Tahar ben
Jelloun
Nhà văn
không phải là một ông chủ tiệm
Tahar ben
Jelloun người Marốc, viết văn bằng tiếng Pháp, trong một cuộc phỏng vấn
trên tờ
Điểm Sách Paris, số Mùa Thu 1999.
Ông hiện nay
là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất ở Pháp. Cuốn sách "Chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc được giải thích cho con gái của tôi" (Le Racisme
expliqué à ma fille, Racism explained to My Daughter), là một
best-seller. Đêm
Thiêng, La Nuit Sacrée, được giải Goncourt 1987, là cuốn tiểu thuyết
đầu tiên của
một nhà văn Ả rập được vinh dự này. Tên ông có trong danh sách chót của
giải
Nobel văn chương trong hai năm vừa qua.
Ông sinh tại
Fez, Morocco (Marốc). Gia đình ba trai, một gái, sống tại một căn phòng
nhỏ,
trong khu vực mang dấu vết thời trung cổ đẹp nhất thành phố. Cha là chủ
tiệm
bazzar, sau chuyển qua thợ may, sản xuất những chiếc áo dài dành cho
đàn ông Ả
rập (djellabas).
Năm tuổi,
ông vào một trường học dậy kinh Koran, nơi ông phải nhớ và học thuộc
lòng những
dòng kinh trên. Hai năm sau, chuyển qua trường Ả rập-Pháp, học tiếng
Pháp buổi
sáng, và buổi chiều, tiếng Ả rập. Một học sinh chăm chỉ, nghiêm túc:
Ngay từ nhỏ,
tôi đã cảm nhận cái trách nhiệm phải đứng bằng đôi chân của mình (Very
early, I
felt the responsibility of standing on my own feet). Sau đó ông học
triết tại Đại
học Rabat.
Vào năm
1971, 26 tuổi, ông di cư qua Pháp, hoàn tất việc học tại đại học
Sorbonne. Sau
đó, làm nghề chuyên viên tâm thần ở Paris. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên
của ông,
"Harrouda", xuất bản năm 1973. Tiếp theo là 9 cuốn tiểu thuyết, và
vài tập truyện ngắn, thơ ca, và tiểu luận. Ông có lẽ được biết đến
nhiều nhất,
qua tiểu thuyết bộ ba (trilogy) viết về cuộc đời của Ahmed/Zahra, một
cô gái mà
người cha, vì quá thất vọng không có một đứa con trai nối dõi tông
đường, đã
nuôi dậy cô bé như là một con trai: The Sand Child (L’enfant de sable,
Đứa trẻ
cát), một best-seller ở Pháp; Đêm Thiêng, và cuốn vừa mới xuất bản La
Nuit de
l’erreur (Đêm Lầm, bản tiếng Anh, The Wrong Night sắp xuất bản).
Dưới đây là
chuyển ngữ cuộc phỏng vấn, được thực hiện tại văn phòng của ông ở khu
St-Germain des-Prés, gần ngay bên nhà xuất bản Seuil, và quán Café de
Flore,
nơi ông thường ngồi với bạn bè.
Người phỏng
vấn: Ông sinh ra, và được nuôi nấng như là một người Marốc. Tiếng nói
mẹ đẻ của
ông là Ả rập, tuy nhiên, ông chọn viết văn bằng tiếng Pháp. Cho phép
tôi được hỏi:
tại sao?
Tahar ben
Jelloun: Sự thực, tôi song ngữ. Ngôn ngữ đầu tiên, Ả rập; nhưng sau đó
tôi học
một trường song ngữ. Khi khởi sự viết, như là một anh chàng thanh niên
không
tham vọng văn chương, tôi cảm thấy hạnh phúc làm điều này, với tiếng
Pháp. Vào
thời điểm đó, nó không phải là một "chọn lựa" mang tính ý thức.
-Có thể là
do ông đọc nhiều tác giả Pháp hơn tác giả Ả rập?
-Có thể.
Nhưng còn do tôi coi tiếng Ả rập là "cây nhà lá vườn", chẳng bao giờ
mất, nên đâu cần phải mất công với nó. Một cách vô thức, tôi cho rằng,
phải đầu
tư hết nghị lực vào một ngôn ngữ ngoại. Nó hầu như còn là một thách đố,
một cú
thúc vào đít. Vào lúc hai mươi tuổi, tôi bắt đầu mê viết, và cứ thế
"chơi" luôn tiếng Tây. Những nhà trí thức trong thế giới Ả rập đã chỉ
trích tôi, đôi khi thật dữ dằn, vì đã không viết bằng tiếng Ả rập. Thật
đau cho
tôi. Thường ra, động cơ chỉ trích thật đáng ngờ.
-Chắc chắn
là, sau khi ông được (giải thưởng văn chương Pháp) Goncourt, còn có sự
thèm muốn
xen vô nữa?
-Có thể.
Nhưng câu trả lời là: tôi viết bằng một ngôn ngữ mà tôi có thể làm chủ
một cách
diệu nghệ. Một bản văn, bài đọc (lecture) bằng tiếng Ả rập, được thôi,
nhưng tiểu
thuyết, là phải tiếng Tây. Bởi vậy, vì kính trọng tiếng mẹ đẻ cho nên
tôi không
được quyền "tàn sát" nó.
-Ả rập là một
ngôn ngữ rất giầu có, uyển chuyển: chỉ với một từ gốc gồm hai hoặc ba
phụ âm,
người ta có thể xây dựng cả một tự vựng nào nghĩa đen nghĩa bóng, nào
hoa lá
cành. Một tiếng nói đã sản xuất ra thơ ca lớn, văn xuôi lớn. Trên tất
cả, đây
còn là một ngôn ngữ thiêng, như ngôn ngữ Hebrew – Thượng Đế đã nói bằng
ngôn ngữ
này. Vậy thì, như ông nói, đây không phải là thứ ngôn ngữ để giỡn chơi,
hoặc
coi thường. Ông đã học nó ở trường lớp?
