chẽ giữa hai lực lượng công an quyền lực nhất tại Âu-châu.
Chuyện đời sẽ khác hẳn, nếu những kẻ chiến thắng trong cái chết, là
những kẻ
thành công trong cuộc đời (How different everything would have been "if
they had been victorious in life who have won victory in death). Danh
vọng muộn,
một điều chi rất ư kỳ cục, cho nên không thể trách cứ, rằng không có
mắt xanh
(người đời mù hết), hay là chuyện chiếu trên chiếu dưới, xôi thịt, tham
nhũng... trong "đám" nhà văn, "ô nhiễm" trong "môi trường
văn chương".
Bất tri tam bách: không thể coi, đây là phần thưởng cay
đắng cho một
kẻ đi trước thời của mình, như thể lịch sử là một chạy đua, người chạy
nhanh nhất
đã mất hút trước khi người đời kịp nhìn...
Ngược lại: Trước khi có danh vọng muộn, đã có tri âm, dù
ít oi, giữa
những kẻ ngang hàng. Khi Kafka mất vào năm 1924, sách của ông bán chừng
vài
trăm cuốn, nhưng với bạn văn và một ít độc giả, qua mớ tản mạn này
(chưa có một
cuốn tiểu thuyết nào của Kafka được xb): không nghi ngờ chi, đây là một
trong
những bậc thầy của văn xuôi hiện đại.
Walter Benjamin cũng được "ân sủng"
này. Bertolt Brecht, khi được tin ông mất, đã tuyên bố: đây là tổn thất
thực,
thứ nhất, mà Lò Thiêu đã gây ra cho văn chương Đức.
Còn tờ báo
này, Muze, cũng xưa luôn, xuất hiện từ mấy tuần trước rồi, nhưng… mắc
quá.
Trong có mấy bài cực thú, về Melancholia: Spleen et Idéal, un couple
mystique!
Cũng tính làm “chim mồi”!
Zhuang
Zedong
Zhuang Zedong,
table-tennis
champion, died on February 10th, aged 72
Ai điếu Xuân
Tóc Đỏ Tẫu
Tờ Người
Kinh Tế này cực tếu: Bữa trước, nhân khám phá ra bộ xương
Richard III, bèn đi đường ai điếu (1)
Số mới nhất,
23 Tháng Hai, 2013, có bài điểm cuốn "Mùi vị của tro than Lò Thiêu",
thật tuyệt:
Eastern
Europe after 1989
The
view beyond the wall
A rich account of eastern Europe's ongoing fascination
The Taste
of Ashes: The
Afterlife of Totalitarianism in Eastern Europe
EASTERN
Europe, writes Marci Shore, is “Europe, only more so”. It was the site
of the
continent’s worst events and of the most uplifting moments of modern
times: the
peaceful revolutions that toppled communism. As a young scholar in the
1990s,
Ms Shore, who now teaches at Yale, was mesmerised by the way each
chapter of
the past had its roots in an earlier era. The dissidents of the 1980s
were in
large part formed by the failed reform-communism experiments of the
1950s.
Those in turn were a reaction to Stalinism. Communism itself was a
reaction
against fascism and the Depression of the 1930s.
Her
kaleidoscopic book of reminiscences and encounters gives an authentic
feel to
the difficulties that outsiders often have in making sense of this
intricate
history. The main part deals with her researches into the interplay
between
Zionism, socialism and anti-Semitism in Poland (which formed the basis
of her
excellent earlier work, “Caviar and Ashes”). Ms Shore alludes to her
Jewish
roots, and she does an excellent job of bringing to life the still
rancorous
relations between Jews of rival persuasions. Should a proud Polish Jew
speak
Yiddish or shun it? And what should modern Jews think about Poland:
nostalgia
for a golden age, distaste for anti-Semitism or revulsion for the mass
murder
carried out by the Germans under wartime occupation?
One of her
many vignettes is about a Jewish student from Warsaw who joined a group
of
Israelis who were visiting Poland as part of a “March of the Living”: a
proud,
grim event when young Jews bearing Israeli flags commemorate those
killed at
Auschwitz and elsewhere. The student went with his friends to Israel at
the end
of the trip to take part in the final ceremonies. Representatives of
the 43
countries that had participated were called to the stage to speak—but
not the
Jews from Poland. “It was the greatest humiliation of my life,” he
tells her.
Ms Shore
casts her net in other directions too. Her memories of teaching in the
early
post-communist years in the then Czechoslovakia are evocative.
Democracy was
still a notional concept in her provincial school. The head teacher was
authoritarian and cranky; the students, though bright, had minds
deadened by
rote learning, totalitarian pedagogy and bureaucracy. “Communist
content had
been purged…but a certain totalitarian form—or rather an acute sense of
the
world’s restrictedness—lingered.”
The taste of
ashes of the title is by no means universal. Ms Shore ends her book
with a
description of an encounter with a representative of the Polish “New
Left”, who
had been thrilled by her previous book. He was grateful that an
outsider had
appreciated and uncovered a long-lost Polish socialist tradition that
could
serve as a guide for him and his comrades. In vain she protested that
her
research was a voyage through unimaginable sadness. “But I didn’t read
it as a
tragedy,” he replied. “I read it as a romance.”
Tin Văn
sẽ
có bản tiếng Mít sau
Giáng Sinh
1972 @ Hà Nội
Anh tù cải
tạo tới Hà-nội lần đầu, tần ngần ngơ ngẩn,
giấu biệt "căn cước" của mình, nhất là những ngày tù ghê rợn….
Người
tù đi qua cầu Long
Biên, thò tay sờ lên thành cầu, như rụt rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh,
bao dấu
vết bom đạn. Anh đang trên đường vào Hà-nội, mang theo với anh tro than
của những
cuốn sách...
Bếp Lửa trong
Văn Chương
“Người
Vịt”,
băng đảng Cờ [Huê] Lăng [Bác], dịch là:
'Tham
nhũng
làm hại môi trường đầu tư Việt Nam'
[Làm nhẹ
đi, lời chửi thật nặng nề, của nguyên tác! NQT]
Tham
nhũng
làm ô danh môi trường đầu tư Việt Nam
VOA
Gấu
Cà
Chớn
dịch:
Tham
nhũng, đỉnh
cao cấp độ nhà nước, đầu độc danh tiếng của xứ Mít vốn được coi như là
bến cảng đầu tư.
Từ
haven, bến
cảng, cũng có ẩn ý của nó, vì có thể, tác giả muốn nhắc đến cảng Xề Gòn
tức một
Miền Nam mở cửa ngày nào
Chỉ nội cái
từ haven, là hàm ngụ trong
nó, lịch sử của cả 1 trái đất, [của 1 cả xứ
Mít, nói
riêng] với những cú chinh phục đất đai làm thuộc địa, và cùng với nó,
là khai hóa,
là đem văn minh Bắc Kít đến cho lũ Ngụy….!
Trên tờ Người
Kinh Tế, 2 Tháng Hai, 2013, cũng có 1 bài thật tuyệt về xứ Mít,
và cái họa ngân
hàng, với cái tít cũng thật tuyệt, và thật đểu, đúng chất tếu Hồng Mao:
Hổ bị
thuần hóa. [Hổ bị chặt mẹ mất hết cả móng vuốt]
The good
times won’t return until the country’s stricken banks are dealt with
Thời đại vàng
son sẽ không trở lại cho đến khi giải quyết được vụ nhà băng dởm,
bịnh.
Viết bên lề
"Bên Thắng Nhục
Will
Geography Decide Our Destiny?
Địa dư quyết
định số phận của Mít,
hay là
The
Revenge
of Geography:
What the
Map
Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate
Cuộc trả thù
của chữ S.
Bài gãi đúng
chỗ ngứa [vết thương hình chữ S] của Gấu Cà Chớn!
Sự trả thù của
địa dư cũng là sự trả thù của những giống dân Hời, Chiêm... đã bị giống dân Mít làm cỏ trong suốt lịch sử dựng
nước của nó.
Khi hết kẻ
thù thì nó đè thằng em Nam Bộ ra “phán, trảm, làm thịt, đưa đi cải tạo
mút mùa
lệ thuỷ….”
Bài này NYRB
đếch cho đọc free. Tin Văn sẽ scan, và dịch sau, hầu độc giả, thay vì
kiếm đọc Bên
Thắng Nhục!
Remember
it—but how?
Nhớ ư? -
Nhưng làm sao nhớ?
Auschwitz 65
years on
The power of
history
New
thinking
and old wounds around the Auschwitz death camp
Arbeit macht
frei (“Work sets you free”)
Lao động làm
bạn tự do
For the
first time, a majority of Poles see Auschwitz chiefly as a place where
Jews
were killed.
