Thơ Mỗi Ngày
Valentine's
Phương Tấn
Ở Huế nhớ Phương
Ơi mắt hiền
đen mắt buồn dưới phố
không mắt
nào buồn, buồn hơn mắt Phương
phố thả lầu
cao phố trắng dị thường
gió hót véo
von cười nghiêng ngửa áo.
Gót lẫn
trong sương sầu bay ảo não
trời cũng trầm
trầm thơm ngát da Phương
cánh trắng
choai choai phơ phất trong trời
ơi Phương ơi
Phương anh về nhóm lửa.
Xin dấy cho
cao hồn reo từng bữa
để lấy thơ hồng
thắp sáng thân Phương
sương sẽ
vàng phai chảy xuống êm đềm
mắt sẽ hiền
vui nằm ve vuốt nắng.
Thơ thắp cho
cao soi tay lụa trắng
Phương đứng
bên trời chải tóc trong mai
nắng thả lầu
cao nhỏ xuống hai vai
chim cũng
chuyền vui reo đầy vạt áo.
Anh vuốt
thân Phương ăn từng hạt bão
anh ăn sầu
em cho hết cô đơn
yêu Phương của
anh bằng nước mắt này
chăn con
chiên anh chăn từng sợi tóc.
Những lúc
Phương biếng ăn
biếng ngủ
biếng
chơ
hay Phương hờn khóc
anh đấm ngực
mình đổ tội cho anh
e Phương gầy
thêm mắt có còn xanh
mắt có còn
xanh nằm ve vuốt nắng.
Ơi Huế buổi
mai buổi chiều nhớ chi nhớ lạ
ngại quê
mình trời trở lấy ai hôn
ai bồng
Phương anh ngại má phai hồng
ai khẽ đậu
cho mây trời xuống nhạc.
Ớt chi không
cay muối chi không mặn
má lúm đồng
tiền bảo chi không thương
mùa thu quê
mình thường mưa không Phương
sao lệ anh
rơi dù chưa kịp khóc.
Sao mây bay
bay cho anh tưởng tóc
sao trời
xanh xanh cho nhớ dáng Phương
a, người
ngày xưa bảo có thiên đường
anh e thiên
đường nằm trong mắt ngọc
ngọc những
buồn buồn vì Phương hay khóc
công chúa
khóc nhè là Phương của anh!
Phương nghe
đó trời thu lên lành lạnh
lòng cũng
vàng theo lá ở trong cây
vui cũng bay
theo gió ở trong ngày
một chút lệ
thêm chút buồn vừa chín.
Nhớ chi lạ
biết môi còn mũm mĩm
cắn ô mai
răng là lúa ở trên trời
tay cầm lược
là lụa ở trên mây
mắt là ngọc ở
trong thu vừa trổ.
Buồn chi lạ
buồn không ai buồn hộ
hồn vi vu
bay khuất ở trong trăng
ngậm chút
gió chừng có hơi Phương thở
Phương là
sương hay sóng vỗ trong anh?
(Huế- và Nắng
mùa thu1964)
Jackstraws
My shadow and your
shadow on the wall
Caught with arms raised
In display of exaggerated alarm,
Now that even a whisper, even a breath
Will upset the remaining straws
Still standing on the table
In the circle of yellow
lamplight,
These few roof-beams and columns
Of what could be a Mogul Emperor's palace.
The Prince chews his long nails,
The Princess lowers her green eyelids.
They both smoke too much,
Never go to bed before daybreak.
Charles
Simic: Jackstraws
jack·straw:
Trò chơi rút
1 cọng rơm trong 1 bó, làm sao không đụng tới những cọng còn lại [a
game in
which a set of straws or thin strips is let fall in a heap with each
player in
turn trying to remove one at a time without disturbing the rest]
Rút cọng rơm
Bóng của GNV và của BHD
thì ở trên tường
Xoắn vào nhau, bốn cánh tay dâng cao
Trong cái thế báo động hơi bị thái quá,
Và bây giờ, chỉ cần một lời thì thầm,
có khi chỉ một hơi thở thật nhẹ
Cũng đủ làm bực mình cả đám còn lại
Vẫn đứng trên mặt bàn
Trong cái vòng tròn ánh
sáng đèn màu vàng
Vài cây xà, cây cột
của cái có thể là Cung Ðiện của Hoàng Ðế Mogul.