-Tại trung học,
chúng tôi học những tác phẩm cổ điển Ả rập. Tôi bị cuốn hút bởi sự giầu
có và
tinh tế của nó, khi tôi bắt đầu dịch thuật. Do làm chuyện này, tôi lại
càng cảm
thấy chớ có "táy máy" với nó. Như ông biết đấy, vì là một ngôn ngữ
thiêng, được Thượng Đế ban cho qua bộ kinh Koran, con người cảm thấy
kinh ngạc,
sợ hãi, thấy mình nhỏ bé trước ngôn ngữ này. Adonis, một nhà thơ lớn
người
Lebanon, có lần nói với tôi: tiếng Ả rập chưa từng gặp một nhà văn nào
mạnh hơn
nó, đủ khả năng khuất phục nó. Người ta nói về tiếng Anh như là ngôn
ngữ của
Shakespeare, tiếng Ý, tiếng của Dante, nhưng đừng nói Ả rập là ngôn ngữ
của
al-Ghazali – nó luôn luôn là ngôn ngữ của kinh Koran. Táy máy với nó là
mang tội
(one would feel almost guilty manipulating it).
-Nhưng biết
đâu, người ta viết bằng tiếng Tây, hay tiếng Anh, là để có lắm người
đọc?
-Đây là do
tình hình chính trị, một hình ảnh xấu về thế giới Ả rập. Nó ảnh hưởng
tới sự
phát triển văn hóa Ả rập. Thật bất công (unfair) – có rất nhiều nhà
thơ, nhà
văn lớn Ả rập chưa được biết tới. Như thể văn hóa của một xứ sở tùy
thuộc vào
hoàn cảnh kinh tế-chính trị. Hiện nay, Ả rập được coi là tiếng nói của
hai trăm
triệu con người. Tiếng Ba tư là cả một nền thi ca lớn. Cả hai trở thành
những
ngôn ngữ thiểu số. Hiện tại Tây phương ngó về Viễn Đông, và bỗng nhiên,
mọi người
khám phá ra những nền văn hóa Nhật bản, Trung quốc. Thật khó mà thay
đổi được
tình trạng này, một khi mà hình ảnh những xứ sở Ả rập còn đục ngầu vì
chính trị;
văn hoá Ả rập sẽ còn đau khổ vì những hậu quả trên.
-(Nhà văn
người Mỹ gốc Do thái) John Updike có lần nói với tôi, khi tới Ai cập,
ông đã gặp
những nhà văn tuyệt vời mà hoàn toàn vô danh đối với Tây Phương – đây
là trước
khi Naguib Mahfouz được Nobel văn chương – trong khi đó, ông ta hay một
tác giả
dòng Anglo-Saxon vừa mới hỉ mũi một cái, thế là thiên hạ xúm lại chuyển
ngữ,
nghiên cứu, phê bình nghị luận loạn cả lên, bằng cả chục thứ ngôn ngữ
trên thế
giới.
-Văn hóa Tây
phương được quan tâm nhiều hơn, và không đảo lại được. Tôi có thể làm
một bài đọc
về Faulkner ở Mỹ, như bất kỳ một nhà trí thức nào trong thế giới Ả rập;
chẳng
ai kinh ngạc về chuyện này. Trong khi đó, sự hiểu biết ở Tây phương về
những
nhà văn của chúng tôi thật ít ỏi, hạn hẹp ở một số nhà chuyên môn được
gọi là
Những nhà Đông phương học. Tôi hy vọng, một ngày nào đó, tình trạng này
sẽ thay
đổi, và chẳng bao lâu nữa, kho tàng giầu có là những nền văn chương Ả
rập và Ba
tư sẽ được khám phá tại bất cứ nơi nào trên thế giới, vì lợi ích của
nhân loại.
-Tôi cũng hy
vọng như ông. Nhưng có thể tôi và ông quá lạc quan. Ông có nghĩ rằng,
một khi
viết bằng tiếng Ả rập, những tác phẩm của ông sẽ khác đi?
-Lẽ dĩ
nhiên. Bởi vì ngôn ngữ chẳng những là một dụng cụ, nó còn là cả một bộ
những cơ
chế tinh thần, như mớ hành trang lỉnh kỉnh mà con người mang theo cùng
với mình
suốt cuộc lữ. Văn hóa tiếng Tây phát triển hơn văn hóa tiếng Ả rập. Vả
chăng,
như tôi đã nói, Ả rập là một ngôn ngữ thiêng, những tác giả Ả rập kính
sợ, và họ
không thể sử dụng bạo lực chống lại nó.
-Những tác
phẩm sẽ khác đi, chẳng hạn như thế nào?
-Hãy bắt đầu
bằng đề tài: có những điều tôi không thể đụng vô, nếu viết bằng tiếng Ả
rập,
thí dụ như dục tính, hay phê bình cách xử sự của nhân vật, nếu nó liên
can tới
tôn giáo. Chi ly từng chi tiết không hiểu sao, nhưng sẽ có nhiều cấm kỵ.
-Còn dục
tính, ông sẽ "tiếp cận" bằng đủ mọi cách?
-Có những bản
văn huê tình (erotic) quan trọng trong văn chương cổ điển Ả rập thế kỷ
14, 15,
thí dụ như The Scented Meadow (tạm dịch Hương Đồng Nội Cỏ), của nhà văn
Shaykh
Naszawi (thế kỷ 14); đây là một Kamasutra của thế giới Ả rập. Tôi có
thể viết
theo cùng một mạch. Nhưng một khi viết, khó mà biết được "một trăm phần
trăm" ngòi bút sẽ dẫn dắt bạn tới đâu – có những chuyện xẩy ra một cách
tự
nhiên; bởi vậy, tôi cho rằng, nếu làm chủ được ngôn ngữ, tôi có thể đề
cập tới
dục tính bằng tiếng Ả rập, nhưng điều này ngoài sức tôi.
-Có
Kama-sutra của Ấn, có thi ca huê tình của những nhà thơ Ả rập, thí dụ
như nhà
thơ Abu Nawas. Nhưng những diễn tả phòng the xê dịch (differ) giữa
những nền
văn hóa và những ngôn ngữ. Văn chương phòng the Ả rập khác với của
chúng tôi
theo cách nào?
-Tôi nghĩ
quan niệm về huê tình của Đông phương rộng hơn, và tinh tế hơn, so với
của Tây
phương. Thí dụ như, trong Ngàn Lẻ Một Đêm có một "mảnh quần hồng quan
trọng"
(an important erotic element), nó là một trong những chìa khóa để hiểu
Đông
phương. Nhưng hiện nay có vẻ như người ta e dè vấn đề này, trong thế
giới Ả rập,
như thể họ sợ gây sốc, và đây là hậu quả của chủ nghĩa chính thống
(fundamentalism).