Lần đầu tiên
đa số người Ba Lan coi Auschwitz là nơi người Do Thái bị giết.
Huế Mậu Thân
Ai Tín
Giáo-sư
Nguyễn-Văn-Phú
Pháp-danh Hoằng-Hữu
Trưởng Ban Hoằng Pháp Tổ Đình Từ Quang Canada (GHPGVN.TTG)
Nguyên Giáo sư Trường Trung Học Chu Văn An Sàigòn
Nguyên Hiệu Trưởng Trường Trung học Tư Thục Hưng Đạo Sài gòn
Đương kim Giáo sư Cố vấn của Hội Cựu Hoc Sinh Trường Bưởi -
Chu Văn An Canada, Vùng Montréal
Đă thất lộc lúc14 giờ 30 tại Montréal, Québec, Canada
ngày 17 tháng 2 năm 2013
(nhằm ngày 8 tháng giêng năm Qúy Tỵ)
Hưởng thượng thọ 86 tuổi
Ghi
chú
trong ngày
Valentine's Day, 2013
Valentine's Last Year
MY GIFT TO
YOU
My gift to
you will be an abyss, she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are
far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy
ending,
but it will
be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just
a little.
Roberto
Bolano
The Paris
Review Summer 2012
Xuống phố, đổi
phim, ghé tiệm sách, mua số The
Paris Review có bài thơ tuyệt vời của Bolano, tả
đúng tâm sự Gấu, đúng cái cảnh tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến
Thành, về, và “kín
đáo” nói cho biết, tại làm sao Em vờ Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học
Y Khoa.
Quà BHD
tặng Gấu
Quà ta
tặng
mi sẽ là 1 vực thẳm, em nói
Nhưng nó
"tế vi" đến nỗi mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau
thật
nhiều năm, có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai
đều chạy ra khỏi cả hai
quê hương Bắc Kít và Nam Kít rồi
Thì lúc
đó
mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi
cực
cần đến nó
Và chắc
chắn
không phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ
là
một thoáng chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có
thể,
chỉ lúc đó mi mới nhớ ta,
Và mới
hiểu cái gọi là "mono
no aware",
“Nỗi buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra
khỏi đời của mi".
Nhưng
cũng
chỉ được 1 tí tí.
Cái đẹp là
cây đoản kiếm xoáy vô ngực, hay tâm hồn độc giả
Note: Bài
này thú vị lắm. Bobin là tác giả đầu tiên Gấu khám phá ra, ngay những
ngày đầu
đến Xứ Lạnh, không mắc mớ gì tới Lò Thiêu!
Hà, hà!
Cuốn này, Tẩy
đọc sau Mít, nhưng dịch cái tít khác hẳn, thay vì "Thôi rồi còn chi đâu
em
ơi", thì là, "Gái Nhảy"!
Riêng tặng bạn NL, để cám ơn sưu tầm/nhờ sưu tầm giùm những bài viết cũ
mà Gấu
không tin rằng có ngày được đọc lại!
Mấy bài phê bình, điểm
sách, viết có thể từ hồi Thầy Cuốc chưa ra đời [?], vậy
mà bi giờ đọc, vẫn phê!
Tks. Many Tks
Mr Tin Văn
Nghĩ về phê bình
Hồi Ký Viết
Dưới Hầm
Liao Yiwu:
«Les flics chinois sont mes meilleurs lecteurs»
Cớm Tẫu là
những độc giả bảnh nhất của tôi!
Before you
enter the grave
Don't forget to write me with your ashes
Do not forget to leave your
address in the nether world
Another
Chinese poet, Liao Yiwu, has commented on Xiaobo's poem: "He
carries the burden of those who died on June 4 in his love, in his
hatred, and
in his prayers. Such poems could have been written in the Nazis'
concentration
camps or by the Decembrists in Imperial Russia. Which brings to mind
the famous
sentence: 'It is barbaric to write poetry after Auschwitz.''' Such
statements
are also characteristic of the situation in China after 1989. (1)
Tribute to
Phạm Duy
Ghi
chú
trong ngày
Marine
biology
Flea market
A newly
discovered virus may be the most abundant organism on the planet
"Trùng độc", virus, đầy
rẫy trong chốn giang hồ gió tanh mưa máu!
Viết bên lề
"Bên Thắng Nhục
Will
Geography Decide Our Destiny?
Địa dư quyết
định số phận của Mít,
hay là
The
Revenge
of Geography:
What the
Map
Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate
Cuộc trả thù
của chữ S.
Bài gãi đúng
chỗ ngứa [vết thương hình chữ S] của Gấu Cà Chớn!
Sự trả thù của
địa dư cũng là sự trả thù của những giống dân Hời, Chiêm... đã bị giống dân Mít làm cỏ trong suốt lịch sử dựng
nước của nó.
Khi hết kẻ
thù thì nó đè thằng em Nam Bộ ra “phán, trảm, làm thịt, đưa đi cải tạo
mút mùa
lệ thuỷ….”
Bài này
NYRB
đếch cho đọc free. Tin Văn se scan, và dịch sau, hầu độc giả, thay vì
kiếm đọc Bên
Thắng Nhục!
Tout
art véritable est politique
Mọi nghệ thuật thứ thiệt là chính trị
Đâu có khác gì Gấu Cà Chớn phán, chính trị mới là đỉnh cao của văn
chương!
Tại sao cái
tít đó: Home? Bởi là vì bà nghĩ rằng
thì là cái nhà, bếp lửa, ở nhà mình, la maison, le foyer, le chez-soi –
không diễn
tả hết ý của nó, Home [tên tác phẩm mới
nhất của Toni Morrison] là nơi thật quan trọng đối với con người, và nó
phải
trở về nơi đó để tìm thấy nó?
Morrison: Không,
ý nghĩ của tôi rộng hơn nhiều. Tôi cố gắng diễn tả, đề xuất ý nghĩ này:
Home, đối với người Mẽo – không tính những
người gốc da đỏ - gốc gác đều là di dân, những kẻ bị săn đuổi, những
tên nô lệ.
Tất cả Mẽo, lần tìm tới gốc rễ, thì đều
từ bỏ nguồn gốc, họ là thứ dân hoài nhớ 1 cái gì đó có tên là Home. Dân Âu Châu không có cái hoài nhớ
này. Với Mẽo, nó còn hàm ý về 1 ao ước tìm ra 1 nơi chốn chắc chắn, 1
nơi mà
người ta không phải là “le bienvenu”,
nhưng
mà là nơi mà họ thuộc về.
Bắc Kít,
Đàng Ngoài, gọi Nam Kít, Đàng Trong, là cũng theo nghĩa trên, theo Gấu
Cà Chớn,
cho tới ngày 30 Tháng Tư 1975, thì… thôi!
Inge Israel
To think,
when one is no
longer
young, when one is not yet
old, that
one is no longer young,
that one is
not yet old, that is
perhaps
something.
- SAMUEL
BECKETT
Thoughts are
the shadows
of our
feelings - always
darker,
emptier, and simpler.
- FRIEDRICH
NIETZSCHE
They Don't
Tell You
when you're
born
that you're
not really
born, not
completely,
not all of a
piece,
that the
rest of you lags
behind, far
behind
like the
tail of a comet
trailing in
ancient history.
Personne ne
nous apprend
quand on
vient au monde
qu'on ne
nait pas vrairnent
pas
entièrernent
qu'on n'est
pas intact
qu'une
partie de nous traine
derrière
tout au loin
comme la
queue d'une comète
dans
l'histoire ancienne.
Chẳng
ai xì
ra cho bạn biết
Khi bạn sinh ra đời
Thì không cả 1 cục
Một mẩu của bạn
Ở mãi tít xa
Như cái đuôi của 1 vì sao chổi
Trong 1 câu chuyện cổ.
Một tù nhân
Tẫu ở Paris
Ba ngày với Liao Yiwu
Le Nouvel Obs 31 Janvier & 6 Février 2013
Gấu chưa đọc
cuốn trên của Greene.
Còn cuốn “nhìn lại”, tính đọc, thay vì đọc "Bên Thắng Nhục".
Trên Blog của tay VC Đông B, coi BTN là 1 thứ reportage gì gì đó, Gấu
sợ không
phải.
Đây là 1 thứ buôn chuyện, tức gồm toàn râu ria về cuộc
chiến
Mít.
Lần trước, hải
ngoại xúm nhau tìm đọc Đêm Giữa Ban
Ngày [cái tít chôm của Koestler], là để
coi VC
làm thịt bà hoàng hậu của Vua VC Hồ ra sao.
Lần này cũng
thế, họ muốn biết chuyện phòng the của Lê Duẩn, thí dụ!