GNV cắn móng tay dài thòng,
BHD rủ cặp mí mắt xanh.
Cả hai đều hút thuốc lá nhiều quá,
Chẳng bao giờ chịu đi ngủ trước khi đêm qua.
*
Bí Mật
của
tôi
My Secret
Charles Simic
“Thơ thì làm ở trên
giường,
như Êu”
“Poetry is made in bed like love”
“For a lazy
man I’m extremely industrious.”
—William
Dean Howells
Như 1 tên
đại lãn, tôi cực kỳ siêng năng.
Nhà
văn nào thì có cũng có bí quyết về cái
cách mà họ làm việc. Với tôi, thì là viết ở trên giường. Bảnh quá nhỉ,
bạn có
thể nghĩ như vậy. Mark Twain, James Joyce, Marcel Proust, Truman
Capote, và cả
một đống những nhà văn khác, thì cũng vừa đo giường vừa viết như tôi.
Vladimir
Nabokov còn thủ cả một mớ thẻ văn ở dưới gối, phòng hờ những lần ngủ
đếch được,
thì bèn lôi ra, nào, bi giờ mình mần thịt em Lo, em Li, em Ta, mỗi em
một cú.
Tuy nhiên, tôi chưa từng nghe về những nhà thơ khác mần thơ trên giường
– tuy
nhiên, chuyện quá tự nhiên, “quá tình” nếu như mà bạn mượn cái lưng
trần của
em, và bèn đi một dòng thơ?
Thực, thì có
Edith Sitwell, người mà theo như truyền thuyết, nằm trong quan tài, sửa
soạn
cho nỗi ghê rợn cực lớn lao đối diện với trang giấy trắng. Robert
Lowell nằm
dài trên sàn, và viết, và tôi thỉnh thoảng cũng làm như thế, nhưng thú
thực,
tôi thích một cái nệm, và lạ làm sao, tôi chưa hề bị cám dỗ bởi 1 cái
trường kỷ,
một cái võng, hay bất cứ 1 cái ghế dễ chịu, thoải mái nào khác.
Vì một lý do
nào đó, tôi chưa hề thố lộ với ai, bí quyết sáng tạo của rôi, như ở
trên vừa kể
ra. Vợ tôi thì biết, tất nhiên, và tất cả những con mèo, con chó mà
chúng tôi
đã từng nuôi.
SEPARATION
I read almost with envy my contemporaries' verse:
divorces, partings, wrenching separations; anguish, new beginnings,
minor
deaths;
letters read and burned, burning, reading, fire, culture,
anger and despair-the very stuff of potent poems;
stern verdicts, mocking laughter of the lofty moralists,
then finally the triumph of the all-enduring self.
And for us? No elegies, no sonnets about parting,
a poem's screen won't rise between us,
apt metaphors can't sever us,
the only separation that we don't escape is sleep,
sleep's deep cave, where we descend alone
-and I must keep in mind that the hand
I'm clasping then is made of dreams.
Charles Simic
Xa cách
Tôi đọc mà phát thèm thơ những
người cùng thời:
Ly dị, bỏ đi, đau đớn mỗi người một ngả
Nhức nhối, khởi đầu mới, chết lãng xẹt;
Thư đọc, và đốt, cháy, đang đọc, lửa, văn hóa
giận dữ và chán chường - bảnh nhất thì cũng chỉ tới cỡ đó, thứ thơ ca
mãnh
liệt;
những lời tuyên án nghiêm khắc, cái cười chế nhạo của mấy đấng đạo đức
kiêu
căng
Và sau cùng là sự chiến thắng của cái tôi to tổ bố, vừa dai vừa dài vừa
dở như
hạch.