-Nếu ông sống
ở Bắc Phi và viết bằng tiếng Ả rập, ông sẽ viết lách ra sao, trong khí
hậu
chính thống đó?
-Sẽ không thể
viết, về bất cứ điều gì. Đó là tự sát. Chủ nghĩa chính thống chống lại
tự do
nói chung, và tự do đối với một nhà văn không chỉ là tự do ngồi xuống
ghế và viết,
nhưng còn là tự do tư tưởng, thoải mái nói về chính mình. Bởi vậy, tôi
nghĩ, một
xã hội chính thống chẳng đẻ ra một thứ gì, ngoại trừ sự câm nín, hay là
văn
chương chống đối, viết từ lưu vong.
-Ông khởi sự
viết, trước tiên với thơ, vào năm nào?
-Thời điểm
viết "nghiêm túc", là khi tôi ở đại học, 22 tuổi, học triết. Chương
trình học như Sorbonne. Vào năm 1966 tôi bị bắt cùng trên trăm sinh
viên khác,
do hoạt động chính trị Tả phái, lẽ dĩ nhiên, như bất cứ người nào trong
thời kỳ
đó. Thay vì tống vào tù, nhà nước bắt tụi tôi đi quân dịch (nghĩa vụ
quốc gia,
national service), trước đó trong nước chưa hề có chế độ quân dịch. Thế
là tập
tành, hít đất hít cát, quân trường đổ mồ hôi như mọi tân binh khác,
nhưng đây
là một trừng phạt; nó gây sốc và tôi phản ứng lại bằng một "trường
ca" viết lén lút. Sau 18 tháng, được thả, tôi nghĩ, có lẽ mình nên
"công bố" bài trường ca viết trong "tù", bởi vì đây chính
là "bổn phận" của người trí thức, phải "chuyển tải"
(transmit) một kinh nghiệm như thế! Bài thơ được in trên báo Soufle,
(Hơi thở),
của Abdellatif Laabi, một thi sĩ Marốc. Bài thơ được nhiều người khen
ngợi, và
tôi cảm thấy đây là một khích lệ đến từ phía độc giả. Nếu bài thơ bị
chê, có lẽ
tôi quẳng bút, cũng nên. Phản ứng của công chúng đối với một tác phẩm
mới ra lò
của một nhà văn "lần đầu tiên trình làng", là rất quan trọng.
Sau khi tốt
nghiệp đại học, tôi làm giáo sư trung học, môn triết, trong ba năm,
trước ở
Tétouan và sau đó ở Casablanca. Vào năm 1971, tình hình chính trị ở
Marốc trở
nên bất ổn – đảo chính, rồi lại có tin sắp đảo chính – tôi có ý định
nghỉ dậy học,
học tiếp lấy bằng tiến sĩ. Tới Paris, vô Sorbonne, nhờ một khoản trợ
cấp
(grant). Tôi nhập vô một môi trường thuận lợi. Pháp là một nước hiếu
khách, thật
khó mà tưởng tượng không khí những ngày này. Dân chúng không bị khiếp
sợ bởi
làn sóng di dân như bây giờ. Ngay cả tôi cũng thấy ớn, mỗi lần đang đi
phố bất
thình lình đụng một người lạ, thường vẫn là một câu trao đổi niềm nở,
nhưng đôi
khi bị phang một câu: "Cút về nhà mày đi, đồ di dân dơ dáy", hay một
câu tục tĩu khác.
Tại Paris
tôi gặp được những người đã giúp tôi tận tình. Thí dụ, tôi trở thành
bạn với chủ
bút tờ Thế Giới; ông yêu cầu tôi viết về vấn đề di dân, và về văn hóa Ả
rập nói
chung. Cùng lúc đó, tôi khởi sự viết cuốn tiểu thuyết đầu tay,
Harrouda. Tôi
đưa nó cho Maurice Nadeau, ở nhà xuất bản Denoel. Ông rất chú ý tới
việc xuất bản
những tác phẩm văn chương ngoại. Những tác phẩm tới từ "không đâu",
và "mới"; ông chịu nó. Tôi khởi đầu là như vậy.
-Ông đã xuất
bản một tập tho trước cuốn tiểu thuyết đầu tay?
-Vâng. Bữa
đó, tôi tới cơ sở xuất bản của Francois Maspero, và đưa bản thảo cho bà
xã của
ông ta, lúc đó lo về thơ ca. Bà quyết định in. Phản ứng của giới phê
bình và của
công chúng thưởng ngoạn, phải nói là rất rộng lượng. In hai ngàn cuốn,
một con
số khá lớn, vào những ngày đó.
-Có nhiều nhà
văn Bắc Phi khi đó, hay chỉ lèo tèo vài người, trong đó có ông?
-Có vài người.
Đặc biệt, trọn một thế hệ nhà văn Algérie, khởi nghiệp vào thập niên
1950, thí
dụ như Kateb Yacine, Mohammed Dib, Jean Pelegrini, T. Amrouche và những
người
khác. Tác phẩm của họ đóng rễ vào cuộc chiến dành độc lập của Algérie.
Khi tôi
nói, tôi được "hân hoan" đón nhận, không phải theo nghĩa "ào
ào". Đây là một tiến trình "tà tà, nhẩn nha". Tôi nói một cách
nghiêm túc: không phải như bây giờ, khi mà mọi người tranh nhau nói về
một tác
giả trong ba tháng, thí dụ vậy, rồi xong. Ông ta biến mất, chẳng để lại
một dấu
vết. Harrouda chỉ bán được ba ngàn cuốn, nhưng, trái ngược với những
thành công
sớm nở tối tàn khác, là, 24 năm sau, nó vẫn vớ được độc giả, theo kiểu
lai rai,
rỉ rả.
-Đây là một
tác phẩm "rất" văn chương, với một cốt truyện rất lạ lùng. Ông lấy ở
dâu ra vậy?
-Ở Fez, có một
cô điếm già làm rúng động trí tưởng tượng của trẻ con và thanh thiếu
niên. Tôi
là một đứa trẻ, khi sống ở đó. Và tôi biến cô thành một vị thánh, đại
khái như
vậy.
-Nhưng thành
công thực sự, là với Goncourt. Ông là nhà văn Ả rập đầu tiên, đúng ra
là nhà
văn ngoại quốc đầu tiên thắng giải này.