Phải 1 tay
như.... Đức Phật cơ: Phi ta ra, đứa nào dám vô Địa Ngục VC?
The Paris Review:
Ông có cho rằng, tiểu thuyết có thể làm được một số điều mà báo
chí không thể làm được?
Garcia Marquez:
Chẳng có gì. Tôi chẳng nghĩ có sự khác biệt giữa hai thể loại này.
Nguyên liệu (sources) như nhau. Chất liệu (material) y hệt. Tài nguyên,
ngôn
ngữ cũng y chang. Nhật Ký Năm Dịch
(The Journal of the Plague Year) của Daniel
de Foe là một cuốn tiểu thuyết lớn, và Hiroshima là một tác phẩm lớn
thuộc về
báo chí.
-Ký giả và tiểu thuyết
gia liệu có trách nhiệm khác nhau,
khi gia giảm (cân bằng: balancing) mức độ "sự thực chống lại giả
tưởng"?
Trong ngành báo, chỉ cần một sự kiện bị làm thành dởm (false), bất
cứ vì lý do gì, là toàn bộ tác phẩm kể như tiêu. Ngược lại, trong tiểu
thuyết,
chỉ một sự kiện thực, đủ bảo đảm tính xác thực (legitimacy) cho toàn bộ
tác
phẩm. Đó là sự khác biệt độc nhất, và nó hệ tại ở sự dấn mình
(commitment) của
người viết. Một tiểu thuyết gia tha hồ bầy, bất cứ trò gì mà anh ta
muốn, chừng
nào độc giả còn tin. (1)
Trong cuốn Gấu mới tậu, Second Read [Đọc lần thứ nhì], có
nhắc tới
Garcia Marquez và trường hợp ông viết Câu
chuyện 1 người thuỷ thủ đắm
tầu. Chúng
liên quan tới Bên Thắng Nhục,
và cái gọi là sự thực lịch sử cuộc chiến Mít mà
anh tà lọt Osin nghĩ là anh ta nắm được.
Granta,
100,
Winter 2007
Điều gì ông chưa từng làm
thật muốn làm?
Âm nhạc. Trong tôi có 1 điệu nhạc thật rối rắm tôi không làm sao ghi ra
được
Bobin
Portrait
Coetzee
@ ML, Aout, 2012
Cali Nov
2012 With HA
Beckett,
portrait
Samuel
Beckett, một thoảng nhớ...
Khi tôi rời
Sam lần chót, tôi biết là chẳng còn hy vọng gặp 1 ông Beckett còn sống
nữa. Tôi loay hoay
sắp xếp đời mình, để có thể trở lại Paris, kế cận ông chừng sáu tuần,
bắt đầu vào
tháng Giêng. Tôi “coi thường” cát lầy, tính sai chừng 1 tháng.
Nói 1 cái gì
đó về ông, rồi cát lầy mặc mẹ cát lầy.
Điều mà Beckett nói về Joyce sau cùng đúng
là điều tôi nói về Beckett:
“Ông chẳng bao giờ viết về điều gì. Ông luôn viết điều
gì”.
Tôi lo là, mọi
người sẽ thổi ông, gọi ông là “Thánh Sam”, và nếu như thế, họ sẽ bỏ qua
một sự
thực quan trọng nhất, hiển nhiên nhất: Với cuộc đời của mình, Mr.
Beckett [thì cũng giống như Mr. Tin Văn] chứng tỏ, ngay cả ở trong cái
thế kỷ khốn
kiếp, tồi bại, là thế kỷ của riêng lũ chúng ta, với một nhà văn, thì
sau cùng vẫn
khả hữu điều này: Sống, và làm việc với 1 sự cẩn trọng lớn, một sự trau
chút lớn,
và một sự toàn vẹn lớn.
Đó là điều mà Samuel Beckett có thể: Không phải một vì
thánh - ở vào những lúc chẳng ra cái chó gì – not even totally tasteful
– nhưng
vẫn luôn luôn, hoài hoài, là 1 nghệ sĩ: giọng trong sáng, đảm trách,
thẳng 1 dòng
với cái đẹp nhất.
Và với nghĩa cả,
good cause.
Chung quanh ông, phẩm chất của Cuộc Đời thì thối tha, ghê tởm, và
phẩm chất của Cái Chết, thì là một giải pháp thay thế nó, đếch làm sao
mà hài lòng,
thỏa mãn.
ISRAEL
HOROVITZ
The Paris
Review Spring 1997: Theater
Chuyện Mùa Đông
Đại Lục Kim Dung
Sở dĩ CS thất
bại, là vì họ bỏ những trang đầu của chủ nghĩa Mác, tức là 1 ông Mác
Trẻ, như
Heni Lefebvre cho thấy, trong cuốn Duy Vật
Biện Chứng Pháp của ông. Ông viết, chúng ta phải đọc lại Mác, nhất
là những
tác phẩm thời còn trẻ - surtout les oeuvres de jeunesse - mà lũ ngu lầm
là “triết
học” [dites à tort “philosophiques”], bởi vì chúng chứa đựng một phê
bình cơ bản,
une critique radicale, tất cả triết học được hệ thống hóa, toute
philosophie
systématisée - với cái nhìn mới: Cái trở
thành-triết học của thế giới thì cùng lúc là cái trở thành- thế giới
của triết
học, sự thực hiện nó thì cùng lúc là sự mất nó: Le devenir-philosophie
du monde
est en même temps un devenir-monde de la philosophie, sa réalization
est en même
temps sa perte.
Đoạn trên rất
quan trọng. Gấu Cà Chớn sẽ giải thích tiếp, để cho lũ “lề phải” VC hiểu
rằng
là, không phải ai cũng ngu như chúng, khi đọc Mác.
Tahar ben
Jelloun:
Đâu phải chuyện tai nạn, khi một nhà thơ dở
như Bobin bán ào ào cả chục ngàn ấn bản mỗi lần cho ra lò một tuyển tập
mới. Một
thứ thơ tình cảm, giả-tôn giáo, dở ẹt. Nhà Luyện Kim (The Alchemist), tiểu thuyết
của Coelho,
theo tôi, thuộc loại tầm phào, vậy mà bán ra mười một triệu ấn bản.
Đó là vì người ta "cần" thơ và tìm kiếm một thứ tâm linh nào đó: họ cần
"lại cảm thấy yên ổn", và hy vọng. Nhưng đây là thứ tâm linh chợ búa,
hàng quán (bazaar). Một thứ tâm linh Đồng Giá (Monoprix).
Tahar ben
Jelloun: Nhà văn không phải là một
ông chủ tiệm (1)
*
Gấu khám phá
ra Bobin, lần vô 1 thư viện ở Toronto, những ngày mới tới Canada,
tiếng Anh dở như hạch, bèn mò vô khu sách Tây, và cầm lên đúng 1 cuốn
của ông,
và, đọc đúng 1 dòng mà Gấu đang cần:
Anh
viết kể từ khi em đọc,
Chữ sao muộn màng so với cuộc đời của chúng ta.
J'écris depuis que tu me lis.
Les mots sont en retard sur nos vies.
Christian Bobin: L’inespérée. (2)
Thú vị hơn
nữa là sau đó, 1 anh bạn, của thời Nghệ
Thuật, Quán Chùa, ở Quận Cam, dự định cho ra
1 tuyển tập truyện ngắn, nhờ Gấu đi 1 đường
giới thiệu, sẽ dùng làm bài Tựa.
Gấu tìm thấy, cũng trong cuốn của Bobin nói trên:
Đó là một
điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô dậy em
rất nhiều điều. Trước tiên, cô đã nhốt em trong nụ cười của cô, như
người học
trò trong lớp học tháng tám. Rồi cô trả em về thế gian, với bổn phận
viết về
nó, như nó là: đen rợn người ở bên trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên
dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon
âme.
Tu m' as appris beaucoup de choses. Tu m'as d'abord enfermé dans ton
rire comme
un écolier dans la classe au mois d'aout, puis tu m'as rendu au monde
avec pour
devoir de l'écrire comme il est: affreusement noir en dessus,
miraculeusement
pur en dessous."
(Christian
Bobin, L'inespérée). (3)
Vớ được câu
này, mới cực khoái:
Đã từ lâu, anh đi đâu cũng có em. Anh gói em, ở
nơi nương náu giản dị nhất: anh giấu em trong nỗi vui của anh như một
tờ thư ngập
ánh mặt trời.