Và cho chúng ta ư? Không bi
khúc, ai điếu, không trường đình, đoản
đình tiễn biệt
Màn hình bài thơ không hiện ra giữa chúng ta
ẩn dụ oách hay không oách chẳng thể phục vụ chúng ta.
Cú chia cách độc nhất mà chúng ta không thể trốn thoát là… ngủ.
Cái hang sâu hoắm của giấc ngủ, nơi chúng ta xuống, một mình -
Và luôn tỉnh táo, ghi vô trong đầu, cái bàn tay
[Ở trong rạp xi nê, bữa trước khi đi trình diện
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung]
Cái bàn tay mà Gấu cầm bữa đó,
thì làm bằng những giấc mộng.

Fernando
Pessoa
Note: Bài
thơ trên TV đã dịch, nhưng không làm sao kiếm ra. Đành dịch một lần nữa
vậy, vì
bất ngờ, GCC nhớ ra cái điệu nhạc trên là của một bài nhạc sến.
Có 1 giai
thoại liên quan tới bản nhạc này. BHD có lần
ngân nga, thời gian bản
nhạc thịnh hành, cuộc tình còn ngon cơm, khoẻ re,"đường
vào tình yêu có trăm
lần vui có vạn lần
buồn"...,"đôi khi lầm lỡ, [đánh mất
ân tình cũ] đánh chết nhân tình cũ…."
Và bèn cười!
Bi giờ thì
hiểu ra rồi.
Em quả đánh chết thằng cha Gấu thiệt! Hà, hà!
Gấu nghe
trong đêm,
chạy dài theo
con phố
Gấu nghe
trong đêm,
chạy dài
theo con phố,
từ một quán
hầm lân cận,
một điệu nhạc
xưa,
không rõ là
bản nào.
Và nó làm Gấu
bỗng nhiên nhớ
điều chưa từng nhớ.
Điệu nhạc xưa?
Cái đàn ghi ta cũ.
Gấu không thể
nói về điệu nhạc, không thể nói….
Gấu cảm thấy
nỗi đau nhỏ máu,
nhưng không thể nhìn thấy cái móng cào
Gấu cảm thấy
- không khóc-
rằng thì là Gấu đã khóc rồi.
Quá khứ nào điệu
nhạc mang lại cho Gấu?
Chẳng phải của
Gấu, hay của bất cứ ai, mà chỉ là quá khứ:
Mọi chuyện,
mọi điều thì đều đã chết
Cho Gấu, hay
cho mọi người,
trong thế giới qua đi, qua đi...
Tới giờ rồi.
Giờ nghỉ chơi với cuộc đời
Nó khóc,
và
Gấu khóc, trong đêm buồn
Đó là nỗi
sầu
đau, là lời thở than mập mờ,
không làm
sao định nghĩa được
Về mọi
điều hiện
hữu, bởi vì nó hiện hữu (1)
(1)
Khổ thơ
chót, GCC dịch trật:
Chính là thời
gian, cái thời gian đã lấy đi đời sống,
đang gào
than, và tôi khóc giữa đêm buồn .
Chính là nỗi
tiếc thương, một lời than vãn rất vu vơ,
về những gì
hiện hữu, vì nó đang hiện hữu .
(Nói một
cách hơi cải lương rằng thì là - nhưng không bảo đảm đúng- :
Đời sống đã
mất, nỗi đau vẫn còn )
K.
Tks. Many
Tks
NQT
Đời sống đã
mất, nỗi đau vẫn còn. Đúng như thế.
GCC mấy ngày hôm nay đau nỗi đau, giả như
mình… đi xa, thì có còn nhớ.... BHD nữa không?
ALL LOVE
LETTERS ARE
All love
letters are
Ridiculous.
They
wouldn't be love letters
if they weren't
Ridiculous.
In my time I
also wrote love letters
Equally, inevitably
Ridiculous.
Love
letters, if there's love,
Must be
Ridiculous.
But in fact
Only those
who've never written
Love letters
Are
Ridiculous.
If only I
could go back
To when I
wrote love letters
Without thinking how
Ridiculous.