-Vào năm
1934 đã có một nhà văn Phi châu được giải, nhưng năm 1987, khi tôi được
Goncourt, chẳng ai nhắc đến ông ta, như vậy cứ coi tôi là người đầu
tiên đi. Giải
thưởng cho tôi một công chúng thưởng ngoạn rộng rãi hơn, dù rằng trước
đó, Đứa
Trẻ Cát đã bán được 130 ngàn cuốn. Khi Đêm Thiêng được Goncourt, thế là
nó cõng
tất cả những cuốn khác của tôi cùng đi theo với nó.
-Ngoài
chương trình học trung học, nhà văn nào gây nên hứng khởi đầu, "xúi"
ông viết?
-Có vẻ kỳ kỳ,
tôi không thấy mình "hợp" với mấy ông nhà văn, mà là với một vài nhà
làm phim: Orson Welles, Federico Fellini, Yasujiro Azu, Akira Kurosawa,
Michelangelo Antonioni – tức là những người kể chuyện. Lẽ dĩ nhiên, có
ảnh hưởng
trí thức, từ Sartre, Camus, Genet và những người khác, nhưng đó là bắt
buộc,
theo kiểu ảnh hưởng thời đại. Nếu phải tìm kiếm bà con nghệ thuật, tôi
tìm ở
Welles và Ozu hơn là ở những tiểu thuyết gia.
-Ông có thử
thời vận, như là một nhà làm phim?
-Tôi đã muốn
nghiên cứu nghệ thuật điện ảnh tại Viện Nghiên Cứu Cao về Điện Ảnh.
Nhưng ngay
lập tức, tôi nhận ra, điện ảnh là một kỹ nghệ, một kỹ nghệ rất nặng nề,
và do
đó, rất nhiêu khê. Khi lệ thuộc vào quá nhiều người, quá nhiều hoàn
cảnh, thật
khó là một nhà sáng tạo. Tôi đã lẫn lộn tình yêu phim với ao ước làm
phim. Thế
là tôi chào thua.
-Điện ảnh là
một đam mê ở Pháp – họ đã phát minh ra nó. Hồi còn là sinh viên ở đó,
chắc là
ngày nào ông cũng mò đi coi ciné?
-Tôi mê hình
ảnh. Ciné giúp tôi nhiều nhất, ở cái khoản này: câu chuyện được kể qua
hình ảnh,
bởi một Welles hay một Hitchcock. Trong một vài phút đầu tiên của phim,
những
nhân vật, hoàn cảnh câu chuyện bầy ra trước mắt bạn, và bạn cứ thế nhập
vô, cứ
thế lên đường cùng với phim. Ngày nay, phim ảnh Mỹ khổ vì muốn… hiện
thực. Bạn
nhìn một người nào đó uống cà phê, ăn trong tiệm, thoi vào mặt một
người khác.
Nhưng Ozu và Welles không sao chép thực tại. Quan trọng là bịa đặt ra
một câu
chuyện và làm cho khán giả tin tưởng câu chuyện đó – quan trọng là, một
khi ngồi
trong phòng tối tại một rạp, cuốn phim đưa bạn tới một vũ trụ khác,
trong tưởng
tượng. Đó là điều tôi cố gắng làm, với những cuốn sách của tôi.
-Ông đi coi
phim, nhưng còn đọc cả lố, như ông nói đấy. Ai? Có tác giả ngoại nào
không?
-Tôi đọc
[nhà văn Mỹ] Steinbeck, Dos Passos, Faulkner, khi tôi còn trẻ. Nhưng
nhà văn
giúp tôi nhiều nhất, là James Joyce, không phải bởi vì tôi muốn làm
cùng một điều
như ông ta, mà là: ông ta liều cùng mình. Tôi nghĩ nếu Joyce dám liều
như vậy,
tôi cũng dám. Khi còn nằm ở trại lính, tôi yêu cầu bạn bè gửi những
cuốn sách dầy
nhất mà họ kiếm được. Bởi vì cấm đọc sách ở đó, tôi đọc lén, và tôi
muốn một cuốn
sách kéo thật dài. Thế là họ gửi lén cho tôi cuốn Ulysses, và tôi thật
sự kinh
hồn bạt vía bởi sự táo bạo, từ một công trình lớn lao như vậy. Tôi
chẳng biết
gì về Ái Nhĩ Lan, nhưng cuộc hành trình của nhà văn làm tôi quan tâm,
tính táo
bạo của ông ta. Nhưng tôi chào thua cuốn Finnegans Wake – những hiểm
nguy ở đó
thật là vô tích sự (gratuitous). Nó thì tối tăm.
Người phỏng
vấn: Tuy nhiên, ông mê thơ hiện đại, mà cái thứ này nếu không mờ mờ thì
cũng
thường xuyên tăm tối?
Ben Jelloun:
Thi ca tối tăm không hiện hữu, hoặc nếu tối tăm, thì đó không phải là
thi ca
(poetry). Thơ thứ thiệt chẳng bao giờ tối tăm; ngay cả [nhà thơ Pháp]
Mallarmé
cũng rõ ràng. Về phần tôi, tôi mê St.-John Perse, René Char, một số bài
của
Yves Bonnefoy, của Louis-René des Forêts. Đôi khi tôi đọc những tập thơ
mà tôi
nhận được, và nói với chính mình, "Thứ này thật là vô nghĩa! Nó chẳng
mắc
mớ gì tới thơ." Nhưng đời mà, đôi khi người ta chẳng có gì để nói, hoặc
chẳng
có gì để nói "thêm", tuy nhiên họ vẫn cứ tiếp tục nói: nó vẫn vậy mà!
Hãy nhìn [nhà làm phim người Pháp] Jean-Luc Godard: đối với tôi, những
phim đầu
tay của ông thật đáng yêu, thế rồi một ngày, tôi khám phá ra một hiện
tượng kỳ
cục: Godard là một người đàn ông chẳng có gì "thêm", để nói. Cũng vẫn
kỹ thuật đó – cách táy máy, mầy mò hình ảnh thật tuyệt vời (this
marvelous way
of manipulating images), những phim của ông chẳng ai thèm quan tâm tới
nữa: chúng
rỗng tuếch.