(Cela fait longtemps que je ne sors plus sans toi. Je t’emporte dans la
plus simple cachette qui soit: je te cache dans ma joie comme une
lettre en
plein soleil)
Hà-nội của
Nguyễn Chí Kham đi từ văn chương ra ngoài đời. Một Hà-nội của tưởng
tượng, của
mơ tưởng, hoang tưởng, không tưởng... Chỉ là những chi tiết, mọc lên từ
hư
không, dứt ra từ tưởng tượng. Anh tù cải tạo, tới Hà-nội, tần ngần, ngơ
ngẩn,
giấu biệt "căn cước" của mình, nhất là những ngày tù ghê rợn. Bố anh
là quân nhân. Mẹ anh làm nghề nấu hàng cơm. Anh giúp mẹ đưa cơm tháng
cho cô
giáo. Rồi nhờ cô kèm thêm. Anh học trò ngày xưa, thành sĩ quan như bố,
đi cải tạo,
mang theo cùng với anh vầng trăng thơ ấu, chiếu vào hai mái đầu. Cô
giáo trong Trăng
Ơi Thơ Ấu Mãi (tập tuyện, nhà xb Tân Thư, Cali, 1997), mơ mộng về
một cái
chết của người chồng phi công. Anh mất tích, như một lần thất bại không
thể
mang trả bầu trời, những cơn mưa, những cánh rừng... cho người vợ ở
nhà. (4)
Văn của
Bobin, quả như thơ. Tahar ben Jelloun
không đọc
được.
Trong cuốn Gấu mới tậu, những câu như vầy chẳng thú sao:
Viết,
là vẽ 1 cái cửa lên bức tường không thể vượt qua và rồi mở nó ra.
Écrire,
c’est
dessiner une porte sur un mur infranchissable, et puis l’ouvrir.
Sự im lặng,
món quà của những thiên thần mà chúng ta chẳng muốn nữa, và cũng chẳng
tìm cách
mở.
Le silence,
ce cadeau des anges dont nous ne voulons plus, que nous ne cherchons
pas à
ouvrir
*
Cái
"tâm linh Đồng Giá" chắc không phải Đồng Giá đâu, mà Monoprix là tên
một chuỗi siêu thị khá phổ biến ở Pháp, nhất là Paris.
Cheers,
NL
Tks.
Ở Canada cũng
có chuỗi cửa tiệm có tên là "One Dollar".
Nhưng, có thể Tahar ben Jelloun muốn
sử
dụng từ này theo nghĩa
bóng, bởi vì câu trên, ông viết:
Nhưng đây là thứ tâm linh chợ búa, hàng quán
(bazaar).
Và
nhất là cái tít bài phỏng vấn, nhà văn đâu phải thứ chủ tiệm, [và văn
chương đâu
bán ở…. Chợ Cá]!
Best
Tết to
all there.
NQT
Monoprix
không phải giống kiểu One Dollar (cửa hàng đồng giá/cửa hàng một giá)
đâu, nó
tên vậy thôi nhưng là kiểu siêu thị bình thường, trong bán tất mọi thứ.
Khi
Tahar ben Jelloun viết hoa Monoprix thì hẳn muốn nói đến nó. Monoprix
cũng rất
hay xuất hiện trong tiểu thuyết của... Michel Houellebecq :))
Tks
NQT
Sát thủ trắng
như tuyết
Je vois
parfois des choses si belles que je me réjouis de ne pas les posséder.
Đôi khi tôi
nhìn thấy những điều đẹp quá, và mừng đến phát điên lên được, vì đã
không
"làm thịt" chúng!
Hà, hà!
Câu này tặng
GCC quá tuyệt: Quen "cô bạn" trên 5 năm trời, không một lần dám sàm sỡ.
Gấu Cái bực
lắm, mày coi nó như thánh nữ, đâu dám... đụng dzô!
Về già thì lại
mừng!
Trận đánh
sau cùng của nhà độc tài Fidel Castro (1)
[Người Nữu Ước,
July 31, 2006]
Hoá ra với
ông thần này, cũng có cả một núi chuyện tiếu lâm.
Trước đây, là về sự bất tử.
Một lần, ông
được Bác Hồ biếu, một Cụ Rùa ở Hồ Gươm.
Đệ tử ghé
tai thì thầm, tuổi thọ của rùa, cao lắm chừng vài trăm năm.
Ông bèn lắc
đầu nói:
-Nhận, đến
lúc nó... đi, là mình buồn lắm, vì lỡ quấn quít với nó rồi!
Bây giờ, là về
Người
đi, ừ nhỉ,
Người đi thực!
Xác Người bầy
ra, đệ tử sắp hàng viếng thăm.
Đầu tiên là
Ngài Bộ Trưởng Ngoại Giao.
Ngài cúi đầu hơi bị lâu, ông đứng kế chờ hoài, khều
nhẹ:
-Mi làm chi
kỳ rứa? Hắn chết rồi mà?
-Thì tao biết
rồi, nhưng làm sao biểu cho hắn ta biết?
Nhân đọc bài
viết của Sến: Ngoại Giao Tháp Rùa (2)
*
Hồi mới lớn, hung hăng con
bọ xít, Gấu dám chê Đức Phật kiêu ngạo quá, hơn cả Gấu Cà
Chớn, ấy
là vì Phật nói, phi ta ra ai dám vô Địa Ngục.
Phải đến già,
sắp đi xa, thì mới ngộ, đây là 1 câu nói khiêm nhường, để răn những tên
tâm địa
thì thật là khốn nạn, vậy mà bày đặt đi vô… Địa
Ngục!
Bởi là vì làm cái
công chuyện hàn gắn nỗi đau, nỗi nhục của cuộc chiến Mít, xóa đi hận
thù, sám hối về
cái chuyện
bao nhiêu mạng người chết uổng, chỉ để có được 1 anh chăn trâu học lớp
1 lên làm
thủ tướng, thí dụ… phải là 1 con người
thật là khiêm nhường, chưa dám nói, đức độ như.... Đức Phật.
Đâu có dễ!
Một kẻ lấy tờ
giấy bạc 50 ngàn Cụ Hồ ra tính mừng đám cưới, sau cùng, bèn cất lại vô
bóp, và, bèn
đi 1 đường “văn chương” thật là xỏ lá, để mừng đám cưới của 1 người
quen, 1 kẻ
như thế mà đòi hàn gắn vết thương chiến tranh Mít ư?
Đâu phải
"tự nhiên" mà băng Cờ Lăng in cuốn sách?
Một cơ hội bằng
vàng hốt đô la, sao bỏ?
Một cuốn sách
với 1 tấm lòng như thế - hàn gắn vết thương chiến tranh - phải giống
như cuốn
kinh cứu khổ cứu nạn, in thí, cho thí dân Mít, mới đúng chứ?
Trước
đây, Đêm Giữa Ban Ngày vớ
bẫm, bây giờ
“hên” quá, đúng Tết, trúng quả Bên
Thắng Nhục!
Thử hỏi, suốt
thời gian dài sau 30 Tháng Tư, bỏ chạy sớm nhất, băng Cờ Lăng làm được
việc gì
gắn mác "đi vô địa ngục"?
PHILIP
GOUREVITCH
In Rwanda in
1994 the government had adopted a new policy, according to which
everyone in
the country's Hutu majority group was called upon to murder everyone in
the
Tutsi minority. The government, and an astounding number of its
subjects,
imagined that by exterminating the Tutsi people they could make the
world a better
place, and the mass killing had followed.
All at once,
as it seemed, something we could have only imagined was upon us-and we
could
still only imagine it. This is what fascinates me most in existence:
the
peculiar necessity of imagining what is, in fact, real. During the
months of
killing in 1994, as I followed the news from Rwanda, and later, when I
read
that the United Nations had decided, for the first time in its history,
that it
needed to use the word "genocide" to describe what had happened, I
was repeatedly reminded of the moment, near the end of Conrad's Heart
of
Darkness, when the narrator Marlow is back in Europe, and his aunt,
finding him
depleted, fusses over his health. "It was not my strength that wanted
nursing," Marlow says, "it was my imagination that wanted soothing."
I took
Marlow's condition on returning from Africa as my point of departure. I
wanted
to know how Rwandans understood what had happened in their country, and
how
they were getting on in the aftermath. The word "genocide" and the
images of the nameless and numberless dead left too much to the
imagination.
From We Wish
to Inform You That Tomorrow We Will
Be Killed with Our Families, 1998
Ghiền
Số
báo gồm những câu trứ danh về… ghiền.
Tuy nhiên, thiếu, phải thiếu thôi.