The truth is
that today
My memories
Of those
love letters
Are what is Ridiculous.
(All
more-than-three-syllable words,
Along with uncountable feelings,
Are naturally
Ridiculous.
)
21 OCTOBER
1935
Fernando
Pessoa
Bao lá thư tình
Bao lá thư tình
thì đều
Cà chớn
Chúng không
thể là thư tình, nếu không
Cà chớn
Trong đời Gấu cũng viết
thư tình
Thì đều
Cà
chớn,
như nhau, không thể nào tránh được.
Thư tình, nếu
có tình yêu
Phải
Cà chớn
Nhưng đúng
ra,
Chỉ những kẻ
chưa từng viết thư tình
Thì mới
Cà
chớn
Giả như Gấu
có thể
Trở lại cái thời Gấu viết thư tình
Mà không nghĩ
Nó cà chớn
như thế nào
Sự thực, là,
bây giờ
Những hồi ức
của Gấu
Về những lá
thư tình
Là cái gọi là
Cà chớn
(Mọi từ quá ba con chữ
Cùng với chúng là những tình cảm không thể nào kiểm
tra được
Thì đương nhiên
Cà chớn)
WANDERING
We were
vacationing with friends: a writer from the States,
whose poems measure
justice, and an actor
from Warsaw,
his face open to both good and evil guests;
it was in a sheer, deep valley of
the young Rodan,
a sweltering
late August day, one of those days
when autumn
wakens from its catnap in the forest's depths.
We tried to find the spot we
remembered
so clearly
from the photo-the proud tower, secluded,
full of solitude, elegies, and sonnets,
poetry's tower,
but new
suburbs surrounded us, white houses, and cars
as clean as
a bureaucrat's conscience;
children walked their dogs,
dogs walked
their adults,
in gardens
roses awaited
the
gardener's shears.
We were
among friends, bees frantically
built frail walls for their winter homes,
on mild,
musing hillsides wine was gathered
like a
crimson mountain stream, embankments of wild dreams.
We made our pilgrimage to
Rilke's tower,
which had
become a strange cathedral,
and our
journeying, seeking, wandering
seemed
almost blissful, joyous uncertainty, bewilderment
revived us, was benign, even
crucial,
and when at
last, after a long while,
we found the tower
just as it
had been in the photo,
uncertainty vanished,
and only
stones remained,
wildflowers, friendship,
and the
light ash of melancholy.
Adam Zagajewski: Unseen Hand
Lang thang
Chúng tôi
nghỉ hè với bạn: một nhà văn từ Mẽo
những bài thơ
của bạn ta cân đo, đong đếm công lý,
và một diễn viên từ Warsaw,
khuôn mặt của
anh thì mở rộng với cả hai loại khách thiện và ác
Đó là 1
thung lũng thẳng đứng, sâu, của chàng Rodan trẻ
Một ngày cuối
Tháng Tám oi ả,
một trong những ngày mà Mùa Thu thức dậy,
từ giấc ngủ ngắn của
nó, ở nơi đáy rừng
Chúng tôi cố
tìm ra cái điểm mà chúng tôi nhớ thật là rõ, từ bức hình –
một cái tháp cao ngạo,
hẻo lánh,
đầy cô đơn, những bi khúc, những sonnets,
tháp thơ,
thì nó chứ còn cái
gì nữa?
Nhưng những
khu nhà, những xóm làng mới xây
vây quanh chúng tôi,
những ngôi
nhà trắng, những chiếc xe hơi
sạch sẽ như
là lương tâm của một ông quan VC
Trẻ con dẫn chó đi dạo
Chó dẫn người già
Trong vườn những bông hồng đợi
Cây kéo của người làm vườn
Chúng tôi thì ở giữa những
bạn bè,
lũ ong hăm hở xây
những bức tường mỏng manh
cho những căn nhà mùa đông của chúng
Rượu vang êm dịu, mơ màng nơi sườn đồi tụ tập
Như suối núi màu đỏ, những con đê của những giấc mộng
hoang dại
Chúng tôi làm 1 chuyến hành hương tới ngọn tháp của
Rilke
Đã trở thành một ngôi nhà thờ kỳ lạ
Và chuyến đi của chúng tôi, tìm kiếm, lang thang
Có vẻ thực là hạnh phúc, nỗi bất trắc vui vẻ, ngỡ ngàng
Làm chúng tôi sống lại, thật tốt lành, thật tới.