Cùng trường
hợp như vậy, với một vài nhà thơ. Như là một hậu quả: tôi nghĩ lúc này
chẳng có
thơ. Vắng thơ, ít ra ở Tây phương, và cảm giác kinh cung chi điểu: sợ
thơ, như
thể mọi người hết còn dám [làm thơ]. Tại Pháp, thời kỳ Kháng Chiến đã
đẻ ra một
nền thi ca lớn, bằng cách đem hứng khởi tới cho những nhà thơ như
Aragon,
Éluard, René Char. Họ có một điều gì thật nóng hổi, thật gấp gáp cần
phải truyền
đạt, một số giá trị cần phải chống đỡ; và phải làm liền, làm mạnh bởi
vì những
giá trị này đang gặp hiểm nguy. Một nhà thơ Pháp nói gì đây, bây giờ?
Viết một
bài thơ để chống lại Le Pen? Làm thơ về nạn thất nghiệp? Về nạn tự tử
của lớp
trẻ? Đây chỉ là những đề tài lòng vòng, mang tính nhất thời.
Đâu phải
chuyện tai nạn, khi một nhà thơ dở như Bobin bán ào ào cả chục ngàn ấn
bản mỗi
lần cho ra lò một tuyển tập mới. Một thứ thơ tình cảm, giả-tôn giáo, dở
ẹt. Nhà
Luyện Kim (The Alchemist), tiểu thuyết của Paulo Coelho theo tôi, thuộc loại tầm
phào, vậy mà bán ra mười một triệu ấn bản. Đó là vì người ta "cần"
thơ và tìm kiếm một thứ tâm linh nào đó: họ cần "lại cảm thấy yên ổn",
và hy vọng. Nhưng đây là thứ tâm linh chợ búa, hàng quán (bazaar). Một
thứ tâm
linh Đồng Giá (Monoprix).
-Theo tôi,
có vẻ như người ta tìm thấy thơ, ở những nhà văn xuôi hiện nay. Ở Anh
chẳng hạn.
Sự thành công của những cuốn sách của ông, tôi nghĩ, một phần là do
cách viết
và cảm tính của ông có chất thơ ở trong đó.
-Đó là gia
tài Ả rập của tôi. Khi tôi kể một câu chuyện, tôi cảm [thấy mình là
người] Marốc,
và tôi kể nó như là một người Marốc kể chuyện, với hình ảnh và cấu
trúc, chẳng
hiện thực, nhưng là một nơi chốn [để cho] thi ca trú ngụ.
-Trong Ngàn
Lẻ Một Đêm – vốn tắm đẫm tranh ảnh, minh họa (pictorial) – tác giả vẽ
những bức
tranh, có lẽ bởi vì thoạt kỳ thuỷ những câu chuyện này được truyền
miệng, và những
người kể chuyện phải làm cho người nghe chú ý bằng cách nhấn từ, nhấn
giọng.
Ông kể những câu chuyện của mình giống như một người kể (conteur) Đông
phương.
-Tôi không
cho rằng, mình có hơi hớm tác giả Ngàn Lẻ Một Đêm, hay phải viện dẫn
tới một thời
kỳ đặc biệt nào đó trong lịch sử Ả rập. Tuy nhiên, tôi cảm thấy mình ăn
ở với
văn hóa Ả rập. Ít ra đây là lời giải thích thuận lý mà tôi có thể có
được, nếu
nói về chất "thơ" trong văn của tôi. Về kỹ thuật tự sự (narrative
technique), tôi bị ảnh hưởng rất nhiều bởi Roland Barthes – những bài
tiểu luận
của ông về mối liên hệ giữa bản văn (text) và văn chương. Khi còn là
sinh viên,
Tiểu Thuyết Mới làm tôi nản, và tôi không muốn viết bất cứ một thứ gì
giống như
vậy. Điều tôi làm, tôi phát minh ra nó trên đường đi, trong lúc viết,
một cách
vô thức. Tôi nghĩ, văn phong của tôi là Marốc, nhưng có lẽ những người
Marốc
không nghĩ như vậy!
-Những đề
tài của ông cũng là Marốc – câu chuyện luôn luôn xẩy ra ở Marốc, hay ít
ra, ở Bắc
Phi.
-Đúng như vậy.
Những đề tài bám rễ Maghrebi, bởi vì chúng liên quan tới những vấn đề
mắc míu với
chúng tôi, những vấn đề của cuộc sống thường ngày – sự liên hệ giữa đàn
ông và
đàn bà trong một xã hội Hồi giáo, giữa nhà nước và luật pháp, hay cá
nhân và tập
thể.
-Trong tất cả
những xứ sở thuộc thế giới thứ ba, đặc biệt trong những xứ Hồi giáo, có
trạng
thái giao động, không chắc chắn (uncertainty), như là hậu quả do va
chạm với hiện
đại tính và Tây phương. Đây là trường hợp [đưa đến] sự thành công lớn
lao đầu
tiên của ông, trong Đứa Trẻ Cát; câu chuyện một đứa bé sinh ra là gái,
nhưng
cha mẹ cứ làm như nó là trai, bởi vì họ đã có 6 cô "công chúa", và cảm
thấy nhục nhã vì không sản xuất ra nổi một chú bé đực rựa. Điều này đưa
tới những
hậu quả bi thương cho cô bé, khi cô đã trưởng thành. Ông dựa trên
chuyện thực?
-Không, tôi
bịa ra nó, bởi vì tôi muốn viết về thân phận người phụ nữ ở Bắc Phi,
nhưng
không muốn nó mang vẻ mô phạm, hay mang tính dấn thân (militant). Tôi
muốn phản
ứng lại thứ văn chương nữ quyền của thập niên 1980, vốn đặt nặng tu từ,
nghe
"the thé" (strident), và chẳng có tí tưởng tượng nào ở trong đó. Vì
vậy,
tôi nghĩ, nếu tôi bịa ra một đứa bé mà số mệnh bắt buộc phải tách ra
khỏi dòng
đời bình thường [nữ bị coi là nam] và sau đó sống cả hai thân phận, là
nam là nữ
cùng một lúc, như vậy tôi có thể làm bật ra một số vấn đề.
-Đêm Thiêng,
cuốn tiểu thuyết được Goncourt, tiếp tục câu chuyện kể. Đây là cuốn thứ
nhì
trong một bộ ba. Cuốn thứ ba là Đêm Lầm. Cuốn thứ nhất, Đứa Trẻ Cát,
đưa ra một
số kết cục có thể xẩy ra. Chi tiết này cho thấy, ông là một trong số
những người
kể chuyện Đông phương. Nhưng ông phải chọn một trong những kết cục đó.