Tình
cờ Gấu vớ được câu của Malraux, ở cuối Phận Người, La Condition
Humaine,
1933, trong bài viết của Frédéric Beigbeder, khi ông điểm cuốn này,
được xếp
thứ 5 trong Bảng Phong Thần, “Dernier inventaire avant liquidation”:
“Từng
con người đau khổ, là vì hắn suy tư. Nói cho cùng, cái đầu chỉ suy tư
về con
người trong vĩnh cửu, và cái ý thức về cuộc đời thì âu lo, khắc khoải,
bởi vì
đâu có
cách nào khác? Đừng suy tư về phận người bằng lý trí, mà là bằng thuốc
phiện”
"Chacun
souffre parce qu’il pense. Tout au fond, l’esprit ne pense l’homme que
dans
l’éternel, et la conscience de la vie ne peut être qu’angoisse. Il ne
faut pas
penser la vie avec l’esprit mais avec l’opium”
Đây
là giải
pháp mà Malraux cuối đời quay về để quên đi chủ nghĩa lãng mạn
của ông.
Beigbeder viết.
Trở về lại
Anh, Greene nhớ Việt Nam
quá, và đã mang theo cùng với ông một cái tẩu hít tô phe, như là một kỷ
niệm
tình cảm: cái tẩu mà ông đã hít lần chót, tại một tiệm hít ngoài đường
Catinat. Tay chủ, người Tầu hợp
với ông, và ông đã đi
vài đường dậy tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày rời Việt Nam,
tay chủ tiệm hít bèn giúi vào tay Greene cái tẩu. Cây gậy thiêng nằm
trên một
cái dĩa tại căn phòng của Greene, ở Albany,
bị sứt mẻ tí tí, do di chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày
hạnh
phúc.
*
Coi 75 năm
âm nhạc VN, nghe Nắng Chiều, nhớ Trúc
Chi, nhớ bài phỏng vấn nhạc sĩ LTN của ông trên Văn Học
ngày nào. Nhớ nhất đoạn LTN đưa một ông bạn tới gặp ông thầy
Việt văn của Hai Lúa, những ngày học Hồng Lạc, đường Sương Nguyệt Anh,
ngay bên
cạnh vườn Bờ Rô. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Nhớ, những lần,
đang giảng bài, ông thầy nhà thơ lấy ra một cái hộp chuyên đựng kẹo
ngậm ho, và
bỏ vài viên kẹo vô miệng. Hai Lúa ngày đó ngây thơ, hỏi anh bạn ngồi
kế, anh ta
nói nhỏ, thầy thầu đó!
Ôi chao, sau
đó thì quá quen!
*
31 Tháng Chạp
1953, Sàigòn.
Một trong những
cái thú của một nơi chốn xa xôi lạ hoắc, đó là, cái thú "bạn của bạn",
theo nghĩa, một cái nét đẹp của nó, đã từng quyến rũ một người bạn của
bạn, đột
nhiên, nó cũng tóm lấy bạn!
Tôi đã gặp
đúng một tình trạng như vậy, một buổi chiều, một người bạn như trên,
tới gặp
tôi, sau một vài hơi whisky, đèo tôi đi trên chiếc xe gắn máy của anh
ta, một
bác sĩ hải quân, dạo chơi Sàigòn. Chúng tôi tới thăm mấy tiệm hút.
Tiệm đầu
tiên ghé, thuộc loại rẻ tiền, ở trên một tầng lầu, bên dưới là một
trường học,
nơi đám học trò đang lo thi kỳ thi "tiểu học và trung học đệ nhất cấp".
Ông chủ tiệm cũng dân trong nghề, một bệnh tưởng, a malade imaginaire,
người
khô quắt, như bị vắt sạch nước, hậu quả của sáu chục bi một ngày. Một
bé gái ngủ
gật, và một cậu trai. Thuốc phiện không nên để cho người còn trẻ vướng
vào, như
ngưòi Tầu tin tưởng, mà chỉ để dành riêng cho những ngưòi đứng tuổi,
hoặc già cả.
Một bi ở đây tốn mười đồng. Sau đó, chúng tôi tới một tiệm sang hơn, Chez Pola. Ở đây, bạn có phòng dành
riêng, và có thể mang theo bạn. Một cái dù Tầu thật lớn che trên một
cái giường
tròn lớn. Một quầy đầy những sách ở ngay kế bên giường. Lạ làm sao, và
cũng tuyệt
vời làm sao, tôi thấy hai cuốn của tôi, trên quầy sách: Le
Ministère de la peur và Rocher
de Brighton. Tôi bèn lôi xuống, viết mấy lời đề tặng.
Một bi ở đây
tốn ba chục đồng.
Kinh nghiệm
hít tô phe của tôi bắt đầu vào Tháng Mười năm 1951, khi tôi ở Hải Phòng
trên đường
ra Vịnh Hạ Long...
Graham
Greene. Tam Thập Lục Kế, Tẩu Vi Thượng sách: Ways of Escape
Trong một
bài viết Hai Lúa có kể về dòng dõi của mình thuộc họ Nguyễn ở làng
Thanh Trì xã
Thanh Lạng huyện Quốc Oai tỉnh Sơn Tây, và lần đi xin làm biên tập viên
cảnh
sát tỉnh Gia Định, về nhà khoe với Bà Trẻ, người nuôi Hai Lúa những
ngày còn đi
học, bà trợn mắt mắng, mai đến lấy lại cái đơn xin việc, nhà mày không
có mả
đánh người! Bữa sau, ngay thật, và ngu ngốc, HL nói lý do lấy lại đơn,
bị anh
nhân viên cảnh sát chửi cho một trận, mày nghĩ, cứ cảnh sát là có quyền
đánh
người, hả?
Lần trở lại
đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách, HL truy gia phả, và hiểu tại sao Bà
Trẻ của
mình lại nói, làm gì thì làm, không được làm những nghề dễ có cơ hội
đánh người.
Nhưng truy
thêm, Hai Lúa còn khám phá ra một điều cũng lý thú vô cùng, đó là, dòng
dõi Hai
Lúa, hễ có ai dính văn chương là dính Cô Ba, tức Nàng Tiên Nâu.
Bảnh nhất,
là Ông Năm. Ông này Hai Lúa đã có kể sơ qua trong bài Một Chuyến Đi, cũng 1 bài
viết về Trúc Chi.
Ông Năm, một
người nổi tiếng "ăn học, ăn chơi", tứ đổ tường gì cũng biết. Nghe kể
lại, ông có một bảng danh sách những bạn bè, và cứ theo đó, đến hẹn lại
lên,
tùy theo gia tư nạn chủ mà ăn vạ, vừa cơm trắng vừa cơm đen. Không ngờ
"quí tướng" của ông "ứng" luôn vào thằng cháu: Suốt thời
gian ở Cali, tôi đóng vai thực khách, hết ông bạn này mời tới ông bạn
khác...
có ông, như Đỗ còn bực bội, vì đã mời mà không chịu tới, để cho ông và
người bạn
từ Paris qua chờ mấy tiếng đồng hồ!
Quí tướng của
Ông Năm quả là đã ứng luôn vào thằng cháu thật, cả trong chuyện được
nàng tiên
nâu cho làm đệ tử cưng của bả.
Viết bên lề
"Bên Thắng Nhục"
«Tôi chưa bao giờ quyết liệt
chống thần chết như năm tháng sống ở
trại tập trung. Để chống chọi với cái chết, người ta không cần nguyên
vẹn một
cuộc đời mà chỉ cần một cuộc đời dang dở của mình mà thôi». (1)
Tuyệt!
Tặng anh tà lọt Osin câu trên,
để thấy rằng, không dễ viết về đám
thua cuộc - như là 1 đối trọng, contre-poids - của lũ VC, trong có anh
ta, dù là tà lọt
*
Trong Quê
Hương Tưởng Tượng, Rushdie
trích câu nói của Luis Bunuel, một nhà làm phim: Tôi sẽ hy sinh thân
mình cho
kẻ đi tìm sự thực. Nhưng tôi sẽ giết, một cách thích thú, avec joie, kẻ
nào
nghĩ rằng anh ta đã bắt được sự thực. Theo ông, giả tưởng (văn chương)
bắt đầu
cùng với sự truy tìm Graal, vượt cả chính Graal, với sự chấp nhận, thực
tại và
đạo đức không phải là những gì có đó (données), nhưng chỉ là những tạo
dựng bất
toàn của con người (des constructions humaines imparfaites). Đây là
điều mà J.
F. Lyotard, vào năm 1979, gọi là "Điều kiện hậu hiện đại". Cuộc thách
đố của văn chương, là chấp nhận đây là khởi đầu, để rồi tìm cách thực
hiện
những đòi hỏi tinh thần không đổi dời của con người. Ông viết tiếp: Tuy
hiển
nhiên, nhưng cũng cần nhấn mạnh, trong những xứ sở đang đòi hỏi tự do,
nghệ
thuật luôn luôn bị kìm kẹp một cách đầy hận thù, như tôn giáo. Cuộc
cách mạng ở
Tiệp-khắc, đã bắt đầu từ trong những vở kịch, và được dẫn dắt bởi một
nhà văn;
một bằng chứng cho thấy những đòi hỏi tinh thần, chứ không phải vật
chất, của
con người, đã tống xuất những ông chính uỷ nhân dân ra khỏi quyền lực.