Và sau cùng, sau một hồi
lâu
Chúng tôi kiếm thấy ngọn tháp
Đúng như
trong hình
sự bất trắc
tan biến
chỉ những hòn
đá thì còn lại,
hoa dại, tình
bạn
và lớp tro
nhẹ của nỗi buồn

Fernando
Pessoa
Note: Bài
thơ trên TV đã dịch, nhưng không làm sao kiếm ra. Đành dịch một lần nữa
vậy, vì
bất ngờ, GCC nhớ ra cái điệu nhạc trên là của một bài nhạc sến.
Có 1 giai
thoại liên quan tới bản nhạc này. BHD có lần
ngân nga, thời gian bản
nhạc thịnh hành, cuộc tình còn ngon cơm, khoẻ re,"đường
vào tình yêu có trăm
lần vui có vạn lần
buồn"...,"đôi khi lầm lỡ, [đánh mất
ân tình cũ] đánh chết nhân tình cũ…."
Và bèn cười!
Bi giờ thì
hiểu ra rồi.
Em quả đánh chết thằng cha Gấu thiệt! Hà, hà!
I HEAR IN
THE NIGHT
ACROSS THE
STREET
I hear in
the night across the street
From a
faraway neighboring tavern
An old and
uncertain tune that makes
Me suddenly
miss what I'd never missed.
Is the tune
old? The guitar is old.
I can't say
about the tune, can't say ...
I feel the
blood-pain but can't see the claw.
I feel,
without crying, that I've cried already.
Whose past
has this music brought to me?
Not mine or
anyone's, it's just the past:
All the
things that have already died
To me and to
everyone, in the world gone by.
It's time,
time that takes the life
Which cries,
and I cry in the sad night.
It's grief,
the ill-defined complaint
Of all that
exists, because it exists.
14 AUGUST
1932
Gấu nghe
trong đêm,
chạy dài theo
con phố
Gấu nghe
trong đêm,
chạy dài
theo con phố,
từ một quán
hầm lân cận,
một điệu nhạc
xưa,
không rõ là
bản nào.
Và nó làm Gấu
bỗng nhiên nhớ
điều chưa từng nhớ.
Điệu nhạc xưa?
Cái đàn ghi ta cũ.
Gấu không thể
nói về điệu nhạc, không thể nói….
Gấu cảm thấy
nỗi đau nhỏ máu,
nhưng không thể nhìn thấy cái móng cào
Gấu cảm thấy
- không khóc-
rằng thì là Gấu đã khóc rồi.
Quá khứ nào điệu
nhạc mang lại cho Gấu?
Chẳng phải của
Gấu, hay của bất cứ ai, mà chỉ là quá khứ:
Mọi chuyện,
mọi điều thì đều đã chết
Cho Gấu, hay
cho mọi người,
trong thế giới qua đi, qua đi...
Tới giờ rồi.
Giờ nghỉ chơi với cuộc đời
Nó khóc, và
Gấu khóc, trong đêm buồn
Đó là nỗi sầu
đau, là lời thở than mập mờ,
không làm sao định nghĩa được
Về mọi điều hiện
hữu, bởi vì nó hiện hữu
ALMOST
ANONYMOUS
YOU SMILE
Almost
anonymous you smile,
And the sun
gilds your hair.
Why is it that, to be happy,
We cannot know we are?
23 SEPTEMBER
1932
Cũng theo hư
không mà đi,
Em mỉm cười
Cũng theo hư
không mà đi
Em mỉm cười,
Mặt trời
vàng lên tóc.
Tại sao nhỉ,
Để được hạnh
phúc,
Thì đừng bao
giờ lèm bèm về…
cũng theo hư
không mà đi!