Làm cách
nào, ông chọn?
-Đây là do
những độc giả đòi hỏi tôi tiếp tục câu chuyện. Tôi nhận hết thư này tới
thư
khác, hỏi: "Chuyện gì xẩy ra cho Ahmed/Zahra? – nhân vật chính với căn
cước
dục tính "kép" (the main character with the double sexual identity).
Đây là một cách nói về thân phận người phụ nữ mà không rơi vào giáo
điều.
-Nếu độc giả
không "năn nỉ", chắc là ông nghỉ chơi luôn?
-Ông có thể
đặt câu hỏi theo một cách khác, như thế này: nếu câu chuyện chẳng [có
một cơ
may] tiếp diễn, độc giả đã chẳng thèm "năn nỉ".
-Ông đã từng
nói: "Là một người đàn bà là một nhu nhược tự nhiên mà mọi người chấp
nhận"
(To be a woman is a natural infirmitythat everyone accepts). "Là một
người
đàn ông là một ảo tưởng và một bạo lực mà mọi điều [đều có thể] biện
minh và
khuyến khích" (To be a man is an illusion and a violence that
everything
justifies and favors)." Đây có phải là quan niệm hiện thời của ông về
thân
phận người phụ nữ trong thế giới Hồi giáo, đặc biệt trước đà phát triển
của chủ
nghĩa chính thống, cứ chĩa mũi dùi vào người phụ nữ? Tôi hỏi ông câu
này, bởi
vì, song song với sự áp bức trà đạp người phụ nữ của cái gọi là chủ
nghĩa chính
thống, phong trào đòi hỏi nữ quyền Hồi giáo hiện đang trỗi dậy.
Những nhà nữ
quyền Hồi giáo lấy ra những đòi hỏi, những luận cứ của họ, từ chủ
thuyết và lịch
sử đạo Hồi. Họ chứng minh rằng những áp bức trà đạp người phụ nữ trong
những xứ
sở Hồi giáo chẳng mắc mớ chi đến đạo Hồi, thoạt kỳ thuỷ nhằm giải phóng
họ, và
đã sản xuất ra những vị nữ lưu đứng đầu nhà nước, những chính trị gia,
những
nhà thơ, những nhà thần học. Một trong những vị nữ lưu, đồng bào của
ông,
Fatima Mernissi: một trong số những người hùng biện nhất, thông thái
nhất của
những nhà nữ quyền Hồi giáo. Tôi đang nghĩ tới những cuốn sách của bà:
Những
Hoàng hậu đã bị bỏ quên của Hồi giáo (The Forgotten Queens of Islam),
Hồi giáo
và Dân chủ (Islam and Demecracy), Quá khỏi Mạng che mặt (Beyond the
Veil)…
chúng cho thấy, Hồi giáo bị biến chất (denatured) tới mức nào, so với
tư tưởng
khởi đầu của người sáng lập ra nó. Và nó bị biến chất là do những nhà
cai trị
tham nhũng, và những mullahs (giáo sĩ Hồi giáo). Bà cảm nhận, ngày nay
sự áp bức
phụ nữ còn liên quan tới sự kém mở mang, nghèo đói, bất công, và tham
nhũng,
"chuyện thường ngày ở huyện" trong những xứ sở thuộc thế giới thứ ba.
-Đúng như vậy.
Bức mạng che hiện hữu trong tất cả các tôn giáo, ngay cả trong đạo Cơ
đốc. Người
ta lấy khăn phủ đầu, như là một dấu hiệu của sự kính trọng, khi bước
vào nhà thờ,
nhà tu. Khi cầu nguyện bắt buộc phải làm vậy. Nhưng tôi nghĩ, thiết yếu
là phải
tách rời chính trị và tôn giáo. Tôn giáo là vấn đề của từng cá nhân, nó
là sự
quan tâm giữa từng con người với Thượng Đế. Sử dụng Hồi giáo vào những
mục đích
chính trị là mị dân thuần tuý, một phương thức để áp bức dân chúng. Tôn
giáo
quan tâm tới điều được coi là vĩnh hằng, thiên thu, trong khi đó, chính
trị, do
bản chất của nó, là tạm bợ, nhất thời. Bởi vậy, chúng ta phải tách rời
cả hai,
nếu không, những xứ sở Hồi giáo sẽ chẳng bao giờ vượt lên khỏi tình
trạng kém mở
mang và áp bức.
-Chúng ta
hãy trở lại với nhân vật Ahmed/Zahra. Làm cách nào cô giải quyết được
bài toán
nhức đầu của cô?
-Việc của
tôi (My job) không phải đưa ra những câu trả lời hay tìm giải đáp,
nhưng mà hỏi
(ask questions), chứng nghiệm (testify), trong một hoàn cảnh nhân sinh.
Tôi kể
một câu chuyện, và hy vọng rằng, nó sẽ gây suy nghĩ (incite
reflection), tạo tư
tưởng.
-Xen kẽ bộ
ba trên, ông còn viết một cuốn sách nhỏ về tình bạn, Ngợi Ca Tình Bạn
(L’Éloge
de l’Amitié, In Praise of Friendship), trong đó ông nhắc tới tất cả
những bạn
bè làm cho cuộc đời của ông thêm giầu có. Trong số đó, Jean Genet có vẻ
chiếm một
vị trí đáng kể nhất, đối với ông. Tính tình ông ta rất kỳ lạ: dữ dằn
(farouche), nhút nhát, cô độc, rất ít người biết tới. Ông nghĩ thế nào,
về con
người và tác phẩm, từ một khoảng cách hiện nay, nhìn lại?
-Ông ta là một
con người cực kỳ khác thường. Khi cuốn đầu tay của tôi ra lò, tôi gửi
một bản tới
ông, qua nhà xuất bản của ông ta, chẳng hy vọng ông trả lời; như mọi
người biết,
đây là một con người rất e thẹn, và cô độc. Một bữa, một tay Cộng sản
bạn của
tôi, thường xuyên đọc báo "đảng" (tờ Nhân Loại, L’Humanité), anh ta
bảo:
có một bài viết về "toa" trên tờ báo đảng đó! Tôi chạy vội đi mua một
tờ! Bài viết hoá ra là một bài phát thanh, của Genet, về một số nhà văn
Ả rập.
