Gấu phán bảnh
hơn Liz, tất nhiên:
Chúng ta không sợ chúng ta không thương yêu nhau
Nhưng chỉ sợ chúng ta thương nhau nhiều quá!
LOVE
AT FIRST SIGHT
They're both convinced
that a sudden passion joined them.
Such certainty is beautiful,
but uncertainty is more beautiful still.
Since they'd never met
before, they're sure
that there'd been nothing between them.
But what's the word from the streets, staircases, hallways –
perhaps they've passed by each other a million times?
I want to ask them
if they don't remember -
a moment face to face
in some revolving door?
perhaps a "sorry" muttered in a crowd?
a curt "wrong number" caught in the receiver?
but I know the answer.
No, they don't remember.
They'd be amazed to hear
that Chance has been toying with them
now for years.
Not quite ready yet
to become their Destiny,
it pushed them close, drove them apart,
it barred their path,
stifling a laugh,
and then leaped aside.
There were signs and
signals,
even if they couldn't read them yet.
Perhaps three years ago
or just last Tuesday
a certain leaf fluttered
from one shoulder to another?
Something was dropped and then picked up.
Who knows, maybe the ball that vanished
into childhood's thicket?
There were doorknobs and
doorbells
where one touch had covered another
beforehand.
Suitcases checked and standing side by side.
One night, perhaps, the same dream,
grown hazy by morning.
Every beginning
is only a sequel, after all,
and the book of events
is always open halfway through.
-Wislawa Szymborska:
View with a grain of sand
Note: Tình cờ vớ được bài này,
post lên để độc giả TV thưởng lãm,
và, nhân tiện, để tặng ông Tây mũi tẹt, đã từng đề nghị dịch "Tình Yêu
như
Trái Phá", qua tiếng Tẩy là "Cú Sét Đánh", và qua tiếng Hồng
Mao, là, "Yêu từ cái nhìn đầu tiên"!
Bài thơ thật tuyệt, tặng ông
ta, quá tuyệt, đúng cái ý:
Such certainty is beautiful,
but uncertainty is more beautiful still.
Dịch chắc như bắp như thế thì thật là đẹp
Nhưng dịch không chắc như bắp, thì còn đẹp hơn nhiều!
*
Yêu từ cái nhìn đầu tiên
Cả hai đều chắc như bắp
Đam mê bất thình đã dính họ vào nhau
Chắc như bắp như thế thì đẹp thật
Nhưng không chắc như bắp thì còn đẹp hơn nhiều
Kể từ họ chưa từng gặp
nhau trước đó, thành ra họ chắc mẩm là chẳng có gì giữa họ
Nhưng, biết đâu đây, một từ, từ đường phố, cầu thang, hành lang –
có thể họ đã từng trao cho nhau hàng triệu lần?
Lời nào em đã nói em/anh ơi?
Tôi muốn hỏi họ
nếu họ còn nhớ -
một thoáng đối mặt nhau,
tại một cánh cửa quay?
Hay một tiếng ‘so ghì’ mất tích giữa đám đông
Hay, “lộn số rồi”, cha nội?
Nhưng tôi biết câu trả lời
Không, họ đếch có nhớ!
Làm gì có chuyện đó!
Họ hẳn là ngỡ ngàng
Rằng, Cơ May đã chơi trò hú tim với cả hai
trong bao nhiêu năm trời, cho đến giờ này!
Chưa có sẵn sàng đâu em ơi
Để biến thành Định Mệnh
[Vừa mới nghe tên, là đã hỏng cẳng, nữa là!]
Chính Định Mệnh đã kéo
họ đến gần nhau, rồi lại đẩy họ ra xa
Nó chặn đường họ
cố nén một tiếng cười lớn
rồi nhảy qua một bên
Đã có những điềm, triệu
Ngay cả nếu như họ chưa đọc
Có thể ba năm trước đây
Hay đúng là Thứ Ba vừa rồi,
một chiếc lá lững lờ bay từ vai người này qua vai người kia?
Một cái gì đó [chiếc khăn tay chăng?] rớt, và rồi được nhặt lên
Ai mà biết được
Có thể là một trái banh,
biến mất vào trong một bụi cây của thời trẻ thơ ?
Có những tiếng gõ cửa,
tiếng chuông cửa reo
Nơi một cái đụng phủ lên một cái khác đã được chuẩn bị trước
Những chiếc va li đã được kiểm soát và để kế bên nhau
Một đêm, và, có thể, cùng một giấc mơ
đến sáng thì thành nhảm!
Mọi bắt đầu
Thì chỉ là tiếp nối, nói cho cùng
Và cuốn sách của những biến động
Thì luôn mở ra ở lưng chừng.
*
TRY
TO PRAISE THE
MUTILATED WORLD
Try to praise the
mutilated world.
Remember June's long days,
and wild strawberries, drops of rose wine.
The nettles that methodically overgrow
the abandoned homesteads of exiles.
You must praise the mutilated world.
You watched the stylish yachts and ships;
one of them had a long trip ahead of it,
while salty oblivion awaited others.