Nếu tôn
giáo là một giải đáp, nếu ý thức hệ chính trị là một giải đáp, văn
chương sẽ là
một cuộc điều tra; một nền văn chương được coi là lớn lao, vĩ đại khi
nó đưa ra
những câu hỏi lạ thường, mở ra những cánh cửa tinh thần mới mẻ cho
chúng ta. (2)
Anh tà lọt
Osin ngây thơ cụ, cứ nghĩ là ta nắm được
chân lý cuộc chiến Mít, tội thế.
Cứ giả như có được chân lý cuộc chiến Mít, thì
như Rushdie viết, nó sẽ được tìm ra ở trong giả tưởng, trong những cuốn
tiểu
thuyết, những bài thơ, hay như Marlow, trong Trái Tim của Bóng Đen, từ Phi Châu
trở
về lại Âu Châu phán:
"It was not
my strength that wanted nursing,"
Marlow says, "it was my imagination that wanted soothing": Không phải
cái sức mạnh kẻ thù nào cũng đánh thắng của ta cần vỗ béo, nhưng mà là
trí tưởng
tượng của ta cần sự thực.
Sự thực của
trí tưởng tượng, đó là cái mà Mít đang
cần.
Coetzee khi
đọc Tòa Lâu Đài ở trong Rừng của
Mailer, viết về Hitler, cũng phán như thế:
Một khi mà những sử gia – hay khốn nạn
hơn, 1 anh tà lọt, ký giả hạng bét, tâm địa cực kỳ khốn nạn – như cách
anh ta xử sự
trong vụ HA lấy chồng - chịu thua, thì tới lượt nhà văn nhập cuộc.
*
Coetzee đọc Lâu đài trong Rừng của
Mailer, phán, một khi mà lịch sử chịu thua, đếch kiếm ra
“chân lý” về Cái Ác Hitler, thì lúc đó, nhà văn bước vô, để ta “phịa”
ra cho!
*
Portrait of
the Monster as a Young Artist
By J.M.
Coetzee
The Castle
in the Forest
by Norman
Mailer
Random
House, 477 pp., $27.95
In his dual
biography of the two bloodiest butchers and worst moral monsters of the
twentieth century, Stalin and Hitler (but is Mao not up there with
them? and
does Pol Pot not get a look-in?), Alan Bullock reprints side by side
class
photographs of young Iosif and young Adolf taken in 1889 and 1899
respectively,
in other words, when each was about ten.[*] Peering at the two faces,
one tries
to descry some quiddity, some dark halo, some sly intimation of the
horrors to
come; but the photographs are old, definition is poor, one cannot be
sure, and
besides, a camera is not a divining tool.
Trong cuốn
tiểu sử viết sóng đôi, hai tay đồ tể sắt [hay sát] máu nhất, hai con
quỉ khốn
kiếp nhất, the worst moral monsters, của thế kỷ 20, Stalin và Hitler
[nhưng tại
sao lại bỏ sót Mao, chẳng lẽ này chưa xứng ngồi chung chiếu với hai vị
trên, và
liệu có nên ghé mắt tới me-xừ Pon Pot?] Alan Bullock cho in kế bên
nhau, những
bức hình hồi còn là học trò của hai chú bé Iosif và Adolf, niên học
1889 và
1899, tức là khi hai cháu mới 10 tuổi.
Nhìn hai
khuôn mặt, ta có thể sẽ nhăn mặt, đôi mắt có thể “chợt” u buồn, khi
nghĩ tới những
tai họa sau đó mà hai nhân vật “thứ ba” [Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học
trò]
giáng xuống nhân loại, nhưng những bức hình quá xưa, quá cũ, thành thử
khó xét
đoán, và ngoài ra, máy chụp hình không phải là “mu rùa”, khó… bói lắm!
Bức hình học
trò, cho dù sáng sủa cách mấy thật khó mà "mu rùa". Những đứa trẻ như
trong hình,
số phận sẽ ra sao? Thằng nhóc nào sẽ đi xa nhất? Nhưng, với hai ông
thần này,
là một câu hỏi nhức nhối: Chẳng lẽ một số người trong chúng ta là quỉ,
ngay từ
khi lọt lòng mẹ? Nếu không phải như thế, thì vào lúc nào? Và như thế
nào, bằng
cách nào, quỉ... đi vô chúng ta?
Hay là, đặt
câu hỏi dưới một dạng “dễ thương” hơn, ít chất siêu hình hơn, tại sao
trong số
chúng ta, có những con người chẳng hề bao giờ phải cố nén cái ác lại,
cố đừng để
cho con lợn lòng xổ chuồng, cố vận dụng tới cái gọi là lương tâm đạo
đức, khi
tính “làm thịt” ai đó?
*
Với hai ông
thần này, là một câu hỏi nhức nhối: Chẳng lẽ một số người trong chúng
ta là quỉ,
ngay từ khi lọt lòng mẹ? Nếu không phải như thế, thì vào lúc nào? Và
như thế
nào, bằng cách nào, quỉ... đi vô chúng
ta?
Trong trường
hợp Stalin, và Hitler, liệu lỗi lầm là do cách nuôi nấng dậy dỗ, “một
trăm năm
trồng người”, tức hệ thống giáo dục tại Georgia và Austria cuối thế kỷ
19?
Liệu hai
cháu đã phát triển được một tí lương tâm, nhưng sau đó, làm mất?
Liệu khi chụp
hình, hai cháu đều là "cháu ngoan Bác Hồ, học tập tốt, lao động tốt,
bình
thường, ngoan ngoãn", như mọi đứa trẻ khác, và sau đó, biến thành quỉ
là
do những cuốn sách chúng đọc, hay bạn bè chúng quen, hay do đòi hỏi,
sức ép của
“thời đại”, theo kiểu thời thế tạo ra quỉ, và trong lá số tử vi của hai
cháu,
có đoạn, hai thằng bé này sinh ra để làm Đồ Tể Đức, Đồ Tể Nga?
Nhưng, giả
như hai cháu, vì lý do nào đó, không kịp ra đời để đóng vai của họ,
liệu Thượng
Đế có kiếm ra hai tay khác đóng thế?
Đây là những
câu hỏi mà mấy ông viết tiểu sử rất ngần ngại, khi phải đối đầu. Có
những giới
hạn chẳng bao giờ chúng ta biết được, về hai chú nhóc Iosif, hay Adolf,
sống ra
sao, môi trường, bạn bè, ảnh hưởng sớm sủa nào. Giữa đầu vào, bản ghi
nhận sự
kiện, và đầu ra, cả cuộc đời nội tại một người, là một hố sâu, mà những
nhà sử
học, những tiểu sử gia hiểu rất rõ, đừng nên té xuống đó.
Chính vì thế,
nếu chúng ta muốn biết chuyện gì đã xẩy ra với linh hồn của hai cháu
nói trên,
chúng ta phải cầu cứu tới mấy ông nhà văn nhà thơ, tới cái thứ sự thực
mà họ
dâng hiến, vốn không giống như của những sử gia [Tiểu sử gia thì cũng
là một sử
gia, của một cá nhân].
Đó là khi
Mailer bước vô bức tranh, ở cái chỗ những sử gia, tiểu sử gia ngưng
lại. (1)
*
Đám thổi đu
đủ anh tà lọt Osin nức nở với cái "xì tai" báo chí, với cách viết bình
thản,
không hận thù, với cách gọi ông Tướng VNCH, thay vì tên tướng Ngụy, tên
tội đồ…
chúng không làm sao hiểu là có 1 sự cực khác
biệt giữa văn chương và báo chí.
Một khi anh sử dụng ngôn ngữ báo
chí, để tìm “sự thực”, là… vứt đi!
Trong bài
Nhiếp ảnh viên mù, The Blind
Photographer, viết về cuốn Thời của Anh Hùng, The
Time of the Hero, của Vargas Llosa, Alberto Manguel, trích dẫn
Vargas Llosa,
khi trả lời phỏng vấn, vào năm 1989.
Sự khác biệt
giữa giả tưởng và 1 bài báo, hay 1 cuốn sách lịch sử là gì? Tất cả đều
được cấu
tạo bằng những từ ngữ, đúng không? Chẳng phải chúng giam cầm vào trong
thời
gian giả tạo của câu chuyện kể, cái dòng thác vô tận của thời gian
thực?
Câu trả
lời của tôi [Vargas Llosa] là, chúng là hai hệ thống đối nghịch, cùng
tiếp cận thực tại.