Trong bài viết, ông ta tấn công Sartre, buộc tội Sartre đã không quan
tâm đúng
mức tới những nhà văn này, trong số đó có chính tôi!
Ngày hôm sau
tôi gửi lời cảm ơn về lòng tốt của ông ta, và cho biết, tôi hiện đang ở
Khu
Sinh Viên (Cité Université). Ngày tới, có người gọi cho tôi. Là Genet.
Và ông đề
nghị gặp. Đó là khởi đầu một tình bạn kéo dài tới hết cuộc đời của ông.
Vào năm
1979, khi xẩy ra cuộc cách mạng của Khomeini tại Iran, ông ta bảo tôi:
"Tớ
khoái tay già này, dám nói ‘Hãy xéo đi!’ với Mỹ và Tây phương". Không
phải
ông quan tâm tới cuộc cãi lộn chính trị giữa "the Shah" (Vua Iran) và
Khomeini, nhưng mà là thái độ nổi loạn của một con người chống lại một
hệ thống,
chống lại cả thế giới. Ông luôn luôn giữ những vị trí tàn bạo (brutal
positions), vì ông là một con người nổi loạn, chống lại quyền lực bất
kể dưới dạng
nào.
Chúng tôi trở
thành bạn, mặc dù ông chẳng hề tin vào tình bạn, bởi vì theo ông, tự do
và sự
trung thuỷ không thể cặp kè với nhau được. Tuy nhiên ông luôn là bạn
tốt, với
tôi. Ông bảo tôi: "Khi viết, hãy nghĩ tới người đọc, hãy giản dị".
Tôi cố theo lời khuyên của ông, bởi vì tôi nghĩ giản dị là một dấu hiệu
của
chín chắn.
-Tình bạn được
tôn thờ tại những xứ sở Trung Đông. Tại Ba tư, nó gần như "xêm xêm" với
tình yêu. Ở Marốc, cũng rứa?
-Không hoàn
toàn như vậy. Nhưng tình bạn giữ một vai trò quan trọng trong cuộc đời
của
riêng tôi. Tình yêu là một điều chi khác, nhiều khi đối ngược với tình
bạn.
Tình yêu thì rắc rối, đầy khó khăn trắc trở. Nó thuộc loại hiếm hoi,
nghĩa là
còn tùy thuộc vào những điều mà thường xuyên vượt ra khỏi khả năng của
người
trong cuộc. Tình bạn ngược hẳn lại: giản dị, tự nguyện, bền vững.
-Rữa Thối
(Corruption, dịch từ bản tiếng Pháp: L’homme rompu), xuất bản năm 1994,
là về sự
tham nhũng, hối lộ trong một xứ sở như Marốc. Đây là một tiểu thuyết
mang tính
chính trị, tố cáo mạnh mẽ nhất trong những tác phẩm của ông. Ông có
nghĩ rằng
chính trị có thể làm thay đổi những sự việc ở Maghreb, hay ở trong
những xứ sở
thuộc thế giới thứ ba, nói chung? Theo ông có cần làm sống lại đạo đức,
tâm
linh (a moral and spiritual revival)?
-Đạo đức và
tâm linh chẳng thể nào tái sinh trong một thể chế chính trị bịnh hoạn,
hư ruỗng.
Do đó, cuộc chiến đấu chống lại tham nhũng, hối lộ là một cố gắng làm
cho xã hội
trở nên khoẻ mạnh, về đạo đức, cũng như là về văn hóa.
-Cuốn tiểu
thuyết mới của ông, Đêm Lầm, là cuốn thứ ba trong một bộ ba cuốn. Nhân
vật
chính lại (again) là một người đàn bà. Có phải đây là phản ứng của ông
trước
chuyện (ngược đãi phụ nữ) xẩy ra tại Algeria, vào lúc này?
-Không. Cuốn
sách nói về một bạo lực nào đó, từ lâu vẫn nằm ngủ trong nhân vật
chính, và sau
cùng bà đã trả thù. Đây không phải là một câu chuyện mang tính hiện
thực
(realistic). Nó là về bạo lực của một người đàn bà đã bị áp bức quá
lâu, và cuối
cùng nổ bung ra. Nhưng không phải một người đàn bà thực (a real woman),
bà thuộc
về cõi huyền hoặc (she belongs to the realm of legend).
-Ông nghĩ gì
về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, sử dụng những hình tượng thần thoại từ
những
chuyện dân gian, ở Nam Mỹ, để làm sáng tỏ hoàn cảnh hiện thời? Trường
phái này,
gồm những tiểu thuyết gia Nam Mỹ, khác biệt với của ông, ra sao? Đặc
biệt, ông
có ái mộ tác giả, hay tác phẩm nào, thuộc trường phái trên?
-Tôi rất
thích Juan Rulfo, Juan Carlos Onetti, một vài cuốn của Gabriel García
Márquez.
Nhưng tôi không nghĩ chúng tôi cùng một trường phái. Họ đóng rễ vào văn
hóa
riêng của họ, và tôi, vào của tôi. Và hai văn hóa này khác biệt, không
chỉ vì Hồi
giáo, mà còn nhiều yếu tố khác nữa, như lịch sử và địa dư.
-Ông đã dính
vào vụ Rushdie?
-Lẽ dĩ
nhiên. Và tôi đã chống đỡ cho ông ta. Đây là một biểu tượng và một cần
thiết.
Chống đỡ (defend) cho Rushdie là chống đỡ tự do viết, tưởng tượng, sáng
tạo.
-Ông tổ chức
ba chuyện viết lách như thế nào?
-Tôi rời nhà
rất sớm, mỗi buổi sáng, và tới đây. Tôi làm việc suốt ngày, trở về nhà,
và trải
qua buổi tối với gia đình, vợ và 4 cháu.
-Ông viết
tay, hay dùng computer?
-Tôi viết
tay. Computer là dùng để viết bài (articles), bởi vì mấy tờ báo đòi
hỏi, bài
ghi trên dĩa mềm.
-Ý tưởng –
viết một cuốn tiểu thuyết mới, a new novel – tới với ông như thế nào?
Ông có
ngưng tất cả mọi việc, khi viết nó?