[Note: Bài
này dịch ‘thoát’]
WITH A SMILE
AND
WITHOUT
HASTE
With a smile
and without haste
She
gracefully breezed down the road,
And I, who
feel with my head,
Immediately
wrote the right poem.
The poem
doesn't speak of her
Or of how,
grown-up but girlish,
She vanished
around the corner
Of a street
whose corner is eternal.
The poem speaks
of the sea;
It describes
the surf, and sorrow.
Rereading it
makes me remember
The
implacable corner, or the water.
14 AUGUST
1932
Với nụ cười
và
không vội vã
Với nụ cười
và không vội vã
BHD
thanh
thoát thả mình theo con phố
Và Gấu, sướng
đến điên cái đầu
Bèn đi liền
một bài thơ,
thứ thiệt, một
trăm phần dầu,
chính cống Bà
Lang Trọc.
Bài thơ không
nói về BHD
Hay về thế nào,
BHD không còn là đứa con nít 11 tuổi,
Mà là một cô
gái
Biến mất
ở góc đường Nguyễn Du,
Lối đi vô vườn Tao Đàn
Cái góc phố
trở thành bất tử
Bài thơ nói
về biển
Nó tả ngọn sóng,
và nỗi buồn
Đọc lại Gấu nhớ ra
Cái góc phố
thần sầu, hay là nước.
Bạn đang
nhìn bức hình, thì đây là con đường băng qua vườn Bờ Rô, sau lưng bạn
là đường
Nguyễn Du,
Gấu đang chạy
xe solex có em BHD ngồi phía sau, tới trường Gia Long, phía trước mặt.
Hà, hà!
Bức hình
này, đúng là thời gian đó, cỡ 1966-7.
THE WIND IN
THE
DARKNESS
HOWLS
The wind in
the darkness howls,
Its sound
reaching ever farther.
The
substance of my thought
Is that it
cannot cease.
It seems the
soul has a darkness
In which
blows ever harder
A madness
that derives
From wanting
to understand.
The wind in
the darkness rages,
Unable to
free itself.
I'm a
prisoner to my thought
As the wind
is a prisoner to air.
23 May 1932
Fernando
Pessoa
[Chùm thơ
Valentine’s Day]
Gió trong
bóng đen hú
Gió trong bóng đen hú
Tiếng hú của nó đi xa cực xa
Cái đầu của tôi xoáy vào ý nghĩ
Tiếng hú đó không thể ngưng, nghỉ
Hình như là linh hồn có 1
bóng đen
Nó thổi thật là mạnh
Một cơn điên khùng bật ra từ cái muốn hiểu, muốn biết
Gió trong bóng đen điên
khùng, giận dữ
Không làm sao cởi trói cho chính nó
Tôi là tù nhân của ý nghĩ của tôi
Như gió là tù nhân đối với khí trời
Szymborska
Cuộc Tình Thực:
Real Romance
[Bài viết
cho Valentine's Day]
Trên tờ Người
Nữu Ước, 22 Tháng Sáu, 2009, có bài viết về nhà văn nữ được ưa nhất,
America’s
favorite writer, Nora Robert.
Tác giả bài viết nhắc tới 1 cuộc thăm dò dư luận,
vào mùa hè năm trước đó, của một website, Smart Bitches, Bướm Khôn, với câu
hỏi, cái dòng
nào sến nhất [tình nhất, nhức nhối nhất….] nó “cắm” vào bạn, như “thịt
chích vô
thịt nhớ nhau trọn đời”, như ca dao Mít phán, là dòng nào, của tác giả
nào…
Nữ văn sĩ
Anh, Jane Austen được vài phiếu:
Mi chích hồn [“hồn” nhe!] ta. Khiến ta nửa hấp hối, nửa
hy vọng.
"You pierce
my soul. I am half agony, half hope".