Trong khi tiểu thuyết nổi loạn và chuyển hóa đời sống, mấy thứ cứt đái
kia
là nô lệ của cuộc đời:
While the novel rebels and transgresses life, those
other genres can only be its slave.
Jean Améry:
Par-delà le crime et le châtiment
HERTA
MÜLLER'S HUNGRY EYE
This novel
first appeared the year Herta Müller won the Nobel prize. The qualities
which
bagged her that gong—poetic concision and clear-eyed honesty—are here
too,
taking us inside the mind of Leopold Auberg, her narrator, an ethnic
German
from Romania transported in 1945 to a Soviet labour camp. It's a
landscape of
slag and gravel, digging and deprivation, always accompanied by the
"hunger angel" of the title: "everything I did was hungry,"
Leopold says. "Everything matched the magnitude of my hunger in length,
width, height and colour."
The book is
full of touches like that—sensations taking on substance and form,
inert
objects becoming animated and insidious. The wind can listen, and
cement
"flies and crawls and sticks". Although Leopold is one of many in the
camp, we're always with a real individual and in a real place. Müller's
great
strength is concrete detail. At night the bed bugs cluster where
Leopold's
dribble soaks into the pillow.
The toil is
unremitting, but Müller gives us light as well as dark. Leopold sees
beauty in
the pink streaks in a slag heap and in carpet beaters glimpsed on a
drive to a
brick factory. Most of all he finds consolation in memories of the
ordinariness
of home: "sometimes things acquire a tenderness, a monstrous tenderness
we
don't expect from them". It's a line that could apply to Müller's
prose,
always exactingly grounded by the practicalities of survival—managing a
bread ration,
lugging cinder blocks, or making a tasteless weed palatable. This is
privation
transmuted into poetry.
Cái tít “Mắt Đói” trên net
không thi vị bằng Sự dịu dàng Quỉ, Montrous
Tenderness, trên giấy, theo Gấu.
Bài điểm ngắn, nhưng thật tuyệt. Đám “bựa” thổi Bên Thắng Nhục và anh tà lọt
Osin, Gấu tin rằng không tên nào được biết sự dịu dàng quỉ của cái đói
như thế
nào khi ở trong tù VC.
Bèn dịch bài
viết ngắn, tiện thể viết về "Everything I did was hungry", của
Gấu Cà
Chớn, những ngày ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa.
Baudelaire:
Tự phác họa khi phi cần sa
[Self-portrait
sketched under the influence of hashish, by Charles Baudelaire, c.1844]
Bạn nên say,
xỉn, ghiền.
Với gì?
Rượu. Thơ. Hoặc
Đạo Hạnh.
Thứ nào cũng
được. Nhưng hãy say, xỉn, ghiền
Phản Bội
& Say, Ghiền, Trúng Độc: Hai đề tài hợp với Gấu Cà Chớn!
Cuốn “Trái
Tim Của Bóng Đen” này mới ra lò, phần phụ lục thú lắm, gồm những bài
điểm sách
thật hách, chỏi nhau, về cuốn sách mỏng dính của Conrad.
Gấu có chừng mươi
cuốn Trái Tim của Bóng Đen, cứ hăm he dịch hoài!
Ở TQ,
những
giá trị cũng bị ô nhiễm
Viết bên lề
"Bên Thắng Nhục"
«Tôi chưa bao giờ quyết liệt
chống thần chết như năm tháng sống ở
trại tập trung. Để chống chọi với cái chết, người ta không cần nguyên
vẹn một
cuộc đời mà chỉ cần một cuộc đời dang dở của mình mà thôi». (1)
Tuyệt!
Tặng anh tà lọt Osin câu trên,
để thấy rằng, không dễ viết về đám
thua cuộc - như là 1 đối trọng, contre-poids - của lũ VC, trong có anh
ta, dù là tà lọt
Lady For Ever
"Nàng là
cái đẹp, một phản
đề của cái chết", death's antithesis.
Nữ tài tử
Audrey Hepburn, vị đại sứ của UNICEF, trong lần tới Bosnia, đã nói về
những nấm
mồ tập thể - những biểu hiện rõ rệt nhất từ trên phi cơ nhìn xuống - và
âm
thanh/ cuồng nộ của "sự im lặng", ở nơi những đứa trẻ. Audrey
"thú nhận", bà có một "món nợ" cần phải trả, như là một nạn
nhân sống sót từ trại tập trung.
Viết để
Kháng Cự
Kẻ thù của
tôi, thầy của tôi
Anh Môn, ấn bản mới, có bài Tựa chưa từng in, 2009
Spleen có bài thơ xuôi/mail của
Baudelaire/Sad Seagull: L'Invitation au
voyage.
Thú thực,
trước giờ, do “chưa” mê thơ, Gấu Cà Chớn chưa từng đọc Baudelaire!
HPNT trắng như tuyết
Note: Bài
thơ của Baudelaire, trong số báo đặc biệt Dossiers & Documents, Jan,
2013, của tờ Le Monde, làm Gấu nhớ đến Sad Seagull và
chuyến đi Quận Cam vừa rồi:
“Sad Seagull” đang ở…,
rất gần chỗ anh Nguyên Giác làm việc.
Sang đầu tuần sau, "Sad
Seagull” đi…, mong có dịp thăm bác Gấu ở
đây vào cuối tuần này trước khi đi.
Chúc bác Gấu luôn
mạnh khỏe, và luôn luôn... Gấu.
Sad Seagull
Nhưng cái
mail sau thì đau quá, khiến Gấu tính đi luôn, khỏi về lại Canada:
Dear GNV,
Just let you
know that I am busy with my class and trip to…..
I won't be
able to see you again and hope you enjoy your visit in Orange County.
Even though
I respect and admire you, a writer of the Deep South of my childhood
day, I am
not a writer to be your friend and I haven't read enough to be your
favorite
fan. I know my background and what I am better to stop.
You are
still my favorite reader and reviewer.
Wishing you
the best.
Poor
Seagull.
18.1.2013
Preface
I belong to
a turbulent generation, born to literary life in the tumult of
surrealism. In
the years after the Great War there was a feeling which was about to
overflow.
Literature was stifling within its limitations and seemed pregnant with
revolution.
These
studies, which are so strikingly coherent, were written by a mature
man. Yet
they were generated in the turbulence of his youth, and they faintly
echo this.
I find it
significant that a part of the first version of these essays should
have
appeared in Critique, a review which owed its success to its serious
character.
But I must add that, if I occasionally had to rewrite them, it is
because, at first,
I could provide no more than an obscure expression of my ideas owing to
the
turmoil in my mind. Turmoil is fundamental
to my entire study; it is the very essence of my book. But the time has
come to
strive towards a clarity of consciousness. I say the time has come ...
But
there are moments when time almost seems to be lacking, or at any rate
pressing.
These
studies are the result of my attempts to extract the essence of
literature.
Literature is either the essential or nothing. I believe that the Evil
- an
acute form of Evil - which it expresses has a sovereign value for us.
But this concept
does not exclude morality: on the contrary, it demands a
'hypermorality'.
Literature
is communication.
Communication requires loyalty. A rigorous
morality results from complicity in the knowledge of Evil, which is the
basis
of intense communication.
Literature is not innocent. It is guilty and should
admit itself so.
Action alone has its rights, its prerogatives. I wanted to prove that
literature is a return to childhood. But has the
childhood that governs it a truth of its own? Before the necessity of
action,
we are overwhelmed by Kafka's honesty, which abrogates no rights for
itself. Whatever
the lesson contained in Genet's books, Sartre's defence is
inadmissible. Literature had
to plead
guilty. (1)
NOTES
1. I have
omitted from this collection a study on Les Chants de Maldoror
which stood so well on its own that it seemed superfluous.
There is hardly any point in my saying that Lautreamont's
poetry corresponds to my theories. Are his poems not
literature pleading guilty? They baffie us, but if they can be
understood it is surely in the light of my interpretation.
Văn Chương
và Cái Ác. Gấu có cả hai bản tiếng Tẩy và tiếng Hồng Mao. Hăm he
dịch hoài,
nhưng đọc bài Tựa của Bataille, đâm
có tí nản. Đâu có dễ nhá, nhỉ?
Dù sao, cũng sẽ dịch bài Tựa, như 1
cách giới thiệu bản tiếng Việt của “BVVC” đầu bạc, dịch giả NX.
Tôi thuộc thế
hệ hỗn loạn, sinh ra 1 phát là đụng vô cõi om sòm siêu
thực. Những năm tiếp theo sau Cuộc Chiến Lớn, có cảm tưởng có điều gì
sắp nổ
tung, muốn vỡ bờ. Cô nàng văn chương thì như con ngựa què, quanh quẩn ở
cái cối
xay của nó, và có vẻ như chửa hoang với tên ma cô có tên là Cách Mạng.