-Tôi để cho
ý tưởng chín mùi trong một thời gian dài. Tôi ngồi xuống và khởi sự
viết, khi cảm
thấy một sự thúc bách nào đó. Khi viết, tôi đọc ít đi. Gần như tôi để
hết tâm
trí vào nó, vì đây là một niềm vui.
-Những kẻ quấy
rầy, phá hoại công việc viết, là những gì? Hemingway cho rằng, khốn
kiếp nhất,
là cái điện thoại.
-Những bực bội,
trói buộc xã hội, tâm lý, thời gian phí phạm cho con rùa hành chính…
Tuy nhiên,
người ta không thể viết, nếu không sống, và cuộc sống là phải đương đầu
với ba
chuyện bực mình kể trên. Bởi vậy, điều ngăn trở viết đến từ bên ngoài
nó. Nhưng
sẽ hết viết hoàn toàn, nếu thiếu vắng hy vọng, khi người viết tự hỏi:
ích chi
đâu, ba chuyện viết? Một khi đối đế, cảm thấy văn chương là vô dụng,
tôi sẽ
ngưng viết. Cho tới lúc đó, mặc dù bực bội, mặc dù chán nản, tôi vẫn
tiếp tục.
Ngắn gọn, một khi cảm thấy không cần viết: ngưng!
-Gore Vidal
có lần nói, giống như ông chủ tiệm tới tiệm của mình, hay ông đốc tưa
tới phòng
mạch mỗi ngày, nhà văn ngồi và viết, theo nghĩa, đây là nghề của anh
ta, rằng
viết là cái điều mà một nhà văn làm. Ông có nghĩ như vậy?
-Không. Đây
là viễn ảnh Mẽo về nhà văn. Với tôi, nếu một nhà văn viết để kiếm sống,
ông ta
bắt buộc sẽ phải đẩy mình tới một tình trạng thỏa hiệp. Ông sẽ "băn
khoăn,
cân nhắc": cái này bán được không, cái kia ăn khách đấy. Đây không phải
là
mối bận tâm của tôi. Tôi hạnh phúc khi có một số độc giả, nhưng người
ta không
thể viết ra, chỉ để bán được. Một nhà văn không phải là một ông chủ
tiệm. Một
nhà văn tạo ra một thế giới tưởng tượng, và ông ta chuyển nó tới cho
những người
khác.
-Đây có phải
là phận sự (function) của nhà văn? Shelley nổi tiếng với câu nói: thi
sĩ là những
nhà lập pháp không được thừa nhận, của thế giới. Ông tin như vậy?
-Tôi
không
tham vọng tới mức đó. Với tôi, nhà văn là một chứng nhân. Của thời đại
của
mình. Do đó, anh ta có một vị thế riêng. Tôi không nghĩ, nhà văn có một
vai trò
quyết định – anh ta kể những câu chuyện, và trong khi làm như vậy, anh
ta phê
phán (comments) về xã hội của mình, và về thế giới. Anh ta truyền đạt
qua tưởng
tượng.
-Một khi
ông
đã có một cái giàn, cái khung cho một cuốn tiểu thuyết, và khởi sự
viết, ông có
luôn luôn ở trong tình trạng chủ động, hay là mặc tình cho những năng
lực nội tại
của câu chuyện lấn lướt?
-Khó mà
biết
được chuyện gì sẽ xẩy ra, nhưng tôi cứ để cho mình tự do. Đừng để xẩy
ra tình
trạng bị ép, bị trói, hay là mất kiểm tra. Tôi cứ thế tiến lên, theo
trực giác,
và thoải mái khi đụng những ý tưởng mới, hoặc gặp những khúc quanh
không tiên
đoán được.
-Cái gì
tới
trước, cốt truyện hay nhân vật?
-Ý tưởng
chính, là quan trọng, nhưng từ ngữ cũng quan trọng chẳng kém – Chúng
phải được
chọn lựa kỹ, sử dụng đúng chỗ. Như toán học. Cốt truyện có thể do một
điều gì
tôi đã chứng kiến, đã đọc, hoặc đã nghe nói. Con người làm sao biết hết
mọi
chuyện. Nếu như vậy, viết trở nên nhàm chán. Điều dẫn dắt câu chuyện,
đó là
không khí chuyện (ambiance), tức là cái thế giới chung quanh một nhân
vật. Nhân
vật bịa ra câu chuyện, nhà văn tiếp diễn (It is the character who
invents the
story as the writer proceeds).
-Ông có
viết
đi viết lại nhiều lần?
-Những
bản
văn tuyệt vời là chỉ có một lần viết. Nhưng thứ này hiếm, hầu như bất
khả. Tôi
viết lại cả một chương, chứ không viết lại theo kiểu đây một khúc, kia
một
dòng. Tôi có thể bỏ luôn cả một chương, và thêm vào một chương khác.
-Những
chương trình trong tương lai của ông?
-Tôi đang viết
một cuốn tiểu thuyết, lấy khung cảnh Naples (Ý đại lợi). Bởi vì tôi
đang tính rời
Marốc. Tôi vừa mới sửa lại và nới thêm ra, một tiểu luận về chủ nghĩa
phân biệt
chủng tộc, đã xuất bản vào năm 1984, tựa là "Lòng Hiếu Khách của người
Pháp" (French Hospitality). Tôi viết thêm một lời giới thiệu dài, để
giải
thích tại sao nó tồi tệ đi trong 13 năm vừa qua.
-Có thể tôi
lạc quan, bởi vì tôi nghĩ Le Pen chỉ là một sai lạc nhất thời, và sau
hết, người
Pháp sẽ trở lại với truyền thống dâng hiến chỗ cư ngụ, và bảo vệ cho
những người
bị bách hại. Văn hóa Pháp là từ đó mà ra. Hãy nhìn con số những nhà
thơ, nhà
văn, nhà trí thức lớn trong 100 năm qua, đã tới Pháp, từ bất cứ nơi nào
trên
trái đất.
-Tôi thành
thực hy vọng là ông đúng. Trong khi đó, chúng ta – những nhà văn, nghệ
sĩ, trí
thức – chỉ có thể làm hết sức mình, bằng tác phẩm của mình, bằng những
thí dụ
riêng của mình.
Shusha Guppy
(người phỏng
vấn, là biên tập viên tại London của tạp chí Điểm Sách Paris).
Nguyễn Tuấn
Anh chuyển ngữ