GCC bỗng nhớ
đến những câu, như dấu ấn một thời, thời Gấu còn trẻ măng, của những em
nữ văn
sĩ Mít thời danh thời đó, thí dụ “Mưa không ướt đất”, “Em lên anh nhé”,
hay “Mèo
Đêm”, “Lao Vào Lửa”, hay, hay…
Nhưng phải đến
già, sắp di xa, thì mới nhận ra, cái câu đau thương nhất, là của 1
cô em gái,
trong cái truyện ngắn Trăng Huyết, của
Ngọc Minh:
Hãy tha thứ
cho tôi. Hãy tha thứ cho anh em tôi...
DEFENSELESS
IN MEMORIAM
PAOLA MALAVASI
September
2005, we came back from vacation,
sat down at the kitchen table
covered in
green oilcloth.
Suddenly
Nicola calls, asking, do you know
that Paola Malavasi died
suddenly, in
the morning,
on Sunday,
at a hotel in Venice.
No, I hadn't
heard-those two words,
died and Paola,
met then
for the
first time.
Paola had
just turned
forty,
a pretty,
smiling woman.
She taught
Greek and Latin at the high school,
she wrote and translated poems.
The word died is much older
and never
smiles.
Some months
have passed,
and I still
don't believe in her death.
Paola studied life and poetry,
antiquity
and today.
Nothing speaks to her death.
She seems
serene in the photographs,
her face is defenseless and open.
Her face
still summons the future,
but the future, distracted,
now looks
the other way.
Adam
Zagajewski
Vô phương chống
trả
Tưởng nhớ BHD
Ouvrez-moi cette porte où
je frappe en pleurant.
Apollinaire
[Mở giùm tôi cánh cửa này, tôi đập, và khóc ròng].
Tháng Chín 2005, chúng tôi
về nhà sau chuyến nghỉ hè
ngồi ở bàn bếp
phủ bằng miếng
vải dầu màu xanh
Bất thình lình
Nicola gọi, hỏi, này có biết tin
Paola
Malavasi bất thình lình mất
sáng Chủ Nhật ở khách sạn ở Venice
Không, tôi chưa
biết – hai cái từ
chết và Paolo,
gặp nhau là như vậy, lần đầu tiên
Paola mới bốn
mươi, chưa quá nửa đời người
Một người đàn
bà xinh đẹp, tươi cười
Nàng dạy tiếng
Hy Lạp và La Tinh tại trường trung học
Nàng làm thơ
và dịch thơ.
Cái từ chết coi bộ
già hơn nhiều
và chẳng bao giờ mỉm cười.
Vài tháng
qua đi
Và tôi vẫn
không làm sao tin về cái chết của nàng
Paola nghiên
cứu về đời sống và thơ
Cổ đại và Bây
giờ.
Chẳng cái gì
nói về cái chết của nàng
Nàng coi bộ
thanh thản trong những bức hình
mặt nàng thì
chịu trận, và phơi mở.
Mặt nàng vẫn
vời gọi tương lai
Nhưng tương
lai, cà chớn, lơ đãng,
Ngó chỗ khác

Bí Mật
của
tôi
My Secret
Charles Simic
“Thơ làm ở trên giường,
như Êu”
“Poetry is made in bed like love”
TEACHING
THE APE TO WRITE POEMS
They didn’t have much trouble
teaching the ape to write poems:
first they strapped him into the chair,
then tied the pencil around his hand
(the paper had already been nailed down).
Then Dr. Bluespire leaned over his shoulder
and whispered into his ear:
“You look like a god sitting there.
Why don’t you try writing something?”
Dạy Khỉ Mần
Thơ
Cũng chẳng
hơi bị khó
Trước tiên
trói chú vô cái ghế nhà thơ vưỡn thường ngồi
Rồi buộc cây
viết chì vô tay chú
(tờ giấy thì
cũng đã đóng đinh lên... thập tự rùi) (1)
Và ông đốc
tưa, kiêm nhà văn, kiêm nhà thơ Mít bèn ghé tai chú, thì thầm:
Y chang Chúa
đang ngồi
Sao không thử
viết 1 cái chó gì như là… thơ?
(1) Cái này Mít
gọi là "đóng đinh thập tự thơ"!
Hoặc "thơ viết
dưới giá treo cổ"!