Những nghiên
cứu này, quái sao rất mạch lạc, ăn ý với nhau, được viết bởi một con
người trưởng
thành. Tuy nhiên làm sao tránh khỏi cái không khí xô bồ thời mới lớn,
“thời còn
trẻ tuổi” của tác giả của chúng, và đọc một phát là vọng lên liền cái
tiếng dội
từ đó…
Không chỉ vọng
lên cả 1 thời trẻ dại của tôi, mà chúng còn là hậu quả của những toan
tính của
tôi chiết ra cái gọi là thiết yếu, chí cốt của văn chương. Văn chương
thì, hoặc
là thiết yếu, hoặc đếch là cái gì hết. Tôi tin rằng, Cái Ác - một hình
thức sắc
bén của Cái Ác – mà nó diễn tả, có 1 giá trị tối cao đối với chúng ta,
cho chúng
ta. Nhưng quan niệm này đếch có gạt ra ngoài, đuổi đạo đức đi chỗ khác
chơi,
ngược lại nó đòi “đạo đức cao”.
Văn chương là cảm thông. Cảm thông đòi trung thành.
Một đạo đức khắc nghiệt, hệ quả từ một sự đồng lõa ở trong tri thức về
Cái Ác, là
cái nền của cảm thông dữ dằn.
Văn chương đếch
ngây thơ, vô tội. Nó thì tội lỗi và tự thân nó nên thành khẩn nhận,
mình tội lỗi
như thế đó.
Gấu Cà Chớn dịch sơ, là đã
thấy đầy hung hiểm rồi.
Đâu có dễ nhá?
“Anh Đầu Bạc" trân mình, chẳng biết “vẽ”
rồng, thành rắn, thành con trùn [con giun] ?
Hà, hà!
Jan 17.2013
Trên Blog NL
có nhắc tới hai cuốn mới được dịch ở trong nước. Một của G. Bataille, Văn Chương
và Cái Ác, và một của Pietro Citati, “nhà phê bình Ý danh tiếng
nhất hiện nay”
theo NL, Cái Ác Tuyệt Đối. (1)
Cuốn của
Bataille, với riêng GCC, thật khó đọc, vì cùng với nó là cả 1 lý thuyết
của
Bataille, về Cái Ác. GCC nhớ là Vargas Llosa có 1 bài rất thú về cuốn
này.
GCC đã mấy lần tính lèm bèm về nó, mà đành phải bỏ, vì mất thì giờ, mà
“quỹ thì giờ” bi giờ, với
Gấu, không còn!
Còn Citati,
Gấu có cuốn của ông viết về Kafka, trên, thần sầu. Gấu cứ tính lèm bèm
về nó, nhưng cũng
phải bỏ, vì cũng hết mẹ quỹ thời gian rồi!
Còn 1 tí, để
viết cuốn “tỉu thết”, Sống và Đọc Một Chủ
Nhật Khác ở Quận Cam!
Hà, hà!
Note: Bài viết
của Vargas Llosa: Bataille or the
Redemption of Evil [Bataille hay là Sự Cứu Chuộc của Cái Ác], trong
Making Waves, Tạo Sóng.
Bài của
Vargas Llosa tuyệt lắm, Gấu đọc lâu rồi, nay đọc lại sơ sơ, vưỡn mê như
thường.
Những ý nghĩ
của Bataille về văn chương - diễn tả,
chính,
in the main, ở trong Văn Chương và
Cái Ác, một tuyển tập những bài tiểu luận thần
sầu về một chuỗi những nhà văn trời nguyền,
a series of maudit writers (de Sade,
Baudelaire, Blake, Genet), và những nhà văn mà ông đọc theo kiểu này,
others that he read in this way (Emily Bronte,
Michelet, Kafka) - đối với tôi (Vargas Llosa), thật sáng
sủa, lucid, và tôi đồng ý hầu như toàn thể,
almost entirely…
Với ông ta
[Bataille], thi sĩ là đối thủ, opponent, phản lại, contradiction, quyền
lực. Thi
sĩ thứ thiệt giống như đứa trẻ, trong thế giới, anh ta có thể, như
Blake, hay 1
đứa trẻ, làm điều tốt, không thể chối cãi, make undeniably good sense,
nhưng nhà
cầm quyền đếch tin cậy anh ta, but the authorities will hane no
confidence in
him.
Bataille khó
đọc, theo Gấu, nếu không muốn nói, cực khó đọc!
Cực phản động
nữa!
(Rebellion là từ chìa khoá để đọc Bataille].
Study the
Panther!
John
Banville
Letters to a
Young Poet
by Rainer
Maria Rilke, translated from the German and with an introduction by
Mark Harman
Harvard
University Press, 94 pp., $15.95
Banville đọc Thư gửi thi sĩ trẻ, của Rilke, bản
tiếng Mít, do Sến dịch!
Bài viết này
thần tình. Có thể, 1 phần nhờ bản dịch tiếng Mít!
Hà, hà!
Nobody can
advise you and help you, nobody. There’s only one way to proceed. Go
inside
yourself. Explore the reason that compels you to write; test whether it
stretches its roots into the deepest part of your heart, admit to
yourself
whether you would have to die if the opportunity to write were withheld
from
you. Above all, ask yourself at your most silent hour of night: must I
write?
Chẳng có thằng chó nào cố
vấn hay giúp mi, chẳng có ai. Có mỗi 1 cách
để mà
"diễn biến" thơ. Đi vô bên trong chính mi. Khai phá [đừng nhầm với từ
“tiền vệ”,1 cầu thủ bóng tròn, hay “tiền phong”, đi tìm cái mới cái con
khỉ gì,
của đám Hậu Vệ] lý do nó đá vô đít mi, bắt mi viết, [đừng viết vì
"ngứa"
nhé, bởi
vì có khi là do giang mai]….
Trên tất cả, hãy hỏi chính
mi, vào cái giờ im ắng nhất trong đêm: Mi phải viết, tại sao?
Heidegger
once remarked that he was only trying to do in philosophy what Rilke
had
already achieved in poetry
Heidegger có lần phán, ông chỉ đang cố gắng làm, trong triết học, điều
Rilke đã hoàn tất trong thơ ca.
Norman
Davies
Bài này cũng tuyệt.
Điểm Bức Bàn Sắt của Anne
Applebaum
TV tính đọc song song với
sự kiện "Bên Thắng Nhục" của anh tà lọt Osin,
để tìm cách giải ra thai đố, vào thời điểm nào Bắc Bộ Phủ quyết định
"giải pháp chót", "the final solution", đối với Miền Nam?
Sau 30 Tháng
Tư, hay là trước?
Và trước, là vào lúc nào?
Bởi vì bạn phải nhớ rằng, cuộc chiến Mít vừa qua, nó có cùng với cái
giống Mít.
Đẻ ra 1 phát, là đã phải chống cự với cái đói, rét, thiên nhiên khắc
nghiệt, và
anh Tẫu. Thành ra cứ phải mở mãi ra về phía Nam. Giấc mơ thống nhất, có
cùng với
giống Mít, là vậy. Giấc mơ đẹp nhất. Rỏ máu ngón tay viết đơn tình
nguyện, đốt
sạch Trường Sơn, đánh 100 năm cũng phải…
Và nếu như
thế thì, khi nào thì Bắc Bộ Phủ nảy ra cái "ác mơ" làm thịt thằng em
Nam Bộ, quyết định
tiến hành chiến dịch "Giải Pháp Chót"?
Qui
sait de quoi hier sera
fait ?
Ai mà biết được,
"ngày hôm qua" sẽ được làm ra
như thế nào, bằng cái gì?
Đọc "Bên Thắng Nhục"
của
Tà Lọt Osin (1)
Bài phỏng vấn (1)
Cao Hành Kiện trên tờ Điểm Văn Á Châu,
TV tính đi lâu rồi, rồi quên béng đi.
Nay lôi ra…
Về lưu vong
Lưu
vong là cứu rỗi. Lưu vong là cứu rỗi của nhà văn. Mục đích không phải
là lưu vong. Mục đích là viết. Có rất nhiều nhà văn bị ép buộc phải bỏ
chạy để viết. Đôi khi sự đàn áp không tới chỉ khiến họ phải bỏ đi,
nhưng vẫn phải bỏ đi. Thí dụ James Joyce. Nhưng Joyce và Beckett, cả
hai chẳng hề quay trở lại. Có một sự đàn áp về tâm lý ở
Ái nhĩ lan: Nhà thờ Ky tô khiến họ tự lưu vong. Không, một nhà văn
không thể đánh bại một xã hội. Nhưng anh ta có thể tự cứu mình, đây là
một trường hợp từ cổ xưa cho mãi tới ngày này.
|
|