You've seen the refugees going nowhere,
you've heard the executioners sing joyfully.
You should praise the mutilated world.
Remember the moments when we were together
in a white room and the curtain fluttered.
Return in thought to the concert where music flared.
You gathered acorns in the park in autumn
and leaves eddied over the earth's scars.
Praise the mutilated world
and the gray feather a thrush lost,
and the gentle light that strays and vanishes and returns.
Hãy cố mà ca ngợi thế
giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ những ngày dài Tháng Sáu
và những trái dâu dại, những giọt rượu vang hồng
Những cây tầm ma mọc um tùm một cách có hệ thống
những trại ấp bỏ hoang của những người lưu vong.
Bạn phải ca ngợi thế giới bị tùng xẻo.
Bạn ngắm những chiếc du thuyền kiểu cách và những chiếc tầu
một trong chúng thì có một chuyến đi dài phía trước mặt,
trong khi sự lãng quên đẫm vị mặn của muối chờ đợi những chiếc còn lại.
Bạn đã nhìn thấy những người tị nạn chẳng có 1 nơi chốn nào để mà tới
Bạn đã nghe đám đao phủ hát một cách thật là sảng khoái.
Bạn nên ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ khoảnh khắc mà chúng ra cùng bên nhau
Trong căn phòng trắng và tấm màn xốn xang.
Hãy để cái đầu của mình trở về buổi hòa tấu khi âm nhạc bừng lên.
Chúng ta nhặt trái sồi ở công viên vào mùa thu
và những chiếc lá xoay xoay ở bên trên những vết sẹo trên mặt đất.
Hãy ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Và chiếc lông xám của con chim hét đã mất
Và ánh sáng dịu dàng lang thang, biến mất, rồi trở lại.
Bài thơ “Hãy ca ngợi một thế
giới bị tùng xẻo”, lần thứ nhất được
đăng trên số báo “đen” hậu-11/9, của tờ Người Nữu Ước.
When I read it I was struck,
first, by an awareness that, far from
lecturing his reader, the speaker was speaking to himself; his use of
"You" (a Zagajewski trademark) a welcome change from the
self-important I-deology of so many contemporary poets. It struck me,
then,
that he had brilliantly obeyed his own imperatives - "Remember ....
Remember .... Return .... Praise" - and had made me do the same. More
generally, I was arrested by the authority of the voice, the courage
and wisdom
of a call to praise in a time (like any other) of mutilation: praise, a
word
with Christian associations, repeated with increasing urgency in the
refrain,
acquiring the force of a liturgical response, a prayer. Behind the
distinctive
new voice, one can hear a voice heard in Auden's "Musée des Beaux
Arts" ("About suffering they were never wrong / The Old
Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful martyrdom"
in which "the torturer" plays a part.
Khi đọc bài thơ “Hãy cố ngợi ca
thế giới bị tùng xẻo”, tôi bị chấn
động, thứ nhất, từ nỗi quan hoài, thay vì đọc lên giọng ‘mấy lời’ với
độc giả
thì nhà thơ lại nói với chính mình; cách sử dụng đại từ “You”, "Bạn",
một thương hiệu của Zagajieski, quả là một sự chuyển đổi thật tuyệt,
tách ra
khỏi cái thói tự quan trọng mình của rất nhiều nhà thơ đương thời. Rồi
tôi còn
bị chấn động bởi sự kiện, nhà thơ thật thông minh, thật duyên dáng tuân
theo
những mệnh lệnh của chính mình - Hãy nhớ... Hãy nhớ... Hãy trở lại....
Hãy ngợi
ca – và tôi cũng làm như vậy.
Nói chung là, tôi còn bị chấn động hơn thế nữa, bởi giọng quyền uy, sự
can đảm
và tính minh triết của một lời kêu gọi, hãy ngợi ca vào 1 thời [như bất
cứ mọi
thời] của sự tùng xẻo: ca ngợi, praise, một từ với những gia nghĩa mang
tính Ky
tô giáo, được lập đi lập lại với cường độ của sự khẩn thiết cứ thế tăng
dần, ở
điệp khúc, đòi hỏi một sức mạnh của 1 đáp ứng mang tính tế lễ, một lời
cầu
nguyện, khẩn cầu, cầu xin, a prayer.
Đằng sau giọng thơ mới mẻ một cách thật rành rẽ, phân biệt này, chúng
ta nghe
ra một giọng thơ cũ, của một bậc thầy, của Auden, trong "Viện Bảo Tàng
Nghệ Thuật:: "Về đau khổ họ chẳng hề bao giờ lầm/Những Vị Thầy Cũ",
và, chồng lên, sự “ra đời thần kỳ, giống như là 1 phép lạ”, là, sự
"tuẫn
nạn đáng sợ, chết chóc” trong đó, “tên đao phủ, kẻ tra tấn, tên hành
hạ”, cũng
có phần đóng góp của nó, vai trò của nó....
JON STALLWORTHY đọc Eternal
Enemies: Light in the grime [Bụi
Sáng]
TLS
Dec 4 2009
Chắc bạn còn nhớ dòng thơ của
Brodsky:
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời
gian làm
gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About
what time does to Man."
Đây là câu trả lời của Adam
Zagajewski:
"Only in marriage do love and time, eternal enemies, join forces".
"love sets us free, time kills us".
Chỉ trong hôn phối, hai kẻ thù
thiên thu, nối vòng tay lớn:
tình yêu và thời gian
Thời gian giết chúng ta.
Tình yêu khiến chúng ta tự do (1)
Szymborska
HARD
LIFE WITH MEMORY
I'm a
poor audience for my memory.
She wants me to attend her voice nonstop,
but I fidget, fuss,
listen and don't,
step out, come back, then leave again.
She wants all my time and
attention.
She's got no problem when I sleep.
The day's a different matter, which upsets her.
She thrusts old letters,
snapshots at me eagerly,
stirs up events both important and un-,
turns my eyes to overlooked views,
peoples them with my dead.
In her stories I'm always
younger.
Which is nice, but why always the same story.
Every mirror holds different news for me.
She gets angry when I
shrug my shoulders.
And takes revenge by hauling out old errors,
weighty, but easily forgotten.
Looks into my eyes, checks my reaction.
Then comforts me, it could be worse.
She wants me to live only
for her and with her.
Ideally in a dark, locked room,
but my plans still feature today's sun,
clouds in progress, ongoing roads.
At times I get fed up with
her.
I suggest a separation. From now to eternity.
Then she smiles at me with pity,
since she knows it would be the end of me too.
-Wislawa Szymborska
(Translated from the
Polish by
Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)
NYRB March 8, 2012
[Note: bài này có trong Here]
Mệt đời với
hồi ức
Tớ là 1 thính
giả tồi với hồi ức của mình
Nàng muốn tớ
nghe hoài cái giọng không ngừng nghỉ, liên khúc, của nàng
Nhưng tớ sốt
ruột, đếch chịu, vặc tùm lum,
Nghe, và đếch
nghe
Tếch đi chỗ
khác, quay lại, rồi lại lỉnh chỗ khác
Nàng muốn tớ
lúc nào cũng lắng nghe nàng,
Nàng sẽ chẳng
gặp vấn đề gì, khi tớ ngủ
Nhưng ban ngày,
đếch được, và điều này làm nàng bực.
Nàng xổ ra cả
một đống thư cũ, ánh mắt sắc lạnh hăm hở chém
Khuấy trộn tứ
lung tung những sự kiện, quan trọng với không quan trọng –
Dí tận mắt tớ
những thước phim sao lãng
Đùn người vô phim, với cái chết của tớ
Trong ký ức
của nàng, tớ lúc nào cũng trẻ măng
Được đấy chứ,
nhưng tại sao luôn luôn, cùng 1 câu chuyện
Mọi cái gương
giữ những hình ảnh khác nhau đối với tớ
Nàng bực lắm
khi tớ nhún vai
Và đưa ra những
phản biện,
Nhảm, nhảm, đếch phải anh, em lầm rồi,
Những hình ảnh
nặng ký, nhưng thật dễ quên
Nàng nhìn vô
mắt tớ, tìm phản ứng
Rồi thì an ủi
Thế lại càng
tồi tệ hơn.
Nàng muốn tớ
sống chỉ cho nàng và với nàng
Thật lý tưởng,
trong căn phòng tối, cửa khóa
Nhưng những
chương trình du hí của tớ còn bao gồm
Tắm nắng hôm nay,
Những
đám mây của sự tiến bộ,
Những con lộ của sự lên đường
Có những lúc
tớ chán ngấy nàng
Và tớ đề nghị
một cuộc phân ly.
Từ bây giờ
cho đến vĩnh viễn
Và thế là nàng
mỉm cười nhìn tớ ra vẻ thương hại,
Sao mi ngu
thế hở Gấu,
Mi bỏ ta là
chấm dứt đời mi.
MY GIFT TO
YOU
My gift to
you will be an abyss, she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are
far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy
ending,
but it will
be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just
a little.
Roberto
Bolano
The Paris
Review Summer 2012
Xuống phố, đổi
phim, ghé tiệm sách, mua số The
Paris Review có bài thơ tuyệt vời của Bolano, tả
đúng tâm sự Gấu, đúng cái cảnh tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến
Thành, về, và “kín
đáo” nói cho biết, tại làm sao Em vờ Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học
Y Khoa.
Quà BHD
tặng Gấu
Quà ta
tặng
mi sẽ là 1 vực thẳm, em nói
Nhưng nó "tế vi" đến nỗi mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau thật
nhiều năm, có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai đều chạy ra khỏi cả hai
quê hương Bắc Kít và Nam Kít rồi
Thì lúc đó
mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi cực
cần đến nó
Và chắc chắn
không phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ là
một thoáng chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có thể,
chỉ lúc đó mi mới nhớ ta,
Và mới hiểu cái gọi là "mono
no aware",
“Nỗi buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra khỏi đời của mi".
Nhưng cũng
chỉ được 1 tí tí.